Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Giải pháp tận dụng cơ hội từ hiệp định TPP đối với ngành dệt may Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (739.8 KB, 64 trang )

i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nghiên cứu này là của riêng tôi. Những số liệu trong
nghiên cứu là có thật, do tôi thu thập tại đơn vị thực tập và tài liệu trên các trang
thông tin điện tử của Tổng cục Hải Quan, Tổng cục thống kê, Hiệp hội dệt may
Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu của đề tài chƣa từng đƣợc công bố trên bất kỳ tạp chí
hay công trình khoa học nào. Các bài báo trích dẫn đều là những tài liệu đă đƣợc
công nhận.


Hà Nội, ngày 23 tháng 5 năm 2014
SINH VIÊN



NGUYỄN KHẮC ANH






ii
MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN i
MỤC LỤC ii
BẢNG TỪ VIẾT TẮT VÀ GIẢI NGHĨA v
DANH MỤC BẢNG BIỂU vi
MỞ ĐẦU 1


CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN CHUNG VỀ NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM 3
1.1. Ngành công nghiệp dệt may ở các nƣớc đang phát triển 3
1.1.1 Vai trò của ngành công nghiệp dệt may đối với các nƣớc đang phát triển 3
1.1.2 Kinh nghiệm phát triển ngành công nghiệp dệt may ở một số nƣớc trên thế
giới 3
1.1.3. Lý thuyết về gia công 5
1.1.3.1 Định nghĩa gia công quốc tế 5
1.1.3.2. Vai trò của gia công quốc tế 6
1.1.3.3. Đặc điểm của gia công quốc tế 7
1.1.3.4 Các loại gia công quốc tế 8
1.1.3.5 Xu hƣớng phát triển của gia công trong lĩnh vực dệt may 9
1.2. Hiện trạng công nghiệp dệt may Việt Nam 11
1.2.1. Vị trí ngành công nghiệp dệt may trong nền kinh tế 11
1.2.2. Hiện trạng năng lực ngành dệt may Việt Nam 13
1.2.2.1 Năng lực sản xuất của ngành dệt may Việt Nam 13
1.2.2.2. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may Việt Nam 15
1.2.3. Hoạt động gia công dệt may của Việt Nam 16
1.2.4. Triển vọng phát triển công nghiệp dệt may của Việt Nam 17
CHƢƠNG 2. NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP
DỆT MAY CỦA VIỆT NAM TỪ TPP 20
2.1. Khái quát về Hiệp định hợp tác kinh tế chiến lƣợc xuyên Thái Bình Dƣơng 20
iii
2.1.1. Hiệp định TPP và tiến trình đàm phán của Việt Nam 20
2.1.1.1 Khái quát về TPP 20
2.1.1.2 Các đối tác tham gia 21
2.1.1.3. Quá trình tham gia đàm phán TPP của Việt Nam 21
2.1.1.4. Phạm vi điều chỉnh của TPP 22
2.1.2. Các quy định liên quan trực tiếp tới dệt may trong TPP 23
2.1.2.1. Cam kết về thuế 23
2.1.2.2.Quy định về xuất xứ 24

2.2. Những cơ hội từ TPP đối với ngành dệt may Việt Nam 26
2.2.1 Cơ hội tiếp cận thị trƣờng các nƣớc thành viên TPP với thuế suất ƣu đãi . 26
2.2.2. Tăng năng lực cạnh tranh, thúc đầy phát triển công nghiệp hỗ trợ cho
ngành dệt may 27
2.2.3. Tăng sức hấp dẫn của môi trƣờng đầu tƣ vào ngành dệt may 28
2.3. Những thách thức từ TPP đối với ngành dệt may Việt Nam 29
2.3.1. Các doanh nghiệp FDI có thể hƣởng ƣu đãi từ TPP so với các doanh
nghiệp dệt may 100% vốn nội địa 29
2.3.2. Mất thị trƣờng trong nƣớc đối với hàng dệt may trung và cao cấp từ các
nƣớc TPP 31
CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP ĐỂ DỆT MAY VIỆT NAM TẬN DỤNG CƠ HỘI
TIẾP CẬN THỊ TRƢỜNG TPP 33
3.1. Bài học kinh nghiệm từ tận dụng cơ hội mở cửa thị trƣờng 33
3.1.1. Bài học kinh nghiệm từ tận dụng cơ hội mở cửa thị trƣờng khi Việt Nam
gia nhập WTO 33
3.1.2. Kinh nghiệm mở cửa thị trƣờng từ hợp tác song phƣơng với Hoa Kỳ 35
3.1.3. Bài học kinh nghiệm 38
3.2. Giải pháp từ phía cơ quan nhà nƣớc 41
3.2.1 Tạo cơ chế khuyến khích đầu tƣ vào các ngành phụ trợ 41
3.2.2. Thuận lợi hóa thƣơng mại để giúp giảm chi phí 42
iv
3.2.2.1 Thuận lợi khi cấp C/O điện tử 43
3.2.2.2 Thuận lợi khi làm thủ tục Hải quan 44
3.2.3 Đào tạo nguồn nhân lực 47
3.3 Giải pháp từ phía doanh nghiệp 49
3.3.1 Hiện đại hóa công nghệ 49
3.3.2 Có chiến lƣợc dài hạn 51
3.3.3 Hình thành các liên kết trong ngành 53
3.3.4. Quan tâm thích đáng thị trƣờng nội địa 53
KẾT LUẬN 55

TÀI LIỆU THAM KHẢO 56

v

BẢNG TỪ VIẾT TẮT VÀ GIẢI NGHĨA

Từ viết tắt
Giải nghĩa
TPP
CNHT
ATC
C/O
CIF
FOB
WTO
MFA
TTg
WB
FDI
EU
VINATEX
FTA
GATT
Hợp tác xuyên Thái Bình Dƣơng
Công nghiệp hỗ trợ
Hiệp định về ngành dệt may
Chứng nhận xuất xứ
Giá thành bao gồm cƣớc vận chuyển và phí bảo hiểm
Giá thành chỉ bao gồm chi phí sản xuất
Tổ chức thƣơng mại thế giới

Hiệp định đa sợi
Thủ tƣớng chính phủ
Ngân hàng thế giới
Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
Liên Minh Châu Âu
Tập đoàn dệt may Việt Nam
Hiệp định thƣơng mại
Hiệp ƣớc chung về thuế quan và mậu dịch








vi

DANH MỤC BẢNG BIỂU

BẢNG, BIỂU ĐỒ
TRANG
Bảng 1.1: Tỉ trọng một số mặt hàng xuất khẩu chính của Việt
Nam năm 2012
13
Bảng2.1: Những đối tác lớn nhất đầu tƣ FDI vào Việt Nam tính
đến 31/12/2011
29
Biểu đồ3.1: Kim ngạch xuất nhập khẩu và cán cân thƣơng mại
Việt Nam- Hoa Kỳ giai đoạn 2010- 201

