Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

HỢP TÁC KINH TẾ ASEAN TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM - KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (901.4 KB, 62 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC



NGUYỄN THỊ XUÂN



HỢP TÁC KINH TẾ ASEAN TRONG BỐI CẢNH
TOÀN CẦU HÓA. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM




KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC







SƠN LA, NĂM 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC




NGUYỄN THỊ XUÂN



HỢP TÁC KINH TẾ ASEAN TRONG BỐI CẢNH
TOÀN CẦU HÓA. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM



CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ THẾ GIỚI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Người hướng dẫn: Ths. Điêu Thị Vân Anh




SƠN LA, NĂM 2013
LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sự giúp
đỡ của các thầy cô giáo trong khoa Sử - Địa. Đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình
của cô giáo Th.S Điêu Thị Vân Anh.
Tôi xin chân thành cảm ơn, sự tạo điều kiện giúp đỡ của thư viện Trường
ĐH Tây Bắc, thư viện tỉnh Sơn La cũng như sự ủng hộ, động viên, giúp đỡ của
các bạn sinh viên lớp K50 ĐHSP Lịch sử.
Sơn La, tháng 5 năm 2013

Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Xuân

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

STT
VIẾT TẮT
DỊCH LÀ
1
AEC (ASEAN Economic
Community):
Cộng đồng kinh tế ASEAN
2
AFAS (ASEAN Framework
Agreement on Serrices):
Hiệp định khung về mậu dịch
3
AFTA (ASEAN Free Trade Area):
Khu vực thương mại tự do
ASEAN
4
AIA (ASEAN Investment Area):
Hiệp định khung về Khu vực đầu
tư ASEAN
5
AICO (ASEAN Industry
Cooperation):
Hợp tác công nghiệp ASEAN
6

AISP (ASEAN Integration System
of Preferences):
Hệ thống ưu đãi thống nhất
7
APEC (ASEAN Pacific Economic
Cooperation):
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á -
Thái Bình Dương
8
ASA (Association of Southeast
Asian):
Hiệp hội Đông Nam Á
9
ASEAN (Association of Southeast
Asian Nation):
Hiệp hội các nước Đông Nam Á
10
CEPT (Common Effective
Freferential Tariff):
Thuế quan ưu đãi có hiệu lực
chung
11
EU (European Union):
Liên minh Châu Âu
12
EEC (European Economic
Community):
Cộng đồng kinh tế Châu Âu
13
FDI (Foreign Direet Innesiment):

Đầu tư trực tiếp nước ngoài
14
GDP (Gross Domestic Product):
Tổng sản phẩm quốc nội
15
GNP (Gross Nation Product):
Tổng sản phẩm quốc dân
16
HDI (Human Devlopment Index):
Chỉ số phát triển con người
17
IL (Inclusion List):
Danh mục cắt giảm thuế ngay
18
IMF (Internation Monetary Fund):
Quỹ tiền tệ quốc tế
19
LAFTA (Latin American Free
Trade Association):
Khu vực mậu dịch tự do Mĩ La
Tinh
20
NAFTA (North American Free
Trade Agreement):
Hiệp định khung thương mại tự do
bắc Mĩ
21
NICS (Newly Industrilizing
Countries):
Các nước công nghiệp mới

22
ODA (Official Development Aid):
Hỗ trợ phát triển chính thức
23
PTA (Preferential Trading
Agreement):
Hiệp định thương mại ưu đãi
24
SEOM (Senior Economic Officials
Meeting):
Hội nghị các quan chức kinh tế
cao cấp
25
WB (World Bank):
Ngân hàng thế giới
26
WTO (World Trade
Organization):
Tổ chức thương mại thế giới


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 1
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ và đóng góp của đề tài. 2
3.1. Đối tượng nghiên cứu 2
3.2. Phạm vi nghiên cứu 2
3.3 Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3

3.4 Đóng góp của đề tài 3
4. Cơ sở tư liệu và phương pháp nghiên cứu 3
4.1. Cơ sở tư liệu 3
4.2. Phương pháp nghiên cứu 3
5. Bố cục đề tài 3
CHƯƠNG 1. HỢP TÁC KINH TẾ ASEAN TRONG BỐI CẢNH TOÀN
CẦU HÓA 4
1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực 4
1.1.1. Bối cảnh quốc tế 4
1.1.2. Bối cảnh khu vực Đông Nam Á 5
1.2. Khái quát sự ra đời tổ chức ASEAN. 7
1.3. Đặc điểm kinh tế ASEAN dưới tác động của toàn cầu hóa 9
1.3.1. ASEAN là một tổ chức hợp tác kinh tế nhiều mặt 9
1.3.2. Hợp tác kinh tế thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ 16
1.3.3. Hợp tác kinh tế ASEAN theo xu hướng đa dạng hóa quan hệ quốc tế và
giảm dần sự phụ thuộc vào một thị trường lớn 17
1.3.4. Những khó khăn của quá trình hợp tác kinh tế ASEAN trong bối cảnh
toàn cầu hóa. 25
CHƯƠNG 2. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT
NAM 29
2.1. Cơ hội 29
2.2. Về thách thức 45
KẾT LUẬN 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nền kinh tế thế giới trong những thập kỉ cuối của thế kỉ XX và những năm

