Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

giải pháp tăng cường xuất khẩu gạo của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (716.13 KB, 99 trang )

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp này là sản phẩm của chính tôi
dưới sự nỗ lực của bản thân cùng với sự hướng dẫn tận tình của T.S Đào
Hồng Quyên và cán bộ hướng dẫn trong Cục Quản lý giá - Bộ Tài Chính. Đây
là thành quả của sự nỗ lực và tìm tòi nghiên cứu của tôi, không sao chép bất
cứ tài liệu nào, nguồn số liệu được sử dụng là hoàn toàn chính xác, không có
sự bịa đặt nào.
Nếu có bất kỳ sự sao chép nào tôi xin chịu trách nhiệm trước Hội đồng
kỷ luật của khoa và nhà trường.

Hà Nội, ngày 20 tháng 05 năm 2014
Sinh viên


Nghiêm Trung Kiên










ii

MỤC LỤC


LỜI CAM ĐOAN i
MỤC LỤC ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT iv
DANH MỤC BẢNG SỬ DỤNG v
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ SỬ DỤNG v
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU VÀ HOẠT ĐỘNG XUẤT
KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM 4
1.1. Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu với
nền kinh tế 4
Việt Nam sang thị trường Lào, Campuchia… 4
1.2. Đặc điểm của hoạt động sản xuất lúa gạo phục vụ xuất khẩu của Việt
Nam 6
1.2.1.Đặc điểm về lao động, sản xuất, đất đai, thời tiết, khí hậu của Việt
Nam và khả năng cung ứng thóc gạo 6
1.2.2. Đặc điểm về thị trường giá cả 10
1.3.Các nhân tố quốc gia và quốc tế tác động đến khả năng xuất khẩu gạo
của Việt Nam 11
1.3.1. Nhóm nhân tố trực tiếp: 11
1.3.2. Nhóm nhân tố gián tiếp 15
1.4. Kinh nghiệm xuất khẩu lúa gạo của Thái Lan và bài học cho Việt
Nam 16
1.4.1. Kinh nghiệm của Thái Lan 16
1.4.2. Bài học cho Việt Nam 19
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM TỪ
NĂM 2003 ĐẾN NAY 21
2.1. Tình hình sản xuất lúa gạo ở Việt Nam 21
iii

2.1.1. Tình hình đầu tư và thực trạng phát triển năng lực ngành sản xuất lúa

gạo 21
2.1. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam tù 2003 đến nay 31
2.2.1. Sản lượng xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu gạo qua các năm 31
2.2.2. Chất lượng và chủng loại gạo xuất khẩu 35
2.2.3. Thị trường xuất khẩu gạo 36
2.2.4.Năng lực cạnh tranh và vị thế của Việt Nam trong xuất khẩu gạo 41
2.3. Đánh giá kết quả hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam 54
2.3.1.Kết quả đã đạt được trong thời gian qua 54
2.3.2. Những hạn chế còn tồn tại 57
2.3.3. Nguyên nhân của những tồn tại hạn chế 62
Chương 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT
NAM 65
3.1. Định hƣớng xuất khẩu gạo Việt Nam trong những năm tới 65
3.1.1. Mục tiêu 65
3.1.2. Phương hướng chủ yếu để thúc đẩy xuất khẩu 66
3.3. Những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo Việt Nam 69
3.3.1. Nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu và xây dựng thương hiệu gạo quốc
gia 69
3.2.2. Giảm thiểu chi phí và cạnh tranh giá cả 75
3.2.3. Giải pháp về kênh phân phối xuất khẩu và đẩy mạnh thượng mại quốc
tế 78
3.2.4. Giải pháp về chính sách vĩ mô 83
3.2.5. Các giải pháp khác 86
KẾT LUẬN 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 92


iv

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


DN
Doanh nghiệp
DNNN
Doanh nghiệp Nhà nước
DNTN
Doanh nghiệp tư nhân
ĐBSCL
Đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSH
Đồng bằng sông Hồng
EU
Liên minh châu Âu
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
WTO
Tổ chức Thương mại thế giới
TW
Trung ương













v

DANH MỤC BẢNG SỬ DỤNG

Bảng 2.1: Sản lượng lúa cả năm phân theo địa phương
24
Bảng 2.2: Diện tích và sản lượng lúa theo mùa vụ
25
Bảng 2.3: Năng suất lúa cả năm phân theo địa phương
28
Bảng 2.4: Kết quả xuất khẩu gạo qua các năm
33
Bảng 2.5: Tỷ lệ một số loại gạo xuất khẩu chính của Việt Nam
37
Bảng 2.6:Cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam qua các năm
39
Bảng 2.7: Giá gạo Việt Nam và Thái Lan qua các năm
45
Bảng 2.8: Tỷ lệ tổn thất bình quân sau thu hoạch lúa của Việt Nam
52


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ SỬ DỤNG

Sơ đồ2.1: Sơ đồ kênh lưu thông lúa gạo ở Việt Nam
23
Biểu đồ 2.1: Cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam năm 2012
40







1

LỜI MỞ ĐẦU
Lúa gạo là ngành sản xuất truyền thống của Việt Nam, xuất khẩu gạo
chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, là nguồn thu ngoại tệ quan
trọng của đất nước vì kim ngạch xuất khẩu gạo hiện đang đứng đầu trong kim
ngạch xuất khẩu hàng nông sản. Sản phẩm gạo của nước ta do hàng triệu hộ
nông dân sản xuất ra, là một mặt hàng có vị trí hết sức quan trọng bảo đảm an
ninh lương thực quốc gia. Từ chỗ là nước nhập khẩu gạo, Việt Nam đã vươn
lên sản xuất đủ ăn, có thừa để xuất khẩu và xuất khẩu với số lượng đứng thứ
hai trên thế giới. Do có những lợi thế cạnh tranh nên nhiều năm qua dù phải
đối mặt với những khó khăn thách thức nhưng ngành trồng lúa của Việt Nam,
hạt gạo của Việt Nam vẫn cạnh tranh được trên thị trường thế giới. Tuy nhiên,
cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật; nhu cầu tiêu dùng của thị trường
thế giới và thị trường trong nước đòi hỏi ngày càng cao hơn về chất lượng,
tiện lợi trong tiêu dùng; sự cạnh tranh ngày càng gay gắt . Thực tế ấy đã đặt ra
cho mỗi chủ thể của nền kinh tế nói chung, các chủ thể kinh doanh gạo nói
riêng nếu muốn tồn tại, đứng vững và phát triển trong cuộc cạnh tranh đó phải
có chiến lược cạnh tranh thích hợp; phát huy lợi thế so sánh nâng cao sức
cạnh tranh… Đó là những yêu cầu bức xúc cả về lý luận và thực tiễn đòi hỏi
phải có lời giải đáp vừa mang tính khoa học vừa đảm bảo tính khả thi. Căn cứ
vào tình hình và yêu cầu thực tiễn, việc khai thác triệt để hơn nữa những tiềm
năng to lớn của đất nước trong sản xuất cũng như tìm kiếm cách thức tiếp cận
thị trường, giữ vững và phát triển thị phần mặt hàng gạo có hiệu quả tối ưu
luôn là vấn đề đòi hỏi sự nghiên cứu và giải quyết. Đó không chỉ là vấn đề mà