37
Biểu đồ3.2: Giá trị xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam giai
đoạn 1996 - 2014
39
Biểu đồ3.3: Các thị trƣờng xuất khẩu chính của Việt Nam
39
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ngành dệt may thƣờng đƣợc gắn với giai đoạn phát triển ban đầu của
nền kinh tế và đóng vai trò chủ đạo trong quá trình công nghiệp hoá ở nhiều
nƣớc. Ở các nƣớc đang phát triển hiện nay, ngành dệt may đang góp phần
phát triển nông nghiệp và nông thôn, là phƣơng tiện để chuyển dịch cơ cấu
kinh tế từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp. Ngành dệt may Việt
Nam có lịch sử phát triển từ lâu đời và hiện nay là một trong những ngành sản
xuất mũi nhọn, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, xă hội đất
nƣớc. Với tốc độ tăng trƣởng khá cao và tƣơng đối ổn định qua các năm,
trung bình trong giai đoạn 2002-2010 khoảng 22%/năm, dệt may hiện đang là
mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, năm 2012 xuất khẩu dệt may đạt
doanh thu gần 20 tỷ USD, chiếm 15% GDP, năm 2013 đạt trên 20 tỉ USD.
Sản phẩm dệt may của Việt Nam đă có mặt tại 180 quốc gia và vùng lănh thổ
trên thế giới, trong đó thị trƣờng xuất khẩu lớn nhất là Hoa Kỳ, Châu Âu,
Nhật Bản.
Thành công của ngành dệt may Việt Nam có đƣợc là nhờ một phần
đóng góp không nhỏ của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế
tạo điều kiện để dệt may Việt Nam mở rộng thị trƣờng, tìm kiếm cơ hội mới
cũng nhƣ giảm các rào cản thƣơng mại. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO,
kim ngạch xuất khẩu dệt may hàng năm liên tục tăng cao, từ mức 5,9 tỉ USD
của năm 2006 lên mức 15,8 tỉ USD trong năm 2011, tăng trung bình
21,7%/năm.

Hiện nay, Việt Nam đang trong tiến trình đàm phán, tham gia ký kết
hiệp định hợp tác xuyên Thái Bình Dƣơng (TPP) mở ra cơ hội phát triển cho
kinh tế Việt Nam nói chung và ngành dệt may nói riêng. Hiệp định TPP hứa
hẹn sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho dệt may Việt Nam phát triển khi các rào cản
thƣơng mại tiếp tục đƣợc rỡ bỏ, tuy nhiên, đi kèm với các cơ hội bao giờ cũng
tồn tại không ít những thách thức. Làm thế nào để ngành dệt may Việt Nam
tận dụng tốt những cơ hội và hạn chế các tác động tiêu cực khi Hiệp định TPP
2
đƣợc kƣ kết đang là câu hỏi đƣợc đặt ra đối với các doanh nghiệp dệt may,
các nhà nghiên cứu cũng nhƣ nhà quản lƣ ở Việt Nam. Do đó, đề tài: “Giải
pháp tận dụng cơ hội từ Hiệp định TPP đối với ngành dệt may Việt Nam”
đƣợc chọn để nghiên cứu nhằm góp phần đi tìm câu trả lời cho vấn đề trên.
2. Đối tƣợng và mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Khóa luận nghiên cứu hoạt động của ngành dệt may Việt Nam và
những tác động của Hiệp định TPP tới dệt may Việt Nam khi TPP đƣợc ký
kết.
Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của khóa luận nhằm đƣa ra các giải pháp nhằm
tận dụng cơ hội từ Hiệp định TPP đối với ngành dệt may Việt Nam trên cơ sở
nghiên cứu thực trạng hoạt động dệt may của Việt Nam và những tác động từ Hiệp
định TPP.
3. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu hoạt động của ngành dệt may Việt Nam từ năm
1994 đến nay, các cam kết về dệt may trong đàm phán hiệp định TPP.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp nghiên cứu sử dụng đựơc vận dụng tổng hợp từ các phƣơng
pháp:
- Phƣơng pháp phân tích
- Phƣơng pháp tổng hợp

- Phƣơng pháp diễn dịch
- Phƣơng pháp quy nạp, suy luận logic.
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận có
3 chƣơng nhƣ sau:
Chương 1. Tổng quan chung về ngành dệt may Việt Nam
Chương 2. Những cơ hội và thách thức đối với công nghiệp dệt may
của Việt Nam từ TPP
Chương 3. Giải pháp để dệt may Việt Nam tận dụng cơ hội tiếp cận
thị trường TPP
3

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN CHUNG VỀ NGÀNH DỆT MAY VIỆT
NAM

1.1. Ngành công nghiệp dệt may ở các nƣớc đang phát triển
1.1.1 Vai trò của ngành công nghiệp dệt may đối với các nƣớc đang phát triển
Công nghiệp dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động giản đơn phát
huy đƣợc lợi thế của những nƣớc có nguồn lao động dồi dào với giá nhân
công rẻ. Đặc biệt ngành công nghiệp may đòi hỏi vốn đầu tƣ ít nhƣng tỉ lệ lãi
khá cao. Chính vì vậy sản xuất hàng dệt may thƣờng phát triển mạnh và có
hiệu quả rất lớn đối với các nƣớc đang phát triển và đang ở giai đoạn đầu của
quá trình công nghiệp hóa. Khi một nƣớc trở thành nƣớc công nghiệp có trình
độ công nghệ cao, giá lao động cao, sức cạnh tranh trong sản xuất hàng dệt
may giảm thì họ sẽ vƣơn tới những ngành công nghiệp có hàm lƣợng kỹ thuật
cao hơn, tốn ít lao động, lợi nhuận cao hơn. Công nghiệp dệt may lại phát huy
vai trò ở các nƣớc khác kém phát triển hơn. Lịch sử phát triển của ngành dệt
may của thế giới cũng là lịch sử chuyển dịch của công nghiệp dệt may từ khu
vực phát triển sang khu vực kém phát triển hơn do có sự chuyển dịch về lợi
thế so sánh. Nhƣ vậy không có nghĩa là sản xuất dệt may không còn tồn tại ở