đầu của thế kỉ XXI có sự phát triển vượt bậc làm thay đổi diện mạo thế giới.
Trong đó nổi lên là xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hóa diễn ra mạnh mẽ thu
hút đông đảo các quốc gia.
Dưới tác động của tiến bộ khoa học - công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực
công nghệ thông tin, hợp tác giữa các quốc gia, khu vực trên thế giới trở thành
yêu cầu bức thiết để mở đường cho kinh tế quốc tế phát triển. Theo đó, nền kinh
tế thế giới thế kỉ XXI mở ra những cơ hội và thách thức cho mọi nền kinh tế
phát triển bất kể đó là nền kinh tế phát triển, đang phát triển hay chuyển đổi.
Tiêu biểu cho xu thế khu vực hóa là sự ra đời của tổ chức ASEAN. Từ khi
thành lập ngày 8/8/1967 đến nay, tuy trải qua nhiều thăng trầm song ASEAN đã
và đang ngày càng khẳng định vị thế của mình và được đánh giá là khu vực
năng động, “điểm sáng” trên thế giới với chỉ số phát triển kinh tế cao. Trong bối
cảnh đó, hợp tác kinh tế khu vực ASEAN để lựa chọn chiến lược phát triển quốc
gia mang tính thích ứng cao là một vấn đề cấp thiết của các nước trong khu vực
Đông Nam Á.
Đối với Việt Nam điều này càng trở nên cấp thiết bởi vì nước ta là nền kinh
tế đi sau, mới chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập vào nền kinh tế
thế giới. Hội nhập kinh tế ASEAN giúp Việt Nam tiếp xúc với nhiều cơ hội
nhưng cũng phải đối mặt nhiều khó khăn thách thức. Từ đó rút ra những bài học
kinh nghiệm để có những bước đi, biện pháp phù hợp nhằm khắc phục khó
khăn, vượt qua thử thách làm cho bộ mặt đất nước ngày càng khởi sắc.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài này còn góp phần làm phong phú thêm
tư liệu về ASEAN phục vụ cho quá trình nghiên cứu học tập giảng dạy lịch sử
thế giới hiện đại.
Chính vì vậy, tôi lựa chọn vấn đề “Hợp tác kinh tế ASEAN trong bối cảnh
toàn cầu hóa. Cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam” để làm đề tài
nghiên cứu. Đề tài mang tính lí luận và thực tiễn sâu sắc, nó cho phép ta có cái
nhìn đúng đắn về thực tiễn đổi mới của nước ta trong bối cảnh thế giới và khu
vực hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Từ khi thành lập đến nay ASEAN đã từng bước khẳng định mình và trở
thành một tổ chức kinh tế - chính trị khu vực có uy tín trên trường quốc tế. Hợp

2
tác kinh tế ASEAN là lĩnh vực mà ASEAN đạt được ở mức độ sâu, rộng nhất và
là động lực phát triển chính ASEAN. Cho nên hợp tác kinh tế ASEAN là vấn đề
thu hút được nhiều sự quan tâm của giới nghiên cứu trong và ngoài nước nhưng
chưa có một công trình nào đi chuyên sâu nghiên cứu vấn đề hợp tác kinh tế
ASEAN trong bối cảnh toàn cầu hóa. Cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế
Việt Nam.
Cuốn “Lịch sử Đông Nam Á”, Lương Ninh (chủ biên), NXB Giáo dục, Hà
Nội, 2005 đã khái quát lịch sử hình thành, quá trình hợp tác của các nước trên
các lĩnh vực. Tuy nhiên chưa có sự chuyên sâu về kinh tế thời kì toàn cầu hóa.
Trong cuốn “ASEAN và sự hội nhập của Việt Nam”, Đào Huy Ngọc (chủ
biên), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997 cũng đã đề cập đến quá trình hình
thành, hợp tác giữa các nước ASEAN. Song vấn đề hợp tác kinh tế trong bối
cảnh toàn cầu hóa còn rất ngắn gọn và khát quát chung.
Cuốn “Lịch sử thế giới hiện đại”, Trần Thị Vinh (chủ biên), NXB Đại học
sư phạm, Hà Nội, 2008 đã khái quát về Hiệp hội các nước Đông Nam Á
(ASEAN) và hội nhập Việt Nam - ASEAN từ 1975 đến nay trên các lĩnh vực.
Cuốn “Việt Nam trong ASEAN - nhìn lại và hướng tới”, Phan Đức Thành,
Trần Khánh (chủ biên), NXB KHXH, Hà Nội, 2006 tập trung phân tích vị thế,
vai trò của Việt Nam trong quan hệ hợp tác kinh tế ASEAN chứ chưa nói đến sự
hợp tác kinh tế ASEAN trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Như vậy, hợp tác kinh tế ASEAN đã được nhiều công trình, bài viết của
nhiều tác giả đề cập đến. Song vấn đề hợp tác kinh tế ASEAN trong bối cảnh
toàn cầu hóa, cơ hội và thách thức của quá trình này đối với nền kinh tế Việt
Nam thì chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể, chi tiết.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ và đóng góp của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Ở đề tài này tôi tập trung đi sâu vào nghiên cứu sự hợp tác kinh tế ASEAN
trong bối cảnh toàn cầu hóa. Những cơ hội và thách thức của sự hợp tác này đối
với nền kinh tế Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian, tập trung nghiên cứu sự hợp tác kinh tế giữa các nước
ASEAN và giữa ASEAN với những nước tiêu biểu ngoài khối như Mĩ, Trung
Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản.

