Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

MỐI QUAN hệ GIỮA lạm PHÁT và THÂM hụt NGÂN SÁCH NHÀ nước GIAI đoạn 2010 NAY bài 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.73 KB, 22 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG
KHOA:KINH TẾ

ĐỀ
TÀI
Mối quan hệ giữa lạm phát và thâm hụt ngân
sách nhà nước giai đoạn 2010 – nay
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Văn
Luân
Đà Nẵng, 2014
1
MỤC LỤC
QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC GIAI
ĐOẠN 2010 - NAY

Lời Mở Đầu
Lạm phát ở Việt Nam hiện nay là một vấn đề mang tính thời sự hết sức nóng bỏng,
được quan tâm đặc biệt của tất cả mọi người. Bởi vì, lạm phát liên quan đến nhiều vấn đề
quan trọng như tài chính, tiền tệ, ngân hàng,liên quan đến điều hành nhiều bộ ngành,liên
quan trực tiếp đến đời sống của người dân…
Chính vì vậy, tình trạng lạm phát ở nước ta hiện nay đang đặt ra đòi hỏi làm thế
nào kiểm soát được lạm phát, đưa tỷ lệ làm phát xuống thấp nhất ở mức có thể chấp nhận
được. Có nhiều nguyên nhân gây ra lạm phát, nhưng trong báo cáo này, tôi chỉ tập trung
phân tích mối quan hệ giữa bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) với lạm phát ở nước ta
hiện nay, nhằm tìm ra một số giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô của nền kinh tế.
Đặt Vấn Đề
• “Thâm hụt” nghĩa là thiếu đi do chi quá mức. Vậy khi các khoản chi trong
NSNN lớn hơn các khoản thu vào sẽ tạo ra một khoản chênh lệch gọi là thâm
hụt.
• Một quốc gia có thể tự phát hành tiền. Vậy tại sao họ lại không phát hành tiền


để bù đắp thâm hụt ngân sách? Và họ xử lý thâm hụt NSNN như thế nào?
Trả lời:
Trong lịch sử, phát hành thêm tiền đã từng là một cách tài trợ cho thâm hụt ngân sách,
nhưng do hậu quả nghiêm trọng của nó là dẫn đến lạm phát ở mức cao nên ngày nay
cách này hầu như không được chính phủ của bất cứ quốc gia nào sử dụng nữa. Thu của
chính phủ không bao gồm khoản đi vay. Đi vay chính là một cách mà chính phủ tài trợ
cho thâm hụt ngân sách.
2
I. Cơ sở lý
luận
1. Ngân sách nhà nước và vấn đề bội chi ngân sách nhà
nước
1.1. Ngân sách Nhà
nước
Căn cứ luật ngân sách số 01/2002/QH11 ngày 16/12/2002, được sửa đổi và

hiệu lực từ 01/01/2004 thì Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của
Nhà
nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện
trong
một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà
nước.
1.2. Bội chi ngân sách nhà
nước
1.2.1. Thế nào là bội chi ngân sách nhà
nước
Bội chi Ngân sách Nhà nước trong một thời kỳ (1 năm, 1 chu kỳ kinh tế) là
số chênh lệch giữa chi lớn hơn thu của thời kỳ đó.
Bội chi ngân sách Nhà nước có thể do ngoài tầm kiểm soát nhưng cũng có thể
nằm

trong chiến lược phát triển kinh tế của chính phủ nhằm thực hiện chính sách kinh tế
vĩ mô.
Theo thông lệ quốc tế, có thể tóm tắt báo cáo về Ngân sách Nhà nước hằng
năm
như
sau:
3
Bảng: Tóm tắt nội dung cân đối ngân sách nhà nước hằng
năm
Tổng Thu Tổng Chi
A.Thu thường xuyên (thuế, phí, lệ
phí).
B. Thu về vốn (bán tài sản nhà
nước).
D. Chi thường
xuyên.

E. Chi đầu
tư.
F. Cho vay thuần (= cho vay mới - thu
nợ
gốc).
C. Bù đắp thâm
hụt
- Viện
trợ.
- Lấy từ nguồn dự
trữ.
- Vay thuần (= vay mới - trả nợ
gốc).