các nƣớc phát triển mà thực tế ngành dệt may đă phát triển ở mức cao hơn,
giai đoạn cao hơn, sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
1.1.2 Kinh nghiệm phát triển ngành công nghiệp dệt may ở một số nước
trên thế giới
Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, hầu hết các nƣớc
đều tập trung phát triển công nghiệp nhẹ làm nền tảng cho phát triển công
nghiệp nặng sau này. Trong đó, công nghiệp dệt may thƣờng đƣợc coi trọng
và có nhiều điều kiện phát triển mạnh. Công nghiệp dệt may phát triển tạo ra
thị trƣờng để phát triển công nghiệp dệt may. Theo nghiên cứu của Viện kinh
tế và thƣơng mại quốc tế về kinh nghiệm phát triển ngành dệt may của một số
nƣớc Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc.
4
Ở Nhật Bản, ngành công nghiệp dệt may đã xuất hiện vào những thập
kỷ 50 và 60 của thế kỷ XIX. Đến năm 1913, nƣớc này đã xuất khẩu hàng loạt
các mặt hàng nguyên phụ liệu dệt may nhƣ tơ sống, vải lụa, và hàng dệt bông
với kim ngạch xuất khẩu chiếm 55% tổng giá trị xuất khẩu cả nƣớc. Và đến
1929 tỷ lệ này đƣợc nâng lên 66%, riêng tơ sống chiếm 40% trong tổng kim
ngạch xuất khẩu cả nƣớc (2009). Trong thời kỳ đầu của công nghiệp hóa thì
ngành kéo sợi và ngành dệt vải đă trở thành công nghiệp hiện đại quan trọng
trong nền kinh tế của Nhật Bản. Đến cuối thập niên 1970, ngành dệt may của
Nhật Bản đã bắt đầu giảm đi do xu hƣớng công nghiệp hóa liên tục đã làm
tăng lƣơng trong nƣớc và các chi phí sản xuất khác, làm cho các nhà sản xuất
vải may mặc của Nhật mất lợi thế cạnh tranh trên thị trƣờng thế giới.
Trung Quốc có ngành công nghiệp dệt may là ngành có truyền thống
phát triển lâu đời. Ngay từ khi mới thực hiện quá trình công nghiệp hóa, dựa
trên lợi thế về truyền thống lâu đời và nguồn lao động dồi dào, Chính phủ
Trung Quốc đã coi dệt may và công nghiệp hỗ trợ dệt may là những ngành
công nghiệp mũi nhọn và tập trung hỗ trợ phát triển. Nhờ vậy, ngành dệt may
Trung Quốc đă phát triển nhanh chóng với mức tăng trƣởng 500% từ năm
1990 đến năm 2008, giá trị sản lƣợng tăng từ 10 tỷ USD lên tới 50 tỷ USD, sử

dụng 15 triệu nhân công, sản xuất 25 tủ m2 vải. Ngành công nghiệp hỗ trợ dệt
may của Trung Quốc đă gặt hái đƣợc rất nhiều những thành công đáng chú ý.
Ngành sản xuất vải bông, với bề dày hơn 2000 năm phát triển, đã phát triển
với tốc độ chóng mặt. Hàng năm, sản lƣợng bông của Trung Quốc lên đến 6
triệu tấn, chiếm 1/3 sản lƣợng bông toàn thế giới. Nguồn cung cấp bông dồi
dào đã làm cơ sở vững chắc cho việc phát triển mạng lƣới sản xuất nguyên
liệu cho ngành may mặc của Trung Quốc.
Đối với Hàn Quốc, công nghiệp dệt may đã trở thành ngành công
nghiệp quan trọng. Trong những năm 1960, Hàn Quốc tập trung sản xuất
hàng hóa sơ cấp nhƣ lụa. Nhƣng từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX, Hàn Quốc đă
thành công trong việc xây dựng và củng cố vị trí của mình trên thị trƣờng
hàng dệt may thế giới. Đến năm 2004, Hàn Quốc đã đứng thứ tƣ thế giới về
5
xuất khẩu hàng dệt, năm 2005 đứng thứ 5 và năm 2006 giữ vị trí thứ sáu về
ngành hàng này trong thƣơng mại quốc tế, sau Trung Quốc, EU, Thổ Nhĩ Kỳ,
Hoa Kỳ và Ấn Độ. Đặc biệt, Hàn Quốc còn là quốc gia đứng thứ 2 thế giới về
xuất khẩu vải sợi tổng hợp, chiếm 8,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của thế
giới về mặt hàng này. Không những thế, Hàn Quốc còn nhanh chóng nổi lên
nhƣ một quốc gia dẫn đầu về thời trang trong khu vực, vƣợt qua các đối thủ đi
trƣớc nhƣ Nhật Bản, Hồng Kông, v.v Sự thành công này thể hiện sự đúng
đắn trong đƣờng lối phát triển ngành dệt may và CNHT dệt may của Hàn
Quốc
Kinh nghiệm các nƣớc thành công trong phát triển dệt may nói chung
và sản xuất nguyên phụ liệu dệt may nói riêng là: Tận dụng các lợi thế so sánh
của nƣớc mình ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa để phát triển
kinh tế và đă lựa chọn ngành dệt may và CNHT dệt may, ngành thu hút nhiều
lao động, giá nhân công rẻ, hàng hóa tập trung cho xuất khẩu để phát triển cho
bƣớc đi khởi đầu.
1.1.3. Lý thuyết về gia công
1.1.3.1 Định nghĩa gia công quốc tế

Gia công quốc tế là một phƣơng thức khá phổ biến trong buôn bán
ngoại thƣơng của nhiều nƣớc trên thế giới. Gia công quốc tế có thể đƣợc quan
niệm theo nhiều cách khác nhau nhƣng theo cách hiểu chung nhất thì gia công
quốc tế là hoạt động kinh doanh thƣơng mại trong đó một bên (gọi là bên
nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác
(gọi là bên đặt gia công) để chế biến thành ra thành phẩm, giao lại cho bên đặt
gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia công). Nhƣ vậy trong hoạt động gia
công quốc tế hoạt động xuất nhập khẩu gắn liền với hoạt động sản xuất.
Nhƣ vậy, gia công quốc tế là sự cải tiến đặc biệt các thuộc tính riêng
của đối tƣợng là động (nguyên liệu hoặc bán thành phẩm) đƣợc tiến hành một
cách sáng tạo và có ý thức nhằm tạo cho sản phẩm một giá trị sử dụng nào đó.
Bên đặt gia công có thể giao toàn bộ nguyên vật liệu hoặc chỉ nguyên vật liệu
chính hoặc bán thành phẩm có khi cả máy móc thiết bị, chuyên gia cho bên
6
nhận gia công. Trong trƣờng hợp không giao nhận nguyên vật liệu chính thì
bên đặt gia công có thể chỉ định cho bên kia mua nguyên vật liệu ở một địa
điểm nào đó với giá cả đƣợc ấn định từ trƣớc hoặc thanh toán thực tế theo hoá
đơn. Còn bên nhận gia công có nghĩa vụ tiếp nhận hoặc mua nguyên liệu đó
tiến hành gia công, sản xuất theo đúng yêu cầu của bên đặt gia công cả về số
lƣợng chủng loại, mẫu mă, thời gian. Sau khi hoàn thành quá trình gia công
thì giao lại thành phẩm cho bên đặt gia công và nhận một khoản phí gia công
theo thỏa thuận từ trƣớc. Khi hoạt động gia công vƣợt ra ngoài biên giới quốc
gia gọi là gia công quốc tế. Khi hoạt động gia công vƣợt ra ngoài biên giới
quốc gia gọi là gia công quốc tế. Các yếu tố sản xuất có thể đƣa vào thông
qua nhập khẩu để phục vụ quá trình gia công. Hàng hóa sản xuất ra không
phải để tiêu dùng trong nƣớc mà để xuất khẩu thu ngoại tệ chênh lệch giá phụ
liệu cung cấp tiền công và chi phí đem lại. Thực chất gia công xuất khẩu là
hình thức xuất khẩu lao động nhƣng là lao động dƣới dạng sử dụng thể hiện
trong hàng hóa chứ không phải xuất khẩu nhân công ra nƣớc ngoài.
1.1.3.2. Vai trò của gia công quốc tế

