Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

sông nước trong tâm thức người việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (56.61 KB, 5 trang )

Sông nước trong tâm thức người Việt
Sông nước từ lâu vẫn là hình ảnh quen thuộc, dung dị nhất về quê hương, bản quán trong
lòng mỗi người dân Việt.
Mở đầu bài thơ "Tống biệt hành", Thâm Tâm viết:
Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học đã tranh luận và giảng giải rất nhiều về khổ thơ
hay nhất bài này. Nhìn từ góc độ văn hóa còn thấy thêm rằng "tiếng sóng" dào dạt không
phải từ đáy sông mà từ "trong lòng" ấy chính là tâm thức sông nước có sẵn trong mỗi người.
Người Việt xưa cũng như nay, nói tới chia li, cách trở vẫn hay nghĩ tới hình ảnh dòng sông,
con đò, bến nước Nghịch lí mà Thâm Tâm đưa ra là "không" mà "có" ấy tựa như một điểm
nhấn có giá trị biểu cảm và thẩm mĩ rất đặc trưng cho tâm hồn dân tộc. Người ra đi, dù
không qua sông vẫn nghe âm vang sóng vỗ và dòng sông không có ấy, qua ngôn ngữ thơ,
thực sự đã chảy trong tâm hồn người đọc.
Nói tới sông nước trong tâm thức của người Việt là đề cập tới khá nhiều vấn đề liên quan:
điều kiện địa lí, môi trường sống, tiến trình lịch sử, đặc điểm dân tộc và phong tục, tập quán
v.v Trong giới hạn của một bài viết ngắn cũng là một ý kiến phát biểu, chúng tôi chỉ nói
đến sông nước có liên quan đến nhận thức, tư duy, cách ứng xử cũng như biểu hiện tâm
hồn, cảm xúc của người Việt từ xưa đến nay.
1. Nước Việt có nhiều con sông lớn nhỏ, rộng hẹp khác nhau nhưng hầu như vùng, miền
nào cũng có. "Nước" trong tiếng Việt còn có nghĩa là Tổ quốc, lãnh thổ, quốc gia, đất nước
Sông nước tồn tại cùng với con người. Với những cư dân lúa nước, nước không chỉ là điều
kiện tiên quyết của kinh tế nông nghiệp (nước, phân, cần, giống) mà còn là yêu cầu đầu
tiên cho mọi sự lựa chọn từ nơi sinh sống đến vị trí quan trọng nhất là kinh đô của một
nước. Trong một bài viết có tên “Vị thế địa - văn hóa của Hà Nội nghìn xưa trong bối cảnh
môi sinh lưu vực sông Hồng và cả nước Việt Nam”, cố giáo sư Trần Quốc Vượng đã vẽ ra tứ
giác nước của Hà Nội trong đó có hai con sông quan trọng: sông trước là sông Nhị và sông
sau là sông Tô. Giáo sư Vượng cũng cho rằng: " các cửa ô cơ bản ngày trước của thủ đô
Hà Nội đều là cửa nước (đúng với khái niệm Watergate), ví dụ: Ô Cầu Giấy nằm ở ngã ba Tô


Lịch - Kim Ngưu ", và tư duy sông nước ấy còn có liên quan đến việc hình thành nên
những cảng thị như mặt tiền của cả một vùng duyên hải miền Trung [7:366]. Thượng tọa
Thích Nguyên Đức, trụ trì chùa Hồ Sơn, Tuy Hòa cũng cho rằng ngay cả việc dựng chùa,
tưởng như chỉ cần chọn nơi hẻo lánh, "thâm sơn cùng cốc" để thuận tiện cho việc tu hành,
nhưng thực ra yếu tố nước vẫn được tính đến đầu tiên. Suối nước, giếng nước nhà chùa
thường rất trong và ngọt và không chỉ có trong văn chương của Nguyễn Tuân [5]. Trong
nhận thức của người Việt, sự hiện hữu của sông nước khẳng định sự tồn tại của sự sống,
hay nói khác hơn, giá trị của nước chính là đem lại cuộc sống cho con người. Nước dồi dào,
cây cối xanh tươi, mùa màng sung túc; sông cạn, nước khô có nghĩa là sự sống đang cạn
kiệt, đang bị hủy diệt. Dần dần, từ tự nhiên tồn tại khách quan, nước hiện hữu, chi phối
nhận thức và cách ứng xử trong mỗi con người. Sông nước là dòng chảy bất tận của thời
gian (Dù cho sông cạn, đá mòn ); là sự xác định giới hạn về không gian (Đôi ta cách một
con sông ), là nguồn cội thiêng liêng (Uống nước nhớ nguồn), là niềm tin trong cuộc sống
(Có nước, có cá / Sông có khúc, người có lúc), là đạo đức và cách hành xử (Thác trong hơn
sống đục / Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo) Những tính chất: lỏng, mềm, trong, linh
hoạt, liên kết không có ranh giới, truyền nhiệt, dễ bốc hơi của nước dường như đều có ảnh
hưởng đến tính cách của người Việt. Đó cũng là hệ quả tất yếu từ mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên.