Nguyên tắc cân bằng ngân sách là: A + B +C = D + E +
F
Công thức tính bội chi Ngân sách Nhà nước của một năm sẽ như
sau:
Bội chi Ngân sách Nhà nước = Tổng chi - Tổng thu = (D + E + F) - (A + B)
=
C
(khoản bù đắp thâm
hụt).
4
1.2.2. Phân Loại
Tài chinh công hiện đại phân loại thâm hụt tài chính (hay còn gọi là bội chi ngân
sách nhà nước thành 2 loại: thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ.
+Thâm hụt cơ cấu: Là các khoản thâm hụt được quyết định bởi những chính sách tùy biến
của chính phủ như quy định thuế suất, trợ cấp bảo hiểm xã hội hay quy mô chi tiêu
chogiáo dục, quốc phòng,
+Thâm hụt chu kỳ: là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kỳ kinh tế, nghĩa
là bởi mức độ cao hay thấp của saản lượng và thu nhập quốc dân. Ví dụ khi nền kinh tế
suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ dẫn đến thu ngân sách từ thuế giảm xuống trong khi
chi ngân sách cho cho trợ cấp thất nghiệp tăng lên.
Giá trị tính ra tiền của thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ được tính toán như sau:
+Ngân sách thực có: Liệt kê các khoản thu, chi và thâm hụt tính bằng tiền trong một giai
đoạn nhất định (thường là một quý hoặc một năm).
+Ngân sách cơ cấu: tính toán thu, chi và thâm hụt của chính phủ sẽ là bao nhiêu nếu nền
kinh tế đạt mức sản lượng tiềm năng.
+Ngân sách chu kỳ: Là chênh lệch giữa ngân sách thực có và ngân sách cơ cấu.
Việc phân biệt giữa ngân sách cơ cấu và ngân sách chu kỳ phản ánh sự khác nhau
giữa chính sách tài chính: chính sách ổn định tùy biến và chính sách ổn định tự động.
Việc phân biệt hai loại thâm hụt trên đây có tác dụng quan trọng trong việc đánh
giá ảnh hưởng thực sự của chính sách tài chính khi thực hiện chính sách tài chính mở

rộng hay thắt chặt sẽ ảnh hưởng đến thâm hụt ngân sách như thế nào giúp cho chính phủ
có những biện pháp điều chỉnh chính sách hợp lý trong từng giai đoạn của chu kỳ kinh tế
1.2.3. Nguyên nhân bội chi ngân sách nhà
nước
-Có 2 nhóm nguyên nhân cơ bản gây ra bội chi
NSNN:
+ Do tác động của chu kỳ kinh
doanh:
Khủng hoảng làm cho thu nhập của Nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại
tăng
lên
nhằm giải quyết những khó khăn mới về kinh tế và xã hội. Điều đó làm cho
mức
bội
chi NSNN tăng lên. Ở giai đoạn kinh tế phồn thịnh, thu của Nhà nước sẽ tăng
lên,
trong
khi chi không phải tăng tương ứng. Điều đó làm giảm mức bội chi NSNN.
Mức
bội chi
do tác động của chu kỳ kinh doanh gây ra được gọi là bội chi chu
kỳ.
+ Do tác động của chính sách cơ cấu thu chi của Nhà nước. Khi Nhà nước
thực
hiện
chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng sẽ làm tăng mức bội chi
NSNN.
Ngược
lại, thực hiện chính sách giảm đầu tư và tiêu dùng của Nhà nước thì mức
bội

chi
NSNN sẽ giảm bớt. Mức bội chi do tác động của chính sách cơ cấu thu chi gây
ra
được
gọi là bội chi cơ
cấu.
Trong điều kiện bình thường (không có chiến tranh, không có thiên tai
lớn, ),
tổng hợp của bội chi chu kỳ và bội chi cơ cấu sẽ là bội chi
NSNN.
1.2.4. Các giải pháp xử lý bội chi ngân sách nhà
nước
Để duy trì sự phát triển bền vững và duy trì được tốc độ tăng trưởng của nền
kinh
tế thì chắc chắn cần có sự can thiệp của nhà nước bằng các chính sách, trong đó
chính
sách tài khóa. Tuy nhiên do nguồn lực có hạn vì vậy đòi hỏi phải có chính
sách
tài
khóa phù hợp với yêu cầu phát triển thực tế và sự phát triển trong tương lai. Từ
sự
lựa
chọn này sẽ đưa ra mức bội chi "hợp lý", bảo đảm nhu cầu tài trợ cho chi tiêu
cũng
như đầu tư phát triển kinh tế, đồng thời bảo đảm cho nợ quốc gia ở mức hợp
lý.
Có nhiều cách để chính phủ bù đắp thiếu hụt ngân sách như tăng thu từ thuế,
phí,
lệ
phí; giảm chi ngân sách; vay nợ trong nước, vay nợ nước ngoài; phát hành tiền