Ngày nay gia công quốc tế khá phổ biến trong buôn bán ngoại thƣơng
của nhiều nƣớc. Đối với bên đặt gia công, phƣơng thức này giúp họ lợi dụng
đƣợc giá rẻ về nguyên liệu phụ và nhân công của nƣớc nhận gia công. Đối với
bên nhận gia công, phƣơng thức này giúp họ giải quyết công ăn việc làm cho
nhân dân lao động trong nƣớc hoặc nhận đƣợc thiết bị hay công nghệ mới về
cho nƣớc mình, nhằm xây dựng một nền công nghiệp dân tộc. Nhiều nƣớc
đang phát triển đă nhờ vận dụng phƣơng thức gia công quốc tế mà có đƣợc
một nền công nghiệp hiện đại, chẳng hạn nhƣ Hàn Quốc, Thái Lan,
Xingapo…
a. Đối với nước đặt gia công
- Khai thác đƣợc nguồn tài nguyên và lao động từ các nƣớc nhận gia
công.
- Có cơ hội chuyển giao công nghệ để kiếm lời.
b. Đối với nước nhận gia công
7
- Góp phần từng bƣớc tham gia vào quá trình phân công lao động quốc
tế, khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh. Thông qua phƣơng thức gia công
quốc tế mà các nƣớc kém phát triển với khả năng sản xuất hạn chế có cơ hội
tham gia vào phân công lao động quốc tế, khai thác đƣợc nguồn tài nguyên và
giải quyết đƣợc vấn đề việc làm cho xă hội. Đặc biệt gia công quốc tế không
những cho phép chuyên môn hoá với từng sản phẩm nhất định mà còn chuyên
môn hoá trong từng công đoạn, từng chi tiết sản phẩm.
- Tạo điều kiện để từng bƣớc thiết lập nền công nghiệp hiện đại và quốc tế
hoá:
- Chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo hƣớng công nghiệp hoá hiện đại
hoá.
- Nâng cao tay nghề ngƣời lao động và tạo dựng đội ngũ quản lƣ có
kiến thức và kinh nghiệm trong việc tham gia kinh doanh trên thị trƣờng quốc
tế và quản lƣ nền công nghiệp hiện đại.
- Góp phần tạo nguồn tích luỹ với khối lƣợng lớn.

- Tiếp thu những công nghệ quản lý và công nghệ sản xuất hiện đại
thông qua chuyển giao công nghệ. Đối với Việt Nam nhờ vận dụng đƣợc
phƣơng thức này đă khai thác đƣợc mặt lợi thế rất lớn về lao động và đă thu
hút đƣợc thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến phục vụ cho quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc và giải quyết đƣợc công ăn việc làm cải
thiện đời sống nhân. Nâng cao tay nghề và kiến thức cho ngƣời lao động. Tiếp
cận và học hỏi các kiểu quản lý mới, mở rộng thị trƣờng tiêu thụ, tăng cƣờng
các mối quan hệ kinh tế đối ngoại với các nƣớc, góp phần thúc đẩy nhanh
công việc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc.
1.1.3.3. Đặc điểm của gia công quốc tế
- Trong gia công quốc tế hoạt động xuất nhập khẩu gắn liền với hoạt
động sản xuất.
- Mối quan hệ giữa bên đặt gia công và bên nhận gia công đƣợc xác
định trong hợp đồng gia công. Trong quan hệ hợp đồng gia công, bên nhận
gia công chịu mọi chi phí và rủi ro của quá trình sản xuất gia công.
8
- Trong quan hệ gia công bên nhận gia công sẽ thu đƣợc một khoản tiền
gọi là phí gia công còn bên đặt gia công sẽ mua lại toàn bộ thành phẩm đƣợc
sản xuất ra trong quá trình gia công.
- Trong hợp đồng gia công ngƣời ta quy định cụ thể các điều kiện
thƣơng mại nhƣ thành phẩm, về nguyên liệu, giá cả gia công, về nghiệm thu,
về thanh toán, về việc giao hàng.
- Về thực chất, gia công quốc tế là một hình thức xuất khẩu lao động
nhƣng là lao động đƣợc sử dụng, đƣợc thể hiện trong hàng hóa chứ không
phải là xuất khẩu lao động trực tiếp.
Từ những đặc điểm trên ta có thể thấy gia công quốc tế có nhũng ƣu
điểm, nhƣợc điểm sau:
Ưu điểm:
- Không phải bỏ nhiều chi phí, vốn đầu tƣ, ít chịu rủi ro.
- Giải quyết công ăn việc làm cho ngƣời lao động.

- Có điều kiện học hỏi kinh nghiệm quản lƣ, tiếp cận với công nghệ kƣ
thuật của các nƣớc khác.
Nhược điểm:
- Tính bị động cao.
- Nguy cơ biến thành băi rác công nghệ.
- Quản lý định mức gia công và thanh lƣ hợp đồng không tốt sẽ tạo điều
kiện đƣa hàng trốn thuế vào Việt Nam.
- Giá trị gia tăng thấp.
1.1.3.4 Các loại gia công quốc tế
a. Theo quyền sở hữu nguyên liệu, gia công quốc tế có các hình thức
sau:
- Bên đặt gia công theo nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho bên nhận
gia công và sau thời gian sản xuất và chế tạo sẽ thu hồi thành phẩm và trả phí
gia công. Trong trƣờng hợp này quyền sở hữu về nguyên vật liệu vẫn thuộc
về bên đặt gia công.
9
- Bên đặt gia công bán đứt nguyên vật liệu cho bên bên gia công và sau
thời gian chế tạo sẽ thu hồi thành phẩm. Trong trƣờng hợp này thì quyền sở
hữu sẽ thuộc về bên nhận gia công.
- Ngoài ra, ngƣời ta còn có thể kết hợp, trong đó bên đặt gia công chỉ
giao những nguyên liệu chính còn bên nhận gia công cung cấp nguyên liệu
phụ.
b. Theo giá cả gia công
- Theo giá thực tế, trong đó bên đặt gia công thanh toán toàn bộ cho bên
nhận ra công những chi phí thực tế và tiền thù lao gia công.
- Theo giá thị trƣờng, trong đó ngƣời ta xác định đƣợc một giá định
mức cho mỗi sản phẩm, bao gồm chi phí định mức và thù lao định mức. Dù
chi phí thực tế là bao nhiêu đi chăng nữa thì hai bên vẫn thanh toán với nhau
theo định mức tính sẵn.
c. Theo số bên tham gia quan hệ gia công

