Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Thiết kế phân xưởng chưng cất dầu Mazut

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.16 KB, 94 trang )

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP THIẾT KẾ PHÂN XƯỞNG CHƯNG CẤT DẦU MAZUT
LỜI MỞ ĐẦU
Dầu mỏ được con người biết đến và sử dụng vào thế kỷ 18 với mục
đích thắp sáng. Năm 1853 tại Mỹ xuất hiện giếng khoan đầu tiên đây là bước
chuyển mình và đi lên của ngành khai thác và chế biến dầu mỏ.
Đến năm 1992, thế giới đã có tới 100 loại dầu mỏ khác nhau thuộc sở
hữu của 48 quốc gia trong đó có Việt Nam. Quốc gia có sản lượng dầu mỏ lớn
nhất là Arập xêút chiếm 26% tổng sản lượng dầu mỏ trên thế giới.
Cho đến nay khi chưa có sự thống nhất nhưng đa số dư luận khoa học
cho rằng: Dầu mỏ có nguồn gốc hữu cơ. Tuỳ thuộc vào tuổi của dầu, độ sâu
và tính chất địa lý mà dầu mỏ có thể khác nhau. Nhưng đặc điểm chung của
dầu đều tồn tại ở thể lỏng sánh và dính. Dầu thô có màu tối hay gặp là màu
nâu và đen, có mùi đặc trưng khó ngửi. Dầu mỏ không tan trong nước nhẹ
hơn nước. Thành phần của dầu mỏ là một hỗn hợp phức tạp chứa chủ yếu là
hydrrocacbon (80 – 85%C, 10 – 14%H).
Công nghiệp dầu khí là một ngành công nghiệp có những bước thay đổi
và phát triển không ngừng, đặc biệt là những năm cuối thể kỷ 20. Công
nghiệp dầu khí đã và đang trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn, bên cạnh
đó là sự phát triển không ngừng của một số nguyên liệu trong ngành công
nghiệp hoá dầu, song không thể không nhắc đến nguyên liệu mazut, là một
trong những nguyên liệu có đặc tính quan trọng để sản xuất ra dầu nhờn.
Mazut có tên gọi là dầu cặn, được sử dụng phổ biến cho ngành tổng
hợp hoá dầu và các ngành công nghiệp khác. Nguyên liệu Mazut đã góp phần
tạo ra sự thay đổi lớn về cơ cấu phát triển các chủng loại và chất lượng sản
phẩm của ngành công nghiệp hoá dầu.
Ngày nay nguyên liệu Mazut được sử dụng với mục đích chủ yếu là
giải quyết nhu cầu nguyên liệu cho động cơ và nguyên liệu cho công nghiệp.
Do có nhiều tính năng ưu việt trong khi sử dụng, mà các dạng nguyên liệu cổ
Trần Viết Chánh Trường ĐHBK Hà Nội
1
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP THIẾT KẾ PHÂN XƯỞNG CHƯNG CẤT DẦU MAZUT


truyền không có được, đó là: Dễ bảo quản và vận chuyển, dễ sử dụng ở quy
mô công nghiệp hiện đại, nên nhu cầu sử dụng nguyên liệu Mazut ngày càng
tăng nhanh.
Cùng với sự phát triển đất nước nói chung, cũng như sự phát triển
không ngừng của ngành công nghiệp dầu khí nói riêng, thì nguyên liệu mazut
đã được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực, công nghiệp sản xuất khác
nhau và là nguyên liệu không thể thiếu của: Lò nung xi măng, gốm, sứ, các lò
sấy lương thực, thực phẩm, các lò hơi nhà máy điện…
Chính vì vậy mà chưng cất dầu mazut ở áp suất chân không để sản xuất
ra dầu nhờn gốc là rất quan trọng trong nền kinh tế đất nước hiện nay.
Trần Viết Chánh Trường ĐHBK Hà Nội
2
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP THIẾT KẾ PHÂN XƯỞNG CHƯNG CẤT DẦU MAZUT
Chương 1
TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
I. CÁC PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT DẦU NHỜN GỐC.
Bôi trơn là phương pháp làm giảm ma sát và mài mòn đến mức thấp
nhất bằng cách tạo ra giữa bề mặt ma sát một lớp chất được gọi là chất bôi
trơn. Hầu hết chất bôi trơn là chất lỏng. Do vậy các chất bôi trơn lỏng (dầu
bôi trơn) được biết đến nhiều nhất trong ứng dụng kỹ thuật. Đó là do chúng
tạo ra sự ngăn cách bề mặt một cách nhanh chóng một khi được sử dụng hợp
lý và chúng có khả năng làm mát tốt.
Nguyên liệu để sản xuất ra dầu bôi trơn (dầu gốc) là các hydrocacbon
tự nhiên và tổng hợp khác nhau. Tuy nhiên do giá thành sản xuất các hỗn hợp
hydrocacbon từ dầu mỏ thấp nên chúng được sử dụng phổ biến hơn cả để sản
xuất dầu gốc. Bản chất của dầu thô và của quá trình lọc dầu sẽ quyết định tính
chất vật lý và hoá học của dầu gốc tạo thành. Trong dầu mỏ ở phân đoạn cặn
mazut có cả những cấu tử có ích và cả những cấu tử không có lợi cho việc bôi
trơn. Vì vậy, việc tách các thành phần không mong muốn trong sản xuất dầu
gốc là không thể thiếu. Quá trình này được thực hiện nhờ các quá trình lọc