để

đắp chi tiêu;…sử dụng phương cách nào, nguồn nào tùy thuộc vào điều kiện kinh tế và
chính sách kinh tế tài chính trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia. Tuy nhiên mỗi giải pháp
bù đắp bội chi ngân sách nhà nước đều có sự tác động đến nền kinh tế vĩ mô ………….
Về cơ bản, các quốc gia trên thế giới thường sử dụng các giải pháp chủ yếu
nhằm
xử lý bội chi NSNN như
sau:
Thứ nhất: Nhà nước phát hành thêm tiền. Việc xử lý bội chi NSNN có thể
thông
qua
việc nhà nước phát hành thêm tiền và đưa ra lưu thông. Tuy nhiên, giải pháp
này
sẽ
gây ra lạm phát nếu nhà nước phát hành thêm quá nhiều tiền để bù đắp bội
chi
NSNN. Đặc biệt, khi nguyên nhân bội chi NSNN là do thiếu hụt các nguồn vốn
đối
ứng để đầu tư cho phát triển gây "tăng trưởng nóng" và không cân đối với khả năng
tài
chính của quốc
gia.
Thứ hai: Vay nợ cả trong và ngoài nước. Để bù đắp thâm hụt NSNN, nhà nước

thể
vay nợ nước ngoài và trong nước. Việc vay nợ nước ngoài quá nhiều sẽ kéo
theo
vấn
đề phụ thuộc nước ngoài cả về chính trị lẫn kinh tế và làm giảm dự trữ ngoại

hối
quá
nhiều khi trả nợ, làm cạn dự trữ quốc gia sẽ dẫn đến khủng hoảng tỷ giá. Vay
nợ
trong
nước sẽ làm tăng lãi suất, và cái vòng nợ - trả lãi - bội chi sẽ làm tăng mạnh
các
khoản
nợ công chúng và kéo theo gánh nặng chi trả của NSNN cho các thời kỳ
sau
Thứ ba: Tăng các khoản thu, đặc biệt là thuế. Việc tăng các khoản thu, đặc biệt

thuế
có thể sẽ bù đắp sự thâm hụt NSNN và giảm bội chi NSNN. Tuy nhiên,
đây
không
phải là giải pháp cơ bản để xử lý bội chi NSNN, bởi vì nếu tăng thuế không
hợp
lý sẽ
dẫn đến làm giá cả hàng hóa tăng gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời
sống
nhân
dân, nghiêm trọng hơn sẽ triệt tiêu động lực của các doanh nghiệp trong
các
ngành
sản xuất kinh doanh và làm mất đi khả năng cạnh tranh của nền kinh tế đối
với
các
nước trong khu vực và trên thế
giới.

Thứ tư: Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công và chi thường xuyên từ
NSNN.
Đây là
một giải pháp tuy mang tính tình thế, nhưng vô cùng quan trọng với mỗi
quốc
gia khi
xảy ra bội chi NSNN và xuất hiện lạm phát. Triệt để tiết kiệm các khoản đầu

công có
nghĩa là chỉ đầu tư vào những dự án mang tính chủ đạo, hiệu quả nhằm tạo
ra
những đột
phá cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt những dự án chưa
hoặc
không hiệu
quả thì phải cắt giảm, thậm chí không đầu tư. Mặt khác, bên cạnh việc
triệt
để tiết kiệm
8
các khoản đầu tư công, những khoản chi thường xuyên của các cơ
quan
nhà nước
cũng phải cắt giảm nếu những khoản chi này không hiệu quả và chưa thực
sự
cần
thiết.

Thứ năm: Tăng cường vai trò quản lý nhà nước nhằm bình ổn giá cả, ổn
định
chính sách vĩ mô và nâng cao hiệu quả hoạt động trong các khâu của nền kinh tế.

Để
thực hiện vai trò của mình, nhà nước sử dụng một hệ thống chính sách và công
cụ
quản lý vĩ mô để điều khiển, tác động vào đời sống kinh tế - xã hội, nhằm giải
quyết
các mối quan hệ trong nền kinh tế cũng như đời sống xã hội, nhất là mối quan hệ
giữa
tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với giữ gìn
môi
trường v.v Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi lạm phát là một vấn nạn của
các
nước trên thế giới, vấn đề tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với quản lý
NSNN
nói chung và xử lý bội chi NSNN nói riêng có ý nghĩa vô cùng cấp
thiết.
2. Tổng quan về lạm phát Việt Nam
2.1. Khái niệm lạm
phát
Trong kinh tế học, thuật ngữ “lạm phát” được dùng để chỉ sự tăng lên theo
thời
gian của mức giá chung hầu hết các hàng hoá và dịch vụ so với thời điểm một
năm
trước đó. Như vậy tình trạng lạm phát được đánh giá bằng cách so sánh giá cả của
một
loại hàng hoá vào hai thời điểm khác nhau, với giả thiết chất lượng không thay
đổi.
Khi giá trị của hàng hoá và dịch vụ tăng lên, đồng nghĩa với sức mua của
đồng
tiền giảm đi, và với cùng một số tiền nhất định, người ta chỉ có thể mua được số
lượng