- Gia công hai bên, một bên nhận gia công và một bên đặt gia công.
- Gia công nhiều bên, hay còn gọi là gia công chuyển tiếp, trong đó bên
nhận gia công là một số doanh nghiệp mà sản phẩm gia công của đơn vị trƣớc
là đối tƣợng gia công của đơn vị sau.
1.1.3.5 Xu hướng phát triển của gia công trong lĩnh vực dệt may
a.Những thay đổi cơ bản trong thương mại hàng dệt may thế giới
Trong giai đoạn hiện nay, các cuộc cách mạng khoa học công nghệ
đang từng bƣớc phát triển không ngừng và tạo đà phát triển cho các ngành
công nghiệp của từng quốc gia mỗi ngày một tiến xa hơn, không một ngành
công nghiệp của quốc gia nào chỉ kinh doanh ở thị trƣờng nội địa đặc biệt là
ngành dệt may. Do thị trƣờng hàng dệt may thế giới đă có những thay đổi cơ
bản và có ảnh hƣởng tới mọi quốc gia có ngành dệt may phát triển. Tại vòng
đàm phán Uruguay (1994) của tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO) hiệp định
về hàng dệt may (ATC) ra đời thay thế hiệp định đa sợi (MFA). Theo ATC
buôn bán các sản phẩm dệt may sẽ hoà nhập trở lại theo nguyên tắc không
phân biệt đối xử WTO, chấm dứt các trƣờng hợp ngoại lệ trong buôn bán
10
quốc tế các sản phẩm này. Tuy nhiên chỉ các thành viên WTO mới phải tuân
theo các quy định ATC (đối với nƣớc nhập khẩu) và đƣợc hƣởng lợi ích của
hiệp định(đối với nƣớc xuất khẩu ). Ngoài ra quá trình tự do hoá thƣơng mại
đối với các sản phẩm dệt may đƣợc thể hiện trên 2 nội dung chính:
Một là mỗi nƣớc nhập khẩu có quyền lựa chọn bất cứ sản phẩm nào
trong 4 loại: sợi, vải, sản phẩm dệt và quần áo vào danh mục hội nhập theo
các quy định thông thƣờng của GATT. Thông thƣờng các sản phẩm đƣợc mỗi
nƣớc lựa chọn là những sản phẩm ít nhạy cảm đối với mỗi nƣớc đó.
Hai là hiệp định ATC đă ra một công thức gia tăng tốc độ hạn ngạch đối
với các sản phẩm còn bị hạn chế theo các thảo thuận song phƣơng trƣớc đây
của MFA. Hiệp định cũng cho phép các nƣớc thành viên có thể áp dụng các
biện pháp tự vệ tạm thời đối với các sản phẩm chƣa chịu sự điều chỉnh.Nhƣng
các nƣớc cần phải chứng minh rằng các sản phẩm này đang đƣợc nhập khẩu

với số lƣợng lớn, làm thiệt hại nghiêm trọng hay có nguy cơ làm thiệt hại sản
xuất các sản phẩm tƣơng tự trong nƣớc. Nhƣ vậy những thay đổi cơ bản trong
thƣơng mại hàng dệt may thế giới từ trƣớc MFA đến ATC đƣợc diễn ra theo
hƣớng tạo cơ hội, tiếp cận thị trƣờng nhập khẩu cho các sản phẩm dệt may
xuất khẩu thông qua việc áp dụng hạn ngạch và tạo cơ hội thâm nhập thị trƣ-
ờng nhập khẩu cho các nƣớc xuất khẩu thông qua việc bãi bỏ dần các hạn chế
song phƣơng.
b. Ảnh hưởng của những thay đổi thương mại hàng dệt may thế giới với
cục diện cạnh tranh xuất khẩu hiện nay.
Những thƣơng lƣợng trong khuôn khổ các thành viên của GATT và sau
này là WTO đă thay đổi đối với những nƣớc nhập khẩu phải nhƣợng bộ. Cụ
thể là loại bỏ MFA, sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may ở hầu hết các nƣớc
xuất khẩu đều tăng. Với việc thực hiện ATC, xuất khẩu từ các nƣớc bị hạn
chế theo MFA song các nƣớc áp đặt hạn ngạch sẽ tăng 26% đối với hàng may
mặc và 10% đối với hàng dệt. Đồng thời sản xuất và xuất khẩu hàng may ở
các nƣớc xuất khẩu lớn( các nƣớc đă phát triển và mới phát triển ) có thể bị
11
thu hẹp do giảm khả năng cạnh tranh vì giá lao động đă tăng cao tƣơng đối so
với suất đầu tƣ.
Tuy nhiên theo ATC thƣớc đo về hội nhập của hàng dệt may trong các
giai đoạn đều đƣợc tính bằng tổng khối lƣợng nhập khẩu chứ không phải tính
riêng cho các mặt hàng đang bị hạn chế. Thực tế ở các nƣớc không phải tất cả
các hàng dệt may đều bị hạn chế nhập khẩu, do đó các nƣớc nhập khẩu sẽ đa
vào hội nhập trƣớc hết là các mặt hàng không bị hạn chế hoặc ít bị hạn chế,
hoặc các sản phẩm có khối lƣợng lớn nhƣng giá trị gia tăng thấp. Trên phƣ-
ơng diện xem xét về cạnh tranh hàng dệt may trong thƣơng mại quốc tế, thì
ATC cũng đang bộc lộ những ảnh hƣởng của nó đến cục bộ cạnh tranh giữa
các nƣớc và các khối khác. Cơ hội xuất khẩu sẽ gia tăng cho tất cả các nƣớc.
Trong khi Bắc Mỹ và EU là thị trƣờng nhập khẩu lớn của thế giới thì chính
các nƣớc xuất khẩu khác cũng sẽ là một thị trƣờng nhập khẩu tiềm năng .

Cạnh tranh xuất khẩu giữa các nƣớc ngày càng mở rộng quyết liệt hơn
và sẽ đi đến khai thác triệt để hơn các lợi thế tại thành sức mạnh cạnh tranh
của các sản phẩm xuất khẩu. Nhƣ vậy cục diện cạnh tranh xuất khẩu hàng dệt
may trong xu thế tự do hoá thƣơng mại sẽ có xu hƣớng trở lại gần hơn với sức
cạnh tranh thực của nó. Hơn nữa nó phát triển theo cả chiều rộng (cạnh tranh
giữa các quốc gia) và theo chiều sâu (cạnh tranh theo mặt hàng, nhóm hàng)
cạnh tranh xuất khẩu hàng dệt may không chỉ là cạnh tranh giữa các nƣớc xuất
khẩu với nhau trên thị trƣờng nhập khẩu mà nƣớc xuất khẩu này hòng phải đối
mặt với cạnh tranh của nƣớc xuất khẩu khác ở chính ngay thị trƣờng nội địa.

1.2. Hiện trạng công nghiệp dệt may Việt Nam
1.2.1. Vị trí ngành công nghiệp dệt may trong nền kinh tế
Với ngành dệt may Việt Nam, kể từ khi Chính phủ ban hành chính sách
đổi mới, thực hiện chủ trƣơng hội nhập kinh tế quốc tế và triển khai chiến
lƣợc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, đến nay đă có sự phát triển vƣợt
bậc. Dệt may Việt Nam đã vƣơn lên trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, dẫn
đầu cả nƣớc về kim ngạch xuất khẩu. Theo Tổng cục thống kê, với gần 4.000
12
doanh nghiệp và khoảng 2,5 triệu lao động, năm 2012 dệt may Việt Nam đă
tạo doanh thu gần 20 tỷ USD, chiếm 15% GDP. Trong điều kiện kinh tế còn
nhiều bất ổn, xuất khẩu dệt may giai đoạn 2010 – 2013 vẫn giữ đƣợc tăng
trƣởng tốt. Năm 2013, theo thống kê của Hiệp hội dệt may Việt Nam, ngành
dệt may đã đạt kim ngạch xuất khẩu trên 20 tỷ USD, tăng 79% so với năm
2010 và 18% so với năm 2012. Đây là kết quả hết sức đáng khích lệ trong
điều kiện khó khăn của cả nƣớc. Điều này đă chứng tỏ những nỗ lực của các
doanh nghiệp dệt may cũng nhƣ những ngƣời lao động trong ngành. Với kết
quả này, Việt Nam đã vƣơn lên đứng trong top 7 nƣớc xuất và xuất khẩu dệt
may hàng đầu thế giới.
Trong 10 năm qua, dệt may Việt Nam đã có sự phát triển vƣợt bậc. Có
thể khẳng định, dệt may Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh so với các nƣớc