xã hội đang quan tâm, là vấn đề cấp bách trước mắt mà còn là vấn đề lâu dài
bảo đảm sự sống còn của ngành; là vấn đề rất lớn của nông dân, nông nghiệp,
nông thôn khi hội nhập kinh tế quốc tế. Với mục đích tìm hiểu những vấn đề
lớn liên quan đến xuất khẩu gạo trong giai đoạn hiện nay và thử tìm một số
giải pháp để thúc đẩy xuất khẩu gạo Việt Nam, em đã quyết định lựa đề tài :
“Giải pháp tăng cường xuất khẩu gạo của Việt Nam”
2

1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận chung xuất khẩu, phân tích thực trạng
sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh của lúa gạo Việt Nam, đưa ra
quan điểm và những giải pháp cơ bản để nâng cao sức cạnh tranh của lúa gạo
Việt Nam có tính khả thi trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Một số lý luận chung về cạnh tranh để nhằm làm rõ một số vấn đề cơ bản
của xuất khẩu. Sự cần thiết phải tăng cường xuất khẩu lúa gạo Việt Nam
+ Thực trạng về hoạt động sản xuất và xuất khẩu gạo
+ Quan điểm và những giải pháp cơ bản, nhằm phát huy lợi thế so sánh, nâng
cao xuất khẩu của gạo Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới.
2. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu.
+ Phạm vi nghiên cứu của đề tài là: Lấy thời điểm từ năm 2003 đến nay làm
thời gian nghiên cứu. Tuy nhiên số liệu về xuất khẩu và sản xuất lúa gạo chỉ
dừng ở năm 2012 do việc khó khăn trong thu thập số liệu.
+ Đối tượng nghiên cứu là hoạt động xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp
Việt Nam.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp được vận dụng tổng
hợp là phương pháp thu thập thông tin số liệu từ các nguồn, nghiên cứu
thực tiễn các doanh nhiệp và phương pháp chuyên gia là sự hướng dẫn
chuyên môn của giáo viên hướng dẫn.

4. Kết cấu của để tài
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, luận văn được kết cấu thành 3
chương như sau:
Chương 1 : Tổng quan về hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam
Chương 2 : Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian qua
3

Chương 3 : Phương hướng và giải pháp tăng cường xuất khẩu gạo Việt Nam
Trong quá trình nghiên cứu, do hạn chế về thời gian cũng như kiến thức
nên không thể tránh khỏi những sai sót, kính mong sự đóng góp ý kiến của
quý thầy cô và các bạn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới TS Đào Hồng Quyên đã hướng
dẫn, góp ý, giúp đỡ tôi trong việc hoàn thành đề tài. Tôi cũng xin cảm ơn thầy
cô trong khoa Kinh tế đối ngoại – Học viện Chính sách và Phát triển đã giúp
đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
















4

Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU VÀ HOẠT ĐỘNG
XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM
1.1. Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu với
nền kinh tế
Theo một cách hiểu chung nhất thì xuất khẩu là hoạt động đưa hàng
hoá, dịch vụ từ quốc gia này sang quốc gia khác. Dưới góc độ marketing, xuất
khẩu được coi là một hình thức thâm nhập thị trường nước ngoài ít rủi ro và
chi phí thấp. Mục đích của hoạt động xuất khẩu là nhằm khai thác được lợi
thế so sánh của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế.
Nghị định 57/1998/NĐ-CP ban hành ngày 31/7/1998 có hiệu lực ngày
10/8/1998 quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động xuất khẩu,
nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán với nước ngoài thì “Hoạt động xuất
khẩu, nhập khẩu hàng hoá là hoạt động mua, bán hàng hoá của thương nhân
Việt Nam với thương nhân nước ngoài theo các hợp đồng mua bán hàng hoá,
bao gồm cả hoạt động tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập và chuyển khẩu
hàng hoá.
Thí dụ: Hoạt động xuất khẩu hạt điều, nông sản sơ chế của Việt Nam
sang Australia; Hoạt động xuất khẩu sản phẩm điện tử Panasonic lắp ráp tại
Trung Quốc đang lưu kho tại Việt Nam sang thị trường Lào, Campuchia…
Xuất khẩu là hoạt động cơ bản của nền kinh tế quốc dân, là công cụ,
phương tiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Do vậy, đẩy mạnh xuất khẩu được
coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vai trò của xuất khẩu thể hiện ở các
mặt sau:
- Tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá hiện
đại hoá.
Để có được một lượng vốn cho nhập khẩu có thể được hình thành từ

nhiều nguồn như: liên doanh đầu tư nước ngoài với nước ta; vay nợ, viện trợ,
5

tài trợ; hoạt động du lịch, dịch vụ; xuất khẩu hàng hoá, lao động Nhưng vẫn
quan trọng hơn cả là xuất khẩu hàng hoá. Bởi vì các nguồn vốn đầu tư nước
ngoài, vay nợ, viện trợ tuy quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách
này hoặc cách khác. Ngoại tệ thu được qua các hoạt động du lịch, dịch vụ
hiện nay chỉ là rất nhỏ so với nhu cầu về vốn của tiến trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Xuất khẩu lao động không ổn định đang có xu hướng
giảm dần. Do vậy, nguồn ngoại tệ quan trọng nhất chi dùng cho nhập khẩu
chính là từ xuất khẩu.
- Đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát
triển:
Việc coi thị trường và đặc biệt là thị trường quốc tế là hướng quan
trọng để tổ chức sản xuất chính là xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới
để tổ chức sản xuất. Điều này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động đến sản xuất thể hiện ở chỗ:
+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác phát triển thuận lợi.
+ Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần thúc
đẩy sản xuất phát triển và ổn định.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản
xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
+ Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng
cao năng lực sản xuất trong nước thông qua việc thu hút vốn, kỹ thuật, công
nghệ từ các nước phát triển và Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất
nước tạo ra một năng lực sản xuất mới.
+ Thông qua xuất khẩu, hàng hóa của Việt Nam sẽ tham gia vào cuộc
cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này
đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn
thích nghi được với mọi thị trường.

