Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

cảm nhận về bài ca dao - khăn thương nhớ ai-

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (67.92 KB, 6 trang )

Cảm nhận về bài ca dao " KHăn thương nhớ ai"
BÀI THỨ NHẤT BẠN CÓ THỂ THAM KHẢO CHO BÀI VIẾT CỦA MÌNH
Khăn thương nhớ ai
một bề
Bài ca nằm trong hệ thống ca dao về đề tài thương nhớ, 1 cung bậc trong ca dao tình yêu
của người bình dân VN.
Bài ca diễn tảnỗi nhớ niềm thương của 1 cô gái. Nhớ thương da diết, nhớ đến thao thức, cồn
cào gan ruột mà ko dễ bộc lộ. Cô phải hỏi khăn, hỏi đèn, hỏi cả mắt mình. Những câu hỏi ko
có câu trả lời càng nén chặt nỗi thương nhớ, để cuối cùng trào ra trong nỗi lo âu cho hạnh
phúc:
Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi ko yên một bề
giọng thơ sâu lắng, dồn dập gợi ra nhiều cảm xúc.
Mở đầu, chiếc khăn đc hỏi đến đầu tiên và đc hỏi nhiều nhất:
Khăn thương nhớ ai
nc mắt
Chiếc khăn thường là vật trao duyên, vật kỷ niệm gơi nhớ người yêu. Sáu câu thơ đc cấu
trúc theo lối vắt dòng, láy lại 6 lần từ "khăn" ở vị trí đầu các câu thơ và láy lại 3 lần câu
"khăn thương nhớ ai" như 1 điệp khúc bất tận, thể hiện nỗi nhớ triền miên, da diết. Dường
như mỗi lần hỏi là nỗi nhớ lại trào dâng thêm. Cái khăn, tự nó ko biết " thương nhớ", ko biết
tự "rơi xuống", "vắt lên", " chùi nc mắt", nhưng những hình ảnh vận động mang cảm xúc
người đã hiện lên hình ảnh con nguo7ì với tâm trạng ngổn ngang niềm thương nhớ cùng nỗi
l oâu. Nhớ đến ngơ ngẩn, nỗi nhớ tỏa theo chiều hướng của ko gian (" khăn rơi xuống đất
rồi lại " khăn vắt lên vai"), cuối cùng thu lại trong cảnh khóc thầm ("khăn chùi nước mắt").
Nỗi nhớ trong 6 câu lan tỏa vào ko gian, đến 4 câu tiếp lại xuyên suốt theo thời gian. Nỗi
nhớ ban ngày kéo dài sang cả ban đêm:
Đèn thuơng
ko tắt
Vẫn là điệp khúc "thương nhớ ai", nhưng nỗi nhớ đã chuyển từ " khăn" sang "đèn". Hình ảnh
ngọn đèn gợi ra đêm khuya v2 võ canh tàn, và cái đốm lửa đang cháy kia phải chăng là hình
ảnh của nỗi nhớ cháy rực trong lòng cô gái? Ngọn đèn mãi ko chịu tắt, nỗi nhớ cứ da diết