dầu cho phép thu được dầu gốc có chất lượng cao.
Đối với việc sản xuất các sản phẩm dầu nhờn từ dầu mỏ dạng nhiều lưu
huỳnh và nhiều parafin thì phải lựa chọn sơ đồ hệ thống sản xuất dầu nhờn
phức tạp hơn và sử dụng dung môi chọn lọc, phải thêm quá trình khử parafin,
rồi đến quá trình hấp thụ lần cuối trên đất sét hay thay thế cho quá trình này
bằng quá trình làm sạch bằng hydro.
Như chúng ta đã biết, quá trình chưng cất chân không là quá trình đầu
tiên của hệ thống sản xuất dầu nhờn. Việc phân chia các phân đoạn có triệt để
hay không đều ảnh hưởng đến các chỉ tiêu của quá trình cơ bản sản xuất dầu
Trần Viết Chánh Trường ĐHBK Hà Nội
3
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP THIẾT KẾ PHÂN XƯỞNG CHƯNG CẤT DẦU MAZUT
nhờn. Tất cả các phân đoạn dầu nhờn được phân chia qua quá trình chưng cất
ở áp suất chân không bao gồm:
• Phân đoạn dầu nhờn nhẹ: 300 ÷ 400
0
C.
• Phân đoạn dầu nhờn trung bình: 350 ÷ 420
0
C.
• Phân đoạn dầu nhờn nặng: 320 ÷ 500
0
C.
• Phân đoạn dầu nhờn cặn: > 500
0
C.
Các phân đoạn này đều trải qua quá trình trích ly (hay làm sạch) bằng
dung môi chọn lọc (có thể dùng phenol hay fufurol…). Sau đó tiếp tục tới quá
trình kết tinh (hay khử) parafin nhẹ để giảm nhiệt độ đông đặc của dầu nhờn
và cuối cùng làm sạch lần cuối bằng các chất dung môi có lẫn từ các quá trình

trên và tách hết các chất axit. Kết thúc hệ thống là giai đoạn pha trộn các cấu
tử dầu nhờn với các tỷ lệ khác nhau và pha trộn với các phụ gia với các chức
năng khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng.
Loại sơ đồ công nghệ sản xuất dầu nhờn đơn giản nhất là loại để nhận
dầu nhờn đi từ dầu mỏ thuộc loại ít lưu huỳnh, ít parafin và ít nhựa. Ở Liên
Xô người ta sử dụng sơ đồ công nghệ như hình 1a để sản xuất dầu nhờn.
Trần Viết Chánh Trường ĐHBK Hà Nội
4
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP THIẾT KẾ PHÂN XƯỞNG CHƯNG CẤT DẦU MAZUT
Hình 1a. Sơ đồ công nghệ sản xuất dầu iítparafin và ít lưu huỳnh.
Để nhận dầu nhờn có chỉ số độ nhớt cao dùng đặc biệt cho một số máy
móc, người ta đã nghiên cứu và ứng dụng quá trình làm sạch dầu nhờn bằng
hydrocraking và hydro hoá. Quá trình hydrocracking để sản xuất dầu nhờn
với nguyên liệu là các phân đoạn dầu nhờn cất có độ nhớt cao và phân đoạn
dầu nhờn cặn lấy từ quá trình khử asphanten trong gudron thay thế cho quá
trình làm sạch bằng dung môi chọn lọc cho ta sản phẩm dầu nhờn có chỉ số độ
Trần Viết Chánh Trường ĐHBK Hà Nội
5
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP THIẾT KẾ PHÂN XƯỞNG CHƯNG CẤT DẦU MAZUT
nhớt cao (từ 100 đến 135). Tuy nhiên chi phí cho quá trình này cao hơn so với
làm sạch bằng dung môi chọn lọc.
Công nghệ chế biến dầu nhờn gốc được thể hiện theo trình tự của sơ đồ
sau:
Hình 1b. Sơ đồ công nghệ sản xuất dầu gốc
Việc tách các thành phần không mong muốn trong sản xuất dầu gốc
được thực hiện nhờ các quá trình chọn lọc dầu sẽ cho phép sản xuất dầu gốc
chất lượng cao, ngay cả với phân đoạn dầu nhờn của dầu thô chưa thích hợp
Trần Viết Chánh Trường ĐHBK Hà Nội
6
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP THIẾT KẾ PHÂN XƯỞNG CHƯNG CẤT DẦU MAZUT

cho sản xuất dầu nhờn. Sơ đồ công nghệ chung để sản xuất dầu nhờn gốc từ
dầu mỏ thường bao gồm các công đoạn như hình 1b, gồm các quá trình sau:
- Chưng chân không nguyên liệu cặn mazut.
- Chiết tách, trích ly bằng dung môi.
- Tách hydrocacbon rắn (sáp).
- Làm sạch lần cuối bằng quá trình hydro hoá.
Quá trình tách asphan bằng dung môi propan thường được áp dụng để
sản xuất dầu nhờn có độ nhớt cao từ nguyên liệu cặn gudron cũng được xếp
vào quá trình chiết, trích ly bằng dung môi.
I.1. Quá trình chưng cất chân không [2]
Qúa trình chưng cất chân không cho phép ta nhận được các phân đoạn
riêng biệt dựa vào khoảng nhiệt độ sôi hay độ nhớt. Do mục đích của công
đoạn này là điều chỉnh độ nhớt và nhiệt độ chớp cháy của phân đoạn dầu gốc.
Sơ đồ chưng cất chân không được trình bày trên hình 2.
Qúa trình chưng cất chân không cho phép nhận được các phân đoạn
dầu bôi trơn có độ nhớt khác nhau. Phần dầu nhẹ nhất, có độ nhớt nhỏ nhất
thu được ở đinh tháp và phần nặng nhất thu được ở đáy tháp có độ nhớt lớn
nhất. Trong các phân đoạn thu được sẽ có mặt tất cả các cấu tử có mặt trong
nguyên liệu của loại dầu đem chưng cất.
Như chúng ta đã biết, các loại dầu mỏ khác nhau thì chúng đều khác
nhau về thành phần hoá học nên không phải tất các dầu mỏ đều cho ta dầu bôi
trơn có chất lượng tốt. Nhưng nhờ công nghiệp chế biến dầu hiện đại, người
ta có thể thu được dầu gốc chất lượng tốt từ bất kỳ dầu thô nào, song giá
thành sản phẩm sẽ rất khác nhau và sẽ càng cao nếu nguyên liệu không thuận
lợi. Loại dầu thô tốt nhất cho việc sản xuất dầu gốc là các phân đoạn dầu
nhờn có chứa nhiều hydrocacbon naphten và các hydrocacbon thơm một vòng
Trần Viết Chánh Trường ĐHBK Hà Nội
7
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP THIẾT KẾ PHÂN XƯỞNG CHƯNG CẤT DẦU MAZUT
có nhánh, parafin dài phân nhánh và các izo-parafin. Còn dầu thô xấu nhất là

