Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

NHU cầu HÀNG hóa và DỊCH vụ CÔNG TRONG THỜI kỳ hội NHẬP KINH tế QUỐC tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.2 KB, 15 trang )

ĐỀ TÀI: NHU CẦU HÀNG HÓA VÀ DỊCH VỤ CÔNG TRONG
THỜI KỲ HỘI NHẬP KINH TẾ
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
“ Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa - Đô thị hóa ” là một xu thế tất yếu của mọi
quốc gia muốn đạt đến sự phát triển, và nó đóng một vai trò rất quan trọng đối với một
quốc gia đang phát triển như Việt Nam hiện nay. Cùng với sự phát triển của một quốc
gia thì việc sử dụng hàng hóa công có hiệu quả hay không? Một ví dụ điển hình như
hiện nay là di dân tự do một cách ồ ạt từ nông thôn ra thành thị dẫn tới quá tải về việc
làm, là mối nguyên nhân cho các tệ nạn mất an toàn xã hội; ô nhiễm môi trường; gây
mất mỹ quan đô thị và đặc biệt là sự gia tăng một cách chóng mặt của các phương tiện
cá nhân đã làm cho tắc đường, kẹt xe ngày càng nghiêm trọng, tạo nên nét vẽ xấu trong
bức tranh chung của đô thị. Trước những vấn đề nan giải như vậy thì nhà nước ta đã
can thiệp như thế nào để ổn định nền kinh tế đất nước. Những dịch vụ công mà nhà
nước cung cấp có đáp ứng đầy đủ được nhu cầu ngày càng tăng của người dân trong
thời kỳ tăng trưởng hiện nay hay không?
Với vấn đề nêu trên nên em quyết định chọn để tài : “Nhu cầu hàng hóa và dịch
vụ hàng hóa công trong thời kỳ hội nhập kinh tế” để đi sâu vào nghiên cứu phân tích
nhằm để hiểu biết rõ hơn về hàng hóa công.
Đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hàng hóa công và dịch vụ công.
Chương 2: Nhu cầu hàng hóa công và dịch vụ công trong thời kỳ tăng trưởng
kinh tế hiện nay.
Chương 3: Giải pháp
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước là người tham gia lớn nhất và đóng vai
trò quan trọng nhất, vừa làm quản lý hàng hóa công và vừa làm nhiệm vụ trực tiếp
trong việc cung cấp hàng hóa công cho xã hội. Mặc dù đất nước ta đổi mới nhưng sự
công bằng – hiệu quả trong cung cấp hàng hóa công là mục tiêu của Đảng và nhà nước
ta luôn phấn đấu. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn tồn tại sự bất bình đẳng trong phân phối
dịch vụ công giữa người giàu và người nghèo, giữa các địa phương và các vùng kinh tế


trong xã hội.
Nguyên nhân của sự bất bình đẳng là do thông tin bất cân xứng và do ngoại tác.
Do đó, yêu cầu đặt ra là phải làm sao để mọi người đều có quyền lợi bình đẳng trong
việc tiếp cận các hàng hóa công nhằm đạt được công bằng và hiệu quả trong cung cấp
hàng hóa công cho xã hội.
2
Chương 1: Cơ sở lý luận về hàng hóa công và dịch vụ hàng hóa công.
1. Hàng hóa công
1.1 Khái niệm
Hàng hóa công là loại hàng hóa mà tất cả mọi thành viên trong xã hội có thể sử
dụng chung với nhau. Việc sử dụng của người này không ảnh hưởng đáng kể đến việc
sử dụng của người khác.
1.2 Tính chất của hàng hóa công
Không thể loại trừ: tính chất không thể loại trừ cũng được hiểu trên giác độ
tiêu dùng, hàng hóa công cộng một khi đã cung cấp tại một địa phương nhất định thì
không thể hoặc rất tốn kém nếu muốn loại trừ những cá nhân không trả tiền cho việc sử
dụng hàng hóa của mình. Ví dụ: quốc phòng là một hàng hóa công cộng nhưng quân
đội không thể chỉ bảo vệ những người trả tiền và không bảo vệ những ai không trả tiền.
Đối lập với hàng hóa công cộng, hàng hóa cá nhân có thể loại trừ một cách dễ dàng, ví
dụ: bảo vệ rạp hát sẽ ngăn cản những người không có vé vào xem.
Không cạnh tranh: tính chất không cạnh tranh được hiểu trên góc độ tiêu
dùng, việc một cá nhân này đang sử dụng hàng hóa đó không ngăn cản những người
khác đồng thời cũng sử dụng nó. Ví dụ pháo hoa khi bắn lên thì tất cả mọi người đều
có thể được hưởng giá trị sử dụng của nó. Điều này ngược lại hoàn toàn so với hàng
hóa cá nhân: chẳng hạn một con gà nếu ai đó đã mua thì người khác không thể tiêu
dùng con gà ấy được nữa. Chính vì tính chất này mà người ta cũng không mong muốn
loại trừ bất kỳ cá nhân nào trong việc tiêu dùng hàng hóa công cộng.
1.3 Phân loại hàng hóa công
- Hàng hóa công thuần túy: Là loại hàng hóa công không thể định suất sử dụng
và việc định suất sử dụng là không cần thiết.