khôn nguôi. Cũng như chiếc khăn. ngọn đèn đã giúp cô gái thổ lộ nỗi lòng.
Nhưng dù gợi cảm bao nhiêu, thì chiếc khăn và ngọn đèn cũng chỉ là cách nói gián tiếp theo
lối biểu tượng, nhân hoá. Nỗi lòng của cô gái buộc phải bật ra trong cách nói trực tiếp:
"Mắt thương
ko yên"
Thuơng nhớ đến ko ngủ đc, cứ trằn trọc thao thức là cách thức biểu lộ quen thuộc trong ca
dao:
Đêm nằm lưng chẳng tới giường,
Trông cho mau sáng ra đường gặp anh"
Tuy nhiên, cũng là 1 tâm trạng ấy, nhưng trong bài ca này, hình ảnh đôi mắt có sức gợi cảm
sâu xa hơn nhiều. "Mắt ngủ ko yên" tạo nên 1 đối xứng rất đẹp với "đèn ko tắt" ở trên, gợi
lên 1 khung cảnh rất thực: cô gái giữa đêm khuya 1 mình đối diện với ngọn đèn mà nhớ
người thương. Vì "mắt ngủ ko yên" nên "đèn ko tắt". Nói đèn cũng chỉ là nío nguo72i mà
thôi. Ngọn đèn soi chiếu vào đôi mắt, càng thấy nỗi nhớ thương vời vợi ko nguôi.
Mười câu thơ là 5 câu hỏi ko có lời đáp. Điệp khúc " thương nhớ ai" trở đi trở lại như xoáy
vào 1 nỗi niềm khắc khoải, da diết. Nmă lần " thương nhớ" và 5 lần từ " ai" xuất hiện. BẢn
thân từ "ai" mang ý phiếm chỉ, gợi lên 1 nỗi nhớ thương sâu thẳm mênh mông, ko giới hạn.
Từ "ai" ko xác định cụ thể đối tượng, nhưng người nghe hoàn toàn hỉu đc "ai" ấy là ai. Hỏi
ko có trả lời, nhưng thực câu trả lời đã nằm trong giọng điệu khắc khoải, da diết kia. Không
cần nói rõ, nhưng nỗi nhớ người yêu đã đc bộc lộ 1 cách kín đáo mà gợi cảm, sâu sắc, mãnh
lệit.
Cách gieo vần của bài ca cũng rất đặc sắc. Vần chân và vần lưng xen kẽ nhau (ai-ai,mắt-
tắt), vần bằng vần trắc luân phiên, tất cả tạo nên 1 âm đêịu luyến láy liên hoàn khiến cho
nỗi nớh thương của cô gái vừa nén lại, vừa như kéo dài ra mênh môing vô tận theo cả ko
gian và thời gian. Tưởng chừng nỗi nhớ ấy sẽ ko có kết thúc Nhưng bài ca phải có điểm
dừng. Khi cô giá ko hỏi nữa thì niềm thương nhớ trào ra thành nỗi lo phiền :
"Đêm wa
một bề"
Từ nhịp thơ 4 chữ dồn dập, liên tiếp, lời ca chuyển sang nhịp thơ lục bát nhẹ nhàng hơn
nhưng cũng xao xuyến hơn, giải bày niềm lo ây của cô gái trc hạnh phúc lứa đôi. Không

phải ngẫu nhiên mà chữ "lo" đc nhắc đền 2 lần. Nhớ thuo7ng người yêu và lo lắng cho
duyên phận của mình "không yên một bề", tâm trạng cảu cô gái mang ý nghĩa phổ biến cho
người phụ nữ trong cuộc đời xưa: yêu tha thiết nhưng lun lo sợ cho hạnh phúc bấp bênh.
bài ca khá tiêu biểu cho nghệ thuật ca dao với sự lặp lại trong cách diễn tả tâm trạng, cách
dùng những hình ảnh biểu tượng, lối nhân hóa để tăng thêm sức sống cho hình ảnh, cách
gieo vần linh hạot, cách cấu tạo truyền thống kết hợp những câu thơ bốn chữ với hai câu lục
bvát cuối cùng Qua nỗi thương nhớ và niềm lo âu đc diễn tả trong bài ca, ta nhận ra tiếng
hát yêu thương và khao khát yêu thương của ngừơi bình dân xưa.
**************************************************
************************************************** *
BÀI THỨ 2 BẠN CÓ THỂ THAM KHẢO
Kho tàng ca dao Việt Nam vô cùng phong phú, giàu giá trị tư tưởng, nghệ thuật, là “thơ của
vạn nhà”, là tấm gương soi cho tâm hồn và đời sống dân tộc, là niềm tự hào khôn xiết về cái
cách mà những con người lao động Việt Nam trực tiếp bày tỏ long mình mà không cần nhờ
đến bất kì một khuôn khổ thơ chính quy nào. Họ gửi gắm vào đó là yêu thương, sướng vui,
đau khổ; là hoài bão, ước mơ, niềm mong mỏi… Không nằm ngoài chuỗi sáng tác mang đề
tài thương nhớ làm nên bản sắc văn hoá dân gian, bài ca dao được nhà phê bình Hoài Thanh
đánh giá là “hay nhất Việt Nam”, “ Khăn thương nhớ ai” cũng trĩu nặng niềm thương nỗi nhớ
của người con gái đang yêu, sâu lắng và hay lạ lùng…:
“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên
Đêm qua em những lo phiền