loại dầu chứa nhiều hydrocacbon đa vòng và các hydrocacbon thơm ngưng tụ
cao.
Khi chưng cất chân không, độ nhớt là hàm số của khoảng nhiệt độ sôi
và cũng là làm số của trọng lượng phân tử. Độ nhớt là một tham số quan trọng
bởi vì khi chưng cất chân không khó có thể điều chỉnh chính xác nhiệt độ cất
như trong chưng cất khí quyển. Do vậy nhiều khi không đảm bảo tuyệt đối
chính xác nhiệt độ chớp cháy của phân đoạn dầu nhờn nào đó. Để điều chỉnh
thông số này, người ta phải tiến hành tách các cấu tử có nhiệt độ sôi thấp bằng
cách chưng cất lôi cuốn theo hơi nước trong các tháp bay hơi phụ.
Phần cặn từ quá trình chưng cất khí quyển (gọi là phần cặn rộng) được
đưa thẳng tới tháp chân không, tại cây phần cặn nào được tách thành các phần
cất dầu bôi trơn khác nhau và phần cặn cất chân không (phần cặn hẹp) Trong
vài thập kỷ gần đây, công nghệ chưng cất chân không đã được phát triển một
cách đáng kể. Mục tiêu chủ yếu là tận dụng tối đa các phần cất có giá trị và
giảm mức tiêu thụ năng lượng của các thiết bị [11 ] .
Hình 2. Sơ đồ hệ thống chưng cất chân không có thu
các phân đoạn dầu nhờn gốc
Trần Viết Chánh Trường ĐHBK Hà Nội
8
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP THIẾT KẾ PHÂN XƯỞNG CHƯNG CẤT DẦU MAZUT
I.2. Quá trình chiết bằng dung môi.
Việc tách bằng chưng cất được dựa trên sự khác biệt về khoảng nhiệt
độ sôi mà không cho phép phân chia về mặt hoá học như parafin, aromat và
naphten. Tuy nhiên tính chất của sản phẩm phụ thuộc vào bản chất hoá học
của các cấu tử cũng như các tính chất vật lý của chúng. Do quá trình chưng
cất phân đoạn chưa loại bỏ hết được các cấu tử không mong muốn, thường
làm cho dầu nhờn sau một thời gian sử dụng bị đổi màu, tăng độ nhớt, xuất
hiện các hợp chất có tính axit không tan trong dầu được gọi là cặn bùn. Việc
chiết tách các cấu tử không mong muốn bằng dung môi cho phép sản xuất ra
được dầu gốc chất lượng cao từ bất kỳ loại dầu thô nào, kể cả từ loại có hàm

lượng hydrocacbon đa vòng thơm và cặn nhựa khá cao. Chính vì thế mà quá
trình tách bằng dung môi rất quan trọng và không thể thiếu trong công nghệ
sản xuất dầu nhờn có chất lượng cao.
Nguyên lý của quá trình chiết bằng dung môi dựa trên việc sử dụng
dung môi. Việc lựa chọn dung môi phụ thuộc vào tính chọn lọc của nó, tức là
dựa vào khả năng phân tách hai nhóm cấi tử khác nhau về mặt hoá học. Khi
trộn dung môi với nguyên liệu ở điều kiện thích hợp, các cấu tử trong nguyên
liệu sẽ được phân chia thành hai nhóm: .
• Nhóm cấu tử hoà tan tốt vào dung môi tạo thành pha riêng gọi là pha
chiết (extract).
• Nhóm cấu tử không hoà tan hoặc hoà tan rất ít vào dung môi gọi là rafinat.
Sản phẩm có ích có thể nằm trong extract hoặc trong pha rafinat tuỳ
dung môi sử dụng. Dựa vào bản chất của dung môi mà người ta chia thành
dung môi có cực và dung môi không cực, hay dung môi hỗn hợp, nhưng dù
loại dung môi nào được chọn cũng phải thoả mãn các yêu cầu sau :
+ Phải có tính hoà tan chọn lọc, tức là phải có khả năng phân tách thành
hai nhóm cấu tử: nhóm có lợi và nhóm không có lợi cho dầu gốc. Tính chất
này còn được gọi là độ chọn lọc của dung môi.
Trần Viết Chánh Trường ĐHBK Hà Nội
9
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP THIẾT KẾ PHÂN XƯỞNG CHƯNG CẤT DẦU MAZUT
+ Phải bền về mặt hoá lọc, không phản ứng với các cấu tử của nguyên
liệu, không gây ăn mòn và dễ sử dụng.
+ Có giá thành rẻ, dễ kiếm.
+ Có nhiệt độ sôi khác xa so với cấu tử cần tách để dễ dàng thu hồi
dung môi, tiết kiệm được năng lượng.
Ba loại dung môi được sử dụng để chiết tách các phần hydrocacbon
thơm và cặn nhựa ra khỏi phân đoạn dầu nhờn hiện nay đó là phenol, fufurol
và N-metylpirolydon (NMP). Còn để tách các hợp chất nhựa - asphan trong
phân đoạn gudron phổ biến là dùng propan lỏng.

I.2.1. Quá trình khử asphan [2, 11].
Do trong cặn gudron có chứa nhiều các cấu tử không có lợi cho dầu gốc
nên nếu đưa trực tiếp vào trích ly sẽ không cho phép đạt chất lượng và hiệu
quả mong muốn. Chính vì thế người ta thường tiến hành khử asphan trước.
Trong sản xuất dầu nhờn, phổ biến dùng propan lỏng để khử chất nhựa,
asphanten trong phân đoạn gudron.
Mục đích của quá trình này là ngoài việc tách các hợp chất nhựa -
asphan, còn cho phép tách cả các hợp chất thơm đa vòng vì các hợp chất này
đã làm giảm độ nhớt, chỉ số khúc xạ, độ cốc hoá và nhận được dầu nhờn nặng
có độ nhớt cao cho dầu gốc.
Cơ sở lý thuyết của quá trình là các hợp chất nhựa, asphan chiếm phần
chủ yếu trong cặn gudron, chúng là các hợp chất có khả năng hoà tan kém
trong dung môi không cực. Nhờ tính chất này, người ta chọn dung môi
parafin để tách chúng.
Dung môi tạo điều kiện cho quá trình đông tụ các chất nhựa – asphan
và hoà tan chọn lọc hydrocacbon. Trong dung môi parafin, khả năng hoà tan
các hợp chất hydrocacbon có thể sắp xếp theo thứ tự giảm dần như sau:
Trần Viết Chánh Trường ĐHBK Hà Nội
10
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP THIẾT KẾ PHÂN XƯỞNG CHƯNG CẤT DẦU MAZUT
Naphten, parafìn > hydrocacbon thơm một vòng > hydrocacbon đa vòng.
Do vậy trong quá trình khử, đồng thời xảy ra hai quá trình: đông tụ,
lắng các chất nhựa - asphan và trích ly các hợp chất hyđrocacbon. Nếu tăng
dần trọng lượng phân tử của dung môi không cực, sẽ làm tăng khả năng hoà
tan của dung môi và như vậy sẽ làm giảm độ chọn lọc. Chính vì thế trong
thực tế propan lỏng là dung môi thích hợp nhất cho quá trình này.
Propan lỏng là một chất lỏng không màu, không mùi nhưng độc với
thần kinh trung ương của người và động vật. Propan lỏng có một tính chất đặc
biệt là trong khoảng nhiệt độ từ 40 đến 60
0

