Tải bản đầy đủ (.doc) (138 trang)

Giải pháp tăng cường xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc trong điều kiện gia nhập WTO.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (799.36 KB, 138 trang )

Luận văn tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính tất yếu
Thế giới đã và đang bước vào một kỷ nguyên mới. Đó chính là kỷ nguyên của
toàn cầu hoá, khu vực hoá. Sự mở rộng các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, sự
hợp tác liên minh, liên kết hiện nay đã trở thành một yếu tố khách quan. Bởi lẽ,
đây là quá trình nhằm thu hút các nguồn lực phát triển bên ngoài đồng thời phát
huy nội lực của nền kinh tế trong nước nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển
kinh tế- xã hội một cách nhanh chóng và bền vững.
Không nằm ngoài guồng quay đó, Việt Nam- với một nền kinh tế đang phát
triển thì việc tham gia vào sân chơi thương mại quốc tế đã giúp Việt Nam tận
dụng và phát huy lợi thế so sánh của mình. Nổi bật lên là hoạt động xuất khẩu
hàng hoá đã mang lại những kết quả đáng kể như: tăng thêm nguồn thu ngoại tệ,
thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, tạo công ăn việc làm cho người lao động
và đặc biệt là đẩy mạnh quá trình CNH- HĐH đất nước. Không chỉ vậy, đây còn
là con đường để góp phần nâng cao vị thế, hình ảnh của Việt Nam trên thị
trường quốc tế, là cơ sở để Việt Nam bước vào sân chơi thương mại toàn cầu
một cách vững vàng. Như Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, nghị
quyết, chính sách nhằm thực hiện đa dạng hoá thị trường, đa phương hoá các
quan hệ kinh tế với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới bằng các hiệp
định song phương, đa phương, bằng quan hệ hợp tác, hữu nghị, bình đẳng và
cùng có lợi.
Trung Quốc là một trong những đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Hai
quốc gia Việt Nam- Trung Quốc là hai nước láng giềng,“núi liền núi, sông liền
sông”, các quan hệ về văn hoá, ngoại giao, thương mại của hai nước đã hình
thành từ lâu đời. Đó như một tất yếu khách quan và là một mối quan hệ bền
vững. Lật lại những trang sử vàng oanh liệt của một thời chúng ta không thể
không thấy được những biến động chính trị- xã hội của hai quốc gia là không
nhỏ. Song điều đó không bao giờ triệt tiêu hoàn toàn mối quan hệ của hai nước.
Nguyễn Thị Năm Lớp: Kinh tế quốc tế 46
1


Luận văn tốt nghiệp
Bằng chứng là việc cả hai bên đã trở lại bình thường hoá quan hệ vào cuối năm
1991. Đó là dấu mốc quan trọng đánh dấu quan hệ giữa hai quốc gia nói chung
và quan hệ thương mại nói riêng ngày càng phát triển bền vững, mạnh mẽ và
đang trở thành một trong những bộ phận quan trọng trong chính sách kinh tế đối
ngoại của Việt Nam.
Cho đến nay, mối quan hệ kinh tế của hai nước vẫn được duy trì và phát triển.
Đứng ở phía Việt Nam để đánh giá về mức độ thâm nhập hàng hoá của Việt
Nam vào thị trường Trung Quốc hay hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang
Trung Quốc em thấy có những thành công đáng kể song khó khăn, tồn tại là
không ít. Là một sinh viên chuyên ngành kinh tế quốc tế, trong bối cảnh đất
nước tham gia vào sân chơi thương mại toàn cầu, em thấy được sự cần thiết của
việc phát triển mạnh hơn nữa quan hệ thương mại Việt Nam- Trung Quốc. Vì
vậy, em quyết định chọn đề tài: “Giải pháp tăng cường xuất khẩu hàng hoá
của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc trong điều kiện gia nhập WTO” để
làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
- Cung cấp một số lý luận để chứng minh và luận giải sự cần thiết phải tăng
cường hợp tác thương mại, thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay
+ Đánh giá tình hình xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Trung Quốc trong
từ năm 1991 đến nay.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường xuất khẩu hàng hoá của Việt
Nam sang Trung Quốc trong điều kiện gia nhập WTO.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Tình hình xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc
trong thời gian qua (từ năm 1991 đến nay)
Phạm vi nghiên cứu
- Tập trung nghiên cứu đánh giá tình hình xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam
sang thị trường Trung Quốc từ năm 1991 đến nay. Những nguyên nhân tồn tại

Nguyễn Thị Năm Lớp: Kinh tế quốc tế 46
2
Luận văn tốt nghiệp
khiến cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá từ Việt Nam sang Trung Quốc còn
nhiều bất cập. Tổng kết kinh nghiệm xuất khẩu của một số nước như Thái lan,
Indonesia… để từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài kết hợp phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác- Lênin cùng với phương pháp thống kê thực chứng,
phương pháp so sánh để tổng hợp giải quyết vấn đề đặt ra.
6. Những đóng góp của đề tài
- Hệ thống hoá những vấn đề lý kuận chung về xuất khẩu và tổng kết kinh
nghiệm xuất khẩu hàng hoá của một số nước từ đó rút ra bài học cho Việt Nam.
- Đánh giá được thực trạng của hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam
sang thị trường Trung Quốc trong thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam
vào thị trường Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
- Ngoài lời mở dầu, kết luận, danh mục chữ viết tắt, danh mục các bảng biểu,
danh mục tài liệu tham khảo, mục lục, đề tài được trình bày trong 3 chương:
- Chương 1: Lý luận chung về xuất khẩu, kinh nghiệm xuất khẩu hàng hoá của
một số nước và tổng quan về thị trường Trung Quốc.
- Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường Trung
Quốc từ năm 1991 đến nay.
- Chương 3: Một số giải pháp tăng cường xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào
thị trường Trung Quốc trong điều kiện gia nhập WTO.
Nguyễn Thị Năm Lớp: Kinh tế quốc tế 46
3
Luận văn tốt nghiệp
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU,

KINH NGHIỆM XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦA MỘT
SỐ NƯỚC SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC
1.1 . Lý luận về xuất khẩu hàng hoá
1.1.1 Khái niệm về xuất khẩu
- Trên thực tế, các lĩnh vực sản xuất ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhịp
nhàng cùng với sự phát triển của xã hội. Mỗi quốc gia trên thế giới đã tự sản
xuất được khối lượng hàng hoá lớn, phong phú và đa dạng. Bên cạnh đó, nhu
cầu tiêu dùng các sản phẩm mới của con người là một nhân tố quan trọng kích
thích việc buôn bán, trao đổi hàng hoá, các sản phẩm của các quốc gia. Hoạt
động này có từ rất sớm, đó chính là tiền thân của hoạt động xuất- nhập khẩu.
Vậy xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ là gi?
- Xuất khẩu là một hoạt động đưa hàng hoá- dịch vụ từ quốc gia này sang
quốc gia khác để bán. Đây là một hoạt động xâm nhập, chiếm lĩnh thị trường
nước ngoài một cách hiệu quả và phù hợp với sự phát triển kinh tế của các quốc
gia có lợi thế so sánh về một hay nhiều sẩn phẩm nào đó.
- Tham gia vào hoạt động xuất khẩu này bao gồm các cá nhân, doanh
nghiệp, tổ chức và chính phủ của các quốc gia. Đây là những chủ thể không thể
thiếu của một nền kinh tế.
- Để xuất khẩu hàng hoá sang một quốc gia khác, các nhà xuất khẩu cần
tìm hiểu, nắm vững nhu cẩu, thị hiếu, phong cách tiêu dùng của thị trường nước
nhập khẩu. Thông thường nước nhập khẩu có nhu cầu tiêu thụ sản phẩm có uy
tín, thương hiệu, đa dạng về mẫu mã, chủng loại, an toàn cho sức khoẻ của
người tiêu dùng. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, đời sống con người ngày một
được nâng cao, hơn lúc nào hết, nhu cầu tiêu thụ những loại hàng hoá có uy tín,
thương hiệu, có xuất sứ rõ ràng, tuân theo những quy định về an toàn vệ sinh,…
Nguyễn Thị Năm Lớp: Kinh tế quốc tế 46
4
Luận văn tốt nghiệp
của người tiêu dùng ở nước nhập khẩu nói riêng, trên thế giới nói chung là rất
lớn. Vì vậy, đứng ở góc độ nước xuất khẩu, nhà xuất khẩu Việt Nam cần có