3
- Về thời gian, đề tài tập trung nghiên cứu sự hợp tác kinh tế ASEAN thời
kì toàn cầu hóa cuối thế kỉ XX - đầu thế kỉ XXI.
3.3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu tôi cố gắng làm rõ sự hợp tác kinh tế giữa các
nước trong khối ASEAN và giữa ASEAN với một số nước ngoài khối trong bối
cảnh toàn cầu hóa, những cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam.
3.4. Đóng góp của đề tài
Đề tài có những đóng góp sau:
- Thấy rõ liên kết kinh tế giữa các quốc gia trong và ngoài khu vực.
- Những cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam.
- Góp phần làm phong phú thêm tư liệu về khối ASEAN.
- Phục vụ cho quá trình nghiên cứu, học tập, giảng dạy về ASEAN.
4. Cơ sở tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở tư liệu
Để hoàn thành đề tài này tôi đã sử dụng các nguồn tài liệu sau:
- Những văn kiện của Đảng và Nhà nước có liên quan đến đề tài.
- Những công trình nghiên cứu có liên quan được công bố trên các tạp chí,
các bài báo, giáo trình.
- Các nguồn tư liệu từ mạng Internet.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành khóa luận trên tôi đã tìm, sưu tập, tập hợp, hệ thống hóa tài

liệu cần thiết. Sau đó tôi sử dụng phương pháp lịch sử và lôgic để trình bày sự
kiện, nội dung theo vấn đề, đồng thời so sánh, đánh giá, phân tích để rút ra kết
luận, tìm hiểu và làm rõ mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu
thành 2 chương:
Chương 1. Hợp tác kinh tế ASEAN trong bối cảnh toàn cầu hóa
Chương 2. Cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam


4
CHƯƠNG 1
HỢP TÁC KINH TẾ ASEAN TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA
1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực
1.1.1. Bối cảnh quốc tế
Hợp tác kinh tế ASEAN hiện nay đang diễn ra trong bối cảnh quốc tế có rất
nhiều thay đổi quan trọng.
Trước hết, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển sâu rộng, trực
tiếp tác động vào mọi ngành kinh tế quốc dân, mọi lĩnh vực xã hội, với 4 trụ cột
chính đó là: công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công nghệ năng lượng và
công nghệ thông tin. Điều này thúc đẩy năng suất lao động tăng, nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần con người, đòi hỏi phải đổi mới giáo dục và kinh tế tri
thức có vai trò hết sức quan trọng, thay đổi chất lượng nguồn nhân lực, thúc đẩy
mạnh mẽ xu thế toàn cầu hóa.
Dưới tác động của khoa học - công nghệ, quá trình toàn cầu hóa, khu vực
hóa diễn ra một cách mạnh mẽ, chưa bao giờ như bây giờ toàn cầu hóa đang
vượt qua tất cả những thời đại trước, lôi cuốn ngày càng nhiều nước vào vòng
phát triển. Nhìn chung toàn cầu hóa thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tăng trưởng
kinh tế thế giới. Biểu hiện đó là trong hơn 50 năm nền kinh tế toàn cầu tăng hơn
9 lần từ hơn 3 nghìn tỉ USD vào giữa thế kỉ XX lên hơn 30 nghìn tỉ USD vào

cuối thế kỉ, thu nhập bình quân theo đầu người tăng hơn 3 lần [2, 88], khiến nền
kinh tế năng động hơn, sự liên kết quốc gia khu vực chặt chẽ hơn.
Sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế và
khu vực như: khu vực Mậu dịch Tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Diễn đàn Hợp tác
Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
(AFTA), Hội nghị Cấp cao Á - Âu (ASEN)… là biểu hiện rõ nét của những thay
đổi căn bản quan hệ hợp tác kinh tế hiện nay trong xu thế toàn cầu hóa gia tăng
mạnh mẽ. Quá trình toàn cầu hóa cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ
thông tin đã tạo ra một sự liên kết kinh tế thị trường hàng hóa, dịch vụ và tài
chính xuyên biên giới. Trong quá trình đó, các công ty xuyên quốc gia trở thành
lực lượng hùng mạnh về kinh tế và tài chính, quan hệ sản xuất được quốc tế hóa.
Một ví dụ sinh động chứng minh điều đó: Theo thống kê lượng giao dịch
hàng ngày của năm 2000 lên đến 1000 tỉ USD đã góp phần hình thành hệ thống
sản xuất và tiêu thụ khổng lồ toàn cầu. Cũng theo thống kê của ngân hàng thế
giới có khoảng 4000 công ty xuyên quốc gia mẹ với 280.000 công ty con và các
xí nghiệp phụ thuộc rải khắp thế giới. Các công ty xuyên quốc gia đã khống chế

5
2/3 sản phẩm toàn thế giới, 70% vốn đầu tư, hơn 70% bản quyền và chuyển
nhượng kĩ thuật, hơn 2/3 thương mại thế giới.
Như vậy có thể thấy toàn cầu hóa là xu thế tất yếu, tác động đến mọi mặt
của tiến trình phát triển thế giới lôi cuốn đông đảo các quốc gia tham gia, mở ra
thời kỳ phát triển với sự phụ thuộc và tương tác giữa các nền kinh tế, khu vực.
Nó chứa đựng cả những nhân tố tích cực, cơ hội nhưng cũng có tác động tiêu
cực và trở thành thách thức đối với quan hệ hợp tác khu vực ASEAN, đặc biệt là
trên lĩnh vực kinh tế.
Về kinh tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước trên thế giới về cơ bản
tiếp tục tăng. Cụ thể là trong năm 2000, nền kinh tế Mĩ có tốc độ tăng trưởng là
3,4% - được coi là cột mốc lịch sử của nền kinh tế. Còn EU cũng có tốc độ tăng
trưởng là 3,4%, cao hơn mức 2,1% năm 1999. Trong khi đó, nền kinh tế Nhật