Lo vì một nỗi không yên một bề.”
Ca dao về nỗi nhớ là hợp âm các nốt trầm lắng đọng lòng người trong cung bậc tình yêu -
vốn là đề tài muôn thưở và quen thuộc của người bình dân. Nỗi nhớ nhung nào có buông tha
một ai? Mọi cảnh huồng, mọi số phận, mọi trang lứa; và nó nhẫn tâm bủa vây, bám víu lấy
người con gái đơn chiếc. Nỗi nhớ ấy như muốn thiêu đốt tan chảy cả cõi lòng nhưng lại được
che giấu kín đáo và ý nhị, không bộc lộ một cách buông tuồng, suồng sã. Tâm trạng nàng,
biết tỏ cùng ai? Những câu hỏi không có câu trả lời, cô dành để hỏi những vật dụng quen
thuộc nhất kề bên mình trong lúc cô đơn :
“Khăn thương nhớ ai?
Đèn thương nhớ ai?”
Những câu hỏi cất lên rồi lại trôi dạt mãi vào hư vô im tiếng, cứ nén chặt niềm thương nỗi
nhớ trong lòng, để rồi chực trào tuôn ra thành tiếng thở dài triền miên. Cái khăn được hỏi
đến đầu tiên và cũng được hỏi nhiều nhất’ cô gái hỏi vật trao duyên mang ý nghĩa thiêng
liêng duy nhất của mình. Chiếc khăn ấy phải chăng đã ấp ủ biết bao hơi ấm bàn tay, đã
thấm đượm nhiều vô chừng những lời ân ái mặn nồng :
“Gửi khăn, gửi áo, gửi lời,
Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa”
Giờ người đã xa, hơi ấm nồng đượm vương vấn nơi đây âu chỉ là nỗi buồn chờ đợi quá khứ,
cái không gian cô quạnh cứ miên man trải rông trên nhiều chiều, nỗi nhớ cứ thế mà quanh
quẩn trong tâm trí trăm mối tơ vò, khiến vật chứng nhân vô trí vô giác cũng động lòng mà:
“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt.”
Ba hình ảnh đặc trưng cộng hưởng thêm ba câu thơ láy cô gái tự nhân hoá chiếc khăn lên
rồi hỏi: “Khăn thương nhớ ai?”, cùng lối vắt dòng láy tổng cộng sáu lần từ “khăn” thành một
điệp khúc tạo cảm giác dường như nỗi nhớ càng thêm triền miên. Mỗi lần hỏi là một lần nỗi
nhớ kia thêm trào dâng cuồn cuộn trong lòng. Ôi, sầu đong càng lắc càng đầy! Cô gái đang