trên thế giới. Năm 2010, Việt Nam là nhà xuất khẩu dệt may đứng thứ 2 vào
thị trƣờng Mỹ, đứng thứ 3 ở thị trƣờng Nhật Bản và thị trƣờng châu Âu. Đây
là 3 thị trƣờng chính, rất quan trọng đối với bất kỳ một nhà xuất khẩu dệt may
nào. Điều đó khẳng định, vị thế của dệt may Việt Nam trên thị trƣờng thế giới
đã đƣợc nâng lên rất nhiều.
Ngành dệt may đã đứng vững trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu
năm 2007-2009. Mặc dù ngành dệt may thế giới giảm sâu 12-15%, nhƣng dệt
may Việt Nam vẫn duy trì đƣợc kim ngạch xuất khẩu không giảm, mà ngƣợc
lại còn tăng đƣợc thị phần vào cả 3 thị trƣờng chính. Chính trong khủng
hoảng, Việt Nam vƣơn lên chiếm vị trí thứ 2 về thị phần tại Mỹ.
Theo thống kê của Hiệp hội dệt may Việt Nam sau khi có tín hiệu phục
hồi khủng hoảng, riêng năm 2010, kim ngạch xuất khẩu của dệt may Việt
Nam đã tăng 21,7%. Trƣớc khủng hoảng, mục tiêu của dệt may Việt Nam là
xuất khẩu đạt 9,1 tỉ USD năm 2008, 10,2 tỉ năm 2009 và 11,5 tỉ năm 2010.
Do khủng hoảng tài chính toàn cầu, dệt may Việt Nam mất đi 1 năm không
tăng (năm 2009 chỉ đạt 9,2 tỉ USD), nhƣng hết 2010, đã đƣợc 11,2 tỉ. Tức là
trong năm 2010, dệt may Việt Nam đã gần nhƣ bù lại đƣợc mức tăng 1 năm
chịu ảnh hƣởng của khủng hoảng, khắc phục đƣợc 80% hiệu ứng của khủng
hoảng và đến hết 2012 sẽ quay trở lại kế hoạch chiến lƣợc, phấn đấu đạt
khoảng 12,9 tỉ USD (kế hoạch trƣớc kia là 13 tỉ USD). Đặc biệt là với kết quả
13
xuất khẩu năm 2010, dệt may Việt Nam đă lọt vào top 5 nƣớc xuất khẩu dệt
may lớn nhất thế giới, về đích sớm 4 năm so với kế hoạch.
Qua đó hoàn toàn có thể khẳng định, dệt may Việt Nam đă xây dựng
đƣợc lợi thế cạnh tranh tƣơng đối tốt trên thị trƣờng dệt may thế giới, có thị
trƣờng và khách hàng truyền thống ổn định nên giữ đƣợc mức tăng trƣởng
nhƣ vậy.
Trong cơ cấu xuất khẩu hàng Việt Nam năm 2012 có thể thấy xuất khẩu
hàng dệt may chiếm tỉ trọng lớn do có mức độ thâm dụng lao động cao, đƣợc
thể hiện trong bảng sau:

Bảng 1.1: Tỉ trọng một số mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam năm
2012
Tên hàng
Thứ hạng
Kim
Ngạch
(Tỉ USD)
Tỉ trọng
(%)
Dệt may
1
15.09
13.2
Các linh kiện điện tử
2
12.72
11.1
Dầu thô
3
8.21
7.2
Máy vi tinh và các sản phẩm phụ
kiện
4
7.84
6.8
Giấy dép
5
7.26
6.3

Hàng thủy sản
6
6.1
5.03
Máy móc thiết bị dụng cụ & phụ tùng
7
5.54
4.8
Gỗ và sản phẩm từ gỗ
8
4.67
4.1
Nguồn: Tổng cục Hải Quan (2012)
1.2.2. Hiện trạng năng lực ngành dệt may Việt Nam
1.2.2.1 Năng lực sản xuất của ngành dệt may Việt Nam
Sản xuất dệt may của cả nƣớc hiện có gần 7.000 doanh nghiệp, hàng
trăm nghìn cơ sở kinh tế tập thể, tổ sản xuất, hộ gia đình và cá thể. Trong đó,
có hơn 70% các doanh nghiệp dệt may là doanh nghiệp vừa và nhỏ, số lao
động dƣới 300 ngƣời. Ngành này đă thu hút trên 1,2 triệu lao động đang làm
14
việc tại các doanh nghiệp, hàng triệu lao động ở các cơ sở khác. Giá trị sản
xuất tính theo giá thực tế của ngành dệt may chiếm khoảng 8,3% tổng giá trị
sản xuất toàn ngành công nghiệp, lớn thứ hai sau ngành sản xuất chế biến
thực phẩm. Trong hai khu vực, kinh tế trong nƣớc chiếm 40,4%, khu vực có
vốn đầu tƣ nƣớc ngoài chiếm 59,6% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may của
Việt Nam.
Đặc trƣng của ngành sản xuất sản phẩm dệt may Việt Nam là nguyên,
phụ liệu sản xuất hầu hết phải nhập khẩu do nguồn cung trong nƣớc không đủ
và không đáp ứng đƣợc yêu cầu của cácdoanh nghiệp sản xuất. Mặc dù từ
năm 2009, Việt Nam đă bắt đầu xuất khẩu vải, sợi, xơ polyester, phụ liệu sang