Bản cũng đang dần phục hồi với tốc độ tăng trưởng kinh tế vào năm 2000 là
1,4%, cao hơn 1,0% năm 1999 [2, 213]. Cùng với đó thì các nền kinh tế khác
như châu Á, Châu Phi, Mĩ Latinh, Đông Âu hay Trung Đông cũng đang có
những chuyển biến tích cực.
Cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển trở
thành xu thế chủ đạo, chi phối quan hệ quốc tế. Tuy nhiên vẫn còn các cuộc
xung đột vũ trang, sắc tộc, tôn giáo, khủng bố. Vì vậy, các nước phải điều chỉnh
về đường lối để đảm bảo an ninh, có phương hướng phát triển tối ưu kinh tế cho
quốc gia và toàn khu vực.
1.1.2. Bối cảnh khu vực Đông Nam Á
Những diễn biến của tình hình quốc tế đã ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình
Đông Nam Á những năm đầu thế kỉ XXI.
Về chính trị - xã hội. Cùng với vấn đề trọng tâm là khôi phục, phát triển
kinh tế và ổn định chính trị - xã hội sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ năm
1997, Đông Nam Á còn đối mặt với sự gia tăng của nguy cơ khủng bố và li khai
ở một số nước như vụ đánh bom ở Bali - Inđônêxia (2002), hoạt động chống
chính quyền trung ương của nhóm Hồi giáo ở miền Nam Thái Lan (2004), vụ
cướp ngục ở Manila (2005). Bởi lẽ Đông Nam Á là khu vực có đông tín đồ Hồi
giáo (khoảng 20%), mặc dù phần lớn những người Hồi giáo ở đây là những tín
đồ Hồi giáo ôn hòa chống lại chủ nghĩa khủng bố và không có quan điểm chống
Mĩ công khai nhưng thực tế cho thấy mối liên hệ giữa các nhóm Hồi giáo cực
đoan Đông Nam Á với mạng lưới Al Qaeda.

6
Về kinh tế. Cơn lốc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 đã có tác động
tiêu cực đến quá trình phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của các quốc gia trong
khu vực và thế giới. Chính vì vậy, vấn đề hợp tác và liên kết kinh tế đã trở thành
yêu cầu bức thiết của ASEAN nhằm giúp đỡ nhau trong việc phục hồi kinh tế.
Với sự nỗ lực to lớn của mỗi nước, tự khơi dậy tiềm lực kinh tế quốc gia,
tiến hành cải cách điều chỉnh chiến lược kinh tế, xác định rõ nguyên nhân khủng

hoảng và tìm ra biện pháp thoát khỏi khủng hoảng, được sự giúp đỡ của cộng
đồng quốc tế (quyên góp vàng, ngoại tệ, kêu gọi hỗ trợ từ IMF, WB, các nước tư
bản phát triển) cùng với những quy chế thông thoáng hơn về kinh tế, học hỏi
trao đổi kinh nghiệm giúp đỡ lẫn nhau các nước ASEAN từng bước khắc phục
hậu quả khủng hoảng. Năm 1999, nền kinh tế ASEAN đã thoát khỏi tình trạng
trì trệ sau khủng hoảng và tốc độ tăng trưởng trở lại ở mức trung bình là 2,6%
trong đó Singapo đạt 5%, Thái Lan và Philippin 3%, Malaixia và Inđônêxia là
2% [17, 325]. Hội nghị bộ trưởng tài chính ASEAN năm 1999 đã đưa ra tuyên
bố khẳng định ASEAN đã thoát khỏi khủng hoảng. Với việc giải quyết khủng
hoảng và những quan hệ hợp tác đã đánh dấu các nước ASEAN bắt đầu hợp tác
trong việc phối hợp các chính sách vĩ mô, giúp nhau định hoạch chính sách,
năng cao sức cạnh tranh, góp phần xây dựng quốc gia giàu mạnh văn minh. Dẫu
chỉ là bước đầu nhưng nó cũng đặt cơ sở cho quan hệ hợp tác toàn diện của
ASEAN, mở ra một thế kỷ đầy triển vọng khi bước vào ngưỡng cửa thế kỉ XXI.
Những năm đầu thế kỉ XXI, các nước Đông Nam Á đã phục hồi kinh tế với
tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình hằng năm (GDP) đạt khoảng 4% song
không đồng đều giữa các nước. Các nước ASEAN - 6 (Singapo, Brunây, Malaixia,
Thái Lan, Philippin và Inđônêxia) đạt tốc độ tăng trưởng cao mặc dù chịu tác
động nặng nề của cuộc khủng khoảng. Trong khi đó, nhóm các nước ASEAN - 4
(Việt Nam, Lào, Campuchia, Mianma) có trình độ phát triển kinh tế thấp hơn
nhóm ASEAN - 6. Biểu hiện là Mianma hiện là nước có thu nhập quốc dân tính
theo đầu người thấp nhất ASEAN, chỉ khoảng hơn 200 đôla Mĩ. Inđônêxia là
nước đứng đầu về diện tích và dân số trong ASEAN nhưng thu nhập quốc dân
tính theo đầu người chỉ khoảng 600 đôla Mĩ. Trong khi đó Singapo và Brunây là
hai quốc gia nhỏ về diện tích và dân số lại có thu nhập bình quân đầu người cao
nhất ASEAN vào khoảng trên 30.000 đôla Mĩ/năm. Nhìn chung, mức độ phát
triển kinh tế giữa các nước ASEAN không đều. Vì thế, đến đầu thế kỉ XXI
khoảng cách phát triển giữa hai nhóm nước ngày càng lớn.
Bước vào thế kỉ XXI, thế giới đứng trước những biến đổi to lớn về kinh tế,
an ninh, chính trị, khoa học - công nghệ. Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế


7
vừa tạo ra những cơ hội phát triển nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro và thách thức
đòi hỏi các nước phải điều chỉnh chiến lược phát triển của mình cho phù hợp.
1.2. Khái quát sự ra đời tổ chức ASEAN
Hiệp hội các nước Đông Nam Á (Associtation of the South East Asian
Nation - ASEAN) là một tổ chức liên minh về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội
của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Thành lập ngày 8/8/1967 tại Hội
nghị ngoại trưởng 5 nước thuộc khu vực Đông Nam Á là Thái Lan, Malaixia,
Singapo, Philippin và Inđônêxia. Từ 5 nước thành viên ban đầu, đến nay
ASEAN đã có 10 thành viên bao gồm 5 thành viên gia nhập sau là Brunây
(1984), Việt Nam (1995), Lào (1997), Mianma (1997) và Campuchia (1999).
Trụ sở của ASEAN đặt tại Jakarta, Inđônêxia ASEAN có tổng diện tích khoảng
4,5 triệu km2, dân số khoảng 500 triệu người [13, 19].
ASEAN hoạt động dựa trên 7 mục tiêu cơ bản sau:
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa trong
khu vực thông qua các nỗ lực chung trên tinh thần bình đẳng và hợp tác nhằm
tăng cường cơ sở cho một cộng đồng các nước Đông Nam Á hòa bình và
thịnh vượng.
- Thúc đẩy hòa bình và thịnh vượng khu vực bằng việc tôn trọng công lí và
nguyên tắc luật pháp trong quan hệ giữa các nước trong khu vực và tuân thủ
nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc.
- Thúc đẩy sự cộng tác tích cực và giúp đỡ lẫn nhau trong các vấn đề cùng quan
tâm trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học - kĩ thuật và hành chính.
- Giúp đỡ lẫn nhau dưới các hình thức đào tạo và cung cấp các phương tiện
nghiên cứu trong các lĩnh vực giáo dục, chuyên môn, kĩ thuật và hành chính.
- Cộng tác có hiệu quả hơn để sử dụng tốt hơn nền nông nghiệp và các
ngành công nghiệp của nhau, mở rộng mậu dịch, kể cả việc nghiên cứu các vấn
đề buôn bán hàng hóa giữa các nước, cải thiện các phương tiện giao thông, liên
lạc, nâng cao mức sống nhân dân.

- Thúc đẩy việc nghiên cứu về Đông Nam Á.
- Duy trì hợp tác chặt chẽ cùng có lợi với các tổ chức quốc tế và khu vực có
tôn chỉ và mục đích tương hợp, tìm kiếm các cách thức nhằm đạt được một sự
hợp tác chặt chẽ giữa các tổ chức này [2, 15].
Lịch sử phát triển của tổ chức ASEAN được chia làm hai thời kỳ trước và
sau năm 1975:

8
Trong thời kỳ đầu hoạt động của tổ chức ASEAN chủ yếu mang đậm màu
sắc chính trị, về hợp tác kinh tế hoạt động của ASEAN chủ yếu mới dừng lại ở
hình thức thăm dò, tìm hiểu khả năng hợp tác.
Sang thời kỳ thứ hai, bắt đầu từ hai hội nghị cấp cao được tổ chức tại Bali
(Inđônêxia) vào tháng 2/1976 và tại Kuala Lămpo vào tháng 8/1977. Các văn
kiện của hội nghị đã khẳng định lại lập trường của ASEAN về khu vực: hòa
bình, tự do, trung lập, đồng thời định ra một chương trình hành động về hợp tác
kinh tế - xã hội.
Đặc biệt tại hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ tư tổ chức tại Singapo tháng
1/1992 các nguyên thủ quốc gia các nước thành viên ASEAN đã ký kết bản tuyên
bố chung trong đó khẳng định về hợp tác kinh tế có tính định hướng cơ bản sau:
- ASEAN sẽ tiến lên đạt trình độ hợp tác kinh tế và chính trị cao hơn để
củng cố hòa bình và thịnh vượng khu vực.
- ASEAN sẽ kiên trì tìm kiếm bảo vệ lợi ích tập thể của mình trên sự hình
thành các nhóm kinh tế khổng lồ và đẩy mạnh giữa các nước phát triển đặc biệt
thông qua việc thúc đẩy hệ thống kinh tế quốc tế, mở cửa và bằng việc khuyến
khích hợp tác kinh tế trong vùng.
Hội nghị cũng đã thỏa thuận cơ cấu lại tổ chức ASEAN, đặc biệt là việc
thành lập khu vực buôn bán tự do ASEAN (AFTA) đã thể hiện sự thích ứng mới
của ASEAN đối với với tình hình kinh tế chính trị trong khu vực và thế giới
nhằm tăng cường sự hợp tác rộng về kinh tế. Mục tiêu chủ yếu của AFTA là tạo
ra một môi trường thương mại, đầu tư ưu đãi trong khu vực trên cơ sở loại bỏ

các hàng rào thuế quan và phi thuế quan thông qua việc thực hiện Hiệp định về
công trình thuế quan ưu đãi hiệu lực chung (CEPT). Theo kế hoạch của CEPT 6
nước thành viên ban đầu phải thực hiện cắt giảm thuế quan 0 - 5% vào năm
2003, các nước thành viên mới sẽ hoàn tất AFTA muộn hơn. Tiếp đó, ASEAN
xác định 12 lĩnh vực ưu tiên hội nhập (gỗ, cao su, nông nghiệp, thủy hải sản, dệt
may và giày dép, xe hơi, điện tử, dịch vụ, du lịch, hàng không, y tế, hậu cần) để
sớm đẩy mạnh hơn nữa thương mại nội khối.
Song song với tăng cường hợp tác kinh tế nội bộ, ASEAN tích cực tăng
cường hợp tác kinh tế - thương mại với các nước, các nền kinh tế lớn trong khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương và trên thế giới nhất là đàm phán thiết lập khu
vực mậu dịch tự do (FTA) với hầu hết các nước đối thoại của ASEAN: Trung
Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Niu Di Lân, Ốtxtrâylia… Đối với các nước
trong khu vực Đông Á, ASEAN chủ động đưa ra cơ chế hợp tác mới “Hợp tác
ASEAN +3” (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản).