hỏi chiếc khăn trao duyên hay đang đối thọi với bản thân mình đây? Đằng sau nghệ thuật
đảo thanh đầu uyển chuyển, cách sử dụng hình ảnh vận động trái chiều, đằng sau hết thảy
các sử “xuống- lên”, “rơi- vắt” của khăn hiện lên hình ảnh một con người rất rõ, con người
ấy đang tiếc nhớ khôn nguôi về mối tình đẹp đẽ. Nhớ đến mức không còn tự chủ được dáng
đứng bước đi, không thề đứng yên ngồi ổn được, cứ thất thểu ra vào, bởi vậy người ta mới
có câu:
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”
Nỗi nhớ cứ rừng rực trong lòng, len lỏi vào từng dòng máu thớ thịt, thế mà vẫn không đủ để
cản ngăn dòng nước mắt khóc thầm:
“Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt”
Nước mắt em rơi từ khoé lệ u sầu, rơi trên tiếng cười đùa hôm qua, và rơi trên u buồn hôm
nay, những “ hai hàng nước mắt đầm đàm như mưa: làm khổ em biết bao nhiêu đêm dài.
Nỗi nhớ sâu trong tâm hồn réo thúc bùng sôi nhưng được bộc lộ ý nhị, nọt ngào, mang màu
sắc nữ tính, nhẹ nhàng. Cô gái trong bài ca dao là một con người biết trân trọng những kỉ
niệm, biết ghìm nén lòng mình, dẫu cho trái tim đã băng hoại vì nỗi buồn man mác gậm
nhấm lủi tàn mất rồi. Cái khăn đã giãi bày hộ cô gái cái nghẹn ngào đọng mãi trong lòng
không nói ra được. Cái thứ cảm gáic không gọi được tên nặng trĩu trong lòng là thế, vậy mà
cứ nhẹ tênh lan toả rộng khắp, thấm đượm vào không gian, vào cả sự đồng cảm nơi người
đọc
Nhưng không chỉ có thế, nỗi nhớ ở đây còn được đong đếm theo bước chân thời gian chứ
không chỉ thăng trầm theo từng bước đi của nhân vật. Ban đêm là thời khắc để bất kì con
người nào cũng có thể suy ngẫm về người, về đời, rất thật. Đối với cô gái, đó là lúc niềm
khắc khoải lại càng làm tim cô đau nhói. Niềm đau ở đây được diễn tả theo một cách riêng,
nhất quán và không thể nhầm lẫn. Điệp khúc “thương nhớ ai” được giữ lại trọn vẹn còn tâm
sự được gửi gắm tiếp vào ngọn đèn đêm:
“Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt”
Cả bài ca dao là một hệ thống các câu hát lẻ độc lập: khi đứng riêng chúng hoàn toàn có thể

diễn đạt hết nghĩa, còn khi ghép chúng lại với nau, chúng thu hút người đọc và nỗi lòng trải
rộng mãi hết không gian rồi lại sang thời gian. Trong sự ưu phiền vò võ của đêm khuya khắc
vợi canh tàn, trong bóng đêm mịt mù đến hốt hoảng, đốm lửa ấm dù nhỏ nhoi trên đầu
ngọn bấc kia chứng tỏ người thắp đèn vẫn chưa tài nào ngủ yên được. Cô gái gửi tâm tình
ngổn ngang trăm mối những đêm thâu trằn trọc vào ngọn lửa nhỏ, hay chính ngọn lửa tình
bất diệt luôn cháy mãi trong tâm can? Chừng nào lửa tình vẫn cháy thì chừng ấy lửa đèn kia
tắt làm sao được. Vẫn là câu hỏi không có lời đáp, và vẫn là hình ảnh tượng trưng được
nhân hoá, “ngọn đèn” cũng biết thổ lộ bao điều, buộc ta phải rung cảm suy nghĩ nhiều hơn,
sâu sắc hơn những điều được đề cập trong lời ca da diết.
Bày tỏ, giãi bày hộ cô gái bằng giá trị tượng trưng rất biểu cảm theo lối nói vòng đầy cuốn
hút, nhưng rồi rốt cuộc “khăn” và” đèn”cũng chỉ là cách nói gáin tiếp thông qua biện pháp
nhân hoá. Đến dòng thơ thứ chín, không kìm lòng được nữa, thứ “cảm xúc không gọi được
tên” trên kia chực vỡ oà, cô tự hỏi chính mình:
“Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên.”
Hình tượng các nghệ nhân dân gian sử dụng thật hợp tình hợp lý, nhất quán và xuyên suốt:
“đèn chẳng tắt” vì “mắt không yên”, “mắt không yên” nên “đèn chẳng tắt”. Nỗi ưu tư còn
nặng trĩu, khối tinh thần bất biến vẫn vẹn nguyên, tình yêu chung thuỷ chẳng đổi dời. Cứ
khép đôi bờ mi đẫm lệ, hình bóng người thương lại hiện về, giấc ngủ dẫu có cũng vô cùng
ngắn ngủi và mãi chập chờn những giấc vơ vô ảo vô thực. Năm lần hỏi, năm lần điệp từ “ai”
vang lên thổn thức xoày vào lòng ta một nỗi niềm khắc khoải, đồg cảm bi ai. Bản thân từ
“ai” mang ý phiếm chỉ, nên câu trả lời thực chất được khẳng địh ngay từn câu hỏi tưởng như
không có lời đáp. Cách khẳng định này không được diễn đạt bằng ý chính mà mang tính
nghệ thuật, thi vị hơn, mạnh mẽ hơn. Dẫu vậy, với tính chấ nghệ thuật rất riêng của văn
học dân gian, chẳng mấy ai yêu quý bài ca dao này không tự lý giải được, rằng không ai
khác ngoài chàng trai đã gây nên nỗi lòng cô đọng trong điệp từ “ ai” kia. Mười câu thơ bốn
chữ còn hay về cách gieo vần: vần chân xen lẽ vần lưng, trong đó thanh bằng và thanh trắt
lại xoắn quýt lấy nhhau tạn nên âm điệu luyến láy liên hoàn, bâng khuâng mãi. Và nếu cứ đi
theo cung cách cấu tứ như thế, lòng cứ tự hỏi lòng, thì bài ca dao sẽ trải dài cùng nỗi sầu
đến vô tận. Lần theo mạch xúc cảm xuyên suốt, qua tới mấy lần hỏi, điểm cao trào bất chợt