+ Xuất khẩu còn đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện
6

công việc quản trị sản xuất và kinh doanh.
- Xuất khẩu có tác động tích cực đến giải quyết công ăn việc làm và cải
thiện đời sống nhân dân:
Việc xuất khẩu sản phẩm hàng hoá qua các thị trường quốc tế phải cần
một lượng lớn nhân công để sản xuất và hoạt động xuất khẩu thu về một
lượng ngoại tệ đáng kể để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng phục vụ đời sống và
đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú của nhân dân.
- Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối
ngoại của nước ta:
Quan hệ kinh tế đối ngoại bao các hoạt đông giao lưu giữa các nước
với nhau. Trong đó xuất khẩu là một hình thức của hoạt động kinh tế đối
ngoại. Điều này làm cho hoạt động xuất khẩu cùng với các mối quan hệ kinh
tế quốc tế khác làm cho nền kinh tế nước ta gắn chặt với nền kinh tế thế giới
và tham gia vào phân công lao động quốc tế.
1.2. Đặc điểm của hoạt động sản xuất lúa gạo phục vụ xuất khẩu của
Việt Nam
1.2.1. Đặc điểm về lao động, sản xuất, đất đai, thời tiết, khí hậu của Việt
Nam và khả năng cung ứng thóc gạo
1.2.1.1. Đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu thuận lợi
Việt Nam là nước nông nghiệp nhiệt đới, đồng thời cũng là một nước
có nghề trồng lúa nước phát triển từ lâu đời và đã đạt đỉnh cao của nền văn
minh lúa nước. Người nông dân Việt Nam đã tích lũy được nhiều kinh
nghiệm trong nghề trồng lúa. Điều kiện tự nhiên nhìn chung là thuận lợi cho
sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa nói riêng. Nhiệt độ trung bình
hàng năm 22-27oc, hàng năm có khoảng 1500-2000 giờ nắng và khoảng 100
ngày mưa với lượng mưa trung bình 1500-2000mm, độ ẩm trung bình 80-
87%. Trên mặt đất có 2860 con sông ngòi với 653,6 nghìn ha ao; 85 nghìn ha

đầm lầy. Sự hội tụ của những yếu tố này cùng với khoảng 21% đất nông
7

nghiệp chiếm trong tổng diện tích đất tự nhiên bảo đảm thuận lợi cho việc
phát triển nông nghiệp nói chung và ngành trồng lúa nói riêng.
Nói về vùng lúa, đã từ lâu: Việt Nam có hai vùng châu thổ: sông Hồng
và sông Cửu Long với điều kiện tự nhiên thuận lợi, đất đai màu mỡ đã phát
triển nghề trồng lúa sớm và cũng là hai vùng có sản lượng lúa lớn cung cấp
cho cả nước và cho xuất khẩu.
Vùng đồng bằng sông Hồng: đất đai màu mỡ, độ phì cao, với những
cánh đồng bằng phẳng thích hợp cho phát triển cây lúa nước. Tuy nhiên cũng
có những khó khăn nhất định. Vụ lúa chiêm xuân được bắt đầu vào mùa đông
giá rét, có những lúc nhiệt độ xuống quá thấp (dưới 10oc) gây khó khăn cho
việc gieo mạ, cấy lúa, nhiều khi phải gieo đi gieo lại (do mạ chết rét) có
những thời kỳ phải gieo mạ trên sân để tránh rét sau đó chuyển ra cấy đại trà
tại ruộng. Qua mùa rét, trời sang xuân, mưa xuân đến, cây phát triển nhưng
cũng là môi trường thuận lợi cho sâu bệnh phát triển. Vụ lúa mùa thường gặp
bão lụt, ngập úng xảy ra đã gây nhiều khó khăn cho công tác phòng chống
bảo vệ đê điều, phòng chống bão lụt hạn chế tác hại của thiên tai.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long: nhìn chung khí hậu ôn hòa hơn
những vùng khác và đặc biệt là vùng duy nhất ít và không bị ảnh hưởng của
bão lũ và rét. Khí hậu ở đây hình thành nên hai mùa rõ rệt: gọi là mùa nắng và
mùa mưa. Mùa năng (khô) kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4, mùa mưa kéo dài
từ tháng 5 đến tháng 10 hàng năm. Nhiệt độ trung bình trong năm khoảng 27
độ C, số giờ nắng trung bình khoảng 2500 giờ, lượng mưa trung bình khoảng
1500-2000mm.
Đất đai ở vùng đồng bằng sông Cửu Long bằng phẳng, độ phì cao, có
điểm phù sa dầy tới 70m. Quỹ đất để phát triển nông nghiệp ở vùng này rất
lớn, chiếm tới 35,5% tổng diện tích đất nông nghiệp của cả nước và nó gấp
khoảng 3 lần diện tích đất nông nghiệp của vùng đồng bằng sông Hồng. Đây