C nó hoà tan parafin rất tốt, nhưng
khả năng này giảm khi nhiệt độ tăng cho đến khi đạt đến nhiệt độ hoà tan tới
hạn của prôpan (96,8
0
C) tất cả các hydrocacbon đều không tan trong propan.
Trong khoảng 40 ÷ 96,8
0
C các hợp chất nhựa. - asphan có phân tử lượng cao
hầu như không tan trong propan, vì thế tính chất này sẽ quyết định chế độ
công nghệ khử asphan bằng propan. Quá trình tách bằng chưng cất các phân
đoạn chủ yếu dựa vào trọng lượng phân tử, còn chiết tách bằng dung môi thì
đưa vào chủng loại phân tử. Quá trình tách asphan nằm ở vị trí trung gian
giữa hai quá trình này, vì tách asphan phụ thuộc vào cả trọng lượng phân tử
và chủng loại cấu trúc phân tử.
Hình 3. Sơ đồ đơn giản của quá trình tách asphan bằng propan
Sơ đồ công nghệ quá trình tách asphan được trình bày trên hình 4.
Trần Viết Chánh Trường ĐHBK Hà Nội
11
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP THIẾT KẾ PHÂN XƯỞNG CHƯNG CẤT DẦU MAZUT
Hình 4. Sơ đồ nguyên lý chung của quá trình tách asphan.
Nguyên liệu tiếp xúc với lượng propan lỏng lớn gấp 5 ÷ 8 lần theo thể
tích ở nhiệt độ thích hợp đã chọn trước. Dầu càng nặng thì lượng propan dùng
càng phải lớn, pha chiết chứa từ 30 ÷ 50% propan (theo thể tích, còn lại là
khối lượng asphan. Đó không hẳn là dung dịch mà là một dạng nhũ tương của
các hợp chất asphan trong propan. Từ sơ đồ hình 4 cho thấy propan được đưa
vào đáy tháp chiết, còn nguyên liệu (phần cặn chưng cất chân không) được
đưa vào đỉnh tháp. Vì propan chuyển động ngược lên đỉnh tháp, nó hoà tan
dầu từ nguyên liệu rồi moang chúng theo lên đỉnh tháp. Các loại hợp chất
nhựa, asphan đi ra từ đáy tháp, còn hỗn hợp dầu – propan đi ra từ đỉnh là phần
rafinat (rafinat gồm dung môi và 15 ÷ 20% khối lượng dầu). Propan tách ra

được cho quay trở lại tuần hoàn trong hệ thống để sử dụng tiếp và còn lại là
dầu gốc có độ nhờn thích hợp.
Trần Viết Chánh Trường ĐHBK Hà Nội
12
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP THIẾT KẾ PHÂN XƯỞNG CHƯNG CẤT DẦU MAZUT
I.2.2. Quá trình chiết bằng dung môi chọn lọc [2].
Quá trình này có nhiệm vụ tách các hợp chất hydrocacbon thơm đa
vòng các hợp chất nhựa asphan bằng các dung môi có cực nhằm cải thiện
thành phần hóa lọc của dầu nhờn . Các quá trình này được xem như là các quá
trình làm sạch chọn lọc dầu gốc.
* Cơ sở lý thuyết của quá trình
Các hợp chất nhựa, aromat đa vòng là những cấu tử có hại, không
mong muốn có mặt trong dầu nhờn. Sự có mặt của chúng không những làm
cho chất lượng kém đi, chỉ số nhớt thấp mà chúng còn làm cho màu dầu rất
xấu. Các hợp chất này bằng phương pháp chưng cất không thể loại bỏ được.
Làm sạch dựa vào tính chất hòa tan chọn lọc của dung môi có cực cho phép
sản xuất ra được dầu gốc chất lượng cao từ bất kỳ dầu thô nào. Vai trò quan
trọng trong quá trình làm sạch chọn lọc là tính chất của dung môi đó là tác
dụng của lực Van der Waals (lực định hướng, cảm ứng, phân tán) xảy ra giữa
dung môi và các hợp chất phân cực cần phải tách đi trong dầu nhờn. Yếu tố
quan trọng của quá trình làm sạch chọn lọc là độ chọn lọc và khả năng hòa tan
của dung môi .
Độ chọn lọc là khả năng phân tách rõ ràng các cấu tử nguyên liệu và
rafinat, bao gồm các hợp chất có ích như iso-parafin, naphten, lai hợp parafin
- naphten và các hợp chất thơm một vòng. Còn phần trích ly (extract) chỉ chứa
các cấu tử có hại như là các hợp chất đa vòng, nhựa asphan và một lượng rất
nhỏ các hợp chất có lợi.
Khả năng hòa tan của dung môi là đại lượng được thể hiện bằng dung
môi cần thiết để hòa tan một lượng xác định các cấu tử của nguyên liệu, hay
nói cách khác là trong điều kiện để nhận rafinat có chất lượng xác định, lượng