những chiến lược, sách lược phù hợp để tăng cường xuất khẩu hàng hoá ra thị
trường quốc tế nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ
chức WTO.
- Để xuất khẩu cần có những kênh riêng, đó là hoạt động xuất khẩu. Hoạt
động xuất khẩu là một trong những hoạt động ngoại thương của một quốc gia,
nó có một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của quốc gia đó. Hoạt động
xuất khẩu mang nhũng đặc trưng sau:
+ Để hoạt động xuất khẩu diễn ra cần có hai hay nhiều bên tham gia.
Khác với buôn bán nội địa, hoạt động xuất khẩu yêu cầu hai hay nhiều bên đó
phải có quốc tịch khác nhau. Đây chính là một trong những mấu chốt để các nhà
xuất khẩu đặt ra chiến lược xuất khẩu hàng hoá của mình. Sự khác nhau về quốc
tịch sẽ dẫn đến sự khác nhau về phong tục tập quán, thói quen…và đó là những
gì mà nhà xuất khẩu phải tìm hiểu, nghiên cứu để thoả mãn nhu cầu của người
tiêu dùng. Sự thoả mãn nhu cầu, sự hài lòng ở nước nhập khẩu là yếu tố quan
trọng tạo ra những khách hàng trung thành hay nói đúng hơn là tạo một chỗ
đứng cho hàng hoá của quốc gia xuất khẩu.
+ Do hàng hoá được xuất khẩu ra khỏi biên giới quốc gia sang một thị
trường khác nên sức ảnh hưởng của các yếu tố văn hoá, luật pháp, chính trị...là
không nhỏ, đó là mầm mống cho những rủi ro mang lại cho hoạt động xuất
khẩu.
+ Phương tiện thanh toán trong hoạt động xuất khẩu thường là ngoại tệ
đối với ít nhất một bên.
+ Phương tiện vận tải, phương thức vận tải cũng là yếu tố hết sức quan
trọng trong hoạt động xuất khẩu. Vì ở đây chứa những rủi ro cho cả hai bên
tham gia vào hoạt động này. Vì thế, khi tham gia ký kết các hợp đồng ngoại
Nguyễn Thị Năm Lớp: Kinh tế quốc tế 46
5
Luận văn tốt nghiệp
thương, các nhà xuất khẩu cũng như nhập khẩu cần có các điều khoản, hợp đồng
bảo hiểm…đi kèm để giảm thiểu rủi ro cho mình.

1.1.2. Các hình thức xuất khẩu hàng hoá
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá bao gồm các hình thức sau:
1.1.2.1. Xuất khẩu trực tiếp
- Xuất khẩu trực tiếp là hình thức giao dịch trong đó người bán (nhà xuất
khẩu) bán hàng trực tiếp cho nước ngoài (nhà nhập khẩu).
- Ưu điểm của xuất khẩu trực tiếp:
+ Cho phép các nhà xuất khẩu nắm bắt được nhu cầu của thị trường về số
lượng, chất lượng, giá cả để người bán thoả mãn tốt nhất nhu cầu của thị trường.
+ Giúp người bán không bị chia sẻ lợi nhuận.
+ Giúp xây dựng các chiến lược tiếp thị quốc tế phù hợp.
- Nhược điểm của xuất khẩu trực tiếp:
+ Chi phí tiếp thị ở thị trường nước ngoài cao cho nên những doanh
nghiệp có quy mô nhỏ, ít vốn thì nên xuất khẩu uỷ thác có lợi hơn.
+ Kinh doanh xuất khẩu trực tiếp đòi hỏi phải có những cán bộ có nghiệp
vụ kinh doanh xuất nhập khẩu giỏi: không những giỏi về giao dịch đàm phán mà
còn phải am hiểu và có kinh nghiệm buôn bán quốc tế đặc biệt là nghiệp vụ
thanh toán quốc tế thông thạo, có như vậy thì mới đảm bảo cho hoạt động kinh
doanh xuất khẩu trực tiếp có hiệu quả. Đây vừa là một yêu cầu đảm bảo cho hoạt
động kinh doanh xuất khẩu trực tiếp lại vừa thể hiện điểm yếu của đa số các
doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào sân chơi thương mại quốc tế này.
- Cách thức tiến hành xuất khẩu trực tiếp:
Để tiến hành xuất khẩu trực tiếp cần:
+ Nghiên cứu thị trường, thương nhân.
Nguyễn Thị Năm Lớp: Kinh tế quốc tế 46
6
Luận văn tốt nghiệp
+ Đánh giá hiệu quả của thương vụ kinh doanh thông qua việc xác định
các tỷ giá xuất khẩu và tỷ giá nhập khẩu. Chỉ thực hiện kinh doanh khi tỷ giá
xuất khẩu nhỏ hơn tỷ giá hối đoái.
+ Tổ chức các giao dịch đàm phán qua các hình thức: thư tín hỏi hàng,

báo giá, chào hàng, hoàn giá…hoặc gặp gỡ trực tiếp để đàm phán, thoả thuận, ký
kết hợp đồng.
+ Thực hiện ký kết hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu.
+ Tổ chức thực hiện hợp đồng mà hai bên đã ký.
1.1.2.2. Hình thức xuất khẩu gián tiếp
- Khái niệm: Hình thức xuất khẩu gián tiếp hay giao dịch qua trung gian là
hình thức mua bán quốc tế được thực hiện khi nhờ sự giúp đỡ của trung gian thứ
ba. Người này được hưởng một khoản tiền nhất định.
- Các trung gian phổ biến trong giao dịch quốc tế là các đại lý, môi giới.
+ Đại lý là người hoặc một công ty uỷ thác cho người khác, công ty khác
thực hiện mua bán hoặc dịch vụ phục vụ cho việc mua bán như quảng cáo, vận
tải và bảo hiểm.
+ Môi gới thường là thương nhân trung gian giữa bên mua và bên bán uỷ
thác tiến hành bán hoặc mua hàng hoá hay dịch vụ. Khi tiến hành nghiệp vụ môi
giới, người môi giới không đứng tên của mình mà đứng tên của người uỷ thác
không chiếm hữu hàng hoá và không chịu trách nhiệm cá nhân trước người uỷ
thác về việc khách hàng không thực hiện hợp đồng.
- Ưu điểm của xuất khẩu gián tiếp:
+ Người trung gian thường là những người am hiểu thị trường xâm nhập,
pháp luật, tập quán buôn bán của địa phương cho nên họ có khả năng đẩy mạnh
buôn bán và tránh bớt những rủi ro cho người uỷ thác.
Nguyễn Thị Năm Lớp: Kinh tế quốc tế 46
7
Luận văn tốt nghiệp
+ Những người trung gian nhất là các đại lý thường có cơ sở vật chất nhất
định do vậy khi sử dụng họ người uỷ thác đỡ phải đầu tư trực tiếp ra nước nhập
khẩu.
+ Nhờ những dịch vụ trung gian trong việc lựa chọn phân loại, đóng gói
mà người uỷ thác có thể giảm bớt chi phí vận tải.
- Nhược điểm:

+ Công ty tham gia kinh doanh xuất khẩu sẽ mất đi sự liên hệ với thị
trường.
+ Vốn thường có thể bị bên đại lý chiếm dụng.
+ Công ty phải đáp ứng những nhu cầu mà bên đại lý và môi giới đưa ra.
+ Lợi nhuận bị chia sẻ là chuyện không thể tránh khỏi.
Do những ưu điểm và nhược điểm trên cho nên trung gian chỉ được sử
dụng trong những điều kiện cần thiết như sau: khi thâm nhập vào thị trường mới,
khi tập quán đòi hỏi bán hàng qua trung gian và khi mặt hàng cần có sự chăm
sóc đặc biệt như hàng tươi sống, dễ hỏng…
Sau khi đã xác định nhất định phải sử dụng đại lý, các doanh nghiệp cần
nghiên cứu một cách kỹ lưỡng những vấn đề như mặt hàng uỷ thác tiêu thụ là
mặt hàng nào? thời gian uỷ thác là bao nhiêu?
1.1.2.3. Buôn bán đối lưu
- Khái niệm: Buôn bán đối lưu là hình thức giao dịch trong đó xuất khẩu
kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu; người bán hàng đồng thời là người mua hàng và
lượng hàng hoá đem trao đổi với nhau có giá trị tương đương. Ở đây, mục đích
của xuất khẩu không nhằm thu ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng hoá có
giá trị tương đương.
- Hình thức buôn bán đối lưu chủ yếu:
+ Hàng đổi hàng: hai bên trao đổi hàng hoá có giá trị tương nhau, việc
giao hàng diễn ra đồng thời.
Nguyễn Thị Năm Lớp: Kinh tế quốc tế 46
8
Luận văn tốt nghiệp
+ Trao đổi bù trừ: hai bên trao đổi hàng hoá dựa trên cơ sở ghi giá trị hàng
giao, đến cuối kỳ hạn hai bên mới so sánh đối chiếu giữa giá trị hàng giao và
hàng nhận. Nếu sau khi bù trừ tiền hàng như vậy mà còn số dư thì tiền đó sẽ
được giữ lại để chi trả theo yêu cầu của bên chủ nợ và những khoản chi tiêu của
bên chủ tại nước bị nợ.
- Dù tiến hành theo hình thức nào các bên cũng phải tôn trọng nguyên tắc

cân bằng. Nguyên tắc này được thể hiện:
+ Cân bằng về mặt hàng: hàng quý đổi lấy hàng quý, hàng ế thừa đổi lấy
hàng ế thừa
+ Cân bằng giá cả: cùng tính cao hơn hay thấp hơn giá cả quốc tế.
+ Cân bằng điều kiện giao dịch: cùng giao FOB cảng đi hay cùng giao
CIF cảng đến
+ Cân bằng về tổng giá trị hàng hoá mà các bên giao cho nhau.
1.1.2.4. Gia công quốc tế
- Khái niệm: gia công xuất khẩu là phương thức sản xuất hàng xuất khẩu
trong đó người đặt gia công ở nước ngoài cung cấp: máy móc, thiết bị, nguyên
phụ liệu hay bán thành phẩm theo mẫu và định mức cho trước. Người nhận gia
công trong nước tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm theo yêu cầu của khách
hàng. Sau khi các sản phẩm được làm ra người nhận gia công sẽ giao lại cho
người đặt gia công và nhận một khoản tiền gọi là phí gia công.
- Ưu điểm của gia công xuất khẩu:
+ Thị trường tiêu thụ sẵn có, không phải lo chi phí cho hoạt động bán sản
phẩm đầu ra.
+ Vốn đầu tư cho sản xuất là nhỏ.
+ Tạo được công ăn việc làm cho người lao động.
+ Học tập được kinh nghiệm sản xuất của nước ngoài, tạo được mẫu mã
bao bì cho các sản phẩm của mình.
Nguyễn Thị Năm Lớp: Kinh tế quốc tế 46
9
Luận văn tốt nghiệp
- Nhược điểm:
+Tính bị động cao: do toàn bộ hoạt động của các doanh nghiệp phụ thuộc
vào bên đặt gia công về thị trường, giá bán, giá đặt gia công, nguyên vật liệu,
mẫu mã, nhãn mác của sản phẩm…
+ Nhiều trường hợp bên nước ngoài lợi dụng gia công để bán máy móc
cho nước nhận gia công, sau một thời gian không đặt gia công nữa gây tổn thất,

lãng phí cho bên nhận gia công.
+ Nhiều trường hợp bên nước ngoài lợi dụng gia công để bán lại các máy
móc cũ, lạc hậu cho bên nhận gia công làm ô nhiễm môi trường.
+ Do sự lợi dụng của bên đặt gia công để được hưởng ưu đãi từ phía nước
nhận gia công.
+ Nhiều doanh nghiệp nước ngoài còn lợi dụng gia công để tìm ra sơ hở
trốn thuế gây tổn hại cho nước nhận gia công.
+ Do tính cạnh tranh gia công ở nội địa ngày càng gay gắt làm cho giá gia
công giảm sụt.
1.1.2.5. Tái xuất khẩu
- Khái niệm: tái xuất khẩu là hình thức thực hiện xuất khẩu trở lại sang
nước khác những hàng hoá đã mua ở nước ngoài chưa qua chế biến ở nước tái
xuất.
- Mục đích của giao dịch này là thu chênh lệch giá mua đi- bán lại, mua
rẻ- bán đắt.
- Các hình thức của tái xuất khẩu:
+ Kinh doanh chuyển khẩu: đây là hình thức mà hàng hoá từ nước xuất
khẩu trực tiếp sang nước nhập khẩu. Nước tái xuất trả tiền cho nước xuất khẩu,
thu tiền của nước nhập khẩu.
+Tạm nhập, tái xuất: hàng hoá đi từ nước xuất khẩu đến nước tái xuất, lại
được nước tái xuất xuất khẩu sang nước nhập khẩu.
Nguyễn Thị Năm Lớp: Kinh tế quốc tế 46
10
Luận văn tốt nghiệp
- Ưu điểm của tái xuất khẩu là rủi ro ít do nhà xuất khẩu chỉ đóng vai trò
xuất khẩu hàng hoá sang nước thứ hai, nước thứ hai có vai trò là một trung gian
vì thế rủi ro lúc này được san sẻ.
- Nhược điểm là lợi nhuận mà các nhà xuất khẩu thu được thấp do các chi
phí về dịch vụ vận tải, bến bãi…là tương đối lớn.
1.1.2.6. Xuất khẩu tại chỗ