xuất hiện đột ngột dưới hình thức câu tho8 lục bát, biến nỗi nhớ nhung dằng dặc kia thành:
“Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên một bề”
Từ nhịp thơ bốn chữ dồn dập và gây rung động lạ kỳ chuyển sang lục bát nhẹ nhàng và xao
xuyến, bởi lẽ, cô gái một mực thương nhớ người yêu vẫn biết lo lắng cho số phận trái ngang
của mình. Cô nhớ lắm, đến nỗi:
“Qua cầu dừng bước trơng cầu
Cầu bao nhiêu nhịp lòng sầu bấy nhiêu”
Guồng quay cuộc sống thì cứ mãi lừng lững tiến về phía trước, hoàn cảnh trớ trêu không cho
phép người con gái đơn thân mãi “ Thương thương nhớ nhớ sầu sầu”, xã hội không đồng ý
để cô “Một ngày ba bận ra cầu đứng trông” . Từ “lo” được lặp lại đến hai lần, cùng chỉ từ số
nhiều “những” chứng tỏ trong lòng cô gái đang có nhiều lo sợ mênh mông khi nghĩ về người
mình yêu cùng một lúc; nhói cả tim khi nghĩ rằng anh sẽ thay đổi, sẽ như” vầng mây bạc
giữa trời mau tan”; quặn cả lòng khi hay cả một xã hội phong kiến thối nát đang chực chờ
ép duyên Hạnh phúc quá mong manh và cái quyền tự do yêu đương cũng thật là bấp
bênh, khi tình yêu tha thiết chân chính luôn bị nỗi sợ nơm nớp vô biên lấn át, “Sợ mẹ bằng
đất, sợ cha bằng trời”. Nỗi lo phiền trĩu nặng tâm can, xuất phát từ chính nỗi nhớ
thươngkho6n nguôi, từ khát vọng yêu và được yêu, từ sự bức bối muốn được vùng dậy giải
thoát. Tình yêu, nỗi nhớ nơi con tim mồ côi và nguội lạnh vẫn cứ chan chưa tình người, dạt
dào sức sống mà không hề bị luỵ, đau thương, yếu hèn. Càng yêu, càng nhớ thì con người
ta càng bộc lộ sự lạc quan trữ tình và chung thuỷ của mình:
“Chờ anh cho tuổi em cao
Cho duyên em muộn má đào em phai”
Để diễn tả được hết nỗi long cũng như tính nhân văn sâu sắc, bài ca dao mang những yếu
tố thi pháp và biện pháp nghệ thuật quen thuộc: điệp từ, điệp ngữ gây cảm giác quyến
luyến mà dồn dập; dùng hình ảnh tượng trưng và nhân hoá chúng đạt hiệu quả cao. Quan
trọng hơn cả, ẩn chưa trong toàn bài ca dao là nét đẹp kín đáo, thu hút, đằm thắm nữ tính;
khá đặc biệt so với các khúc ca thương nhớ khác dung hình thức biểu đạt trực tiếp…:
“Nhớ ai hết đứng lại ngồi,
Ngày đêm tơ tưởng một người tình nhân.”