dung môi cần thiết càng ít để nhận được cùng một rafinat chất lượng tương
đương, thì khả năng hòa tan của dung môi càng lớn.
Trần Viết Chánh Trường ĐHBK Hà Nội
13
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP THIẾT KẾ PHÂN XƯỞNG CHƯNG CẤT DẦU MAZUT
Về nguyên lý, độ chọn lọc và khả năng hòa tan là hai đại lượng ngược
nhau, tăng chỉ tiêu này sẽ dẫn tới làm giảm chỉ tiêu kia. Độ chọn lọc là khả năng
hoà tan của mỗi một dung môi không phải là đại lượng cố định mà chúng phụ
thuộc vào thành phẩn hoá học của nguyên liệu. Độ hòa tan của hydrocacbon
trong dung môi có cực không chỉ phụ thuộc vào cấu trúc của hydrocacbon mà
còn phụ thuộc vào nhiệt độ và thường tuân theo một số quy luật sau:
• Khi tăng số vòng trong phân tử hydrocacbon thì độ hòa tan tăng.
• Khi tăng chiều dài mạch alkyl, độ hòa tan giảm xuống.
• Độ hòa tan giảm khi tăng số nguyên tử cacbon trong naphten.
• Độ hòa tan của hydrocacbon thơm sẽ lớn hơn naphten khi có cùng số
nguyên tử cacbon trong vòng.
• Hydrocacbon lai hợp naphten - thơm có độ hòa tan cao hơn so với
naphten có cấu trúc tương tự.
• Hyđrocacbon parafin có độ hòa tan nhỏ nhất.
Như trên đã nói, ngày nay người ta đâng sử dụng phổ biến ba loại dung
môi có cực để tách các hợp chất nhựa và thơm đa vòng ra khỏi nguyên liệu
dầu nhờn là phenol, furfurol là N-metylpyrolidon (NMP).
Bảng 1. Một số tính chất của các dung môi
Chỉ tiêu Phenol Fufurol NMP
Khối lượng riêng ở 20
0
C, kg/cm
3
1060 1159 1033
Nhiệt độ sôi,

0
C 181 162 204
Nhiệt độ nóng chảy,
0
C +41 -39 -24
Nhiệt độ bắt cháy cốc hở,
0
C 79 59 -
Nhiệt độ tới hạn,
0
C 419 396 -
Áp suất tới hạn, Mpa 6,07 5,3 1,04
Độ nhớt động học ở 50
0
C, Pa.s 32,4 11,5 10,4
Nhiệt bay hơi, kJ/kg 445,9 450,0 493,1
Nhiệt nóng chảy, kJ/kg 121,4 - -
Nói chung, mục đích của việc chiết tách bằng dung môi là cải thiện độ
chống lão hoá và đặc tính nhiệt nhớt của dầu gốc. Nếu đem dung môi hoà trộn
kỹ với phân đoạn dầu sau khi để yên cho hỗn hợp này lắng tách thì hai pha
Trần Viết Chánh Trường ĐHBK Hà Nội
14
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP THIẾT KẾ PHÂN XƯỞNG CHƯNG CẤT DẦU MAZUT
hoặc hai lớp sẽ được tạo thành. Pha chiết chứa hầu như toàn bộ dung môi
cùng với các cấu tử tan trong đó, mà chủ yếu là hydrocacbon no và một ít
dung môi. Còn rafinal gồm các cấu tử không tan. Sau khi tách dung môi, phần
chiết và phần còn lại đều không biến đổi gì về mặt hoá học.
Hình 5. Sơ đồ nguyên lý chung của quá trình chiết tách bằng dung môi
Trong ba loại dung môi, các nhà máy của Nga, dung môi chủ yếu dùng
cho quá trình làm sạch chọn lọc là phenol. Phenol có khá năng hoà tan cao,

tạo điều kiện thuận lợi cho làm sạch nguyên liệu dầu nhờn, nhất là loại có
chứa nhiều cặn và độ nhớt cao đồng thời dung môi này cũng rẻ tiền và dễ
kiếm. Tuy nhiên, phenol lại rất độc hại đối với người, do đó đặt vấn đề bảo vệ
môi trường và bảo hộ lao động.
Ở nhà máy khác trên thế giới lại hay dùng quá trình làm sạch bằng
fufurol do ít độc hại hơn so với phenol. Và tuy có khả năng hoà tan kém hơn
phenol, nhưng dung môi này lại có độ chọn lọc cao hơn. Điều này sẽ cho hiệu
quả lớn hơn khi dùng fufurol để làm sạch phần cất chứa nhiều hydrocacbon
hơn. Dung môi này được sử dụng rộng rãi để nâng cao chỉ số độ nhớt và tính
năng, chống oxy hoá của các phân đoạn dầu chưng cất và dầu cặn. Tính oxy
hoá mạnh và dễ tạo nhựa khi có mặt không khí và nước là nhược điểm chính
Trần Viết Chánh Trường ĐHBK Hà Nội
15
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP THIẾT KẾ PHÂN XƯỞNG CHƯNG CẤT DẦU MAZUT
của dung môi fufurol. Để tránh quá trình oxy hoá nó, trong công nghiệp người
ta hay áp dụng các biện pháp sau :
• Bảo quản fufurol trong môi trường khí trơ.
• Kiểm tra chặt chẽ nhiệt độ trong hệ thống đun nóng và tái sinh dung
môi.
• Khử khí sơ bộ khỏi nguyên liệu trước khi tiến hành trích ly
• Có thể thêm chất chống oxy hoá đặc biệt và fufurol.
Bảng 2. Một số tính chất của rafinat được chiết tách bằng fufurol so với
phân đoạn dầu chưng cất .
Tính chất Dầu chưng cất gốc naphten Rafinat
Độ nhớt, mm
2
/s
Ở 40
0
C 93 77

Ở 100
0
C 8,2 8,1
Chỉ số độ nhớt 26 61
Khối lượng riêng g/cm
3
ở 15
0
C 0,9229 0,906
Nhiệt độ đông đặc,
0
C -32 -32
Cặn cacbon, % khối lượng 0,17 0,07
Bảng 2 này so sánh một số tính chất của rafinat được tách chiết bằng
fufurol với phân đoạn dầu chưng cất.
Tuy nhiên do khả năng hoà tan các chất nhựa của fufurol kém nên dung
môi này chỉ áp dụng đối với nguyên liệu dầu nhờn có chất lượng cao. Nghĩa
là nguyên liệu chứa ít nhựa và hợp chất đa vòng. Do vậy, ngày nay các quá
trình này đã được thay thế bằng dung môi NMP có khả năng hoà tan tốt hơn
có độ chọn lọc cao hơn và đặc biệt là có độ độc hại nhỏ hơn.
Trong quá trình làm sạch bằng phenol và NMP người ta phải giảm khả
năng hoà tan của các dung môi này để tăng độ chọn lọc của chúng bằng cách
cho thêm chất giảm khả năng hoà tan. Điều này làm cho quá trình trích ly
hoàn thiện hơn và mở rộng thêm khả năng chọn điều kiện công nghệ tối ưu
cho quá trình làm sạch.
Trần Viết Chánh Trường ĐHBK Hà Nội
16
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP THIẾT KẾ PHÂN XƯỞNG CHƯNG CẤT DẦU MAZUT
Hình 6. Sơ đồ công nghệ đơn giản của quá trình chiết tách bằng fufurol
I.3. Qúa trình tách sáp