9
Có thể nói, thành công của hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 4 là bước
chuyển biến quan trọng trong khuôn khổ hợp tác ASEAN, chuyển từ hợp tác
chính trị là chủ yếu sang hợp tác kinh tế là chủ yếu. Cũng từ đây, hợp tác kinh tế
ASEAN ngày càng phát triển và biến đổi mạnh mẽ trong quá trình toàn cầu hóa
hiện nay.
1.3. Đặc điểm kinh tế ASEAN dưới tác động của toàn cầu hóa
Dựa trên nền tảng những thành tựu phát triển kinh tế và hợp tác khu vực
giữa các nước thành viên trong hơn 3 thập kỉ qua, các nhà lãnh đạo cao cấp
ASEAN đã đưa ra nhận định rằng vào năm 2020 Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á sẽ là một khối hài hòa các quốc gia trong khu vực hướng ra bên ngoài,
sống trong hòa bình, ổn định, thịnh vượng liên kết với nhau bằng mối quan hệ
đối tác phát triển năng động và một cộng đồng xã hội quan tâm lẫn nhau. Phải
tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay bởi lẽ:
Thứ nhất, các quyết định về tăng cường tự do hóa thương mại khu vực

thông qua AFTA, tự do hóa đầu tư khu vực thông qua AIA và về tăng cường
trong lĩnh vực tài chính đã được các nước thành viên ASEAN thông qua sau
cuộc khủng khoảng tài chính khu vực và đặc biệt năm 2001, 2002 đã khẳng định
tiến trình tự do hóa kinh tế khu vực sẽ hoàn tất đúng lịch trình.
Thứ hai, dưới tác động của toàn cầu hóa, đa phương hóa việc lựa chọn
chiến lược khu vực hóa vẫn là phương án thích hợp trong những thập niên đầu
tiên của thế kỷ XX.
Thứ ba, khoảng cách chênh lệch giữa các nước thành viên cũ và mới
(ASEAN - 6 và ASEAN - 4) đã, đang khẳng định và sẽ tồn tại trong tương lai về
trình độ phát triển kinh tế, khả năng phát triển khoa học và công nghệ sẽ trở
thành nền tảng cho các nước trong khối phát triển quan hệ hợp tác với nhau trên
mọi lĩnh vực.
Thứ tư, việc giải quyết các vấn đề khu vực và quốc tế như nạn tham nhũng,
khủng bố, ma túy, dịch bệnh… đang đòi hỏi các nước trong khu vực phải phối
hợp hành động.
Với triển vọng là một khối hài hòa hợp tác kinh tế ASEAN có một số đặc
điểm sau:
1.3.1. ASEAN là một tổ chức hợp tác kinh tế nhiều mặt
Vào thời điểm bắt đầu thành lập ASEAN theo các chuyên gia Liên Hợp
Quốc các nước ASEAN có dân số khoảng 5% dân số thế giới (trên 300 triệu) và
chiếm tới 80% sản lượng cao su thiên nhiên, 60% đồng và thiếc, hơn 50% dừa,

10
20% dứa và hơn 12% cùi dừa và gạo của thế giới [2, 82]. Như vậy, với những
tiềm lực trên ASEAN có điều kiện quan trọng để dẫn tới hợp tác và phát triển
kinh tế.
Trước hết về công nghiệp, sau khi đẩy mạnh công nghiệp hóa đất nước, các
nước ASEAN đã đạt được những tiến bộ và thành tựu đáng kể trong sản xuất
công nghiệp. Nền công nghiệp dần dần biến đổi theo hướng đa ngành, đa dạng
hóa sản phẩm. Các quốc gia hợp tác xây dựng các nhà máy công nghiệp quy mô

lớn để đáp ứng yêu cầu khu vực về các hàng hóa cơ bản, thiết yếu. Ưu tiên sử
dụng vật liệu có sẵn tại các quốc gia góp phần tăng cường sản xuất lương thực,
tăng năng suất lao động, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Cùng với đó,
với chương trình hợp tác thông qua ba dự án quan trọng tại Hội nghị công
nghiệp ASEAN (AIC), dự án liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV) và nhờ
chính sách công nghiệp hóa, nền công nghiệp các nước ASEAN đã đạt những
thành tựu rất đáng ghi nhận.
Từ thập niên 80 đến nay, Singapo, Malaixia là những nước sản xuất các sản
phẩm kĩ thuật cao: linh kiện điện tử, con chíp điện tử. Ngành công nghiệp khai
thác dầu khí có vai trò quan trọng, Inđônêxia là nước có sản lượng khai thác dầu
khí lớn (60 triệu tấn/năm). Năm 2005, nước này sản xuất 1,02 triệu thùng/ngày.
Singapo và Malaixia là những nước có nền công nghiệp lọc dầu phát triển.
Inđônêxia có sản lượng khai thác than lớn khoảng gần 50 triệu tấn/năm. Ngoài
ra, các ngành công nghiệp khai thác mỏ đồng, bôxit, chì, kẽm cũng khá phát
triển ở Malaixia, Inđônêxia, Philippin. Công nghiệp chế biến lương thực thực
phẩm với các sản phẩm: gạo, đường mía, hải sản đông lạnh phát triển.
Bên cạnh đó còn có Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO)
nhằm khuyến khích liên kết sản xuất giữa các xí nghiệp của các nước ASEAN,
kể cả xí nghiệp vừa và nhỏ phải sử dụng có hiệu quả nguồn lực của ASEAN.
Theo đó cho phép các công ty có đủ điều kiện tham gia AICO sẽ được hưởng
mức thuế quan ưu đãi 0 - 5% theo quy định của AFTA ngay lập tức. Tính đến
tháng 7 năm 2003, đã có 114 trong tổng số 169 đơn vị xin gia nhập AICO đã
được chấp thuận, theo tính toán thì 114 công ty này có thể tạo ra tổng kim ngạch
thương mại khoảng 1,2 tỷ USD mỗi năm [13, 38].
Singapo đứng đầu hàng ngũ các nước công nghiệp mới (NICs) trở thành
trung tâm dịch vụ, chính trị, thương mại quốc tế. Hiện nay Singapo trở thành
trung tâm của các ngành công nghiệp có kĩ thuật và công nghệ cao: công nghiệp
điện tử, đóng tàu, dàn khoan dầu trên biển, lọc dầu, chế tạo máy chính xác.