là vựa lúa lớn nhất của cả nước, chiếm tới 50% sản lượng. Mùa vụ trong năm
8

liên tục kế tiếp nhau, vì thế việc sản xuất, thu hoạch chế biến cung ứng cho
tiêu dùng và xuất khẩu diễn ra quanh năm. Trong tổng diện tích đất nông
nghiệp ở đây điểm đáng chú ý nhất là vùng phù sa nước ngọt nằm ven và nằm
giữa hai con sông lớn: Tiền Giang và Hậu Giang, với diện tích khoảng 1200
nghìn ha (chiếm 29,2% diện tích đất đồng bằng) rất thích hợp cho việc trồng
cấy và phát triển cây lúa nước.
Tuy đồng bằng sông Cửu Long là vùng thuận lợi và có nhiều tiềm năng
phát triển nông nghiệp nhất so với các vùng khác của cả nước, nhưng như vậy
không phải là không có những khó khăn thách thức con người. Những khó
khăn đó nó đang đòi hỏi trí thông minh, lòng dũng cảm, sự cần mẫn của con
người Việt Nam muốn phát triển phải chủ động khắc phục và khống chế
những tác hại do nó gây ra. Hiện nay, diện tích bị nhiễm phèn mặn còn đang
chiếm khoảng 60% tổng diện tích mùa lũ về, khi nước sông vượt quá lưu tốc
25.000m3/giây thì không chủ động khống chế được lũ tràn gây ra cho khoảng
25% diện tích bị ngập nước, có nơi ngập đến 4m. Khi mùa khô đến dòng chảy
ở mức dưới 6.000m3/giây thì nhiều nơi khan hiếm nước ngọt và nước biển
tràn vào, do sông rạch nhiều nên nước biển vào rất sâu trong đất liền, có nơi
sâu tới 50km gây ra diện tích bị nhiễm mặn lớn và rất tác hại cho việc sinh
trưởng của cây lúa nước.
Tuy có khó khăn nhưng hai vùng đồng bằng châu thổ có những thuận
lợi là cơ bản. Chúng ta hoàn toàn có khả năng, điều kiện để phát huy những
thuận lợi và hạn chế những khó khăn nêu trên.
Ngoài hai châu thổ trồng lúa lớn nhất cả nước như trên, Việt Nam còn
có những vùng trồng lúa khác với diện tích ít hơn và nằm xen kẽ với những
vùng thuận lợi cho phát triển cây công nghiệp như vùng miền núi phía Bắc và
Tây nguyên, vùng Trung du bán sơn địa, ven biển miền trung. Mỗi vùng đều
có điều kiện tự nhiên khác nhau và cây lúa luôn được cấy trồng như một nghề

truyền thống của người làm nông nghiệp.
9

Với những điều kiện như trên, tiềm năng sản xuất lúa gạo của nước ta
là rất lớn.
1.2.1.2. Đặc điểm về khả năng cung ứng thóc gạo
Do diện tích trồng lúa có “tính giới hạn” nhất định, nên xét tổng thể
trong một mùa vụ lượng thóc gạo cung ứng ra thị trường là một đại lượng xác
định và nó kém co giãn đối với sự biến động của giá cả. Bởi vì: ngay sau khi
thu hoạch, cùng một thời điểm, do nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất và nhu cầu
tiêu dùng cho cuộc sống của chính người trồng lúa đòi hỏi (mua vật tư, phân
bón, giống, phục vụ chu kỳ sản xuất tiếp theo và các hàng tiêu dùng hàng
ngày) buộc những người trồng lúa cùng đưa thóc, gạo ra bán, bất luận giá trên
thị trường cao hay thấp, dẫn đến cung vượt quá cầu tại thời điểm đó gây ra giá
thóc gạo giảm, thậm chí có thời điểm giảm thấp hơn chi phí sản xuất, người
sản xuất có thể bị lỗ vốn nhưng họ không thể giữ sản phẩm của mình lại để
chờ khi nào giá trên thị trường tăng lên mới đưa sản phẩm ra bán, vì nếu làm
như vậy sẽ không có vốn để tiếp tục thực hiện chu kỳ sản xuất mới. Đặc điểm
này càng đậm nét ở những vùng sản xuất lúa tập trung như ĐBSCL. Điệp
khúc “được mùa, rớt giá” chính là ở những thời điểm này mà người sản xuất
không tự mình khắc phục được.
1.2.1.3. Lợi thế về nguồn nhân lực
Yếu tố nhân lực không chỉ có ưu thế lớn về số lượng nhân lực mà còn
có ưu thế lớn về chất lượng, về sự tinh thông, am hiểu nghề trồng lúa. Lịch sử
sản xuất lúa của Việt Nam đã trải qua hơn 6000 năm kể từ thưở cộng đồng
nguyên thuỷ người Việt cho đến khi ra đời nhà nước Văn Lang và cho tới
nay, đã được các thế hệ đúc rút và để lại nhiều tri thức, kinh nghiệm quí báu.
Kho tàng kinh nghiệm đó thực sự là một lợi thế đặc biệt, nó cho phép khai
thác triệt để những lợi thế thông thường của các tài sản thiên nhiên như tài sản
đất, tài sản nước, tài sản khí hậu.

10

1.2.2. Đặc điểm về thị trường giá cả
Xét về tổng thể cầu thóc gạo cũng kém co giãn đối với sự biến động của giá
cả. Bởi vì: cho dù giá thóc gạo trên thị trường cao hay thấp, người tiêu dùng
cũng chỉ sử dụng một khối lượng nhất định, không vì giá hạ tại thời điểm
cung lớn hơn cầu mà họ mua quá nhiều để tiêu dùng nhiều hơn do đó càng tạo
ra xu hướng ép giá hạ xuống, ngược lại, không vì quá đắt mà họ không ăn,
mua ít đi đến mức không đủ duy trì sự sống.
Từ khi hộ gia đình nông dân được công nhận là đơn vị kinh tế tự chủ thì
thóc gạo cung ứng ra thị trường do hàng triệu hộ nông sân sản xuất tạo nên
một thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Ở thị trường đó mỗi người sản xuất chỉ
cung ứng ra thị trường một khối lượng thóc gạo rất nhỏ so với tổng lượng
cung của xã hội, mỗi người sản xuất không thể độc quyền được về lượng
cung nên họ cũng không độc quyền về giá cả mà phải chấp nhận mức giá hình
thành trên thị trường; họ tham gia hay rút khỏi thị trường cũng không ảnh
hưởng đến mức giá đã hình thành. Đồng thời họ cũng không có vị trí biệt lập
trên thị trường bởi người mua có thể tự do lựa chọn người bán mà không cần
biết người bán đó là ai, loại thóc, gạo đó sản xuất ở vùng nào.
Trong lịch sử của thị trường thóc gạo đã xảy ra nhiều trường hợp giá thóc
gạo giảm mạnh, gây thiệt hại cho người sản xuất; đáng chú ý nhất là năm
1989 khi cuộc giải phóng cơ chế bao cấp chuyển sang sản xuất kinh doanh
thóc gạo theo cơ chế thị trường, bắt đầu tình trạng dự trữ lúa gạo “tích cốc
phòng cơ” của hàng triệu hộ nông dân không còn, tình trạng găm hàng của
các doanh nghiệp kinh doanh giảm thiểu; khối lượng thóc gạo đó được đưa ra
thị trường cộng với vụ mùa thu hoạch thắng lợi tạo ra một lượng cung lớn hơn
cầu, làm cho giá thóc trên thị trường giảm, giảm đến mức ngang và thấp hơn
chi phí sản xuất và giá thành, người sản xuất sau khi bán sản phẩm của mình
không bù đắp đủ chi phí sản xuất, người nông dân thua lỗ nặng…
Bên cạnh đặc điểm trên, việc mua, bán lúa hiện nay ở vùng ĐBSCL có