I.3.1. Khái niệm chung
Sáp là một hỗn hợp mà chủ yếu là các parafin phân tử lớn và một lượng
nhỏ các hydrocacbon khác có nhiệt độ nóng chảy cao (chúng dễ bị kết tinh ở
nhiệt độ thấp) và kém toà tan vào dầu nhờn ở nhiệt độ thấp. Vì thế chúng cần
phải được tách ra khỏi dầu nhờn. Trong thực tế, đa phần dầu gốc chế tạo từ
dầu mỏ đều phải qua khâu tách sáp, xử lý tách parafin trừ khi hàm lượng
parapin thấp không ảnh hưởng tới độ linh động của dầu.
Tách paraffin là một khâu quan trọng và khó khăn trong quá trình sản
xuất dầu nhờn gốc. Có hai loại quy trình công nghệ hiện đang được sử dụng
trong công nghiệp sản xuất dầu nhờn, đó là:
- Làm lạnh để kết tinh sáp và dùng dung môi để hoà tan phần dầu đủ cho
phép lọc nhanh tách sáp khỏi dầu nhờn.
- Cracking chọn lọc để bẻ gãy parafin tạo sản phẩm hay qúa trình này còn
gọi là quá trình tách parafin dùng xúc tác.
Tùy theo mức độ khử parafin mà người ta có thể phân thành quá trình khử
parafin bình thường hay quá trình khử parafin triệt để. Trong qúa trình khử
parafin bình thường, người ta nhận được sản phẩm có nhiệt độ đông đặc từ
Trần Viết Chánh Trường ĐHBK Hà Nội
17
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP THIẾT KẾ PHÂN XƯỞNG CHƯNG CẤT DẦU MAZUT
-10 đến -15
0
C (-18
0
C). Còn ở quá trình tách triệt để (tách sâu), sản phẩm dầu
nhờn gốc thường có nhiệt độ đông đặc từ -30
0
C và thấp hơn. Nhiệt độ đông
đặc của dầu sau khi tách sáp phụ thuộc vào chế độ tách sáp nhất là nhiệt độ và
loại dung môi được sử dụng. Tuy nhiên việc tách parafin để đạt được nhiệt độ

đông đặc cực thấp là không cần thiết vì các sản xuất này gây ra sự hao hụt dầu
rất lớn, hơn nữa chi phí để tách triệt để parafin rất tốn kém. Mặt khác, parafin
lại là thành phần có chỉ số độ nhớt rất cao.
I.3.2. Tách sáp bằng phương pháp kết tinh.
Sáp là hỗn hợp có nhiệt độ kết tinh thấp, do vậy khi tiến hành làm lạnh
phân đoạn dầu nhờn thì sáp được tách ra do chúng bị kết tinh. Với phương
pháp kết tinh có thể xử lý dầu nhờn chứa sáp thành dầu nhờn không chứa sáp.
Quá trình này dựa vào nguyên lý làm lạnh dầu để kết tinh parafin rắn,
sau đó lọc hoặc ly tâm tách riêng phần rắn khỏi pha lỏng. Ở các nhà máy kiểu
cũ dầu được làm lạnh trong những giàn lạnh, trong đó hỗn hợp đặc chứa dầu
và sáp được đưa qua giàn lạnh bằng băng chuyền xoắn sau đó được bơm qua
bộ phận lọc áp suất . Tại dây những tinh thể sáp sẽ được giữ lại để cho dầu
không chứa sáp đi qua. Khi lớp sáp đã đủ dày thì xả áp và tháo các bánh sáp
thô ra. Tuy nhiên phương pháp này có các nhược điểm sau:
- Không liên tục và rất nhiều khâu phải dung tới áp suất .
- Độ nhớt cao của dầu làm cho quá trình lọc rất khó khăn nhất là với
những có độ nhớt lớn.
- Không áp dụng được cho nguyên liệu là dầu cặn vì sự có mặt của các
loại sáp vi tinh thể (có kích thước vô cùng nhỏ) được tạo ra trong quá trình
không thể tách ra bằng lọc.
I.3.3. Tách sáp bằng dung môi chọn lọc [2].
Để khắc phục các nhược điểm trên, người ta sử dụng dung môi để tăng
độ linh động của dầu nhờn. Tuy nhiên sáp cũng có thể hòa tan vào dung môi,
nên phải tiến hành ở nhiệt độ thấp và phải chọn dung môi thích hợp. Với dung
Trần Viết Chánh Trường ĐHBK Hà Nội
18
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP THIẾT KẾ PHÂN XƯỞNG CHƯNG CẤT DẦU MAZUT
môi có độ chọn lọc cao, có thể thu được phần lọc có độ nhớt thấp ngay ở nhiệt
độ làm lạnh và kết tinh. Nhờ vậy có thể kết tinh được mọi thể loại sáp và lại
dễ tách ra bằng lọc. Một dung môi tách sáp tốt phải thỏa mãn các yêu cầu sau:

- Ít (hay không) hòa tan sáp.
- Hòa tan tốt dầu nhờn ở tại nhiệt độ kết tinh sáp.
- Sáp ở đang tinh thể lớn để dễ tách bằng lọc.
- Có nhiệt độ sôi thấp để dễ tách khỏi dầu, tiết kiệm năng lượng.
- Dung môi phải sẵn, rẻ tiền, không độc hại và không gây ăn mòn.
- Tỷ lệ dung môi/ nguyên liệu dầu thấp để giảm chi phí vận hành.
Một số loại dung môi hay được sử dụng trong phương pháp này gồm
dung môi chính là các xeton, hydrocacbon thơm và các dẫn xuất clo của
hydrocacbon. Dùng hỗn hợp hai loại dung môi cho hiệu quả tốt hơn. Vì vậy
phổ biến nhất là dùng dung môi xeton - hydrocacbon thơm.
Sơ đồ còng nghệ tách sáp dùng dung môi được trình bày trên hình 7
bao gồm ba công đoạn sau: .
- Pha trộn dầu nhờn cần tách sáp với dung môi rồi làm lạnh.
- Lọc hỗn hợp đã làm lạnh để tách sáp.
- Thu hồi dung môi và tái sử dụng chúng.
Trần Viết Chánh Trường ĐHBK Hà Nội
19
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP THIẾT KẾ PHÂN XƯỞNG CHƯNG CẤT DẦU MAZUT
HÌnh 7: Sơ đồ công nghệ tách sáp bằng phương pháp
dùng dung môi chọn lọc
Từ sơ đồ hình 7 cho thấy, dầu nhờn và dung môi được trộn với nhau
theo chế độ công nghệ chọn trước ở thiết bị trộn, sau đó qua thiết bị làm lạnh
(với tác nhân làm lạnh có thể dùng amoniac, propan, etan hay etylen). Hỗn
hợp lạnh gồm sáp và dung môi được đưa vào bộ phận lọc quay chân không
hình trống để lọc tách sáp kết tinh. Bộ phận lọc quay chân không là thiết bị
hình trụ được bọc bởi một lớp kim loại hoặc lưới bằng chất dẻo. Trống quay
chậm quanh trục nằm ngang, phần dưới đi qua bể chứa hình trụ to hơn trống
lọc nơi để dầu và sáp được dẫn vào. Trống lọc được chia thành nhiều ngăn
bởi các vách ngăn đi từ tâm ra ngoài thành, mỗi ngăn được nối với bộ phận
hút chân không nhờ ống nối ở đuôi trống. Khi trống quay, những ống nầy nối

với mỗi ngăn nhất định. Khi ngăn nào đó đi qua hỗn hợp sáp dầu thì dầu và
dung môi thấm qua lớp áo bọc và lưới rồi vào bên trong theo ống lối ra khỏi
trống. Sáp bị giữ lại tạo thành lớp bám trên bề mặt vải lọc và bị dồn ra xung
Trần Viết Chánh Trường ĐHBK Hà Nội
20
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP THIẾT KẾ PHÂN XƯỞNG CHƯNG CẤT DẦU MAZUT
quanh do chuyển động quay của trống. Lớp bánh sáp này sau đó qua bộ phận
rửa bằng dung môi lạnh rồi chuyển qua bộ phận làm khô và cuối cùng sáp
tách ra bằng cách thổi nhẹ một luồng khí từ trong ống ra phía ngoài đẩy bánh
sáp ra băng chuyền. Dung môi được thu hồi và tái sinh từ phần sáp và phần
lọc rồi lại được đưa trở lại chu trình.
Trong các dây chuyền sản xuất hiện đại, người ta thường dùng lọc hai
cấp để tách triệt để sáp và tách dầu lẫn vào sáp. Để tái sinh dung môi cấp để
tách triệt để sáp và tách dầu lẫn vào sáp. Để tái sinh dung môi thường người
ta tiến hành bằng chưng cất theo hơi nước ở 3 đến 4 tháp chưng.
I.4. Qúa trình hydrocracking chọn lọc.
Quá trình này còn gọi là quá trình tách parafin xúc tác. Quá trình hydro
cracking chọn lọc dùng để tách parafin từ dầu, có hai loại :
- Chỉ dùng một loại xúc tác nhằm hạ điểm đông đặc.
- Dùng hai loại xúc tác vừa để hạ điểm đông đặc vừa để tăng độ bền
oxy hoá của sản phẩm.
Cả hai loại này người ta đều dùng xúc tác là zeolit tổng hợp có tính
chọn lọc hình học. Các chất xúc tác này bẻ gãy mạch parafin thẳng và các
hydrocacbon có mạch cacbon dài một cách chọn lọc. Xúc tác zeolit có kích
thước mao quản khoảng 6
0
A
tạo ra quá trình cracking có tốc độ lớn đối với
các n-parafin, tốc độ cracking sẽ giảm nhanh nếu hàm lượng parafin có mạch
nhánh tăng.

Những ưu điểm chính của phương pháp này so với phương pháp dùng
dung môi có chọn lọc là:
- Hiệu suất dầu tăng.
- Không cần phải có công đoạn làm sạch bằng hydro.
- Vốn đầu tư thấp.
- Cho phép sản xuất dầu gốc có nhiệt độ đông đặc thấp từ những
nguyên liệu có hàm lượng parafin cao.
Trần Viết Chánh Trường ĐHBK Hà Nội
21
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP THIẾT KẾ PHÂN XƯỞNG CHƯNG CẤT DẦU MAZUT
I.5. Làm sạch bằng axit sunfuric và đất sét [11].
Tinh chế bằng axit là một trong những phương pháp cổ điển nhất trong
công nghiệp dầu mỏ. Nói một cách sơ lược quá trình này gồm hai giai đoạn,
đó là khuấy trộn dầu với axit sunfuric đặc, tách dầu khỏi cặn bùn axit bằng
cách để lắng gạn hoặc ly tâm. Cuối cùng là tách các chất có tính axit tan trong
dầu bằng cách dùng xút rửa hoặc dùng một loại đất sét thích hợp để xử lý.
Việc xử lý bằng axit sunfuric và đất sét trong thời gian dài là quá trình tinh
chế dầu khoáng quan trọng nhất. Tuy nhiên quá trình này có nhiều nhược
điểm, do đó dần dần nó bị thay thế bằng các quá trình xử lý bằng hydro. Một
phần do lịch sử, một phần do nó vẫn được sử dụng trong công nghệ tái sinh
dầu thải nên một số khía cạnh của quá trình xử lý bằng axit và đất sét được đề
cập dưới đây.
Quá trình được tiến hành trong thiết bị khuấy trộn trong đó hỗn hợp
dầu vớt axit được trộn bằng cách sục không khí hoặc dùng bơm tuần hoàn
trộn. Tiếp theo cặn bùn axit tạo thành được lắng tách trong bế lắng. Thông
thường thiết bị trộn là thùng thép hình trụ phía trong lót lớp chì, đáy hình côn
để dễ lắng và tháo cặn bùn axit .
Hình 8 mô tả một cách sơ lược quá trình làm sạch bằng axit và đất sét.
Quá trình này liên tục cho công suất lớn và có tính kinh tế hơn.
Việc xử lý bằng axit sunfuric dẫn đến sự tách một phần hoặc hoàn toàn