11

Cùng với đó, một số nước đang trên đà phấn đấu trở thành nước công nghiệp
mới và nền kinh tế mới (NICs, NIEs): Malaixia, Thái Lan. Từ những năm 90 đến
nay Inđônêxia đang có chính sách mới để phát triển kinh tế đặc biệt là sự “bùng
nổ việc thăm dò dầu” với thành tựu là nước xuất khẩu khí thiên nhiên hóa lỏng,
Inđônêxia đang chuẩn bị gia nhập câu lạc bộ các nước NICs, NIEs.
Như vậy nền công nghiệp giữa các nước ngày càng phát triển theo hướng
đa dạng ngành, đa dạng hóa sản phẩm, linh hoạt trong hợp tác công nghiệp hóa,
phát triển công nghiệp khai thác, tăng cường hợp tác chuyển giao công nghệ,
trao đổi thông tin, sản xuất và cung cấp nguồn năng lượng đem lại thành tựu lớn
thúc đẩy kinh tế ASEAN phát triển.
Về nông nghiệp, với việc thực hiện “cách mạng xanh” ở hầu hết các nước
nông nghiệp, các nước ASEAN đã đạt những thành tựu quan trọng: mở rộng
diện tích, đa dạng hóa cây trồng, áp dụng phương pháp và kĩ thuật canh tác mới,
lai tạo giống mới nâng cao chất lượng quản lí. Nhờ đó, ASEAN nổi tiếng về
xuất khẩu gạo và trồng các loại cây công nghiệp nhiệt đới: ca cao, dừa, cọ. Thái
Lan, Việt Nam là những nước xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới. Năm 2007 Thái
Lan sản xuất 23,8 triệu tấn và xuất khẩu 10 triệu tấn, ở Việt Nam sản xuất 35,8
triệu tấn lúa gạo.
Với khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa thuận lợi cho các nước trồng các nước
trồng các loại cây công nghiệp và cây ăn quả nhiệt đới như: cà phê, cao su, dầu
cọ Đông Nam Á cung cấp 90% sản lượng cao su tự nhiên của thế giới, trong
đó Malaixia có diện tích trồng cao su khoảng 1,3 - 1,5 triệu ha. Cọ dầu cũng là
một cây công nghiệp quan trọng được trồng ở nhiều nơi: Inđônêxia, Malaixia,
Thái Lan Malaixia là nước xuất khẩu dầu cọ đứng đầu thế giới. Sản lượng cà
phê Đông Nam Á chiếm tỉ trọng lớn và tăng nhanh, năm 2005 đạt tỉ trọng là
23%. Cùng với điều kiện tự nhiên thuận lợi các nước Đông Nam Á còn có lợi
thế phát triển chăn nuôi, thủy sản.
Như vậy có thể thấy, nền nông nghiệp các nước ASEAN phát triển, có sự
trao đổi, hợp tác lẫn nhau. Với việc áp dụng những thành tựu của khoa học công
nghệ vào sản xuất nông nghiệp cùng với lợi thế, tiềm năng của từng nước đã

thúc đẩy kinh tế phát triển, nhiều mặt hàng nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn.
Về giao thông vận tải, đây là vấn đề đặt ra đối với quá trình liên kết xã hội
giao thông vận tải và thông tin liên lạc. Đến nay đã có khoảng hơn 1000 dự án
đã được triển khai và tập trung vào 4 lĩnh vực chủ yếu: cảng và vận tải thủy, vận
tải đường bộ, hàng không và dịch vụ hàng không dân dụng, bưu điện viễn thông.

12
Tăng cường hợp tác khu vực nhằm củng cố hệ thống bưu điện viễn thông liên
quốc gia các dự án trên bắt dầu có hiệu quả.
Các nước ASEAN có nhiều cảng nước sâu, có trọng tải lớn như các cảng
của Singapo, Malacca của Inđônêxia trở thành nơi trung chuyển hàng hóa và là
một trong những tuyến đường giao thông quan trọng trên thế giới nối liền Ấn Độ
Dương và Thái Bình Dương. Điều này tiết kiệm thời gian và tiền của, thúc đẩy
quá trình hợp tác nội bộ diễn ra có hiệu quả hơn. Các dự án hiện đại hóa cảng,
dự án “lục giác kinh tế” đang được triển khai sau khi ở Đông Nam Á đã hình
thành 4 tam giác phát triển lớn mà chuyên gia kinh tế gọi là “khu chuyển tiếp
kinh tế”. Ngoài ra, Thái Lan cũng khảo sát kế hoạch xây dựng bẩy tuyến đường
nối liền tỉnh Đông Bắc Thái Lan với các nước Đông Dương trong tương lai.
Đối với vận tải hàng không thì vận tải hàng hóa và vận tải hành khách được
tự do hóa. Thông qua việc thực hiện toàn cầu hóa theo nguyên tắc “10 - X”
ASEAN sẽ mở cửa bầu trời (cho phép các hãng hàng không nước ngoài được
đưa đón hành khách bất kì nước nào trong ASEAN), đến cuối năm 2006 sẽ thực
hiện tự do hoàn toàn thương quyền 3 và 4 đồng thời tăng lượng hàng hóa chuyên
chở và các điểm đến trong khu vực ASEAN và đến 2008 sẽ thực hiện tự do hóa
hoàn toàn trong khu vực đối với vận tải hàng hóa.
Hiện nay các nước ASEAN đã hòa mạng viễn thông liên lạc trực tiếp, sử
dụng hệ thống vệ tinh Palapa. Thêm vào đó còn thiết lập hệ thống cáp điện thoại
ngầm dưới biển đặc biệt vào tháng 3/2002, kênh truyền hình Đông Nam Á hình
thành, đánh dấu hợp tác chặt chẽ trong khu vực. Như vậy, giao thông vận tải giữ
vai trò quan trọng trong hợp tác quốc tế, là cầu nối để gắn kết các quốc gia.