- Hàng hóa công không thuần túy: Là loại hàng hóa công có thể định suất sử
dụng, có thể loại trừ nhưng phải chấp nhận một khoản chi phí nhất định.
2. Dịch vụ công
2.1 Khái niệm
3
Dịch vụ công là dịch vụ do nhà nước trực tiếp đảm nhận việc cung ứng hay ủy
nhiệm cho các cơ sở ngoài Nhà nước thực hiện nhằm bảo đảm trật tự và công bằng xã
hội phục vụ các lợi ích chung thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức
và công dân
2.2 Đặc điểm
- Là những hoạt động có tính chất xă hội, phục vụ lợi ích chung của cả cộng
đồng.
- Là những hoạt động do các cơ quan công quyền hay những chủ thể được chính
quyền ủy nhiệm đứng ra thực hiện.
- Mọi người dân (bất kể đóng thuế nhiều hay ít, hoặc không phải đóng thuế) đều
có quyền hưởng sự cung ứng dịch vụ công ở một mức độ tối thiểu, với tư cách là đối
tượng phục vụ của chính quyền.
- Dịch vụ công là các hoạt động cung ứng cho xă hội những hàng hóa công
cộng.
- Để cung ứng các dịch vụ công, các cơ quan nhà nước và tổ chức được ủy
nhiệm cung ứng có sự giao tiếp với người dân ở những mức độ khác nhau khi thực
hiện cung ứng dịch vụ.
3. Các loại hình hàng hóa và dịch vụ công
- Dịch vụ công do các cơ quan hành chính cung ứng: giấy phép, công chứng,
- Dịch vụ sự nghiệp công: y tế, giáo dục, văn hóa, khoa học, công nghệ, do
các tổ chức sự nghiệp cung ứng.
- Dịch vụ kinh tế công ích: vệ sinh môi trường, nước sạch, giao thông công
cộng, do các DN hoạt động công ích cung ứng.
4. Cung cấp hàng hóa công cộng một cách có hiệu quả
Điều kiện Samuelson: muốn xác định mức cung cấp hàng hóa công cộng một