hàng hoá ít hơn so với năm
trước.
Có nhiều dạng lạm phát khác nhau, như lạm phát một con số
(single-digit
inflation), lạm phát hai con số (double-digit inflation), lạm phát phi mã
(galloping
inflation), siêu lạm phát (hyper
inflation)
9
2.2. Cách tính lạm
phát
2.2.1. Chỉ số giá tiêu dùng CPI
CPI được sử dụng một cách phổ biến trong việc đánh giá mức lạm phát . CPI đo
lường mức giá trung bình của 1 nhóm hàng hoá và dịch vụ cần cho tiêu dùng của các hộ
gia đình trong 1 giai đoạn nhất định. Chỉ số CPI được tính bằng cách so sánh giá trị hiện
tại và giá trị tại kỳ gốc của rổ hang hoá đã được chọn theo quy định:
Ưu điểm: Cho phép so sánh sự biến động mức giá tiêu dùng theo thời gian.
Nhược điểm: Không phản ánh được sự thay đổi trong cơ cầu tiêu dùng , đồng thời cũng
không phản ánh được sự thay đổi về chất lượng của hàng hoá dịch vụ.
Ở Việt Nam , CPI được tính cho toàn quốc và cho từng địa phương, chỉ số giá bình
quân được thông báo hàng tháng, tổ hợp của nhiều tháng và cho cả năm và được công bố
cùng chỉ số giá vàng và chỉ số đô la Mỹ.
2.2.2 Chỉ số giảm phát tổng sản phẩm quốc nội
Chỉ số giảm phát GDP là chỉ số tính theo phần trăm phản ánh mức giá chung của
tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong nước. Chỉ số điều chỉnh GDP cho biết một
đơn vị GDP điển hình của kỳ nghiên cứu có mức giá bằng bao nhiêu phần trăm so với
mức giá của năm cơ sở.
Ưu điểm: Phản ánh được sự thay thế giữa các hàng hoá, dịch vụ với nhau.
Nhược điểm: Chỉ phản ánh mức giá của những hàng hoá sản xuất trong nước (vì GDP
chỉ tính sản phẩm trong nước) , không phản ánh được sự giảm sút phúc lợi của người tiêu

dùng trong trường hợp phải tiêu dùng ít hơn một loại hàng nào đó.
2.2.3. Chỉ số lạm phát cơ bản
Chỉ số lạm phát cơ bản có cách tính tương tự như chỉ số CPI nhưng loại trừ một số
mặt hàng dễ thay đổi giá như lương thực và năng lượng.Hiện nay trên thế giới có nhiều
phương pháp đo lường lạm phát cơ bản nhưng có thể cho chúng vào 3 nhóm chính:
Nhóm phương pháp cơ học: Việc tính toán theo phương pháp này được thực hiện bằng
cách loại bỏ 1 số mặt hàng khỏi rổ CPI với nguyên tắc loại bỏ những hàng hoá đặc trưng
bởi những cú sốc mạnh ( có tính mùa vụ hay liên quan tới cung và giá cả không được
hình thành bởi thị trường).
Nhóm phương pháp thống kê: Loại bỏ tác động của những thay đổi thái quá của giá cả
ảnh hưởng tới tỷ lệ lạm phát chung. Nhóm mặt hàng bị loại trừ thay đổi theo từng tháng
và phụ thuộc vào độ biến động giá cả của hàng hoá đó. Các phương pháp thống kê phổ
biến nhất bao gồm pp bình quân thu gọn và pp bình quân gia quyền cộng dồn.
Phương pháp hồi quy: Sử dụng mô hình hồi quy trong kinh tế lượng để đưa các số liệu
thực tế của các biến số vào đánh giá lạm phát cơ bản.
2.3. Nguyên nhân lạm
phát
Theo lý thuyết kinh tế học hiện đại, lạm phát do ba nguyên nhân: cầu kéo, chi
phí
đẩy và quá thừa mức tiền cung ứng trong lưu thông. Tuy nhiên trong thực tế, lạm
phát
gia tăng còn do một số nguyên nhân nữa, thí dụ: Tâm lý của dân chúng, sự mất cân
đối
trong cơ cấu đầu

Căn cứ vào nguyên nhân gây ra lạm phát, người ta chia ra 2 loại lạm phát là
lạm
phát tiền tệ và lạm phát giả
cả.
Lạm phát tiền tệ được hiểu là do mức tiền cung ứng cho lưu thông vượt quá

mức
cần thiết dẫn đến tình trạng mất giá của đồng bản
tệ.
Lạm phát giả cả được hiểu là giá cả của hàng hóa và dịch vụ nói chung tăng lên
do
cầu lớn hơn cung (cầu kéo), hoặc do chi phí sản xuất hàng hóa và dịch vụ tăng lên
(chi
phí
đẩy).
Trong thực tế hai loại lạm phát nói trên ít khi xảy ra cùng một lúc, mà
thường
hoặc là lạm phát giá cả, hoặc là lạm phát tiền
tệ.
Nếu điều tiết lạm phát ở mức độ ổn định và hợp lý sẽ có tác dụng thúc đẩy sự
phát
triển của nền kinh tế, hay nói cách khác là điều kiện đủ cho tăng trưởng kinh tế,
điều
kiện cần là vấn đề của Chính phủ trong việc phát triển nguồn lực, vốn và công nghệ
kỹ
thuật Nghiên cứu bước đầu của IFM (2006) về mức độ lạm phát ở Việt Nam
với
các nước Đông Nam á cũng đã chỉ ra răng, mức lạm lạm phát tối ưu cho tăng
trưởng
kinh tế ở các nước vùng Đông Nam á, trong đó dự kiến lạm phát năm
2014 củaViệt Nam sẽ dừng dưới 3% (song trong năm 2015 lạm phát sẽ được kích lên
5% trong tầm kiểm soát để tạo thuận lợi cho nền kinh tế phát triển, đó là thông tin được
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biều tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam thường niên
2014) trong
khi
các nước phát triển chọn mức lạm phát gần 2% là mức tối ưu cho tăng