- Xuất khẩu tại chỗ là hình thức bán hàng cho nước ngoài ngay trên lãnh
thổ nước mình.
- Ưu điểm: do bán hàng hoá ngay trên lãnh thổ nước mình cho nên các
nhà xuất khẩu tại chỗ ít gặp rủi ro về chính trị, pháp luật, vận chuyển…Do đó
tiết kiệm được chi phí giao dịch, vận chuyển.
- Nhược điểm: số lượng hàng hoá bán được không lớn do mảng thị trường
này chỉ gồm những người nước ngoài đi du lịch hoặc làm việc tại nước xuất
khẩu tiêu thụ.
Tóm lại, mỗi một hình thức xuất khẩu đều mang lại những hiệu quả
cũng như những hạn chế, khó khăn nhất định. Vì vậy, đứng ở góc độ nhà xuất
khẩu, Việt Nam cần có những chiến lược, định hướng lựa chọn phù hợp với sự
phát triển kinh tế, khả năng, năng lực của Việt Nam để thu được hiệu quả kinh tế
cao nhất góp phần vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế của đất nước trong giai đoạn
hiện nay.
1.1.3. Các bước tiến hành xuất khẩu
1.1.3.1. Nghiên cứu và tiếp cận thị trường
- Trên thực tế, trong sân chơi thương mại quốc tế ngày càng diễn ra sự
cạnh tranh gay gắt, khốc liệt. Bước vào giai đoạn toàn cầu hoá, mở cửa nền kinh
tế, hiện đại hoá đất nước hướng về xuất khẩu, các doanh nghiệp, các nhà xuất
khẩu Việt Nam nói riêng cần có sự nghiên cứu, tìm hiểu kỹ lưỡng thị trường
trước khi quyết định xuất khẩu hàng hoá của nước mình. Những thông tin về thị
Nguyễn Thị Năm Lớp: Kinh tế quốc tế 46
11
Luận văn tốt nghiệp
trường là tiền đề cho chiến lược kinh doanh của các nước xuất khẩu. Bởi lẽ khai
thác được những thông tin này chính là biết được môi trường, nhu cầu, thị hiếu,
thói quen tiêu dùng của khách hàng, để từ đó biết được cần xuất khẩu mặt hàng
gì? đối tượng xuất khẩu nào? ở đâu? đối thủ cạnh tranh là ai?
- Sau khi thu thập, xử lý thông tin do thị trường cung cấp, các nhà xuất
khẩu cần đưa ra những phương pháp nhất định để tiếp cận thị trường nước nhập

khẩu. Phương pháp phổ biến như qua báo chí, đài, mạng Internet, các hội chợ,
triển lãm, qua các trung tâm xúc tiến thương mại để từ đó quảng bá hình ảnh về
nước xuất khẩu cũng như những sản phẩm xuất khẩu.
Kết quả của quá trính thu thập, nghiên cứu và tiếp cận thị trường là một
định hướng kinh doanh với nội dung chính là đặt ra được hai câu hỏi: xuất khẩu
hàng hóa gì? xuất khẩu đi đâu?
1.1.3.2. Lập phương án kinh doanh
- Sau khi đã có được định hướng kinh doanh, nhà xuất khẩu cần lập ra cho
mình một kế hoạch kinh doanh cụ thể. Trước hết, trong kế hoạch kinh doanh đó
phải có mặt của nội dung sau: xuất khẩu hàng hoá gì? thời gian xuất khẩu? đối
tác xuất khẩu? đối thủ cạnh tranh? chiến lược quảng cáo? lợi nhuận dự kiến? khó
khăn khi thực hiện thương vụ kinh doanh này? giải pháp khắc phục các khó
khăn đó là gì?
1.1.3.3. Giao dịch, đàm phán ký kết hợp đồng
- Sau khi các nhà xuất khẩu tìm kiếm được đối tác và thị trường xuất khẩu
thì hai bên phải tiến hành các giao dịch đàm phán với nhau về mặt hàng xuất
khẩu , thời gian tiến hành xuất khẩu, các hình thức vận chuyển, thanh toán để từ
đó đi đến ký kết hợp đồng ngoại thương.
- Các hình thức đàm phán:
+ Đàm phán bằng thư tín
+ Đàm phán qua điện thoại
Nguyễn Thị Năm Lớp: Kinh tế quốc tế 46
12
Luận văn tốt nghiệp
+ Gặp mặt trực tiếp để đàm phán
Với những hình thức đàm phán trên, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà các
doanh nghiệp có thể lựa chọn cho mình phương thức đàm phán phù hợp nhất,
hiệu quả nhất. Muốn vậy, nhà kinh doanh ngoại thương cần nắm vững ba cơ sở:
pháp luật, thông tin và năng lực của người đi đàm phán.
1.1.3.4. Thực hiện hợp đồng

- Khi hoàn tất các thủ tục, công đoạn của quá trình xuất khẩu như xin giấy
phép xuất khẩu, chuẩn bị hàng hoá, kiểm tra chất lượng hàng hoá, các thủ tục hải
quan, thủ tục thanh toán…chính là thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Trong quá
trình thực hiện hợp đồng cần chú ý đến các điều khoản mà hai bên đã ký kết để
tránh, giảm tranh chấp ngoại thương cho cả hai bên, từ đó hợp dồng sẽ được
thực hiện một cách nhanh chóng và mang lại hiệu quả.
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình xuất khẩu
Quá trình xuất khẩu hàng hoá của một quốc gia phụ thuộc vào nhiều yếu
tố, trong đó có những yếu tố cơ bản sau đây:
1.1.4.1. Yếu tố kinh tế
- Thị trường cần có sức mua, cũng như cần có người mua. Sự thay đổi của
các yếu tố như thu nhập, chi phí sinh hoạt, lãi suất và kết cấu tiết kiệm của một
quốc gia có tác động tức thời đến thương trường cho nên các nhà quản trị cần
hiểu rõ những khuynh hướng chính yếu diễn ra các vấn đề này. Một yếu tố cơ
bản để phản ánh bề rộng của thị trường tiềm năng đó là dân số mà quan trọng
hơn nữa là họ phải nghiên cứu, so sánh tốc độ của GNP tăng so với tốc độ tăng
dân số để dự đoán khả năng tiêu thụ và mở rộng thị trường của quốc gia mình.
Theo đó, các nhà nghiên cứu cần phải nghiên cứu mức phân bố theo tuổi, đặc
tính phân phối thu nhập ở đó.
- Một trong những yếu tố khác chính là đặc điểm khác nhau của các nền
kinh tế. Chẳng hạn như quốc gia mà nền kinh tế còn chưa phát triển thì việc nghĩ
Nguyễn Thị Năm Lớp: Kinh tế quốc tế 46
13
Luận văn tốt nghiệp
đến hoạt động xuất khẩu là ít, còn một quốc gia có nền kinh tế mở cửa, đang
trong quá trình CNH- HĐH có chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu thì kim
ngạch xuất khẩu sẽ chiếm phần nhiều trong tổng sản phẩm quốc nội của nước
đó. Bởi lẽ, với chiến lược này cơ hội kinh doanh cho các công ty, các nhà xuất
khẩu là rất lớn. Cũng với chiến lược đó việc dự báo những biến động kinh tế, các
hoạt động xúc tiến của cơ quan quản lý nhà nước đã giúp các nhà xuất khẩu vượt