Khi nói đến hệ giá trị trong văn hóa truyền thống của người Việt, PGS. Chu Xuân Diên lưu ý
rằng: "Trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, người Việt phụ thuộc vào tự nhiên,
nương nhờ tự nhiên hơn là chiếm lĩnh, làm chủ tự nhiên. Khuynh hướng đó trong ý thức thể
hiện thành sự tôn trọng, sự sùng bái tự nhiên, trong hành động thể hiện thành những sự lựa
chọn có tính chất thích nghi với tự nhiên, tận dụng sức tự nhiên hơn là chinh phục tự nhiên,
dùng sức người thay thế tự nhiên, trong sinh hoạt thể hiện thành lối sống hòa hợp, hòa
mình với tự nhiên, gắn bó với môi trường tự nhiên " [2:256-257]. Người Việt từ xa xưa đã
sống hòa với sông nước đến mức coi sông nước như người. Cách đặt tên sông phổ biến ở cả
nước là: sông Cái, sông Con, sông Cả cũng thể hiện một mối quan hệ rất thân tình, rất
gia đình của con người với tự nhiên. Sông nước cho dù có lúc làm nguy hại hay gây khó
khăn cho cuộc sống con người thì con người cũng biết chấp nhận như một lẽ tất yếu của tự
nhiên. Chuyện “Sơn Tinh - Thủy Tinh” dù có thừa nhận thần núi thắng thần nước, nước dù

có dâng cao mấy cũng không ngập núi được, nhưng hằng năm lũ lụt vẫn xảy ra vì Thủy Tinh
vẫn nhớ mối thù xưa và Thủy Tinh vẫn là một vị thần mang tính cách người, hành xử như là
một người bình thường. Sự giận dữ của tự nhiên đối với con người phần lớn là do con người
đã không tôn trọng nó. Điều này còn được thể hiện rất ấn tượng qua nhiều truyện ngắn của
Bình Nguyên Lộc như truyện “Bà Mọi hú”, truyện "Câu dầm" Trong truyện “Bà Mọi hú”,
nhà văn Bình Nguyên Lộc lí giải vùng ruộng rừng phía tây Hồ Nai - Biên Hòa luôn khô cạn là
do Bà Mọi linh thiêng giận đồng bào Kinh phá rừng nên đã bịt tắt dòng nước. Tiếng hú tuyệt
vọng, đau đớn của người đàn bà rừng rú mà thần thánh ấy vang vọng, là lời nhắc nhở mọi
người về cách ứng xử với tự nhiên, về việc cần bảo vệ nguồn nước. Truyện “Câu dầm” cũng
vậy, thông qua chuyện báo ứng hoang đường của ông Ba, hệ quả tất yếu của chuyện vét
sạch cá ở sông suối, ao hồ thật khủng khiếp và con người phải hứng chịu lấy. Câu cá là thú
vui, là để kiếm sống nhưng xét ở góc độ cân bằng sinh thái, nếu câu triệt để thì môi trường
sông nước sẽ bị hủy diệt.