trưởng.
3. Mối quan hệ giữa bội chi ngân sách và lạm
phát
Chi ngân sách là một trong những công cụ chính sách quan trọng của Nhà
nước
nhằm tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Khi sản lượng của nền kinh tế
thấp
dưới mức sản lượng tiềm năng, thì Chính phủ có thể tăng mức chi ngân sách,
chấp
nhận bội chi để thúc đẩy hoạt động kinh tế. Vì vậy, bội chi ngân sách không chỉ
diễn
ra phổ biến đối với các nước nghèo, kém phát triển mà xảy ra ngay cả đối với
những
nước thuộc nhóm các nền kinh tế phát triển nhất (nhóm OECD). Đối với các
nước
đang phát triển, bội chi ngân sách thường để đáp ứng nhu cầu rất lớn về đầu tư cơ
sở
hạ tầng ban đầu như: Giao thông, điện, nước Nhiều nước phát triển và đang
phát
triển trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á cũng vẫn bội chi ngân sách. Tuy
nhiên
chính mức tăng chi tiêu của Chính phủ sẽ kéo theo hiệu ứng tăng giá ở một số các
lĩnh
vực hàng hóa và dịch vụ do gia tăng cầu dẫn đến tình trạng lạm phát do cầu kéo,
song
song với việc giá cả hàng hóa và dịch vụ tăng cũng sẽ kéo theo các chi phí sản
xuất
tăng dẫn đến lạm phát do chi phí
đẩy.
Mặt khác khi các nhu cầu về đầu tư cơ sở hạ tầng tăng cao mà ngân sách nhà

nước
lại thiếu hụt dẫn đến không đủ nguồn vốn đối ứng để đầu tư cho phát triển. Để bù
đắp
phần thiếu hụt, Nhà nước có thể sử dụng chính sách phát hành thêm tiền và đưa ra
lưu
thông. Tuy nhiên việc tăng chi tiêu của Chính phủ trong trường hợp này sẽ gây
"tăng
trưởng nóng" và không cân đối với khả năng tài chính của quốc gia. Nếu nhà
nước
phát hành thêm quá nhiều tiền để bù đắp bội chi NSNN thì sẽ gây ra tình trạng
lạm
phát tiền
tệ.
II. Thực tiễn tại Việt Nam giai đoạn
2010-đến nay
1. Thực trạng lạm phát tại Việt Nam giai đoạn
2010-đến nay
 Năm 2010
Tổng cục thống kê công bố CPI tháng 12 năm 2010 tăng 1,98%so với tháng
trước, đẩy lạm phát năm 2010 của cả nước lên 11,75% so vớitháng 12/2009. Nếu tính
bình quân theo cách tính mới của tổng cục thống kê, chỉsố giá năm 2010 so với năm
2009 tăng 9,19%.
So với tháng trước, chỉ số giá tháng 12 của nhóm hàng tăngcao nhất là lương
thực (tăng 4,67% so với tháng trước), tiếp đến là thực phẩm(tăng 3,28%), nhóm nhà ở
và vật liệu xây dựng (tăng 2,53% so với tháng trước). Duynhất ngành bưu chính viễn
thông giảm nhẹ 0,02% so với tháng trước.
Các ngành khác tăng không đáng kể: Ngành may mặc, mũ nón,giầy dép (tăng
1,81%), thiết bị và đồ dùng gia đình (tăng 0,86%), thuốc và dịchvụ y tế (0,41%), giao
thông (tăng 0,45%), nếu tháng trước ngành giáo dục tăngmạnh thì tháng này tăng
0,07% so với tháng 11.

Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ tăng lần lượt 5,43% và 2,86% sovới tháng trước.
Nếu so sánh với tháng 12/2009, chỉ số giá vàng tăng 30%, đô laMỹ tăng 9,68%.
 Năm 2011 - 2012
Tốc độ tăng giá so với tháng trước của 3 năm 2010-2011-2012
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 10/2012 tăng 0,4% so với tháng trước, 9/11 nhóm
hàng hóa và dịch vụ có mức giátăng, trong đó 4 nhóm mức giá tăng cao hơn mức bình
quân chung là“hàng hóa và dịch vụ khác” (+1,02%), “nhà ở, điện nước, chất
đốt”(+1,46%), “may mặc, mũ nón, giày dép” (+0,58%); “giao thông” (0,49%);
“nhómhàng lương thực, thực phẩm” tăng 0,3% nhưng trong đó hàng thực phẩm tăng
0,51%.2 nhóm hàng có mức giá giảm là “thiết bị và đồ dùng gia đình” (-0,44%),
“vănhóa, giải trí và du lịch” (-0,02%)
Biến động của một số nhóm mặt hàng chính trong tháng:Thịt heo(-0,20%), thịt bò
(-1,07%), thịt gia cầm (+0,21%), trứng các loại (+1,02%),thủy sản chế biến (+0,06%),
đậu hạt cácloại(+2,23%), rau các loại (+6,61%), đồ gia vị (+0,98%), bơ sữa
phomat(+0,14%), thủy sản tươi sống (-0,67%)… mức biến động của nhóm hàng thực
phẩmchủ yếu do hàng rau do trong tháng mưa nhiều đã ảnh hưởng đến sản lượng
hànghóa cung cấp. Ga chất đốt tăng 4,72%,giá dầu hỏa tăng 0,87%.
 Năm 2013
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Theo số liệu Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11 tăng
0,34% so với tháng trước và tăng 5,78% so với cùng kỳ. Có tới 9/11 nhóm hàng tăng
giá trong kỳ, mạnh nhất là hàng ăn và dịch vụ ăn uống, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
rổ hàng hóa tính CPI.
Nguyên nhân khiến giá mặt hàng này tăng cao là do mưa lũ ở miền Trung. Giá
hàng ăn và dịch vụ ăn uống tháng này ở khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền
Trung lần lượt tăng 0,78% và 0,77%, cao hơn hẳn mức tăng chung của cả nước và các
khu vực lớn như đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, đồng bằng sông
Cửu Long.
Các nhóm hàng cũng có mức tăng giá cao trong tháng là nhà ở và vật liệu xây
dựng, may mặc, mũ nón và giày dép. Nhóm giao thông tháng này giảm 0,34% do giá

xăng trong kỳ giảm 250 đồng một lít, sau khi đã có những đợt giảm giá liên tiếp gần
đây.
Tính từ đầu năm, chỉ số giá tiêu dùng cả nước tăng 5,5%, cách xa mục tiêu
Quốc hội thông qua là 7%. Với bối cảnh giá cả ít biến động lớn, Thủ tướng mới đây
cho hay chỉ số giá tiêu dùng cả năm ước chỉ tăng 6,2-6,3%, thấp nhất trong 10 năm
qua. Không thuộc rổ hàng hóa tính CPI, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ tháng này cũng
lần lượt giảm 1,04% và 0,1% so với tháng trước.
 Năm 2014
Diễn Biến CPI Qua Các Tháng Của Năm 2014
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Báo cáo của Tổng cục Thống kê công bố ngày 24/11/2014 cho thấy chỉ số CPI
của Việt Nam trong tháng này giảm 0,27% so với tháng 10.
Lần gần đây nhất chỉ số CPI của Việt Nam ghi nhận con số âm là tháng 3, khi
CPI ghi nhận mức giảm 0,44%.
Theo Tổng cục Thống kê, trong 11 nhóm hàng hóa cấu thành chỉ số CPI thì có
tới 4 nhóm hàng ghi nhận giá giảm so với tháng 10, trong đó nhóm giao thông giảm
mạnh nhất với mức 2,75% khi giá xăng dầu có 2 đợt điều chỉnh giảm trong tháng 11.
Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong rổ hàng hóa
tính CPI, cũng giảm nhẹ 0,03% so với tháng trước.
Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng và nhóm viễn thông kéo dài đà giảm của
tháng trước đó, tiếp tục giảm nhẹ trong tháng này với mức lần lượt là 0,74% và 0,01%.
Các nhóm hàng còn lại tăng nhưng mức tăng không đáng kể. Nhóm hàng ghi
nhận mức tăng cao nhất là may mặc, mũ nón và giày dép cũng chỉ tăng 0,34%.
Cũng theo báo cáo, chỉ số CPI mới chỉ tăng 2,08% so với cuối năm 2013 và
tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 11 tháng đầu năm, chỉ số CPI tăng 4,3% so với cùng kỳ năm 2013.
Giá vàng và Đôla Mỹ, không thuộc rổ hàng hóa tính CPI, có diễn biến trái chiều
trong tháng 11, với chỉ số giá vàng giảm 1,49% so với tháng 10, còn chỉ số giá Đôla
Mỹ lại tăng 0,23%. Tính chung 11 tháng, giá vàng đã giảm 12,17%, phản ánh giá vàng
trong nước và thế giới giảm mạnh trong những tháng gần đây.