qua những khó khăn mà thị trường mới mang lại.
1.1.4.2. Môi trường văn hoá- xã hội
- Con người thường lớn lên từ một môi trường xã hội nhất định nào đó.
Đó là cái nôi hình thành những nhân cách, những niềm tin cơ bản, những tiêu
chuẩn và cả những giá trị tiêu chuẩn của họ. Văn hoá- xã hội là yếu tố có ảnh
hưởng rất lớn đến quá trình buôn bán, tiếp thị hàng hoá của các doanh nghiệp,
các quốc gia. Điều đó thể hiện:
+ Tính bền vững của các giá trị văn hoá cốt lõi: ở đâu cũng vậy, mỗi
người dân đều lưu giữ một giá trị và một niềm tin khác nhau, có tính gốc rễ và
trường tồn theo thời gian. Chính điều đó dã hình thành nên thói quen, thị hiếu
tiêu dùng cho họ. Cho nên các nhà xuất khẩu phải nắm được đặc điểm này để từ
đó biết được thị trường trọng điểm của mình.
1.1.4.3. Môi trường chính trị
- Các quyết định kinh doanh chịu tác động mạnh mẽ từ những thay đổi
trong môi trường chính trị và pháp luật. Môi trường này được tạo ra từ các luật
lệ, các cơ quan, chính quyền, chính phủ. Khi tham gia các hoạt động kinh doanh,
các nhà kinh doanh đều sợ nhất rủi ro về chính trị. Một chủ thể tham gia xuất
khẩu khi xuất khẩu sang một đất nước có môi trường chính trị ổn định cũng có
nghĩa là họ đã tránh được rất nhiều rủi ro tiềm tàng gây tổn thất cho họ. Ngược
lại khi xuất khẩu sang một nước có môi trường đầy biến động, chiến tranh, sự
Nguyễn Thị Năm Lớp: Kinh tế quốc tế 46
14
Luận văn tốt nghiệp
thay đổi trong các chính sách kinh tế vĩ mô…thì rủi ro mà các nhà xuất khẩu gặp
phải chính là lợi nhuận thu được sẽ thấp hơn rất nhiều.
1.1.4.4. Môi trường pháp luật
Môi trường pháp luật cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu. Chính vì vậy, các nhà kinh doanh xuất khẩu
cần hiểu rõ quy định về pháp luật của chính quốc gia mình và của nước đối tác,
đặc biệt là các thông lệ quốc tế liên quan đến lĩnh vực xuất nhập khẩu. Một số

yếu tố như các công cụ quản lý của nhà nước, các quy định về giấy phép xuất
khẩu, mặt hàng được phép xuất khẩu, mặt hàng không được phép xuất khẩu,
thuế quan, các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm…Một số các công cụ sau
đây thường được sử dụng:
- Công cụ thuế quan: thuế xuất khẩu, đây là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị
hàng hoá xuất khẩu của quốc gia xuất khẩu. Loại thuế này có ảnh hưởng trực
tiếp đến giá cả của hàng hoá xuất khẩu. Chính vì vậy, các doanh nghiệp xuất
khẩu cần nắm vững loại thuế này để có những chiến lược trong sản xuất kinh
doanh., thâm nhập thị trường sao cho tạo được mức giá cạnh tranh nhất.
- Công cụ phi thuế quan: Đây cũng là một công cụ để khuyến khích hay
hạn chế xuất khẩu hoặc nhập khẩu. Công cụ này bao gồm:
+ Hạn ngạch: do nhà nước đặt ra nhằm quy định số lượng hàng hoá cao
nhất của một mặt hàng hay một nhóm mặt hàng được phép xuất khẩu hoặc nhập
khẩu từ một quốc gia trong một thời gian nhất định. Đây là công cụ nhằm hạn
chế hàng hoá xuất khẩu thâm nhập từ thị trường bên ngoài vào thị trường nội địa
của một quốc gia.
+ Hạn chế xuất khẩu tự nguyện: là biện pháp mà một quốc gia đưa ra
nhằm hạn chế lượng hàng hoá của một nước thâm nhập vào quốc gia của mình
một cách tự nguyện, nếu không thực hiện sự tự nguyện này thì quốc gia xuất
khẩu sẽ có thể bị quốc gia nhập khẩu áp dụng các biện pháp trả đũa.
Nguyễn Thị Năm Lớp: Kinh tế quốc tế 46
15
Luận văn tốt nghiệp
+ Quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật: bao gồm những quy định về vệ sinh an
toàn thực phẩm, các quy tắc xuất xứ, nhãn mác sinh thái của hàng hoá, các quy
định về an toàn và các chế độ của người lao động…Những tiêu chuẩn này đã và
đang dần dần thay thế cho các công cụ hành chính như thuế quan, hạn ngạch, nó
được coi như một công cụ bảo hộ các nhà sản xuất trong nước một cách tinh vi
vì nó không vi phạm các thông lệ quốc tế. Do đó các nhà xuất khẩu cần nắm
vững được những quy định này để đảm bảo các sản phẩm mà mình xuất khẩu

tuân thủ một cách chặt chẽ yêu cầu nước nhập khẩu đặt ra để tránh những rủi ro
đáng tiếc gây tổn thất cho doanh nghiệp của mình.
+ Ngoài ra các nước nhập khẩu còn áp dụng các công cụ khác như biện
pháp trả đũa, các quy định về chống bán phá giá, các công cụ trên thị trường tiền
tệ…Tất cả những công cụ đó đều mang đến cho các nhà xuất khẩu những rủi ro
khi thực hiện các thương vụ kinh doanh. Chính vì vậy các nhà xuất khẩu cần tỉnh
táo và sáng suốt để lựa chọn cho mình một thị trường, một đối tác xuất khẩu
tiềm năng.
1.1.4.5. Yếu tố cạnh tranh
- Thị trường mục tiêu nước ngoài ít và hiếm khi là một không gian thuần
khiết cho mọi sự hiện diện thương mại. Các nhà sản xuất và các nhà nhập khẩu
nội địa thường hợp tác lại với nhau hình thành nên một thị trường nội địa khó
khăn hơn cho các nhà xuất khẩu. Khi thâm nhập vào thị trường nội địa, các nhà
xuất khẩu có thể gặp phải các đối thủ cạnh tranh mạnh hay yếu khác nhau, nếu
các nhà xuất khẩu không nắm được những vấn đề về đối thủ của mình sẽ khó
lòng thâm nhập được vào thị trường nội địa một cách suôn sẻ.
- Để hoạch định được một chiến lược cạnh tranh chi tiết, các nhà quản trị
marketing còn phải nghiên cứu các nhân tố tác động đến cạnh tranh. Sản phẩm
tương tự là một nhân tố tác động trực tiếp và rõ nét nhất đến cạnh tranh, tiếp đó
là nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng, các yếu tố về pháp luật, chính trị…
Nguyễn Thị Năm Lớp: Kinh tế quốc tế 46
16
Luận văn tốt nghiệp
doanh nghiệp có tồn tại được hay không là phụ thuộc vào cách xử lý, ứng phó
với các tình huống thực tế.
- Hầu hết các doanh nghiệp của Việt Nam đều là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ nên sức cạnh tranh của các hàng hoá sản xuất ra là thấp. Mặt khác, các thông
tin về kinh doanh trong các doanh nghiệp cũng chưa được cung cấp đầy đủ và
kịp thời, các thông tin mà các doanh nghiệp nhận được thường có độ trễ rất lớn,
do đó khi các doanh nghiệp nắm bắt được thông tin này trong tay thì có lẽ thông