11

nhiều điểm đáng chú ý: Các doanh nghiệp xuất khẩu chỉ tổ chức mạng lưới
mua lúa trực tiếp của người sản xuất được khoảng 20%, 80% còn lại mua qua
“trung gian” và lực lượng này luôn ép giá bán của người sản xuất xuống dưới
giá mà các doanh nghiệp xuất khẩu mua; vì vậy lợi nhuận của người sản xuất
luôn bị giảm sút.
Từ những luận giải trên cho thấy: quy luật tự điều chỉnh của thị trường
luôn tác động làm dịch chuyển (thậm chí phá vỡ) cơ cấu sản xuất, cơ cấu cây
trồng làm cho sản xuất không ổn định, người sản xuất không yên tâm đầu tư
do giá cả không ổn định, có thể dẫn đến thua lỗ, phá sản. Trong quá trình kinh
doanh người trồng lúa cũng nhận biết được điều đó nhưng dù họ cố gắng
cũng không thể tự khắc phục để giảm thiểu sự tác động bất lợi của thị trường
mà đỏi hỏi phải có sự can thiệp, hỗ trợ của Nhà nước.
1.3. Các nhân tố quốc gia và quốc tế tác động đến khả năng xuất khẩu
gạo của Việt Nam
1.3.1. Nhóm nhân tố trực tiếp:
1.3.1.1. Những nhân tố tác động từ bên ngoài
a. Cung- cầu, giá cả gạo trên thị trường thế giới
Các nước đang phát triển sản xuất khoảng 90% sản lượng lúa thế giới,
tập trung chủ yếu ở châu Á với hai cường quốc đứng đầu về sản xuất lúa gạo
là Trung Quốc và Ấn Độ, tiếp đến là Bangladesh, Việt Nam, Thái Lan, Nhật
Bản, Philippin. Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) dự báo: mậu dịch gạo thế giới
sẽ tăng vững với tốc độ 2,4%/năm, đạt tới 33,3 triệu tấn vào năm 2015 .
Trong 10 năm tới ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới là Thái Lan, Ấn Độ
và Việt Nam sẽ tăng xuất khẩu với tốc độ nhanh: 2,3%/năm (Thái Lan),
4%/năm (Ấn Độ) và 3,7%/năm (Việt Nam).
Các nước nhập khẩu gạo được chia làm hai nhóm: nhóm các nước
thường xuyên phải nhập khẩu và nhóm các nước nhập khẩu không thường
xuyên. Nhóm các nước nhập khẩu thường xuyên chiếm tỷ trọng 80-90% tổng

12

lượng gạo trao đổi trên thị trường, bao gồm các nước ở khu vực Trung Đông,
Châu Mỹ La tinh, Châu Phi và một vài nước châu Á. Tại châu Á, Bộ Nông
nghiệp Mỹ dự báo: Indonesia sẽ là nước nhập khẩu gạo lớn nhất trong 10 năm
tới với tốc độ tăng cao nhất: bình quân 7,3%/năm; kế đó là các nước ở Trung
Đông như I Rắc, I Ran, Ả rập Xê út, tăng: 2%-2,5%/năm. Nhóm các nước
nhập khẩu không thường xuyên, chỉ tiến hành những thương vụ nhập khẩu
nhất định khi sản xuất lúa gạo trong nước xảy ra tình trạng cung bị thiếu hụt
so với cầu như Trung Quốc, Philippin…
Chính nhu cầu không ổn định về nhập khẩu của những nước này là
nguyên nhân gây ra những biến động về cung – cầu và sự không ổn định của
giá gạo trên thị trường thế giới. Mặt khác, vì sản xuất lúa gạo phụ thuộc vào
điều kiện tự nhiên, nếu thời tiết không thuận gây ra mất mùa sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến cung cầu, giá cả. Trong tình thế như vậy, gạo Vỉệt Nam lại chưa
chắc chắn trên thị trường thế giới nên phải chấp nhận giá hình thành khách
quan trên thị trường, đó là một thách thức rất lớn trong quá trình cạnh tranh
quốc tế.
b. Hội nhập kinh tế quốc tế, tự do hóa thương mại
 Thị trường được mở rộng, khả năng cạnh tranh của lúa gạo Việt
Nam được tăng cường.
Hội nhập kinh tế quốc tế, tự do hóa thương mại có đặc trưng là những
“rào cản” không hợp lý sẽ bị dỡ bỏ, hàng hóa lưu thông tự do; cơ chế bảo hộ
vi phạm luật pháp và thông lệ quốc tế không được áp dụng. Điều đó sẽ giúp
cho Việt Nam có thêm cơ hội thâm nhập vào những thị trường lớn, ổn định và
những thị trường cao cấp như Mỹ, Nhật Bản, châu Âu, Singapore. Thị trường
được mở rộng, đến lượt nó sẽ tác động tích cực trở lại đối với sản xuất lúa gạo
trong nước về các yêu cầu nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu, đa dạng hóa
các loại gạo, chất lượng gạo đáp ứng yêu cầu của từng loại thị trường.
Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ cho phép tiếp cận thị trường nhiều hơn,