Nam Bộ là vùng sông nước vì có tới 57.000km đường kênh rạch, sông nước [2:313]. Cũng
như Bình Nguyên Lộc, nhà văn Sơn là cây bút của sông nước miền . Tác phẩm của ông
không chỉ khai thác văn hóa sông nước Nam Bộ làm đề tài, bối cảnh dựng truyện mà còn
thể hiện rất đặc thù ngôn ngữ, nhận thức và cách ứng xử của người miền Nam trong môi
trường và cuộc sống sông nước. Đọc “Mùa "len" trâu”, “Một cuộc biển dâu”, “Bắt sấu rừng U
Minh hạ”, “Con Bảy đưa đò” của Sơn Nam sẽ nhận ra cá tính người miền Nam trọng nghĩa,
hào sảng, dễ dãi thể hiện trong sự gắn kết với nước: ruộng ngập nước, trồng lúa nước,
tôm cá rắn rùa là thức ăn có sẵn dưới nước, nhà trên nước, chợ trên nước, đi lại trên nước
bằng ghe, xuồng, coi hát trên nước, đua ghe trên sông, nhân duyên trên nước; thậm chí con
trâu, con chuột cũng biết bơi và người chết vào mùa nước thì đành an táng bằng cách dìm
xác dưới nước
2. Như vậy, sông nước vừa là hình ảnh chung của đất nước vừa rất cá biệt, vừa là tự
nhiên khách quan vừa thể hiện tính bản địa, sự khác biệt của văn hóa mỗi vùng miền.
Những con sông đều giống nhau ở dòng nước chảy giữa hai bờ, nhưng sông Hồng khác với
sông Cửu Long và càng khác với những con sông ngắn mà dốc, chạy từ miền núi phía Tây
đổ xuống biển Đông ở khúc ruột miền Trung
Theo tài liệu [4:90], tỉnh Phú Yên có khoảng 50 con sông có chiều dài trên 10km, trong đó

phần lớn là các sông ngắn từ 10 đến 50km. Mật độ sông ngòi khá dày, trung bình là 0,
5km/km2, nhưng vào mùa nắng kéo dài từ tháng 1 đến tháng 8, 9 nhiều sông, suối hầu như
đều cạn kiệt nước. Nguồn nước cung cấp chủ yếu là nước mưa và có từ 70 đến 80% lượng
nước tập trung vào mùa mưa, gây nên hiện tượng ngập, lụt thường xuyên. Trong kí ức của
người dân, mưa lụt và nắng hạn đều đáng sợ và đều liên quan tới nước Trời. Người nông dân
thường cầu khấn "Lạy trời mưa xuống / Lấy nước tôi uống ". Mưa nhiều, mưa ít cũng là do
đấng quyền năng này "Ông không tha, bà không tha. Trời cho cây lụt hai ba tháng mười ".
Con người thật khiêm nhường, vì cầu mong nên mọi sự ban phát dù quá đáng, dù làm hại
người xin, vẫn được coi đó là của "cho", của Trời. Sông nước cũng không đủ rộng, đủ dài để
con người có cảm giác "bèo dạt, mây trôi" hoặc "lênh đênh mặt nước" như miền Nam và
miền Bắc. Có chăng người ta sợ những con "ma gia", oan hồn của những người chết nước,
thỉnh thoảng lại hiện lên đòi những người khác là "họ Lê, họ Nguyễn, họ Trần " thế mạng.