tin đó đã không còn giá trị nữa. Điều đó lại một lần nữa nói lên rằng yếu tố cạnh
tranh là vô cùng quan trọng, để có một năng lực cạnh tranh tốt các doanh nghiệp
cần nhanh nhạy, hiểu biết đồng thời cần có sự trợ giúp thực sự từ phía chính phủ.
1.1.5. Vai trò của việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
- Cùng với chiến lược hội nhập và phát triển nền kinh tế, thương mại quốc
tế là một trong những bộ phận quan trọng, gắn liền với quá trình hội nhập và có
vai trò quyết định lợi thế, vị thế của một quốc gia trên thị trường khu vực và trên
thế giới. Do đó, việc thúc đẩy giao lưu thương mại quốc tế nói chung và thúc đẩy
xuất khẩu nói riêng là mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế hàng đầu của một
quốc gia. Một thực tế trên thế giới đã cho thấy rõ điều này. Thúc đẩy xuất khẩu
hàng hoá như một động lực phát triển nền kinh tế. Vai trò đó thể hiện như sau:
1.1.5.1. Xuất khẩu là nhân tố tạo điều kiện cho quốc gia tận dụng được lợi thế so
sánh của quốc gia mình
- Khi kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng cao, điều đó đồng nghĩa với
việc sức cạnh tranh của hàng hoá của quốc gia xuất khẩu là lớn. Chính điều đó
đưa nền kinh tế vào vận hành trong một vòng quay ổn định và bền vững hơn. Vì
khi các nước xuất khẩu được nhiều hàng hoá có sức cạnh tranh cao là khi mà họ
tận dụng và phân bổ được tối đa nguồn lực, lợi thế so sánh của họ với các nước
Nguyễn Thị Năm Lớp: Kinh tế quốc tế 46
17
Luận văn tốt nghiệp
khác. Quá trình đó là bước đệm để cho tất cả các nước đặc biệt là các nước đang
phát triển nhanh chóng bước vào quá trình CNH- HĐH đất nước.
1.1.5.2. Xuất khẩu hàng hoá tạo ra nguồn thu ngoại tệ, nguồn vốn chủ yếu cho
việc nhập khẩu công nghệ, máy móc, nguyên vật liệu cần thiết phục vụ cho quá
trình CNH- HĐH đất nước
- Hoạt động xuất khẩu là hoạt động kích thích nền kinh tế phát triển, nó
góp phần tăng nguồn vốn tích luỹ, tăng thu ngoại tệ, tăng tổng thu nhập quốc
dân, tăng mức sống của dân cư. Không chỉ thế, ngoại tệ và số vốn mà nền kinh

tế tích luỹ được qua xuất khẩu sẽ được dùng để mua máy móc, nguyên vật liệu,
thây đổi các công nghệ cũ, lạc hậu đáp ứng nhu cầu thiết yếu của CNH- HĐH
đất nước.
1.1.5.3. Xuất khẩu hàng hoá là nhân tố tác động tích cực đến việc dịch chuyển cơ
cấu nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất sản phẩm
- Các ngành sản xuất hàng hoá xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành
khác phát triển thuận lợi. Chẳng hạn khi phát triển ngành dệt may phát triển thì
sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngành xuất khẩu nguyên liệu như bông hay thuốc
nhuộm. Sự phát triển của ngành chế biến thực phẩm phát triển sẽ kéo theo sự
phát triển của ngành công nghiệ chế tạo ra các máy móc, thiết bị phục vụ nó.
- Xuất khẩu là nhân tố mở rộng thị trường tiêu thụ, nhờ đó mà các ngành
sản xuất có thể phát triển và ổn định.
- Xuất khẩu tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh cho các ngành sản
xuất, tìm kiếm được đối tác cung cấp nguồn đầu vào phục vụ cho sản xuất nội
địa.
- Xuất khẩu là phương tiện tạo ra nguồn vốn và công nghệ từ thế giới vào
nội địa nước xuất khẩu nhằm hiện đại hoá nền kinh tế, mở ra một năng lực sản
xuất mới.
Nguyễn Thị Năm Lớp: Kinh tế quốc tế 46
18
Luận văn tốt nghiệp
- Xuất khẩu là cầu nối để đưa hàng hoá nội địa ra cạnh tranh với hàng hoá
thế giới về chất lượng, giá cả thị phần…cuộc cạnh tranh này đòi hỏi các nước
tham gia xuất khẩu không ngừng tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất
thích ứng, phù hợp với những đòi hỏi và yêu cầu của thị trường.
1.1.5.4. Xuất khẩu góp phần tích cực vào việc tạo công ăn việc làm cho người lao
động và nâng cao đời sống của nhân dân
- Xuất khẩu phát triển chính là nơi thu hút hàng nghìn lao động với thu
nhập cao. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá làm cho
rổ hàng hoá trong nước trở nên phong phú, đáp ứng thêm nhu cầu của người

dân, đó là giúp nâng cao đời sống của nhân dân. Không chỉ vậy, xuất khẩu còn
giúp nâng cao tay nghề của người lao động, tạo ra một tác phong, kỷ luật mới
cho người lao động sản xuất ra hàng xuất khẩu.
1.1.5.5. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, nâng
cao vị thế kinh tế của mỗi quốc gia trên trường quốc tế
- Thực tế Việt Nam đã thiết lập quan hệ buôn bán với trên 100 quốc gia
trên thế giới. Sự phát triển không ngừng của hoạt động xuất khẩu của Việt Nam
trong suốt thời gian qua đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế nói
chung mà còn là nhân tố tích cực để thúc đẩy sự phát triển của các quan hệ hợp
tác quốc tế. Hiện nay Việt Nam đã xây dựng được một quy mô các mặt hàng
xuất khẩu tương đối lớn và ngày càng được thị trường thế giới công nhận như:
cà phê, dầu khí, gạo, thuỷ sản, hàng dệt may,…Việc xây dựng được một số mặt
hàng có quy mô lớn nói trên đã cho phép Việt Nam khai thác được lợi thế so
sánh của nền kinh tế Việt Nam và đồng thời tích luỹ được bài học kinh nghiệm
quan trọng cho việc đổi mới và hình thành cơ cấu xuất khẩu có hiệu quả kinh tế
lớn phù hợp cho bước chuyển đổi của nền kinh tế trong những giai đoạn tiếp
theo.
Nguyễn Thị Năm Lớp: Kinh tế quốc tế 46
19
Luận văn tốt nghiệp
1.1.6. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động xuất khẩu
- Có rất nhiều chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của hoạt động xuất khẩu. Sau đây
chúng ta có thể xem xét một số chỉ tiêu sau:
+ Thứ nhất, xét kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của mỗi nước. Cụ thể hơn
là, nước xuất khẩu đó đã xuất khẩu được bao nhiêu hàng hoá, khối lượng và trị
giá là bao nhiêu. Nếu kim ngạch xuất khẩu càng lớn chứng tỏ hiệu quả xuất khẩu
càng cao. Hơn thế nữa, kim ngạch cao và trị giá của hàng hoá đem xuất khẩu là
lớn thì điều đó càng chứng tỏ chiến lược hướng về xuất khẩu của quốc gia đó.
+ Thứ hai, tốc độ tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu. Hoạt động xuất
khẩu của một nước là hiệu quả khi kim ngạch xuất khẩu của nước đó liên tục