13

giúp tốc độ buôn bán tăng hơn khi chưa hội nhập bởi số người tiêu dùng tăng,
sức mua tăng.
 Tác động tích cực đến sản xuất kinh doanh và do đó làm giảm chi
phí sản xuất, chi phí lưu thông.
Với lộ trình hội nhập kinh tế và tự do hóa thương mại đang được thực
hiện, người sản xuất và kinh doanh lúa gạo có cơ hội tiếp cận được với những
tín hiệu khách quan trên thị trường thế giới về: cung cầu, giá cả… giúp người
sản xuất kinh doanh nắm bắt được những thách thức sống còn. Điều đó đã
buộc họ phải điều chỉnh cơ cấu sản xuất, quy hoạch sản xuất ở những vùng
hội tụ những điều kiện thuận lợi đối với phát triển nghề trồng lúa; cắt bỏ
những diện tích ở khu vực không có lợi thế so sánh; Tăng cường đầu tư thâm
canh tăng năng suất, giảm chi phí cây trồng. Những doanh nghiệp chế biến,
lưu thông lúa gạo muốn duy trì hoạt động và phát triển buộc phải áp dụng
công nghệ tiên tiến, cải tiến quản lý, hợp lý hóa cơ cấu tổ chức, quy trình sản
xuất kinh doanh để giảm chi phí sản xuất lưu thông tạo nên những loại gạo
cạnh tranh được trên thị trường.
 Nâng cao hiệu quả kinh tế:
Thực hiện tự do hóa thương mại sẽ giúp cho ngành lúa gạo Việt Nam
tiếp cận gần gũi hơn với nền kinh tế thế giới đang vận hành theo cơ chế thị
trường. Theo đó những lợi thế so sánh của ngành trồng lúa sẽ được phát huy;
việc sử dụng tài nguyên nguồn lực của đất nước sẽ gắn với nhu cầu của thế
giới làm tăng hiệu quả chung của đất nước. Cùng với nó, việc xóa bỏ những
rào cản thương mại bất hợp lý… sẽ làm giảm chi đầu vào quan trọng của
ngành trồng lúa, làm giảm giá thành sản xuất lúa gạo, tăng hiệu quả. Tuy hội
nhập kinh tế quốc tế tạo ra những cơ hội cho ngành lúa gạo như vậy nhưng
cũng chứa đựng nhiều tác động tiêu cực. Đáng chú ý là nền kinh tế thế giới và
khu vực còn ẩn chứa nhiều nhân tố bất trắc; tình hình tài chính- tiền tệ, giá cả,
tỷ giá còn chứa đựng nhiều nhân tố không ổn định, khó dự báo… không loại

14

trừ khả năng tiềm ẩn xảy ra các cuộc khủng hoảng về kinh tế và tài chính
mới… Tình hình đó sẽ tác động tiêu cực đến nền kinh tế nói chung và kinh
doanh lúa gạo nói riêng.
c. Cạnh tranh xuất khẩu gạo trên thế giới
Việt Nam tham gia thị trường xuất khẩu gạo cùng với khoảng trên 10
nước xuất khẩu gạo chủ yếu; trong đó các đối thủ cạnh tranh chính có thể kể
đến là Thái Lan, Pakistan, Ấn Độ, Hoa Kỳ… Đây là những nước có số lượng
xuất khẩu lớn, thị trường ổn định và chất lượng sản phẩm tốt, tính cạnh tranh
cao. Không những thế một số nước (Thái Lan, Hoa Kỳ…) lại thường xuyên
áp dụng những chính sách hỗ trợ đối với sản xuất lúa gạo giúp nông dân phát
triển sản xuất, nâng cao chất lượng đáp ứng nhu cầu của thị trường; hỗ trợ đối
với xuất khẩu thông qua các giải pháp xúc tiến thương mại, mở rộng thị
trường, khuyến khích xuất khẩu… chính vì thế những “đối thủ” này luôn là
những thách thức đối với các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam.
1.3.1.2. Những nhân tố từ nội tại nền kinh tế trong nước
Như đã phân tích, ngành lúa gạo của nước ta có ưu thế cạnh tranh mạnh
về chi phí sản xuất lúa, tính đa mùa vụ, chi phí lao động rẻ, môi trường chính
trị và môi trường cạnh tranh tốt… Tuy nhiên, nó cũng tiềm ẩn những nhân tố
tác động thuận và không thuận từ nội tại nền kinh tế.
Để phấn đấu bảo đảm ổn định sản lượng lúa 40 triệu tấn năm nhằm
thực hiện chiến lược an ninh lương thực quốc gia trong điều kiện đến hết
năm 2012 phải giảm 102.000ha đất lúa chuyển sang nuôi trồng thủy sản và
cây trồng khác; đòi hỏi phải tăng cường đầu tư thâm canh, đầu tư để tăng
năng suất và chất lượng, trồng các giống lúa mới có chất lượng cao, quy
hoạch vùng chuyên canh lúa gắn với xuất khẩu gắn chế biến với tiêu thụ…
chắc chắn chi phí sản xuất lúa sẽ tăng. Tuy nhiên chi phí sản xuất tăng đến
mức độ nào thì còn tùy thuộc vào việc xử lý mối quan hệ tăng năng suất lao
động và tăng chi phí đầu tư.

15

Xét chung cả nền kinh tế, mức tăng trưởng trong những năm qua đạt
tốc độ tăng trưởng cao. Những năm tới mục tiêu mà Đại hội IX đã đưa ra là
phấn đấu đến hết năm 2010 tăng GDP lên gấp đôi năm 2000, Đại hội X nêu
chỉ tiêu phấn đấu đến năm 2010 thì GDP bình quân đầu người khoảng 1050-
2200 USD; như vậy thu nhập của các tầng lớp dân cư sẽ tăng và suy cho cùng
là sức mua của các tầng lớp dân cư tăng. Sức mua tăng sẽ kích thích thay đổi
cơ cấu tiêu dùng gạo chuyển từ trạng thái “no sang trạng thái ngon”, cơ cấu
tiêu dùng thay đổi yêu cầu cơ cấu cây trồng phải thay đổi theo hướng sản xuất
loại gạo có chất lượng, gạo đặc sản, thơm ngon, giàu dinh dưỡng… Sự
chuyển dịch của sản xuất từ loại gạo thường sang loại gạo ngon để đáp ứng
nhu cầu của thị trường là tốt; tuy nhiên thường những loại sản phẩm này chi
phí đầu tư cao mà năng suất lại thấp tạo ra sức ép tăng giá thành, kích thích
tăng giá cả làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh.Một loạt những yếu tố
khác như: kết cấu hạ tầng kinh tế yếu kém (đường xá, cơ sở chế biến, kho
tàng, các trung tâm giao dịch…); lưu thông hàng hóa còn khó khăn…Tình
trạng độc quyền, liên minh độc quyền cạnh tranh không lành mạnh, kinh tế
ngầm (cả đầu vào và đầu ra); các hiện tượng đầu cơ tăng giá, phá giá, ép giá,
gian lận về giá chưa được kiểm soát có hiệu quả; khả năng điều hòa cung cầu
giữa các vùng miền, các mùa vụ còn hạn chế…đã tác động lớn đến khả năng
cạnh tranh của lúa gạo. Ngoài ra, các yếu tố thiên tai, mất mùa cũng sẽ làm
cung cầu căng thẳng, giá cả bị “Biến dạng”.
1.3.2. Nhóm nhân tố gián tiếp
Nhóm nhân tố gián tiếp chính là các chính sách kinh tế vĩ mô như
Chính sách tài khóa, Chính sách tiền tệ, Chính sách tỷ giá, hoạt động của
ngân hàng thương mại, Chính sách thương mại…
Nếu chính sách tài khóa kém bền vững; chính sách tiền tệ không kích
thích được sản xuất phát triển, không kiểm soát được lạm phát, chính sách tỷ
giá thiếu linh hoạt và phi thị trường… sẽ ảnh hưởng lớn thậm chí làm suy