Mặt khác, Phú Yên cũng như các tỉnh duyên hải miền Trung, vì có mặt tiếp giáp với biển
Đông nên trong sự nhận thức con người, biển mới là biểu tượng hùng vĩ, vững bền của tự
nhiên. Người dân hay "ngó ra ngoài biển " và rất nhiều câu ca dao bắt đầu bằng cụm từ
"ngó ra" như vậy. Sinh hoạt văn hóa gắn với biển có phần lấn át văn hóa sông nước. Phú
Yên không có một lượng từ ngữ lớn gắn liền với sinh hoạt sông nước như phương ngữ Nam
Bộ nhưng cũng có một hệ thống ngữ nghĩa khá đa dạng thể hiện nếp sinh hoạt, tư duy của
người dân vùng biển, đặc biệt là có hiện tượng biến âm địa phương ở những làng ven biển.
Nhiều người tự giải thích đó là do nguồn nước hay cho đó là dân biển "ăn sóng, nói gió" và
sóng gió, muối biển làm cứng tiếng nói của họ. Thế nhưng, như một sự tiếp nối truyền
thống, người dân vẫn giữ tục cúng giếng, cúng sông và trên mâm cúng sóc vọng, cúng nhà
mới, bao giờ cạnh hai món gạo, muối căn bản cũng có chai hoặc chén nước trong. Trước mỗi
nhà là một vò nước giếng. Vò làm bằng đất nên mùa hè nước không nóng mà mùa đông
nước cũng không lạnh. Ai đi ngang qua, nếu khát, cũng có thể ghé vô múc gáo nước uống.
Bên cạnh vò nước thường có một chậu đất trồng hành, trồng hẹ hay trồng rau. Nước uống
còn dư trong gáo là để tưới cho chậu rau ấy. Nhà văn Võ Hồng còn kể một chuyện hà tiện,
"để dành" nước rất đáng yêu của người miền Trung: Một bà cụ thấy trời mưa đem hết ang,
thau, chậu trong nhà ra hứng nước mưa, tới khi cần cái thau lớn mà đổ nước đi thì tiếc nên
bà khệ nệ bưng thau nước mưa đổ lại xuống giếng!

Trăm sông đều đổ ra biển cả nhưng sông vẫn có đời của sông, biển vẫn sống đời của biển.
Chỗ gặp gỡ là cửa biển, là vùng nước "xà hai" mặn ngọt pha trộn như là một kiểu vừa tranh
chấp vừa hòa hợp tạm thời. Văn hóa các tỉnh ven biển miền Trung với mặt tiền là biển, mặt
hậu là núi cũng giống như một vùng nước "xà hai", có sự giao thoa mạnh mẽ, thú vị so với
hai đầu Nam và Bắc của đất nước. Biển dù rộng lớn, đem lại nhiều lợi ích cho con người thì
cũng không thay thế sông suối được, cũng như nước mặn không thay cho nước ngọt được.
Đặc biệt hơn, không dễ gì mất đi trong tiềm thức, tâm hồn người Việt hình ảnh con sông
quê hiền hòa, trong mát.
3. Năm 1948, trong thời kháng chiến chống Pháp, Hoàng Cầm viết bài thơ “Bên kia
sông Đuống”, sau đoạn tả con sông với dòng nước trong và bờ cát trắng, nhà thơ bày tỏ tâm
trạng, cảm xúc: "Đứng bên này sông sao nuối tiếc / Sao xót xa như rụng bàn tay ". Chữ
"rụng bàn tay" đó quả là bất ngờ. Ai cũng có thể nói hay về lòng yêu mến của con người đối
với quê hương, nhưng nói như Hoàng Cầm thì mới cảm nhận được thật cụ thể và máu thịt
về quê hương đối với mình. Con sông quê đã như một phần thân thể (phần quan trọng,
không thể thiếu là bàn tay) gắn bó chung trong mỗi con người. Và con sông Đuống hay còn
gọi là sông Thiên Đức chảy qua tỉnh Bắc Ninh của Hoàng Cầm bỗng trở thành một sinh thể
có linh hồn, có tâm trạng và thân thiết, gần gũi xiết bao! Từ con sông cụ thể trên những
vùng quê khác nhau đã chảy thành sông thơ, sông nhạc trong văn hóa Việt . Từ văn hóa
có liên quan đến cảm hứng sáng tác, đến cảm hứng du lịch và nhiều ý tưởng khác cho cuộc
sống. Trong mỗi người chúng ta vừa có những con sông cụ thể mà ta gắn bó vừa có những
con sông bắt nguồn từ sự tiếp nhận văn hóa (qua văn chương, hội họa, âm nhạc ). Đi lên
vùng Tây Bắc, hay là chưa từng đến đây nhưng khi nhắc đến tên sông Đà, thế nào bạn cũng
hình dung bằng hình ảnh Nguyễn Tuân miêu tả "Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ
tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo " [6:161].