tăng qua các năm, hoặc duy trì được một sự gia tăng ổn định qua các năm và các
thời kỳ. Sự tăng giảm không đều và bất thường trong kim ngạch xuất khẩu là
dấu hiệu cho biết những tồn tại trong hoạt động này, hay hoạt động xuất khẩu
không đạt được hiệu quả như mong muốn.
+ Thứ ba, sự cân bằng trong cán cân thương mại hay trong xuất khẩu và
nhập khẩu. Một nước có kim ngạch xuất khẩu lớn hơn kim ngạch nhập khẩu là
nước xuất siêu, thu được nhiều ngoại tệ cũng như đạt được hiệu quả trong hoạt
động xuất khẩu. Ngược lại, một nước mà nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu thì
nước đó là nước nhập siêu. Khi đạt được sự cân bằng trong thương mại quốc tế
thì hiệu quả của hoạt động xuất khẩu là rất tốt. Bởi lẽ khi đó cả hai hoạt động
này đều đáp ứng được mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của các nước.
+ Thứ bốn, thông qua cơ cấu mặt hàng xuất khẩu ta cũng có thể đánh giá
được hiệu quả của hoạt động xuất khẩu của một nước. Khi các hàng hoá xuất
khẩu là những hàng hoá có hàm lượng công nghệ cao, khoa học kỹ thuật được
áp dụng để sản xuất ra những hàng hoá đó là hiện đại thì một điều tất nhiên là
hàng hoá đó sẽ mang lại nguồn thu lớn cho nước xuất khẩu nếu đó là hàng hoá
mà con người ưa chuộng. Bên cạnh đó, các hàng hoá dưới dạng thô, chỉ sơ chế,
Nguyễn Thị Năm Lớp: Kinh tế quốc tế 46
20
Luận văn tốt nghiệp
chưa qua chế biến thường giá trị rất thấp, hơn nữa nó còn là mầm mống làm cạn
kiệt tài nguyên thiên nhiên của nước xuất khẩu, giảm và mất dần khả năng cạnh
tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế. Qua cơ cấu mặt hàng xuất khẩu này
ta có thể thấy được trình độ phát triển của các quốc gia. Rõ ràng những quốc gia
phát triển, có khoa học kỹ thuật hiện đại, nguồn vốn khổng lồ, nguồn nhân lực
trình độ cao, thì sẽ sản xuất ra những sản phẩm công nghệ cao, hiện đại theo kịp
sự phát triển cũng như nhu cầu của con người. Còn những nước đang và kém
phát triển, trình độ lạc hậu, khan hiếm vốn, song lại có tài nguyên thiên nhiên thì
điều tất nhiên là họ sẽ xuất khẩu những hàng hoá có nguồn gốc từ thiên nhiên,
chỉ qua sơ chế, thậm chí là sản phẩm thô.

+ Thứ năm, hình thức buôn bán cũng cho ta thấy được hiệu quả của hoạt
động xuất khẩu. Khi nước tham gia xuất khẩu chủ yếu qua hoạt động buôn bán
chính ngạch thì sẽ giảm thiểu được những rủi ro trong thương mại, tránh thiệt hại
cho nước mình. Bởi lẽ, khi tham gia hoạt động buôn bán này, ngoài việc các nhà
kinh doanh xuất nhập khẩu phải tuân thủ những quy định pháp luật của hai nước
nói riêng còn phải tuân thủ theo các thông lệ quốc tế nói chung một cách nghiêm
túc, đây là cơ sở để hai bên giảm thiểu được nhiều rủi ro trong các thương vụ
kinh doanh, do đó mang lại hiệu quả cao. Ngược lại, nếu các nước xuất khẩu
buôn bán thông qua hoạt động tiểu ngạch thì rủi ro mang lại là rất lớn. Chính
những rủi ro này làm thiệt hại và giảm đi rất nhiều hiệu quả do hoạt động xuất
khẩu mang lại.
* Như vậy, với năm chỉ tiêu trên các quốc gia tham gia kinh doanh xuất
khẩu có thể dựa vào đó để điều chỉnh hoạt động xuất khẩu của mình sao cho
hoạt động xuất khẩu mang lại hiệu quả cao nhất đáp ứng mục tiêu, chiến lược
phát triển kinh tế- xã hội mà quốc gia mình đã đề ra.
Nguyễn Thị Năm Lớp: Kinh tế quốc tế 46
21
Luận văn tốt nghiệp
1.2. Cơ sở lý kuận của việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.1. Các lý thuyết chính về thương mại quốc tế
1.2.1.1. Mô hình cổ điển về lợi thế so sánh
* Trên thực tế, người ta luôn đặt ra một câu hỏi: tại sao người ta lại phải
buôn bán? Về cơ bản là vì buôn bán là việc mang lại nguồn lợi nhuận. Hơn nữa,
con người ta có những khả năng và các nguồn lực khác nhau và họ muốn tiêu
dùng loại hàng hoá với số lượng khác nhau. Điều này được quy định bởi sở thích
khác nhau và những cơ sở vật chất khác nhau. Con người thường thấy có lời khi
họ đem buôn bán những thứ mà họ có số lượng lớn (so với thị hiếu và nhu cầu
của họ) để đổi lấy những thứ mà họ cần. Vì mỗi cá nhân hay gia đình đều không
thể tự đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính họ, họ chỉ thấy có lợi khi tham gia

những hoạt động phù hợp với họ nhất hoặc có một lợi thế so sánh nào đó về khả
năng tự nhiên hay nguồn lực của mình. Khi đó họ có thể trao đổi lượng hàng hoá
dư thừa của mình để đổi lấy những sản phẩm mà họ không có hoặc người khác
sản xuất ra chúng dễ dàng hơn. Do vậy, xét trên một chừng mực nào đó, hiện
tượng chuyên môn hoá dựa trên lợi thế so sánh đã nảy sinh.
* Thương mại quốc tế cũng xuất hiện từ sự đa dạng hoá nền sản xuất giữa
các nước. Khi tham gia thương mại quốc tế, tất cả các nước đều có xu hướng
chuyên môn hoá một số sản phẩm mà mình có điều kiện sản xuất thuận lợi nhất
hoặc thuận lợi hơn người khác mà nhờ đó có thể giảm giá bán sản phẩm, tạo ra
sức cạnh tranh về giá cả so với các nước khác. Điều đó có nghĩa là các nước
nhập khẩu nên nhập khẩu những sản phẩm mà mình không có điều kiện sản xuất
hoặc hiệu quả thấp, đồng thời nước đem xuất khẩu phải xuất khẩu những sản
phẩm mà mình có lợi thế, có hiệu quả cao. Tuy nhiên cần phải xem xét nhu cầu
thị trường thế giới về sản phẩm đó để đảm bảo được sức cạnh tranh của sản
Nguyễn Thị Năm Lớp: Kinh tế quốc tế 46
22
Luận văn tốt nghiệp
phẩm. Tất cả những điều đó được thể hiện rõ trong hai học thuyết của hai nhà
kinh tế học cổ điển của Anh là Adam Smith và David Ricardo.
- Với học thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith, ta có thể xác định
được hướng chuyên môn hoá của các quốc gia. Lý thuyết này đã làm rõ căn cứ
để đánh giá khả năng xuất khẩu của các quốc gia khác nhau. Ta cũng quan sát ví
dụ sau:
- Giả sử việc trao đổi chỉ diễn ra giữa hai quốc gia là Việt Nam và Trung
Quốc, với hai hàng hoá là vải và gạo, chi phí vận chuyển bằng 0, lao động được
xem là yếu tố duy nhất, được di chuyển tự do giữa các ngành sản xuất trong
nước nhưng không được di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác, thị
trường coi như cạnh tranh hoàn hảo. Để sản xuất mỗi đơn vị vải và tôm, số lao
động mà mỗi quốc gia cần tới như sau:
Bảng 1.1: Lượng lao động mà mỗi quốc gia cần tới để sản xuất một đơn vị hàng