cách hiệu quả, cần xác định đường cung và đường cầu của nó. Mỗi cá nhân có một
ngân sách nhất định và có nhu cầu khác nhau về hàng hóa công cộng (G) và hàng hóa
cá nhân (X), nếu giá của hàng hóa công cộng là t (mức thuế cá nhân phỉ trả) và của
hàng hóa cá nhân là p thì đường ngân sách của cá nhân sẽ có dạng: I = pX + tG. Ở mỗi
mức thuế khác nhau, cá nhân sẽ có cầu về hàng hóa công cộng khác nhau và để tối đa
4
hóa lợi ích, mỗi cá nhân sẽ có tỷ suất thay thế biên giữa hàng hóa công cộng và hàng
hóa cá nhân bằng tỷ số giá giữa chúng (t/p). Đường cầu của mỗi cá nhân về hàng hóa
công cộng cũng chính là tỷ suất thay thế biên nên đường cầu tổng hợp của tất cả các cá
nhân là tổng tỷ suất thay thế biên. Mặt khác đường cung về hàng hóa công cộng phản
ánh chi phí biên mà xã hội phải bỏ ra để sản xuất nó và để tối ưu hóa lợi ích, đường
cung này cũng chính là tỷ suất chuyển đổi biên giữa hàng hóa công cộng và hàng hóa
cá nhân. Nhà kinh tế học Paul Samuelson đã chứng minh rằng, để hàng hóa công cộng
được cung cấp một cách hiệu quả thì tổng tỷ suất thay thế biên của các cá nhân phải
bằng tỷ suất chuyển đổi biên hay tổng giá trị mà các cá nhân đánh giá đối với đơn vị
hàng hóa công cộng cuối cùng bằng chi phí tăng thêm cho xã hội để sản xuất nó. Dó
chính là điều kiện Samuelson về cung cấp hiệu quả hàng hóa công cộng. Tuy vậy, kể cả
khi đã xác định được mức cung cấp hiệu quả thì việc thực thi chúng lại còn phụ thuộc
vào quá trình lựa chọn công cộng nên không phải lúc nào cũng đạt được mức hiệu quả
Cân bằng Lindahl: theo các điều kiện của hiệu quả Pareto, hàng hóa công cộng
sẽ được cung cấp một cách hiệu quả nếu tổng giá trị mà các cá nhân đánh giá đối với
đơn vị hàng hóa công cộng cuối cùng bằng chi phí tăng thêm đối với xã hội để cung
cấp nó. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là hàng hóa công cộng thuần túy không có thị trường
để trao đổi như hàng hóa cá nhân, nơi mà cân bằng thị trường do cung cầu quyết định,
do vậy việc xác định điểm cân bằng hiệu quả gặp khó khăn. Để giải quyết vấn đề xác
định mức cung cấp hàng hóa công cộng thuần túy một cách có hiệu quả, nhà kinh tế
học người Thụy Điển Erik Lindahl đã xây dựng một mô hình mô phỏng mô hình thị
trường cho hàng hóa công cộng gọi là cân bằng Lindahl. Mô hình này xác định nhu cầu
của mỗi cá nhân về một loại hàng hóa công cộng thuần túy tương ứng với mức thuế
(chính là giá của hàng hóa công cộng) ấn định cho cá nhân đó, mức cung cấp hàng hóa

công cộng thuần túy có hiệu quả là mức mà cầu của các cá nhân đều như nhau. Lưu ý
rằng mức cầu của mỗi cá nhân tương ứng với những mức thuế khác nhau nên cân bằng
Lindahl khác với cân bằng thị trường hàng hóa cá nhân khi mà ở đó cân bằng thị
trường ở mức giá như nhau đối với mọi cá nhân.
Thế nhưng mô hình cân bằng Lindahl trong thực tế lại vấp phải vấn đề kẻ đi xe
không trả tiền. Để xác định đúng mức cung cấp hàng hóa công cộng hiệu quả, các cá
5
nhân phải thực hiện nguyên tắc nhất trí và tự nguyện đóng góp đồng thời phải bộc lộ
một cách trung thực nhu cầu của mình về hàng hóa công cộng. Nếu một cá nhân biết
được số tiền mà cá nhân khác sẵn sàng đóng góp để có hàng hóa công cộng thì người
đó có thể bộc lộ nhu cầu của mình về hàng hóa công cộng cũng như số tiền sẵn sàng
đóng góp ít hơn thực tế. Trong trường hợp cực đoan, nếu một người biết rằng việc
mình có trả tiền hay không cũng không ảnh hưởng gì đến việc cung cấp hàng hóa công
cộng thì anh ta sẽ không trả tiền - hiện tượng kẻ đi xe không trả tiền. Nếu có rất ít kẻ đi
xe không trả tiền thì hàng hóa công cộng vẫn có thể được cung cấp một cách hiệu quả.
Trong những cộng đồng nhỏ, khi mà mọi cá nhân biết rõ nhau nên việc che giấu nhu
cầu về hàng hóa công cộng khó thực hiện thì dư luận, áp lực cộng đồng có thể buộc
mọi người đóng góp đầy đủ để có hàng hóa công cộng. Ví dụ: một xóm có thể yêu cầu
các hộ gia đình đóng góp để bê tông hóa con đường chung một cách khá dễ dàng. Tuy
nhiên, trong cộng đồng lớn thì vấn đề trở nên rất phức tạp, không thể hoặc phải tốn chi
phí rất lớn mới có thể loại trừ những kẻ đi xe không trả tiền. Đặc biệt nếu hàng hóa
công cộng do tư nhân cung cấp thì họ không có công cụ, chế tài để buộc những người
sử dụng trả tiền. Đây chính là nguyên nhân quan trọng khiến khu vực tư nhân không
muốn cung cấp hàng hóa công cộng. Vì thế, chính phủ phải đóng vai trò cung cấp hàng
hóa công cộng và thu các khoản đóng góp thông qua thuế.
Cùng với sự phát triển của công nghệ, tính chất không thể loại trừ ngày càng bị
hạn chế. Hiện tượng đi xe không trả tiền, vì thế, có thể ngăn chặn dễ hơn. Ví dụ, nhờ
sự phát triển của công nghệ truyền hình, ngày nay đài truyền hình có thể cung cấp dịch
vụ qua đường cáp thuê bao, qua đầu thu có cài mã khóa, nên có thể ngăn chặn tốt
những người không chịu mất tiền mà vẫn xem được truyền hình. Điều này giải thích tại