Văn chương, nghệ thuật đôi khi làm cho nhiều sự vật rất tầm thường trở nên lấp lánh, đáng
yêu hơn và hiệu quả mà nó đem lại chính là tình yêu đối với quê hương, là cảm xúc trong
tâm hồn. Tồn tại một cách bình đẳng và gắn kết với những con sông trên bản đồ địa lí, hành
chính của đất nước là những con sông trên bản đồ văn chương, nghệ thuật. Sông Đà của
Nguyễn Tuân, sông Đuống của Hoàng Cầm, sông Lấp của Tú Xương, sông Trà Bồng của Tế
Hanh, sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Côn của Nguyễn Mộng Giác, sông

Phường Lụa của Võ Hồng ; rồi sông Lô, sông ĐăKrông, sông Ba, sông Hiền Lương, sông La,
sông Mã, sông Tiền, sông Hậu, sông Vàm Cỏ Đông nổi danh trong nhạc, trong họa Có
con sông thơ, nhạc và cũng có những con sông lịch sử mãi mãi khắc ghi như sông Bạch
Đằng, sông Cầu, sông Gianh, sông Bến Hải Sông nước tự bản thân nó đã là gương mặt
quê hương
Sông quê, ao làng, giếng nước là nơi in hình mây trắng, trời trong, là nơi gần gũi để gửi
gắm biết bao tâm sự, nỗi niềm của người dân quê. Tế Hanh có con sông "xanh biếc" gắn
liền với tuổi nhỏ của mình. Hai mươi năm sống xa quê, dòng sông ấy vẫn "lai láng chảy" từ
nỗi nhớ của nhà thơ, và còn tiếp tục hóa thân trong tâm hồn hàng triệu người đọc. Có lẽ vì
nước dễ lây lan và có khả năng hóa giải mọi điều chăng? Ngày xưa cô Tấm đi xem hội ngẫu
nhiên đánh rơi chiếc giày xuống nước như gieo cầu hạnh phúc; còn nàng Vũ Thị, vợ Trương
Sinh, lại bỏ mình theo làn nước vì oan ức, tuyệt vọng. Các cô gái làng ai chẳng một lần
thầm ngắm dung nhan mình qua mặt ao, mặt sông, giếng nước hay thậm chí là chum đựng
nước Có biết bao mối lương duyên kết thành hay tan vỡ từ những lần gánh nước hoặc qua
sông, qua đò. Thi sĩ Hồ Dzếnh, tác giả của bài “Chiều” nổi tiếng, chính là kết quả của tình
yêu giữa người thanh niên Quảng Đông phiêu bạt với cô lái đò trên sông Ghép (Thanh Hóa).
Hồ Dzếnh nói rằng, nước Việt in hình trong thơ của ông:
Thơ tôi: đê thắm, bướm vàng
Con sông be bé, cái làng xa xa [1:45]
Nếu những con sông quê hiền hòa, be bé chảy xuôi dòng kết nối nên tình yêu quê hương thì
giếng nước và những mặt ao (nhất là ở vùng đồng bằng Bắc Bộ) chính là nơi thể hiện rõ
nhất đặc điểm của văn hóa làng và nếp sinh hoạt trong gia đình người Việt. Cái giới hạn
cong cong, tròn tròn khép kín, chật hẹp mà thăm thẳm ấy, luôn chứa đựng biết bao chuyện
buồn vui của đời người. Nhà có đám cưới, nhà có tang ma, có con nhỏ, có khách, dậy sớm
và thức khuya, hẹn hò và thề thốt, ồn ào hay lặng lẽ đều gắn với giếng nước, cầu ao.