hoá ở mô hình lợi thế tuyệt đối của Adam.Smith
Sản phẩm Trung Quốc Việt Nam
1 đơn vị Vải 2 lao động 6 lao động
1 đơn vị Tôm 5 lao động 3 lao động
+ Khi chưa có thương mại quốc tế, thế giới chỉ gồm hai thị trường Trung
Quốc và Việt Nam. Mỗi nước tự sản xuất và tiêu dùng hàng hoá của mình. Theo
đó, ở Trung Quốc 1 vải = 0,4 tôm, ở Việt Nam 1 vải = 2 tôm. Ta thấy, Việt Nam
là nước có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất tôm, Trung Quốc có hiệu quả cao hơn
trong sản xuất vải. Khi hai nước chuyên môn hoá sản xuất mặt hàng có lợi thế
của mình và đem trao đổi thì cả hai quốc gia đều thu được lợi ích. Mô hình này,
chỉ ra hướng chuyên môn hoá sản xuất hàng hoá và trao đổi hàng hoá đó để
mang lại lợi ích hay sự giàu có cho quốc gia, song mô hình này không giải thích
được tại sao thương mại quốc tế vẫn diễn ra khi một quốc gia có lợi thế tuyệt đối
hay bất lợi tuyệt đối về sản xuất ra hàng hoá.
Nguyễn Thị Năm Lớp: Kinh tế quốc tế 46
23
Luận văn tốt nghiệp
- Học thuyết về lợi thế so sánh của Ricardo cho rằng phúc lợi của thế giới
(giả sử thế giới gồm hai nước) là lớn nhất khi mỗi nước xuất khẩu sản phẩm mà
chi phí sản xuất ở trong nước thấp hơn ở nước ngoài và nhập khẩu những hàng
hoá mà chi phí so sánh ở nước ngoài thấp hơn ở trong nước. Sau đây ta có thể
xem xét ví dụ:
+ Với giả thiết như trên, nhưng lượng lao động cần thiết để sản xuất ra
mỗi đơn vị hàng hoá là theo bảng sau:
Bảng 1.2: Lượng lao động cần thiết để sản xuất ra mỗi đơn vị hàng hoá ở mô
hình lợi thế so sánh của D.Ricardo
Sản phẩm Trung Quốc Việt Nam
1 đơn vị Vải 2 lao động 12 lao động
1 đơn vị Tôm 5 lao động 6 lao động
+ Theo bảng số liệu trên ta thấy, Trung Quốc cần một số lượng lao động ít

hơn so với Việt Nam để sản xuất ra cả hai loại hàng hoá. Nhưng với giả định
năng suất lao động ở mỗi ngành sản xuất là độc lập với mức sản lượng thì lợi thế
không hẳn hoàn toàn nghiêng về phía Trung Quốc. Quan sát tiếp bảng sau:
Bảng 1.3: Tỷ lệ so sánh giữa 2 hàng hoá ở mỗi quốc gia
Sản phẩm Trung Quốc Việt Nam
1 đơn vị vải 0,4 tôm 2 tôm
1 đơn vị tôm 2,5 vải 0,5 vải
+ Xét theo cách nhìn về lợi thế tuyệt đối thì Trung Quốc có lợi thế hơn
trong cả hai mặt hàng. Nhưng xét theo giá cả tương quan của hai hàng hoá này ta
thấy, Trung Quốc có lợi thế so sánh trong sản xuất vải, Việt Nam có lợi thế so
sánh trong sản xuất tôm. Nếu mỗi nước chuyên môn hoá sản xuất hàng hoá mà
mình có lợi thế rồi đem trao đổi thì cả hai quốc gia sẽ trở nên giàu có hơn. Theo
ví dụ trên ta thấy rất rõ, thay vì dùng 5 đơn vị lao động để sản xuất ra 1 đơn vị
tôm, Trung Quốc sử dụng 5 đơn vị lao động đó để sản xuất ra 2,5 đơn vị vải.
Nếu tỷ lệ trao đổi quốc tế bằng mức giá tương quan của Việt Nam là 1 vải = 2
tôm thì với 2,5 đơn vị vải đó Trung Quốc bán sang Việt Nam sẽ được 5 đơn vị
Nguyễn Thị Năm Lớp: Kinh tế quốc tế 46
24
Luận văn tốt nghiệp
tôm. Tức là Trung Quốc được lợi 4 đơn vị tôm, Việt Nam không được gì. Tương
tự, nếu Việt Nam sử dụng 12 đơn vị lao động để sản xuất 2 đơn vị tôm thay vì
sản xuất 1 đơn vị vải và bán sang Trung Quốc. Nếu tỷ lệ trao đổi quốc tế đúng
bằng mức giá tương quan ở Trung Quốc 1 tôm = 2,5 vải thì Việt Nam sẽ có lợi 4
đơn vị vải. Trường hợp tỷ lệ trao đổi quốc tế nằm giữa hai mức giá tương quan
của Trung Quốc và Việt Nam thì cả hai sẽ cùng thu được lợi ích.
1.2.1.2. Mô hình tân cổ điển ( mô hình Heckscher- Ohlin)
- Đây là mô hình về mối quan hệ giữa các yếu tố sẵn có và chuyên môn
hoá quốc tế. Lý thuyết này đã chứng minh rằng một nước sẽ thu được lợi qua
buôn bán nếu xuất khẩu một hàng hóa được sản xuất bằng việc sử dụng ở mức
cao các yếu tố sản xuất mà nước đó có tương đối nhiều và rẻ, đồng thời nhập

những hàng hoá mà việc sản xuất đòi hỏi sử dụng ở mức cao yếu tố sản xuất mà
mình có rất ít.
1.2.1.3. Học thuyết về chu kỳ sống của sản phẩm quốc tế
- Học thuyết chu kỳ sống của sản phẩm quốc tế được đưa ra để giải thích
những hiện tượng mới gắn với những thay đổi của thương mại quốc tế. Lý
thuyết này cũng phản ánh sự phát triển nhanh chóng của tiến bộ khoa học kỹ
thuật và quyền lợi của các tập đoàn đa quốc gia trong buôn bán quốc tế.
- Mô hình về chu kỳ sống của sản phẩm quốc tế cho thấy rằng một sản phẩm đòi
hỏi lao động tay nghề rất cao ở giai đoạn đầu tiên, sau đó khi thị trường đã phát
triển và kỹ thuật ngày càng phổ biến hơn thì sản phẩm đó được chuẩn hoá, do đó
độ tinh vi sẽ kém hơn, lúc này có thể hàng hoá được sản xuất ra hàng loạt. Các
nước có nền kinh tế tiên tiến có lợi thế so sánh với những mặt hàng chưa được
chuẩn hoá.
- Chu kỳ sống của sản phẩm gồm 4 giai đoạn: xâm nhập, tăng trưởng,
chín muồi, suy thoái. Thời gian tồn tại của mỗi giai đoạn là khác nhau ở các thị
trường không giống nhau. Bởi lẽ, sản phẩm có thể là mới ở thị trường này nhưng
Nguyễn Thị Năm Lớp: Kinh tế quốc tế 46
25

×