các hợp chất không no, các hợp chất chứa lưu huỳnh, nitơ, oxy, các chất nhựa,
các hợp chất có dạng asphan nên đã cải thiện được độ ổn định chống oxy hoá,
lượng cặn cacbon, khả năng phá nhũ, chỉ số trung hoà, màu và mùi của dầu.
Một loạt các quá trình ảnh hưởng khác nhau tới hiệu qủa của việc xử lý
dầu khoáng bằng axit sunfuric. Hoạt tính của các hydrocacbon đối với axit
sunfuric giảm từ olefin cho tới hợp chất aromat, naphten và parafin, thông
thường người ta dùng H
2
SO
4
nồng độ 98%. Nhiệt độ thích hợp của quá trình
xử lý bằng axit ở khoảng 30 ÷ 60
0
C. Nó phụ thuộc vào bản chất và độ nhớt
của dầu gốc, nồng độ axit đem dùng và loại sản phẩm cần tạo ra.
Trần Viết Chánh Trường ĐHBK Hà Nội
22
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP THIẾT KẾ PHÂN XƯỞNG CHƯNG CẤT DẦU MAZUT
Hình 8: Sơ đồ quá trình làm sạch bằng axit - đất sét
Xét về mặt kinh tế thì lượng axit dùng càng thấp càng tốt, tuy nhiên
lượng này dao động trong phạm vi rộng tuỳ thuộc vào chủng loại dầu thành
phẩm khác nhau. Ví dụ, dầu cọc sợi , lượng axit sunfuric dùng 1 ÷ 3% trọng
lượng.
Dầu khoáng sau khi tinh chế bằng axit cần phải dùng đất sét để tách
chất tạo ra sau phản ứng và tách các vết cặn bùn còn sót lại . Thông thường
các loại đất sét đã hoạt hoá bằng cách xử lý axit để tăng hoạt tính của chúng
được đem dùng như là chất hấp phụ. Nhiệt độ xử lý dầu bằng đất sét có thể
thay đổi từ 70 ÷ 80
0
C đối với dầu bôi trơn và 80 ÷ 90

0
C đối với dầu trắng.
Lượng đất sét khoảng 0,5 ÷ 3,5% trọng lượng và thường phải xử lý từ 2 đến 4
lần.
Công nghệ xử lý dầu bằng axit - đất sét là qúa trình gián đoạn, khó vận
hành, giá thành cao vì hiệu suất thấp, mức tiêu tốn hoá chất lớn và đòi hỏi
nhiều công. Tuy nhiên điểm chủ yếu của nó là vấn đề liên quan tới cặn thải
axit và đất sét đã dùng vì xét theo quan điểm luật bảo vệ môi trường nghiêm
ngặt thì khó chấp nhận và tốn kém. Không thể để tồn các chất thải này thành
đống được mà nếu đốt chúng thì sẽ gây ô nhiễm không khí khá lớn.
Trần Viết Chánh Trường ĐHBK Hà Nội
23
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP THIẾT KẾ PHÂN XƯỞNG CHƯNG CẤT DẦU MAZUT
Do vậy việc xử lý dầu bằng hydro có thể khắc phục các nhược điểm
trên. Đây là quá trình liên tục trong đó dầu khoáng được đưa vào xử lý với
hydro có xúc tác ở nhiệt độ cao và áp suất lớn. Các yếu tố trên có thể chuyển
hoá được các hợp chất không bền thành các sản phẩm tốt, giá thành thấp hơn
quá trình xử lý bằng axit - đất sét .
I.6. Làm sạch bằng hydro [2]
Quá trình tinh chế sản phẩm dầu đã tách parafin là quá trình cần thiết
nhằm loại bỏ các hợp chất hoạt động bề mặt hoá học có ảnh hưởng đến độ
bền màu của dầu gốc.
Ví dụ: Các hợp chất hữu cơ chứa nitơ ảnh hưởng rất lớn đến màu sắc
cũng như độ bền màu của dầu gốc, vì thế việc loại bỏ chúng là yêu cầu chính
của quá trình tinh chế bằng hydro.
Sơ đồ của quá trình làm sạch bằng hydro được trình bày ở hình 9.
Hình 9: Sơ đồ quá trình làm sạch bằng hydro
Trong quá trình làm sạch bằng hydro, nguyên liệu tiếp xúc với hydro
trong điều kiện có xúc tác và nhiệt độ, áp suất cao (300 ÷ 370
0

C, 40 ÷ 60at).
Đa số các quy trình làm sạch bằng hydro sử dụng xúc tác molipden – coban
(Mo – Co) với tỷ lệ thay đổi tuỳ theo mức độ cần tẩy màu. Nguyên liệu dầu
Trần Viết Chánh Trường ĐHBK Hà Nội
24
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP THIẾT KẾ PHÂN XƯỞNG CHƯNG CẤT DẦU MAZUT
có chứa các hợp chất của các nguyên tố O, N, S được chuyển hoá thành nước,
amoniac (NH
3
) và hydrosunfua (H
2
S). Các hydrocacbon thơm một phần bị
hydro hoá thành naphten.
Quá trình làm sạch bằng hydro có thể dùng cho nhiều chủng loại dầu.
Tính chất của dầu nhờn sau khi hydro hoá làm sạch được thay đổi như
sau:
Làm giảm độ nhớt : 0 ÷ 2
Làm tăng chỉ số độ nhớt : 0 ÷ 2
Hạ thấp nhiệt độ đông đặc : 0 ÷ 2
Tăng độ sáng màu : 1 ÷ 2
II. TÍNH CHẤT VÀ CÔNG DỤNG CỦA DẦU NHỜN.
II.1. Tính chất của dầu nhờn.
II.1.1. Độ nhớt.
Độ nhớt của một số phân đoạn dầu nhờn là một đại lượng vật lý đặc
trưng cho trở lực do ma sát nội tại của nó sinh ra khi chuyển động. Do vậy độ
nhớt có liên quan đến khả năng bôi trơn của dầu nhờn.
Để thực hiện nhiệm vụ bôi trơn, dầu nhờn phải có độ nhớt thích hợp,
phải bám chắc trên bề mặt kim loại và không bị đẩy ra ngoài, có nghĩa là nó
phải có ma sát nội tại nhỏ.
Độ nhớt của dầu nhờn phụ thuộc chủ yếu vào thành phần hoá học.

Các hydrocacbon parafinic có độ nhớt thấp hơn so với các loại khác.
Chiều dài và độ phân nhánh của hydrocacbon càng lớn, độ nhớt sẽ tăng
lên.
Trần Viết Chánh Trường ĐHBK Hà Nội
25

×