sao, gần đây, tư nhân ngày càng tham gia nhiều hơn vào việc cung cấp hàng hóa công
cộng.
6
5. Hàng hóa công cộng có thể loại trừ nhưng với phí tổn rất lớn
Hàng hóa công cộng có chi phí giao dịch lớn
Có những hàng hóa công cộng mà chi phí để duy trì hệ thống quản lý nhằm loại
trừ bằng giá (gọi là chi phí giao dịch) rất tốn kém, ví dụ chi phí để duy trì hệ thống các
trạm thu phí trên đường cao tốc, thì có thể sẽ hiệu quả hơn nếu cung cấp nó miễn phí
và tài trợ bằng thuế. Tuy vậy, để cân nhắc việc này cần so sánh tổn thất phúc lợi xã hội
trong hai trường hợp. Đồ thị bên phải mô tả việc lựa chọn này. Giả sử hàng hóa công
cộng có chi phí biên để sản xuất là c và do phát sinh thêm chi phí giao dịch nên giá của
nó bị đẩy lên tới p. Mức cung cấp hàng hóa cộng cộng hiệu quả nhất là khi chi phí biên
bằng lợi ích biên nghĩa là Qo. Tuy nhiên do giá bị đẩy lên p bởi chi phí giao dịch nên
chỉ còn Qe người sử dụng hàng hóa, xã hội bị tổn thất một lượng phúc lợi bằng diện
tích tam giác ABE. Thế nhưng nếu hàng hóa được cung cấp miễn phí thì sẽ có Qm
người sử dụng chứ không phải Qo. Trong trường hợp này lợi ích biên (chính là đường
cầu) nhỏ hơn chi phí biên c nên xã hội cũng bị tổn thất một lượng phúc lợi bằng diện
tích hình tam giác EFQm do tiêu dùng quá mức. Trong trường hợp này chính phủ
muốn quyết định xem nên cung cấp hàng hóa công cộng miễn phí hay thu phí cần phải
so sánh tổn thất phúc lợi xã hội, nếu tổn thất do tiêu dùng quá mức nhỏ hơn tổn thất
trong trường hợp tiêu dùng dưới mức hiệu quả thì cung cấp miễn phí và ngược lại. Tuy
nhiên việc cung cấp hàng hóa cộng cộng miễn phí hay thu phí hoàn toàn không liên
quan đến khu vực công cộng hay khu vực tư nhân sẽ sản xuất nó. Nếu chính phủ thấy
7
rằng một hàng hóa công cộng nào đó cần được cung cấp miễn phí thì chính phủ hoàn
toàn có thể đặt hàng khu vực tư nhân sản xuất rồi cung cấp nó.
8
Chương 2: Nhu cầu hàng hóa và dịch vụ hàng hóa công trong thời kỳ
Hội nhập kinh tế
2.1 Nhu cầu hàng hóa và dịch vụ hàng hóa công

