Tải bản đầy đủ (.pdf) (2 trang)

bài thơ -lai tân- của hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (35.76 KB, 2 trang )

Bài thơ "Lai tân" của Hồ Chí Minh
“Nhật kí trong tù không phải là một lời thanh minh hay là lời cảm khái về thân phận long
đong, cực khổ của một người tù. Và giá trị của Nhật kí trong tù cũng không phải ở chỗ đã
xây dựng được “một biểu tượng lớn của Việt Nam và một phần nhân loại ở thế kỉ XX : hình
tượng người tù, hình tượng người lưu đày”. Nhật kí trong tù đã tố cáo cái tính chất phi lí, bất
công vốn là nét bản chất của chế độ xã hội thối nát Tưởng Giới Thạch”( ). Nội dung này
được thể hiện rất rõ trong nhiều bài thơ của Bác. Việc Bác bị bắt cũng chính là hậu quả của
chế độ bất công, vô nhân đạo của chính quyền Tưởng. Cũng là đại biểu đi dự hội nghị các
nước Đồng minh chống phát xít, trong khi các đoàn đại biểu Mĩ, Anh được đón tiếp nhiệt tình
thì Bác, đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh lại bị bắt giam.
Trong những ngày bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
được mắt thấy tai nghe bao nhiêu điều ngang trái chốn nhà tù. Chế độ nhà tù thối nát, vô
nhân đạo đã được tái hiện trong nhiều bài thơ của Bác. Trong đó, Lai Tân là một bài thơ tiêu
biểu cho nghệ thuật châm biếm thâm thuý của Bác.
I/ Giới thiệu chung
Bài thơ thuộc tập Nhật kí trong tù, ghi lại những điều mắt thấy tai nghe trong những ngày
Bác bị giam cầm trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch.
Thành công của bài thơ là nghệ thuật châm biếm sắc sảo, độc đáo, với giọng điệu tự sự xen
lẫn trữ tình với một kết cấu chặt chẽ.
Bài thơ có giọng điệu rất bình thản và khách quan. Bốn câu thơ chia làm hai phần, ba câu
đầu và câu cuối. Ba câu đầu là giọng điệu tự sự, câu cuối thể hiện thái độ của Bác. Câu thơ
cuối tạo nên tính chất bất ngờ cho toàn bài. Nội dung tư tưởng và giá trị của bài thơ được
tập trung bởi sự mâu thuẫn giữa hai phần của bài thơ.
II/ Tìm hiểu văn bản
1. Cảnh tượng nhơ nhớp, bẩn thỉu ở chốn tù ngục(3 câu đầu)
Ba câu đầu, tác giả lần lượt kể về “công việc” của các nhà chức trách. Mỗi người một việc và
họ đều rất say mê với công việc của mình :
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc
Chuyện đánh bạc của đám quan lính cai ngục đã được Bác nói đến trong nhiều bài thơ thuộc


tập Nhật kí trong tù. Đánh bạc là việc chính của bọn cai ngục. Một điều rất phi lí là chính
quyền bắt những người đánh bạc ở ngoài cho vào tù. Còn những kẻ cai tù, đại diện cho cái
chính quyền coi đánh bạc là phạm pháp ấy lại ngang nhiên đánh bạc và hành động ấy là
“chuyên”. Còn bọn quan lính giải người thì ăn đút lót, hành hạ người tù để họ phải nộp tiền
cho chúng. Câu 1, giọng điệu khách quan thản nhiên. Đến câu 2, thái độ của người kể đã
bắt đầu bộc lộ, dù rất kín đáo, với việc sử dụng cụm từ kiếm ăn quanh. “Kiếm ăn” chỉ hành
động kiếm tiền một cách bẩn thỉu của những kẻ được coi là đại diện cho luật pháp.
Câu thứ ba, tác giả lại dùng lối nói châm biếm rất sâu cay, thâm thuý về việc làm của
“huyện trưởng”. Có vẻ như huyện trưởng rất lo lắng cho việc công. Nhưng đặt câu thơ trong
toàn bài, trong mối quan hệ với ba câu còn lại có thể hiểu ngay “làm công việc” của huyện
trưởng là gì. Chắc chắn không phải là hết lòng với việc riêng. Nếu vị huyện trưởng say sưa
với công việc như vậy thì không thể có chuyện “chuyên đánh bạc” và “kiếm ăn quanh” ở
trên. Và tác giả cũng không thể dùng cụm từ vẫn thái bình ở câu bốn. Vậy, “chong đèn làm
công việc” ở đây là say sưa bên bàn đèn thuốc phiện, bên chiếu bạc hay những công việc
không mấy sạch sẽ trong đêm.
2. Trời đất Lai Tân vẫn thái bình
Câu thơ cuối tạo nên kết cấu bất ngờ cho toàn bài thơ. Mâu thuẫn trào phúng, tính chất
châm biếm của bài thơ được tạo nên bởi mâu thuẫn này.
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.
Đây là kiểu thái bình giả tạo. Bộ máy chính quyền thối nát đến như thế thì làm sao có được
thái bình cho dân chúng. Những kẻ đại diện cho chính quyền, có trách nhiệm đảm bảo sự ổn
định, thái bình cho xã hội lại là những kẻ nhũng nhiễu nhiều nhất.
Hồ Chí Minh đã dùng văn thơ như một thứ vũ khí chiến đấu vô cùng sắc bén và có hiệu quả
trong sự nghiệp cách mạng của mình. Và bút pháp trào phúng là bút pháp chủ lực tạo nên
sức mạnh chiến đấu trong sáng tác của Người. Lai Tân là một trong những bài thơ sử dụng
thành công bút pháp này. Bằng việc chọn phác hoạ hành động của mấy tên cầm quyền
trong chính quyền Tưởng, Người đã khái quát hoá bộ mặt thối nát của xã hội Trung Quốc
thời kì những năm bốn mươi của thế kỉ XX.
Bằng những thủ pháp nghệ thuật châm biếm, tài tình, bài thơ hướng tới mục đích đả kích
mạnh mẽ sự thối nát vô nhân đạo của chế độ nhà tù nói riêng và chế độ XH Trung Quốc nói

chung- thời Tưởng Giới Thạch
Nguồn: Chuẩn bị kiến thức Văn học 11

×