2. Tình hình bội chi ngân sách tại Việt Nam giai đoạn
2010-đến nay
Bội chi ngân sách không phải là hoàn toàn tiêu cực . Nếu bội chi ở một mức
nhất định (dưới 5% so với tổng chi ngân sách trong năm )thì lại có tác dụng kích thích
sản xuất phát triển .Vì thế ở những quốc gia có nền kinh tế phát triển cao nhà nước
vẫn chỉ cố gắng thu hẹp bội chi ngân sách chứ không loại trừ nó hoàn toàn .Tuy nhiên,
với một nước đang phát triển như Việt Nam thì duy trì bội chi ở mức 5% tổng chi NS
cũng không phải là một điều dễ dàng.Thực tế, trong những năm qua, mặc dù hằng năm
chỉ tiêu bội chi mà nhà nước đưa ra luôn duy trì ở mức 5% so với GDP nhưng kết quả
bội chi vẫn ở mức cao.
Năm 2010, tỉ lệ bội chi so với GDP đạt 5,8%, giảm 0,4% so với mục chỉ tiêu
của Nghị quyết Quốc hội là 6,2% GDP. Mức bội chi ngân sách nhà nước năm 2010 là
119.700 tỉ đồng tương đương 6,2 GDP và đang thực hiện các chính sách giảm xuống
còn 5,95%
Bộ Tài chính cho biết năm 2010 các công cụ thuế, phí, lệ phí đối với hàng hóa
xuất, nhập khẩu đã được sử dụng linh hoạt để đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập
khẩu, khuyến khích sử dụng hàng hóa sản xuất trong nước để hạn chế nhập siêu.
Bên cạnh đó là việc đẩy mạnh triển khai thủ tục hải quan điện tử, hiện đại hóa thu
NSNN nhằm giảm thiểu chi phí, thời gian cho các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập
khẩu.
Bộ Tài chính xác định nhiệm vụ năm 2011 là tăng cường phối hợp đồng bộ, chặt chẽ
chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ và các chính sách khác nhằm tăng cường ổn
định kinh tế vĩ mô, thực hiện có hiệu quả các mục tiêu kinh tế - xã hội.
Cụ thể, năm 2011 tiếp tục thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường có sự quản
lý của Nhà nước. Chủ động thực hiện lộ trình điều chỉnh giá theo cơ chế giá thị trường
vào thời điểm thích hợp trong năm đối với giá cả một số hàng hoá, dịch vụ thiết yếu
Nhà nước còn định giá.
Tăng cường quản lý giá thông qua các biện pháp: kiểm soát các yếu tố hình
thành giá, đăng ký giá, kê khai giá; Kiên quyết ngừng việc đăng ký giá có mức tăng
giá không hợp lý.

Kiểm soát đối với một số hàng hoá, dịch vụ độc quyền, ngăn chặn và kiên quyết
xử lý hành vi liên kết và lạm dụng vị thế thị trường để tăng giá bất hợp lý, nhất là các
nguyên liệu đầu vào quan trọng của sản xuất và các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu.
Ta có thể nhận thấy rằng chi cho hoạt động thường xuyên là chiếm chủ yếu

có sự gia tăng khá mạnh, chiếm tỉ trọng trung bình là 75% /năm trong giai đoạn
2010 -2012 ; các khoản trả nợ vay cũng như viện trợ cũng chiếm đáng kể trong số chi
của
Chính phủ (nhằm trả các khoản nợ vay nhằm bù đắp cho thâm hụt ngân sách),
ngoài
ra
chi cho đầu tư phát triển (chi cho đầu tư xây dựng cơ bản là chủ yếu) tuy
không
phải
chiếm chủ yếu trong nguồn chi ngân sách nhưng lại có tốc độ tăng mạnh
qua các
năm
với tỉ trọng trung bình là 25%/năm trong giai đoạn 2010– 2012
3. Mối quan hệ giữa bội chi ngân sách và lạm
phát
Chính những yếu kém trong ngân sách (thu NSNN không đủ chi và bù đắp
thâm hụt ngân sách không chỉ phải vay trong và ngoài nước mà còn phải lấy từ nguồn
tiền phát hành) là một yếu tố quan trọng gây nên lạm phát Thực tế trong những năm
gần đây, mặc dù chúng ta đã kiểm soát nguồn bội chi NSNN từ hai nguồn là vay nước
ngoài và vay trong nước nên sức ép tiền cung ứng thêm ra thị trường là không có,
nhưng sức ép tăng chi tiêu của Chính phủ cho tiêu dùng thường xuyên và cho đầu tư
lại tăng lên. Giải pháp để kiểm soát bội chi NSNN và kiềm chế lạm phát, ông Lý nhấn
mạnh: Vấn đề đặt ra hiện nay là việc rà soát, cắt giảm chi tiêu NSNN chưa thật cần
bằng việc đề ra các tiêu chí, tiêu chuẩn để cắt bỏ, đình hoãn những công trình đầu tư
chưa thật bức bách, kém hiệu quả hoặc chưa khởi công. Đây là một trong những nhiệm