Trong cuộc sống mỗi người luôn luôn có những nhu cầu khác nhau. Đặc biệt đối
với thời kỳ kinh tế tăng trưởng như hiện nay thì nhu cầu của người dân ngày càng tăng
lên. Mỗi người chúng ta ai cũng mong muốn có một hệ thống giáo dục tiên tiến dưới sự
quan tâm của Nhà nước, một dịch vụ chăm sóc y tế phục vụ tối đa lợi ích của người
dân, một hệ thống giao thông công cộng an toàn,….Trước những nhu cầu thực tế như
vậy thì khu vực dịch vụ công ở nước ta ngày càng rất rộng lớn và đa dạng, quy mô và
phạm vi của khu vực hiện nay đang được đặt chung với khu vực hành chính.
Ở nước ta hiện nay, những tổ chức cung ứng các dịch vụ công chủ yếu như: giáo
dục và đào tạo, y tế, đang được quản lý giống như cơ quan hành chính công quyền.
Điều đó làm phát sinh nhiều mâu thuẩn và bất cập:
+ Ngân sách nhà nước có hạn, mặc dù đã danh kinh phí ngày càng nhiều hơn
cho các dịch vụ xã hội cơ bản, nhưng không thể đáp ứng được nhu cầu tăng lên cả về
nhanh chóng số lượng và chất lượng.
+ Phí dịch vụ khống chế ở mức thấp(chỉ thu một phần phí dịch vụ), cho nên
trong thực tiễn vẫn còn bao cấp(theo giá thấp) cho cả những người khá giỏi có khả
năng thanh toán, trong khi phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt, số người khá giỏi có
khả năng thanh toán ngày càng đông.
+ Các tổ chức cung ứng dịch vụ công không được giao quyền tự chủ về mặt tài
chính, nhân sự, nên không phát huy được tính tự chủ động, không đề cao được trách
nhiệm của các tổ chức đó.
+ Nhân viên hoạt động trong các tổ chức cung ứng dịch vụ công lam việc theo
chế độ biên suốt đời, hưởng cùng một hệ thống tiền lương như công chức cơ quan nhà
nước, nên không phát huy được tính tích cực, sáng tạo của họ.
2.2 Thực trạng cung cấp hàng hóa công ở Việt Nam hiện nay
Do hiện tượng “kẻ ăn không” trở thành phổ biến và thị trường tư nhân không
thể cung cấp được những hàng hóa công cộng như quốc phòng, đê điều, an ninh trật tự
xă hội, hệ thống luật pháp… thì việc nhà nước phải đứng ra trực tiếp cung cấp các
hàng hóa này được coi là đương nhiên. Chỉ có trong trường hợp như vậy, xă hội mới
9
có được những hàng hóa quan trọng, cần thiết. Những hàng hóa như đê điều, quốc

phòng… không thể cung ứng được trong khuôn khổ các giao dịch tự nguyện tư nhân.
Việc cung ứng chúng luôn gắn với nhà nước dưới các hình thức khác nhau. Bằng cách
thu thuế để bù đắp các chi phí cung ứng hàng hóa, nhà nước có thể cung cấp hàng hóa
miễn phí cho dân chúng, do đó, không phải bận tâm về hiện tượng “kẻ ăn không”.
Đối với một số trường hợp khác, thị trường tư nhân có thể cung cấp được hàng
hóa công cộng song thường lại cung cấp ở mức không hiệu quả. Như trường hợp cầu,
đường lúc vắng người, việc thu lệ phí cầu, đường của phương thức cung cấp tư nhân
làm cho mức tiêu dùng không thể đạt đến điểm hiệu quả (cầu đường không được sử
dụng hết công suất mà nó có thể phục vụ xă hội). Để sữa chữa khuyết tật này của thị
trường, nhà nước cũng phải đứng ra cung cấp hàng hóa thay cho thị trường. Việc nhà
nước đảm nhiệm việc cung cấp hệ thống kết cấu hạ tầng của nền kinh tế chính là xuất
phát từ lư do này.
Cần lưu ư rằng, việc nhà nước phải đứng ra cung cấp hàng hóa công cộng
không đồng nghĩa với việc nhà nước đứng ra sản xuất trực tiếp các hàng hóa này.
Trong nhiều trường hợp (ví dụ cung cấp cầu, đường), nhà nước chỉ là người bỏ tiền ra
để mua sắm hàng hóa. Bằng cách đặt hàng cho khu vực tư nhân, nhà nước không cần
phải trực tiếp sản xuất hàng hóa.
Cung cấp thông tin: Có hai hướng để nhà nước khắc phục sự thiếu hụt thông tin
trên thị trường: một là cung cấp thông tin bổ sung cho thị trường; hai là đưa ra những
quy chế về cung cấp thông tin để điều tiết các giao dịch trên thị trường tư nhân.
Việc nhà nước tổ chức thu thập hay sản xuất thông tin để cung cấp thông tin bổ
sung cho thị trường thường liên quan đến những thông tin có thể sử dụng chung cho
nhiều người. Thông tin ở đây cũng là một loại hàng hóa công cộng. Thông tin về dự
báo thời tiết chẳng hạn là một loại thông tin quan trọng thường được nhà nước cung
cấp miễn phí. Thông tin về t́nh hình kinh tế vĩ mô, về một thị trường xuất khẩu mới
(ví dụ thị trường Hoa Kỳ), về chất lượng nhiều loại hàng hóa (ví dụ nhà nước đóng
dấu chất lượng cho thực phẩm đă được kiểm dịch hay kiểm tra chất lượng)… cũng là
những loại thông tin mà nhà nước hay cung cấp. Nhờ những thông tin loại này, các
giao dịch thị trường diễn ra dễ dàng hơn, hiệu quả hơn.
10