16

giảm khả năng cạnh tranh của ngành lúa gạo. Nếu các chính sách trên được
vận hành theo chiều hướng tốt sẽ góp phần vào đảm bảo nâng cao khả năng
cạnh tranh của lúa gạo.
Tuy được coi là những nhân tố gián tiếp, nhưng công cuộc cải cách tài
chính tiền tệ và các chính sách kinh tế vĩ mô khác ở nước ta trong thời gian
tới ngày càng theo hướng thị trường hơn thì sức cạnh tranh của lúa gạo Việt
Nam sẽ chịu tác động trực tiếp hơn trước của các yếu tố tài khóa, tiền tệ, đầu

1.4. Kinh nghiệm xuất khẩu lúa gạo của Thái Lan và bài học cho
Việt Nam
1.4.1. Kinh nghiệm của Thái Lan
Thái Lan là quốc gia xuất khẩu gạo số 1 của thế giới, đối thủ cạnh tranh
chính của Việt Nam trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của lúa gạo, sản
xuất và xuất khẩu gạo của Thái Lan có những đặc điểm nổi bật, đáng chú ý
sau :
 Lựa chọn cơ chế giống hợp lý, chú trọng những loại giống lúa tạo ra loại
gạo có chất lượng cao phù hợp với đòi hỏi của thị trường
Thái Lan đã chú trọng công tác quy hoạch đối với những vùng trồng chủ
yếu các giống lúa có chất lượng cao (trong sản lượng lúa hàng năm có 50-
55% là giống lúa thơm, 20-25% là giống lúa nếp, còn lại là lúa thường). Đáng
chú ý là Thái Lan đầu tư nâng cấp và phát triển mạnh giống lúa Jasmine
(hương nhài) lên thành loại gạo đặc sản hạt dài có hương thơm tự nhiên,
lượng Protein cao. Chính vì vậy mà loại gạo này Thái Lan bán được tới 560-
565 USD/tấn (FOB).
Các loại lúa thường, Thái Lan cũng chú trọng áp dụng công nghệ sinh
học, tiến bộ kỹ thuật trong việc xử lý giống, khắc phục những giống lúa lai
tạp, tạo ra những giống lúa thuần chủng. Vì vậy, mặc dù năng suất lúa của
Thái Lan thấp nhưng ngành trồng lúa của Thái Lan đã cho ra những loại gạo

17

thường có độ đồng nhất cao, màu sắc tốt… được khách hàng ưa chuộng
 Chuyển dịch mùa vụ vào thời điểm thị trường có giá cao
Lúa của Thái Lan được trồng làm 2 vụ: vụ 1 thu hoạch từ tháng 11
đến hết tháng giêng năm sau; vụ 2 thu hoạch vào các tháng 5,6,7. Qua tác
động của thị trường, ngành Nông nghiệp Thái Lan đã chủ động chuyển dịch
mùa vụ theo hướng tăng sản lượng vụ 1 và giảm sản lượng của vụ 2. Thời
điểm thu hoạch lúa vụ 1 chính là vào thời điểm thị trường có giá cao (các
nước khác ít có vụ thu hoạch lúa vào thời kỳ này) nên Thái Lan xuất khẩu gạo
thường được giá có lợi hơn các nước khác.
 Quy mô cung ứng lớn nhất trong các nước xuất khẩu gạo của Thế giới
Nhiều biện pháp Thái Lan đã áp dụng như: Điều chỉnh cơ cấu sản xuất
trong nước, hướng và bám theo nhu cầu của thị trường; áp dụng các biện pháp
tìm kiếm thị trường có hiệu quả: thông qua đàm phán Chính phủ, thông qua
hoạt động xúc tiến thương mại, giao lưu kinh tế… Chính vì vậy, gạo của Thái
Lan cạnh tranh được với nhiều nước và chiếm tỷ trọng xuất khẩu gạo ra thị
trường lớn nhất so với tỷ trọng của các nước cùng xuất khẩu gạo ra thị trường
thế giới.
 Chi phí sử dụng nguồn lực nội địa có hiệu quả, giá bán lại cao hơn các
nước
Ngành nông nghiệp Thái Lan rất chú trọng áp dụng các giải pháp sử
dụng nguồn lực có hiệu quả thông qua các biện pháp hạ chi phí sản xuất, chế
biến, giảm giá thành gạo xuất khẩu. Tuy giá vốn gạo xuất khẩu của Thái Lan
còn cao hơn của Việt Nam (225 USD/ khoảng 179 USD/tấn) nhưng thấp hơn
nhiều so với giá vốn gạo của Nhật và Mỹ (225 USD/1910 USD và 314
USD/tấn). Nhưng ngược lại chi phí dịch vụ xuất khẩu tại cảng chỉ bằng 1/ 2
chi phí dịch vụ xuất khẩu tại cảng của Việt Nam. Công xuất xếp dỡ tại cảng
cao gấp 6 lần chi phí bốc xếp tại cảng Việt Nam
Cùng với chi phí sản xuất chế biến thấp, do gạo của Thái Lan chất lượng