“Nhớ ai nhớ mãi thế này?
Nhớ đêm quên ngủ, nhớ ngày quên ăn”
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai?
Vì thế, “Khăn thương nhớ ai” luôn có một chỗ đứng nhất định trong ca dao nỗi nhớ nói
riêng , toàn bộ kho tàng văn học dân gian nói chung và một vị trí riêng trong lòng người
đọc. Vượt chặng đường “những mấy nghìn năm”, bài ca dao sẽ mãi là viên ngọc long lanh,
tuy hình thành từ bàn tay thô kệch nhưng được gọt giũa bởi tấm lòng và tâm hồn đẹp đẽ
cao quý của người bình dân Việt Nam.
**************************************************
************************************************
BÀI THỨ 3 BẠN CŨNG CÓ THỂ THAM KHẢO CHO BÀI VIẾT CỦA MÌNH HAY HƠN
Tình yêu nam nữ với những cung bậc, sắc thái hết sức đa dạng, phức tạp là một trong
những nội dung cơ bản của ca dao người Việt. Đi vào thế giới ca dao, những cung bậc, sắc
thái tình cảm vốn vô hình, vô sắc ấy bỗng trở nên hết sức cụ thể sinh động. Tất cả là nhờ
cái tình chân thành, chân chất, đằm thắm với lối diễn đạt độc đáo của tác giả dân gian. Ví
như bài ca dao "Khăn thương nhớ ai" – thi phẩm được xếp vào hàng “bậc nhất chi nhường
cho ai”.
Không phải ngẫu nhiên mà bài ca dao này thường được người ta nhớ đến với cái tên "Khăn
thương nhớ ai". Hình ảnh chiếc khăn không chỉ là biểu tượng khởi đầu cho nỗi thương nhớ
của cô gái mà nó còn là hình ảnh được lặp lại nhiều nhất với nhiều tình huống khác nhau.
Khăn thương nhớ ai?
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai?
Khăn chùi nước mắt
Dễ hiểu vì sao hình ảnh chiếc khăn lại trở đi trở lại nhiều lần như một điệp khúc nhớ thương
triền miên, da diết như thế. Trong tình yêu trai gái, chiếc khăn thường là vật trao duyên để
người ta "gửi khăn, gửi áo, gửi lời". Khăn cũng là một vật luôn gần gũi, quấn quýt với người