Sự thiếu hụt thông tin trên thị trường còn có thể khắc phục bằng cách nhà nước
đề ra những quy chế về cung cấp thông tin cho những thị trường cụ thể nhất định.
Không có những quy định cưỡng bức này, những nhà sản xuất tư nhân có thể không
chịu bỏ ra những khoản chi phí lớn để hoàn thành nghĩa vụ cung cấp thông tin của
mình. Việc nhà nước buộc mọi nhà sản xuất phải in nhăn, mác hàng hóa với những
thông tin nhất định là một trong những quy đinh như vậy. Không phải ngẫu nhiên mà
khi mua dược phẩm, người tiêu dùng thường nhận được những bản chỉ dẫn khá chi
tiết về cách thức sử dụng sản phẩm. Khi tham gia vào việc niêm yết trên thị trường
chứng khoán, công ty phải công bố các thông tin cơ bản về t́nh hình kinh doanh và
trạng thái tài chính của doanh nghiệp. Những ứng xử trong việc cung cấp thông tin
như thế đều liên quan đến những quy định của nhà nước.
Mặc dù nhà nước đứng ra cung ứng dịch vụ công nhưng:
Hiệu quả cung ứng hàng hóa công thấp
Các hàng hóa công chi tiêu đủ về số lượng mà chất lượng còn thấp do khối
lượng hàng hóa công Nhà nước tiếp nhận cung ứng trực tiếp còn quá lớn trong khi hệ
thống cung cấp hàng hóa công còn nhiều hạn chế về năng lực quản lý, điều hành và tổ
chức thực hiện.
Sự độc quyền của các cơ quan nhà nước trong việc cung ứng hàng hóa công là
một nguyên nhân quan trọng dẫn đến hiệu quả cung ứng hàng hóa công thấp. Tình
trạng độc quyền đã làm tăng tính quan liêu. Hoạt động dưới sự bao bọc của nhà nước,
các cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm cung cấp hàng hóa công chưa phải đối diện với
cạnh tranh và nguy cơ phá sản nên chưa có động lực đẻ giảm chi phí, hạ giá thanh,
nâng cao hiệu quả cung ứng hàng hóa công.
Bộ máy hành chính nhà nước còn nhiều bất cập
Cơ cấu bộ máy hành chính nhà nước đang bộc lộ nhiều điểm yếu không phù
hợp với chức năng của nền hành chính nhà nước trong điều kiện kinh tế thị trường và
do đó không có khả năng cung ứng những hàng hóa dịch vụ mà thực tế đòi hỏi. Hệ
thống thể chế hành chính còn chưa đồng bộ, còn chồng chéo và thiếu thống nhất, thủ
tục hành chính trên nhiều lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp, trật tự kĩ cương chưa
nghiêm.