một số cƣờng quốc dệt may trên thế giới nhƣ Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban
Nha… Thống kê của Tổng cục thuống kê cho thấy, thông thƣờng, nhu cầu về
nguyên liệu. nhập khẩu để bảo đảm sản xuất cần đến 95% xơ bông, 70% sợi
tổng hợp, 40% sợi xơ ngắn, 40%vải dệt kim và 60% vải dệt thoi, dẫn đến
bìnhquân khoảng 70% nguyên, phụ liệu dệt mayViệt Nam đang phải nhập
khẩu. Từ đó, có thể thấy ngành công nghiệp dệt may Việt Nam gần nhƣ hoàn
toàn phụ thuộc vào nƣớc ngoài.
Theo đánh giá của các nhà kinh tế, giá cả sản phẩm dệt may Việt Nam
thƣờng cao hơn giá sản phẩm cùng loại của Trung Quốc khoảng
20%.ViệtNam phải chịu chi phí cao do khoảng 70%nguyên vật liệu đầu vào
cho sản xuất phải nhập khẩu. Thêm nữa, máy móc thiết bị mới nhập khẩu nên
đang ở giai đoạn phải khấu hao nhanh nhằm có cơ hội tiếp tục đổi mới công
nghệ, trình độ quản lý kém, năng suất lao động thấp, chỉ đạt 50-70% so với
năng suất lao động trong khu vực, công nghệ lạc hậu hơn khoảng 5 năm.Việc
nhiều doanh nghiệp thiếu vốn kinh doanh phải vay vốn ngắn hạn để đầu tƣ
phát triển và trả lăi vay vốn cao khiến tăng chi phí sản xuất kinh doanh cũng
làm giảm khả năng cạnh tranh về giá của sản phẩm dệt may Việt Nam. Ngoài
ra, tiền lƣơng công nhân và các chi phí khác ởViệt Nam nhƣ điện, nƣớc, viễn
thông, vận tải…, đang có xu hƣớng tăng cùng với những yếu kém trong tổ
15
chức và quản lƣ khiến hoạt động sản xuất và xuất khẩu phát sinh những lăng
phí không đáng có làm ngành dệt may Việt Nam gặp nhiều khó khăn.
1.2.2.2. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may Việt Nam
Theo Hiệp hội dệt may Việt Nam, dệt may hiện là một trong những
ngành kinh tế lớn nhất cả nƣớc với 4.000 doanh nghiệp, doanh thu đạt 20 tỷ
USD/năm, chiếm 15% GDP và hiện Việt Nam nằm trong top 5 nƣớc xuất
khẩu dệt may lớn nhất thế giới.
Số liệu của Hiệp hội dệt may Việt Nam (Vitas) cho thấy, tổng kim
ngạch xuất khẩu dệt may năm 2013 đạt 20,023 tỷ USD, với tốc độ tăng 18%,
trong đó hai mặt hàng chính của ngành đều đạt đƣợc mức tăng trƣởng khá

(mặt hàng dệt và may mặc đạt 17,891 tỷ USD, tăng 18,6%; mặt hàng xơ sợi
dệt các loại đạt 2,132 tỷ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ). Với 14,885 tỷ
USD giá trị nhập khẩu cho sản xuất, năm 2013 ngành dệt may Việt Nam đă
xuất siêu 5,138 tỷ USD.
Sản phẩm dệt may của Việt Nam đã có mặt tại 180 quốc gia và vùng
lãnh thổ trên thế giới, trong đó thị trƣờng xuất khẩu lớn nhất là Hoa Kỳ, Châu
Âu, Nhật Bản. Hiệp hội dệt May Việt Nam (Vitas) cho biết, tăng trƣởng thị
trƣờng dệt may thế giới trong năm 2013 vẫn còn ở mức rất thấp, ở những thị
trƣờng xuất khẩu dệt may lớn của Việt Nam nhƣ Mỹ tăng trƣởng nhập khẩu
chỉ khoảng 3,6%, EU chỉ tăng 0,5%, Hàn Quốc tăng 9%, Nhật Bản giảm hơn
0,5% so với năm 2012. Nhƣng dệt may Việt Nam vẫn giữ đƣợc tăng trƣởng
thuận lợi ở các thị trƣờng lớn, xuất khẩu vào Mỹ đạt 8,6 tỷ USD tăng 14,2%,
EU đạt gần 2,7 tỷ USD tăng 8,8%, Nhật Bản đạt hơn 2,4 tỷ USD tăng trên
20,5%, Hàn Quốc đạt 1,87 tỷ USD tăng gần 44% Ngoài 4 thị trƣờng đạt trên
1 tỷ USD là Mỹ, Nhật Bản, EU, Hàn Quốc, hiện ngành dệt may Việt Nam
cũng rất quan tâm đến hai thị trƣờng lớn là Ấn Độ và Trung Đông.
Với tăng trƣởng xuât khẩu dệt may liên tục trong những năm gần đây
thì thị phần xuất khẩu dệt may Việt Nam cũng đă tăng lên. Hiện nay, dệt may
Việt Nam chiếm khoảng 4% thị phần cung ứng hàng dệt may cho toàn cầu.
Tại thị trƣờng Mỹ, nơi Trung Quốc vốn giữ thị phần xuất khẩu số 1 tại đây
16
với hơn 50% thị phần trƣớc đây, nay đă giảm mạnh chỉ còn 37%. Dệt may
Việt Nam hiện đă tăng thị phần tại Mỹ, hiện giữ vị trí thứ 2 với khoảng 9%.
Thị phần hàng dệt may Việt Nam ở Nhật khoảng 4-5% và khoảng 1% thị
phần ở EU (Nguồn Hiệp hội dệt may Việt Nam).
Hiệu quả và sức cạnh tranh của ngành dệt may còn thấp, do hiệu quả
đầu tƣ, năng suất lao động còn thấp, chất lƣợng, mẫu mã chuyển biến chƣa
nhiều. Sản xuất và xuất khẩu dệt may chủ yếu khai thác lợi thế về giá nhân
công còn rẻ. Do vậy, tiền lƣơng của ngƣời lao động còn thấp, cƣờng độ lao
động cao Hàng dệt may của Việt Nam còn bị cạnh tranh trên sân nhà với

hàng nhập khẩu và cạnh tranh ở các thị trƣờng xuất khẩu với các nƣớc khác,
nhất là Trung Quốc, Pakistan.
1.2.3. Hoạt động gia công dệt may của Việt Nam
Việt Nam với nguồn lao động, tận dụng ƣu thế về lao động từ nhiều
năm qua hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu chủ yếu theo hình thức gia
công cho nƣớc ngoài và xuất hàng sản xuất từ nguyên liệu nhập khẩu. Theo
Tổng cục Hải quan, năm 2012, tỉ trọng 2 loại hình này chiếm hơn 96% trong
tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may cả nƣớc. Chuỗi sản xuất của ngành từ
khâu kéo sợi, dệt, nhuộm và may nhƣng đến nay may vẫn là chính, với
nguyên liệu chủ yếu nhập khẩu. Cả nƣớc hiện có 5,1 triệu cọc sợi và hàng
năm sử dụng khoảng 820.000 tấn nguyên liệu gồm bông tự nhiên chiếm
420.000 tấn và xơ các loại chiếm 400.000 tấn. Thế nhƣng năm 2012, bông
nhập khẩu là 415.000 tấn chiếm 99% và bông trong nƣớc chỉ đáp ứng đƣợc
1% tƣơng ứng 5.000 tấn. Về xơ các loại, tổng nhập khẩu năm 2012 là 220.000
tấn, chiếm 54%. Ngành may năm 2012 có nhu cầu sử dụng khoảng 6,8 tỷ mét
vải trong khi tổng sản lƣợng vải sản xuất trong nƣớc đạt khoảng 0,8 tỷ mét,
nhập khẩu 6 tỷ mét, tƣơng đƣơng 88%.
Theo tính toán sơ bộ, khoảng 70% hàng dệt may xuất khẩu của VN
đƣợc thực hiện theo phƣơng thức cắt, ráp và hoàn thiện (CMT). Trong số
4.000 doanh nghiệp hiện có, có 650 doanh nghiệp nƣớc ngoài, số doanh
nghiệp Việt Nam còn lại đa phần thực hiện phƣơng thức CMT. Tình trạng này
17
nếu không cải thiện trong ngắn và trung hạn sẽ khó khai thác đƣợc lợi thế do
TPP và FTA mang lại nếu công thức “từ sợi trở đi” hoặc yêu cầu cao về quy
tắc xuất xứ đƣợc áp dụng. Trong dài hạn, điểm yếu của ngành dệt may không
kích thích đƣợc ngƣời lao động, dễ bị tổn thƣơng khi xuất hiện những thị
trƣờng lao động giá rẻ hơn và điều quan trọng hơn là không tạo đƣợc sự phát
triển bền vững của ngành.
Hiện nay xu hƣớng phát triển ngành dệt may đă có nhƣng chuyển biến
rơ rệt. Thế giới hình thành ba khu vực sản xuất chính là Trung Quốc, nhóm