con gái. Ở đây chiếc khăn được nhân hoá, trở nên có tâm trạng và là đối tượng để cô gái
bộc lộ nỗi niềm thương nhớ người yêu. Ba lần hỏi, mỗi lần nỗi nhớ lại càng trào dâng, ngổn
ngang trăm mối, trăm chiều, bao trùm khắp cả không gian : rơi xuống đất, vắt lên vai và
cao độ là khi chiếc khăn giúp cô gái dấu đi những giọt nước mắt khóc thầm. Sáu dòng thơ
với đa số thanh bằng gợi nỗi bâng khuâng da diết đậm màu sắc nữ tính, đầy kín đáo của nỗi
nhớ thương.
Hình ảnh tiếp theo trở thành biểu tượng cho nỗi nhớ là ngọn đèn:
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt
Cũng vẫn dùng thủ pháp nhân hoá nhưng nếu như ở hình ảnh chiếc khăn, nỗi nhớ được trải
ra theo không gian thì đến đây nó được đo theo thời gian. Hình ảnh ngọn đèn không tắt
chính là ngọn lửa thương nhớ đang cháy trong trái tim người con gái. Chính là người con gái
đang trằn trọc đêm thâu trong nhớ thương đằng đẳng. Sau này nhà thơ Chính Hữu cũng đã
học tập nghệ thuật này của ca dao để làm nên trong thơ mình một "Ngọn đèn đứng gác"
đáng nhớ.
Hình ảnh cuối cùng trở thành biểu tượng cho tâm trạng cô gái là đôi mắt - cửa sổ của tâm
hồn. Dù rằng những câu hỏi với chiếc khăn, ngọn đèn chính là sự phân thân trong tâm trạng
cô gái nhưng đó vẫn chỉ là cách nói gián tiếp. Mà nỗi nhớ thì cứ da diết, bồn chồn và đến lúc
không thể kìm nén, che giấu. Cô gái đã hỏi mình, trực tiếp bộc lộ nỗi lòng:
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên
Hình ảnh đôi mắt không ngủ ấy là sự phát triển tất yếu từ chiếc khăn không ở yên, từ ngọn
đèn chong chong đêm dài. Đó là một hình tượng hợp lí, nhất quán và tự nhiên như chính nỗi
nhớ niềm thương đang dâng trào trong cô gái.
Chỉ trong 10 câu thơ 4 chữ, nỗi nhớ thương của cô gái được bộc lộ thật độc đáo. Có đến
năm lần cái điệp khúc “thương nhớ ai” được lặp đi lặp lại và gắn với những hình ảnh khác
nhau. Nhưng tựu trung lại tất cả đều là sự tự hỏi lòng mình và hơn thế nữa là sự tự khẳng
định tình cảm của cô gái một cách mạnh mẽ. Tâm trạng đầy yêu thương của cô gái không
chỉ được cụ thể hoá, hình tượng hoá một cách thật rõ nét mà cách bộc lộ cũng đầy tế nhị,
kín đáo rất phù hợp với người Việt Nam.

Nét độc đáo trong nghệ thuật của bài ca dao còn biểu hiện ở kết cấu hai phần : 10 câu đầu
theo thể vãn bốn và một câu lục - bát kết lại cả bài. Nếu như ở phần đầu là sự dồn nén của
tình cảm thì đến hai câu kết tâm trạng lo âu tràn ra ngổn ngang :
Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên một bề …
Người con gái đang yêu nào lại không mang trong lòng bên cạnh nỗi niềm thương nhớ là nỗi
bồn chồn, lo lắng cho tương lai, hạnh phúc lứa đôi. Đặc biệt trong hoàn cảnh xã hội cũ thì
điều lo âu đó hoàn toàn có lý do. Mối tình tha thiết, mãnh liệt ấy đâu đã là sự đảm bảo cho
một cuộc hôn nhân hạnh phúc lâu bền. Bất trắc luôn luôn rình rập những tình cảm tốt đẹp
của những con người bình dân, bình thường. Thân phận nhỏ bé, tình yêu nhỏ nhoi giữa bao
nhiêu là giăng mắc bất tường. Dấu ba chấm kết lại bài thơ đầy sức gợi mở và càng cho thấy
nỗi lo nhiều bề trong tâm trạng cô gái. Quả là ngổn ngang trăm mối tơ vò.
Đây có thể nói là một trong những bài đặc sắc nhất của ca dao Việt Nam. Bằng nghệ thuật
nhân hoá, hoán dụ với những biểu tượng độc đáo, bài ca dao đã thể hiện được những sắc
thái vô cùng tinh tế trong nỗi lòng người con gái đang yêu. Chính điều đó đã tạo nên sức
hấp dẫn mạnh mẽ cũng như sức sống trường tồn cho tác phẩm.
******************************** CHÚC CÁC BÀI CÓ BÀI VIẾT THẬT

×