11
Chương 3: Một số giải pháp nhằm đổi mới cung cấp dịch vụ công
của Nhà nước ta hiện nay
3.1 Đổi mới nhận thức về cung ứng dịch vụ công của Nhà nước.
3.1.1 Đổi mới tư duy quản lý theo kiểu mệnh lệnh
Để nâng cao chất lược dịch vụ công do Nhà nước cung ứng thì một trong những
yêu cầu quan trọng đặt ra hiện nay đó là đổi mới tư duy cung ứng dịch vụ công, cần
phải chuyển từ tư duy quản lý hành chính theo kiểu mệnh lệnh dang quản lý theo mô
hình thị trường; tư duy nền hành chính quản lý sang nền hành chính phục vụ.
3.1.2. Xây dựng nhận thức đúng đắn về dịch vụ công và cung ứng dịch vụ
công của nhà nước
Một trong những hạn chế làm giảm chất lượng dịch vụ công ở nước ta trong
những năm vừa qua đó là do sự nhận thức chưa đúng về dịch vụ công và vai trò của
Nhà nước trong cung ứng dịch vụ công. Những hạn chế trong đội ngũ cán bộ, công
chức trong bộ máy nhà nước, trong nhân dân và thậm chí cả trong những người làm
công tác nghiên cứu và hoạch định chính sách.
3.2. Đổi mới bộ máy cung ứng dịch vụ công
12
3.2.1. Thực hiện việc sắp xếp lại bộ máy cung cấp dịch vụ công, phân định
rõ chức năng, thẩm quyền các cơ quan cung cấp dịch vụ công
Hiện nay, việc bố trí chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, các tổ
chức sự nghiệp vẫn chưa thực sự rõ ràng, rành mạch dẫn đến tình trạng có những lĩnh
vực thì buông lỏng quản lý, có những lĩnh vực quản lý chồng chéo, không giám sát và
điều tiết được hoạt dộng cung ứng dịch vụ công. Do đó, thực hiện sắp xếp lại bộ máy,
phân định lại chức năng, thẩm quyền của các chủ thể cung ứng dịch vụ công là hết sức
cần thiết.
Để thực hiện sắp xếp lại bộ máy cung ứng dịch vụ công, trước hết cần phải dựa
trên chức năng và thẩm quyền của từng nhóm cơ quan, việc sắp xếp này cần tuân thủ
các nguyên tắc sau:
- Tính hiệu quả của việc cung ứng dịch vụ công : sẽ giao việc cung ứng dịch vụ

công cho chủ thể cung ứng hiệu quả nhất.
- Những dịch vụ công thiết yếu, liên quan trực tiếp đến đời sống hằng ngày của
người dân thì chuyển giao cho cấp cơ sở cung ứng.
- Nhứng dịch vụ công phức tạp, đòi hỏi tính chuyên môn cao thì cần giao cho các
cơ sở có đủ năng lực cung ứng dưới sự giám sát chặt chẽ của Nhà nước và cộng
đồng dân cư.
- Các dịch vụ công có ảnh hưởng đến chính sách, sự phát triển của quốc gia thì do
cơ quan hành chính cấp trung ương cung ứng, đến địa phương thì do địa phương
cung ứng.
- Những dịch vụ công thuộc lĩnh vực chuyên môn của bộ, ngành nào quản lý thì
bộ ngành đó có trách nhiệm cung ứng và hướng dẫn cho các cơ quan chuyên
môn cấp dưới cung ứng theo sự phân cấp quản lý.
3.3.2. Đa dạng hóa các hình thức cung ứng dịch vụ công
Một là, phối hợp với tư nhân trong cung ứng dịch vụ công.
Hai là, tư nhân hóa các hoạt động cung ứng dịch vụ công.
Ba là, mô hình cổ phần hóa.
13
KẾT LUẬN
Trên cơ sở những vấn đề lý luận chung, từ sự khảo sát tình hình cung ứng dịch
vụ công của Nhà nước đề tài đã đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng dịch vụ công do Nhà nước cung ứng. Đó là vấn đề như: xây dựng nhận
thức đúng đắn về vai trò của nhà nước trong cung ứng dịch vụ công; tăng cường quản
lý nhà nước đối với cung ứng dịch vụ công,…
Hoạt động cung ứng dịch vụ công của Nhà nước thể hiện bản chất của chế độ
nhà nước,đây là hoạt động không thể thiếu được ở mọi quốc gia. Hoạt động này thể
hiện năng lực quản lý xã hội của Nhà nước, mức độ quan tâm của Nhà nước đối với
công dân, do đó nghiên cứu vấn đề này để có nhận thức và hành động đúng đắn là hết
sức cần thiết, nó góp phần khơi gợi các nguồn lực xã hội để đáp ứng tốt hơn nhu cầu
và lợi ích của nhân dân, để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước và từng chính sách phát triển như Đảng Cộng sản Việt Nam ta đã đề ra.

14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Văn Ân, Hoàng Thu Hòa – đồng chủ biên (2006), Đổi mới cung ứng dịch vụ
công ở Việt Nam, Nxb. Thống kê, Hà Nội
15

×