các nƣớc Tây Nam Á (Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Thổ Nhĩ Kỳ) và khối
ASEAN, các khu vực sản xuất này đồng thời cũng là những trung tâm tiêu thụ
lớn của thế giới và Việt Nam nằm trong số đó. Sự cạnh tranh khốc liệt giữa
các trung tâm này đă thúc đẩy sự ra đời của các khối liên kết khu vực kèm
theo những biện pháp bảo hộ mậu dịch trong mỗi khối.
Bên cạnh đó là sự lên ngôi của ngành thời trang quyết định quá trình
phát triển của ngành dệt may toàn cầu. Việc rút ngắn vòng đời sản phẩm của
ngành thời trang đă tạo ra sự thay đổi căn bản trong các chuỗi cung ứng,
chuỗi giá trị cũng nhƣ thời gian đáp ứng đơn hàng và dệt may Việt Nam
không nằm ngoài xu hƣớng này.
Trƣớc bối cảnh mới, để tiếp tục duy trì vị thế, tạo dựng ngành dệt may
Việt Nam phát triển ổn định, bền vững trong chuỗi dệt may toàn cầu đòi hỏi
phải có những thay đổi căn bản. Đó là vải phải sản xuất trong nƣớc, ngành
thiết kế cần đƣợc củng cố và nâng cấp, thị trƣờng nội địa cần phải quản lƣ,
khai thác, phƣơng thức gia công cần đƣợc thu hẹp.
1.2.4. Triển vọng phát triển công nghiệp dệt may của Việt Nam
Hiện nay khu vực Tây Thái Bình Dƣơng là thị trƣờng rất lớn của ngành
dệt may Việt Nam. Theo thống kê của Hiệp hội dệt may Việt Nam thì có đến
60% thị phần xuất khẩu của dệt may Việt Nam tập trung hầu hết vào các nƣớc
thuộc khối TPP nên khi tham gia TPP chúng ta sẽ đƣợc hƣởng những ƣu đăi
đáng kể về thuế quan và đây cũng là khu vực có tiềm năng phát triển lớn cho
ngành dệt may của Việt Nam
18
Đây là yếu tố thuận lợi cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam mở
rộng thị phần xuất khẩu, đặc biệt là ở thị trƣờng Hoa Kỳ, bởi hàng dệt may
Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ hiện chịu thuế suất khoảng 17% - 18%, khi
TPP đƣợc ký kết thuế suất này sẽ giảm dần xuống 0%. Với các quy tắc xuất
xứ có khuyến khích sử dụng nhiều nguyên liệu nội khối TPP, nên trong dài
hạn điều này sẽ thúc đẩy Việt Nam đầu tƣ vào khâu sản xuất nguyên liệu, cụ
thể là sản xuất sợi, dệt nhuộm. Và điều quan trọng là dệt may Việt Nam sẽ có

thêm cơ hội xây dựng ngành phụ trợ cho mình.
Trao đổi về việc đàm phán TPP trong chuyến thăm chính thức Việt
Nam hồi tháng 12/2013 của Ngoại trƣởng Hoa Kỳ John Kerry, Thủ tƣớng
Nguyễn Tấn Dũng khẳng định, Việt Nam sẽ hợp tác chặt chẽ với Hoa Kỳ
trong tiến trình này và mong rằng cần có sự linh hoạt phù hợp với trình độ
phát triển của mỗi nƣớc. Trong đó, quan tâm đến lợi ích cốt lơi của Việt Nam,
điều này phù hợp với quan điểm của các nhà lănh đạo các nƣớc thành viên
TPP là hƣớng tới một Hiệp định cân bằng về quyền lợi của các thành viên.
Lợi thế của dệt may Việt Nam trƣớc ngƣỡng cửa TPP đó là ngoài sự
đồng lòng của các doanh nghiệp trong nƣớc, Việt Nam còn nhận đƣợc hỗ trợ
rất lớn từ phía Hiệp hội nhà nhập khẩu và ngƣời tiêu dùng Hoa Kỳ. Bởi khi đă
gia nhập TPP thì Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ chung khối, lúc đó bản thân ngƣời
tiêu dùng Hoa Kỳ sẽ đƣợc lợi khi hàng dệt may Việt Nam nhập khẩu vào Hoa
Kỳ đƣợc hƣởng thuế suất ƣu đăi, điều đó có nghĩa là ngƣời tiêu dùng Hoa Kỳ
sẽ đƣợc dùng hàng dệt may Việt Nam với giá rẻ hơn.
Theo tính toán của các chuyên gia, nếu gia nhập thị trƣờng TPP, ngành
dệt may Việt Nam sẽ tăng gấp ba kim ngạch xuất khẩu vào thị trƣờng Mỹ, tức
từ mức 8,6 tỷ USD năm 2013 sẽ tăng lên khoảng hơn 20 tỷ USD trƣớc năm
2020.
Vấn đề hiện tại là ngành dệt may Việt Nam còn phụ thuộc phần lớn vào
nguồn nguyên, phụ liệu nhập khẩu. Do vậy, muốn phát triển nguồn nguyên,
phụ liệu trong nƣớc đòi hỏi sự gắn kết giữa các doanh nghiệp trong ngành, tức
là hình thành và nâng cao chuỗi liên kết giữa các doanh nghiệp, khép kín quy
19
trình sản xuất từ sợi - dệt - nhuộm hoàn tất - may, chuyển dần từ hình thức gia
công sang làm hàng FOB (mua nguyên liệu, bán thành phẩm) và ODM (tự
thiết kế, sản xuất và bán sản phẩm). Điều này sẽ giúp tăng tỷ lệ nội địa hóa
của ngành, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, giảm nhập siêu Dự kiến,
ngành dệt may Việt Nam sẽ đạt tỷ lệ nội địa hóa khoảng 60% vào năm 2015
và 70% vào năm 2020. Khi đó, việc hƣởng lợi từ thuế suất mới thực sự phát

huy tác dụng.
Thực tế, tại Việt Nam, nhiều doanh nghiệp FDI (doanh nghiệp có vốn
đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài) cũng đã đầu tƣ sản xuất các nguyên, phụ liệu
ngành dệt may để đón đầu TPP từ mấy năm trƣớc. Đây là điều mà các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam cần ý thức rất rõ để có hƣớng đi phù hợp để nắm
lấy cơ hội của mình khi gia nhập TPP.


×