vụ cực kỳ khó khăn, nhưng với số NSNN hiện có ( với tình hình trợt giá như hiện nay)
thì sẽ không thể có điều kiện thực hiện được hết các dự án, công trình đã bố trí
Ngân sách nhà nước có mối quan hệ nhân quả với lạm phát. Thâm hụt ngân
sách quá mức có thể dẫn đến lạm phát cao. Đặc biệt nếu bù đắp thâm hụt ngân sách
bằng việc phát hành tiền sẽ tất yếu dẫn đến lạm phát. Trường hợp Việt Nam, nếu chính
phủ duy trì chính sách ngân sách chặt (thâm hụt không quá 2,5% GDP) thì dường như
không có gì lo ngại đối với lạm phát. Thực ra do giới hạn của ngân sách, phần lớn các
phần chi cho các dự án lớn của nhà nước được tài trợ thông qua các ngân hàng thương
mại quốc doanh. Trong khi đó dự trữ tiền mặt của các ngân hàng này được cung ứng
bổ sung từ ngân sách nhà nước. Do vậy cho dù ngân sách không thâm hụt lớn nhưng
với chính sách tín dụng mềm sẽ tạo ra áp lực lạm phát
III. Những vấn đề đặt ra về xử lý bội chi NSNN nhằm kiềm chế lạm phát
tại
Việt
Nam
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang có những biến động lớn như khủng hoảng
tài chính tại Mỹ, dấu hiệu suy thoái đang lan rộng từ các nước Châu Âu ( Anh,
Pháp, Ý, Đức… ) cho đến Nhật Bản, Hàn Quốc…, vấn đề kiềm chế lạm phát đang trở
nên cấp bách không chỉ riêng Việt Nam. Một số giải pháp đề xuất chủ yếu cho trường
hợp Việt Nam như sau :
Tiếp tục rà soát lại toàn bộ dự án, công trình có vốn đầu tư từ ngân sách nhà
nước, kiên quyết xử lí, đình chỉ thậm chí rút giấy phép xây dựng đối với các công
trình, dự án kéo dài, kém hiệu quả hoặc chưa thực sự cấp bách. Tránh tình trạng đầu tư
dàn trãi, lãng phí trong khi nguồn lực có hạn.
Tập trung, ưu tiên vào những công trình có tính cấp bách mang lại hiệu quả
kinh tế xã hội cao như : đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng kinh tế – kỹ thuật…
Tăng cường và đẩy mạnh hơn nữa công tác quản lý và giám sát chặt chẽ
trong việc phân bổ ngân sách Trung ương đến các địa phương, tránh tình trạng bội
ngân sách địa phương trở thành gánh nặng nợ cho ngân sách TW, triệt để thực hiện
chính sách có thu mới có chi

Về chi thường xuyên, tiếp tục rà soát, tổ chức lại tất cả các khâu hoạt động
của bộ máy vận hành quốc gia, đẩy mạnh công tác cổ phần hoá doanh nghiệp có vốn
nhà nước, giải thể những đơn vị làm ăn không có hiệu quả, lên lộ trình cắt giảm
các khoản chi chưa cần thiết để tập trung nguồn lực cho công tác khác quan trọng và
cấp thiết hơn.
KẾT LUẬN
-Nhìn lại toàn bộ quá trình nhiều năm qua cho thấy, mối quan hệ giữa
bội
chi NSNN với lạm phát có thể rút ra một số kết luận sau:
+ NSNN có mối quan hệ nhân quả với lạm phát. Nếu thâm hụt NSNN quá mức

thể dẫn đến lạm phát cao. Đặc biệt, nếu bù đắp thâm hụt NSNN bằng việc phát
hành
tiền sẽ tất yếu dẫn đến lạm
phát.
+Tăng chi NSNN để kích thích tiêu dùng và tăng cầu tiêu dùng, sẽ kích thích
đầu

phát triển và tăng đầu tư phát triển sẽ đưa đến tăng trưởng cao. Tuy nhiên, nếu
tăng
chi quá mức cho phép, tức là tăng chi đến mức làm cho thâm hụt NSNN quá cao và
để
bù đắp thâm hụt này phải đi vay nợ quá lớn thì sẽ đưa đến gánh nặng nợ. Kết
quả

đưa đến kích thích tiêu dùng (kích cầu quá mức) thì ở chu kỳ sau sẽ kéo theo
lạm
phát,
mà lạm phát cao lại làm giảm đầu tư phát triển và giảm đầu tư phát triển kéo
theo

giảm
tăng trưởng. Như vậy, thực tế ở đây là cần có liều lượng của chi tiêu NSNN
ở mức
cho
phép nhằm thúc đẩy đầu tư phát triển tăng lên và tiếp theo là đưa tăng
trưởng kinh
tế
lên cao mà không kéo theo lạm phát
cao.
22

×