18

tốt cộng với hoạt động thị trường có hiệu quả, gạo của Thái Lan được giá hơn
gạo cùng loại của các nước. Nếu so với gạo của Việt Nam: những năm trước,
giá gạo của Thái Lan bán thường cao hơn khoảng 40-50 USD/tấn. Chú trọng
đầu tư, nâng cao hiệu quả bảo quản, chế biến sau thu hoạch.
 Nhà nước hỗ trợ sản xuất kinh doanh, tạo môi trường kinh doanh thông
thoáng và cạnh tranh theo pháp luật
Theo báo cáo của Bộ Thương mại Việt Nam, Chính phủ Thái Lan rất
quan tâm đến sản phẩm lúa gạo và coi nó là một mặt hàng đặc biệt. Việc xuất
khẩu tuy được tiến hành tự do, nhưng Nhà nước lập ra một ủy ban lúa gạo để
hỗ trợ sản xuất kinh doanh lúa gạo. Ủy ban này có nhiệm vụ: dự kiến mức
xuất khẩu gạo trong năm lương thực căn cứ vào cân đối lương thực cả năm.
Dự kiến mức giá mà Chính phủ mong muốn nông dân có thể bán được lúa
của họ trong năm lương thực (giá sàn = giá thành + 20% lãi). Đồng thời thực
hiện các chính sách hỗ trợ như: chính phủ Thái Lan có luật lệ bảo hộ quyền sở
hữu ruộng đất cho nông dân; xây dựng các công trình thủy lợi; củng cố kết
cấu hạ tầng, giống, phân bón, vốn, thông tin thị trường giá cả.
Đồng thời, Thái Lan thành lập hàng ngàn vùng lúa gạo, thực hiện cho
vay vốn sản xuất kinh doanh lúa gạo, áp dụng chính sách “tín dụng tồn trữ và
giá cầm cố”, có nghĩa là: khi vào vụ thu hoạch, nếu giá lúa gạo xuống thấp,
Chính phủ yêu cầu ngân hàng cầm cố lúa gạo cho nông dân, hay nói khác
nông dân được ký gửi lúa gạo ở Ngân hàng và vay tiền của Ngân hàng để
cóvốn tiếp tục sản xuất. Khi giá thị trường tăng lên, nông dân đến Ngân hàng
lấy lúa gạo ký gửi trước đây ra bán và hoàn lại tiền cho Ngân hàng.
Ngoài những biện pháp trên, Chính phủ còn can thiệp vào thị trường,
giúp nông dân tiêu thụ lúa gạo thông qua việc đầu năm đứng ra đàm phán ký
kết các hợp đồng bán gạo Chính phủ để bán gạo cho nước khác. Tìm các biện
pháp hỗ trợ sự liên kết giữa nhà nông với nhà chế biến, kinh doanh. Tìm kiếm
thị trường cho xuất khẩu gạo. Thu xếp các cuộc gặp gỡ giữa người tiêu dùng

19

và nhà sản xuất… Không thu thuế xuất khẩu gạo. Không áp dụng chế độ
quota xuất khẩu gạo hàng năm. Bộ Thương mại thực hiện việc quy định phẩm
cấp từng loại gạo xuất khẩu nhằm giữ uy tín chất lượng hàng hóa và thị
trường. Nếu doanh nghiệp xuất khẩu loại gạo có tiêu chuẩn phẩm cấp khác
quy định, theo yêu cầu của khách hàng thì phải xin phép Bộ Thương mại…
Để tạo môi trường pháp lý cho kinh doanh gạo, Thái Lan đã ban hành
Luật về buôn bán gạo năm 1946, Luật về điều tra và cấm dự trữ gạo quá mức.
Nội dung cơ bản của những Luật này thực hiện quá trình phi tập trung hóa,
phi điều tiết hóa và phi kiểm soát hóa; thực hiện cạnh tranh, chống độc quyền
và các hình thức đầu cơ tích trữ, lũng đoạn thị trường. Cho phép thành lập
Hiệp hội xuất khẩu lúa gạo giúp đưa ra những chính sách cụ thể về xuất khẩu
và hướng dẫn giá xuất khẩu phù hợp với giá thị trường quốc tế. Áp dụng
chính sách chống trợ giá, trong đó có chế độ điều tiết thuế ruộng. Thuế này
cao hay thấp là tùy thuộc vào tình hình thị trường thế giới. Nếu giá thóc hạ do
cung vượt cầu, Chính phủ nâng thuế ruộng lúa để buộc người sản xuất phải tự
hạn chế diện tích lúa, chuyển sang trồng cây khác, và rút cuộc đã gạn lọc lại
những người và những khu vực sản xuất lúa có hiệu quả và năng suất cao, đủ
sức cạnh tranh quốc tế.
1.4.2. Bài học cho Việt Nam
Một số kinh nghiệm Việt Nam có thể học hỏi từ Thái Lan:
- Trợ cấp để bảo hộ nền nông nghiệp yếu thế của Việt Nam là cần thiết.
- Cần phải có gói chính sách tổng thể hỗ trợ phát triển nông nghiệp gồm
nhiều giải pháp công cụ linh hoạt trong ngắn hạn cũng như dài hạn. Một hay
một số nhóm chính sách đơn lẻ không phát huy tác dụng như mong muốn.
- Các chính sách trợ cấp nông nghiệp cần lưu ý tới loại hình trợ cấp và
đối tượng trợ cấp và đối tượng trợ cấp phù hợp với quy định của WTO và
đem lại hiệu quả kinh tế xã hội. Cần quan tâm đến lợi ích của người dân sản
xuất lúa gạo hơn, thực hiện cho vay vốn sản xuất kinh doanh lúa gạo.

20

- Chính sách giá sàn là chính sách thời điểm, mang tính linh hoạt trong
ngắn hạn, nhưng thực sự cần thiết. Đối với Việt Nam, việc nghiên cứu ban
hành chính sách giá cả nông sản, nhất là giá sàn lúa gạo cần dựa vào nguyên
tắc định giá sàn lúa gạo là phù hợp trong quan hệ so sánh với hàng công
nghiệp, bảo đảm lợi ích của của người sản xuất nông nghiệp, giải quyết hài
hòa lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng.
- Cần có cơ chế ấn định hệ số cân bằng giữa giá đầu vào và giá đầu racủa
nông sản, lương thực khi có những chính sách bình ổn giá thị trường để bảo
vệ lợi ích của nong dân và nhóm tiêu dùng nghèo trong nước.
- Các chính sách hỗ trợ nông nghiệp phát triển bền vững trong dài hạn
phải là các chính sách quy hoạch vùng nông nghiệp, lương thực, quy hoạch
đất đai, cải thiện cơ sở hạ tầng, bảo vệ đất trồng trọt, hỗ trợ, cải tiến kỹ thuật
và vật tư đầu vào và các dịch vụ xúc tiến thương mại, vận chuyển lưu thông
nông sản…cho nông dân
- Thường xuyên áp dụng những chính sách hỗ trợ đối với sản xuất lúa
gạo giúp nông dân phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng đáp ứng nhu cầu
của thị trường; hỗ trợ đối với xuất khẩu thông qua các giải pháp xúc tiến
thương mại, mở rộng thị trường, khuyến khích xuất khẩu… Cần có chính sách
tổng thể hỗ trợ phát triển nông nghiệp gồm nhiều giải pháp, công cụ linh hoạt
trong ngắn hạn cũng như dài hạn
- Có các biện pháp nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu, tăng giá thành
sản phẩm gạo xuất khẩu, và xây dựng thương hiệu sản phẩm.
- Cải tiến hệ thống kênh phân phối gạo xuất khẩu hiện nay dựa trên cơ sở
hệ thống phân phối của Thái Lan





×