Người ta trò chuyện, chia sẻ, giãi bày, tâm sự hay gây sự nhiều khi từ giếng nước, cầu ao
Nhà nghiên cứu văn hóa Toan Ánh ví cái ao, cái giếng đối với làng quê giống như chén nước
mắm không thể thiếu trong mỗi bữa cơm gia đình [1:45]. Diễn trình tiến của người Việt
cộng với những điều kiện tự nhiên khác biệt đã làm cho sự ràng buộc của "văn hóa làng"
càng vào miền trong càng lơi lỏng đi, chỉ có số phận chìm nổi của người phụ nữ ngày xưa thì

nơi nào cũng gợi xót xa, thương cảm. Nhiều khi họ phải lấy câu "phận gái mười hai bến
nước" để tự an ủi mình, hay chỉ biết làm một cái bến tĩnh tại, âm thầm chờ đợi: "Thuyền ơi
có nhớ bến chăng / Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền". Khi thuyền tình tan vỡ, họ
cũng chỉ biết oán trách con đò, dòng nước: "Cha mẹ cho em sang chuyến đò nghiêng. Đò
chùng chiềng đôi mạn em ôm duyên trở về "
Sông nước từ xưa đến nay đã chảy trong tâm hồn người Việt với biết bao buồn vui của một
đời người, với biết bao thăng trầm, đổi thay của thời cuộc. Người chưa một lần qua sông,
qua đò, chưa từng sống cạnh sông nước nhưng nghe câu hò của một chàng trai của vùng
sông nước phương : "Hò ơ Gió đưa cơn buồn ngủ lên bờ / Mùng ai có rộng, cho anh ngủ
nhờ một đêm!" thì cũng thấy rất thú vị và tâm hồn lâng lâng, bắt nhịp
Sông nước hóa thành giá trị văn hóa và có khả năng làm tươi mới tâm hồn con người
4. Cuối cùng, cần phải nói rằng sông nước cũng như tình yêu không phải là vĩnh
viễn, bất biến mà luôn vận động, đổi thay. Dù người xưa hay lấy sông núi để thề bồi
nhưng vẫn có chuyện "sông cạn, đá mòn" xảy ra. Câu nói nổi tiếng "Không ai có thể tắm hai
lần trên một dòng sông" của học giả Heraclite (530 - 470 tr.CN) xem ra vẫn là nỗi ám ảnh
chung cho con người hiện đại về bước đi của thời gian cùng với sự thay đổi liên tục của xã
hội và thế giới tự nhiên trong đó có sông nước. Nhiều giá trị văn hóa bị mất đi và thay thế
bằng những giá trị mới. Con người cần kiến thiết những công trình vĩ đại nhưng cũng phải
bảo vệ những cái gần gũi, thiết yếu là nguồn nước tự nhiên. Lũy tre và ao làng không thể
trói buộc con người hay ngăn cản sự đổi mới, nhưng sông nước, làng quê vẫn vô cùng
thiêng liêng trong tâm thức của người Việt . Quá trình đô thị hóa và cuộc sống công nghiệp
hiện nay đã khiến cho diện tích mặt nước tự nhiên hầu như đều bị thu hẹp lại. Nguy cơ mất
cân bằng trong môi trường sinh thái cũng như sự mai một, khô cạn của một nền văn hóa
sông nước đã có tự nghìn năm không phải chỉ là lời cảnh báo.
Nhắm mắt lại, ta không chỉ nghe tiếng gọi đò của Tú Xương từ con sông Lấp đã mất, mà còn
nghe âm vang, đồng vọng biết bao nhiêu tiếng gọi đò khác u hoài và da diết!

×