Về tài chính ngân hàng và kinh tế dịch vụ, có thể nói hệ thống ngân hàng
tín dụng ở các nước ASEAN phát triển nhanh chóng, ở hầu khắp các nước đã
thực hiện chính sách hối đoái tự do, mở rộng thị trường tư bản tiền tệ tăng
cường kinh tế đô thị và dịch vụ trên cơ sở thực hiện mở cửa rộng rãi. Đáng chú ý
là một số thỏa thuận hợp tác trong các lĩnh vực sau:
Thỏa thuận hỗ trợ ngoại tệ được các ngân hàng trung ương và các cơ quan
tiền tệ của ASEAN kí kết tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 2 nhằm cung cấp kịp
thời những khoản tín dụng ngắn hạn cho các nước gặp khó khăn trong thanh
toán quốc tế.
Việc sử dụng đồng tiền ASEAN trong thanh toán thương mại giữa các
nước ngày càng gia tăng. Các nước ASEAN hợp tác về vấn đề tiền tệ đó chính là
việc thiết lập một hệ thống thanh toán tiền tệ ASEAN đối với các giao dịch hàng
hóa, để giảm bớt nhu cầu đồng USD trong khu vực và tăng cường sự ổn định

13
của các đồng tiền trong khu vực đó là việc chỉ sử dụng một đồng tiền chung để
thanh toán trong nội khối. Cho nên, chính sách tiền tệ là công cụ điều tiết nền
kinh tế vĩ mô, chương trình hoán đổi tiền tệ được hình thành đầu tiên vào tháng
8/1997 bởi 5 nước: Inđônêxia, Malaixia, Philippin, Thái Lan, Singapo đến tháng
5/2000 theo “sáng kiến Chiềng Mai" 5 nước thành viên còn lại cũng chính thức
tuyên bố tham gia, với tổng số tiền cam kết tăng từ 200 triệu USD lên 1 tỉ USD.
Mục tiêu cơ bản của hoán đổi tiền tệ ASEAN là tăng tính thanh toán cho phép
các nước có thể hoán đổi nội tệ của mình với một số đồng tiền chủ chốt trên thị
trường từ 1 tỉ USD lên 2 tỉ USD tạo điều kiện cho các nước ASEAN giúp đỡ lẫn
nhau ổn định thị trường tiền tệ để tránh và hạn chế rủi ro.
Các ngân hàng thương mại tư nhân ASEAN hợp tác với nhau khá tích cực
thông qua Hiệp hội ngân hàng ASEAN. Năm 1981, các ngân hàng thương mại
tư nhân đã hợp tác thành lập công ti tài chính ASEAN (AFC). Không chỉ vậy,
các nước ASEAN cũng đã thỏa thuận tránh đánh thuế lần hai và thành lập nhóm
cộng tác ASEAN về thuế.

Như vậy, những năm gần đây hợp tác giữa các nước ASEAN trong lĩnh
vực tài chính ngân hàng, thuế và bảo hiểm đóng vai trò quan trọng cho các hoạt
động thương mại, đầu tư và hợp tác trong khu vực.
Về thương mại, đây là hoạt động nổi bật và có hiệu quả nhất trong hợp
tác khu vực ASEAN. Buôn bán trong nội bộ ASEAN ngày càng được đẩy
mạnh, để thúc đẩy hoạt động thương mại phát triển hơn nữa đồng thời nới
lỏng hàng rào thuế quan và các ràng buộc thương mại khác. Đặc biệt, tại Hội
nghị cấp cao ASEAN - 4 tại Singapo năm 2002, ASEAN đã ra tuyên bố chung
về thành lập khu vực thương mại tự do (AFTA) và khung thuế quan ưu đãi
hiệu quả chung (CEPT).
AFTA ra đời là bước ngoặt trong hợp tác kinh tế ASEAN ở một tầm cao
mới. Nhằm tự do hóa khu vực bằng việc loại bỏ hàng rào thuế quan trong nội bộ
khu vực và cuối cùng là các rào cản phi thuế quan. Điều này sẽ khiến các doanh
nghiệp sản xuất của ASEAN phải hoạt động có hiệu quả và khả năng cạnh tranh
hơn trên thị trường thế giới, đồng thời người tiêu dùng mua được những hàng
hóa có chất lượng và giá cả hợp lí trong ASEAN dẫn đến sự tăng lên trong
thương mại nội khối. Bên cạnh đó còn thu hút đầu tư nước ngoài vào khu vực
bằng việc tạo ra một thị trường sâu rộng hơn. Làm cho ASEAN thích nghi với
những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi, đặc biệt là với sự phát triển của
các thỏa thuận thương mại khu vực (RTA) trên thế giới.

14
Còn CEPT là một thỏa thuận chung giữa các nước thành viên ASEAN về
giảm thuế quan trong nội bộ ASEAN xuống còn 0 - 5%, đồng thời loại bỏ tất cả
các hạn chế về định lượng và các hàng rào phi thuế quan trong 10 năm, bắt đầu
từ 1/1/1993 và hoàn thành vào 1/10/2003. CEPT đưa ra bốn danh mục giảm thuế
là danh mục giảm thuế ngay (IL); Danh mục miễn trừ tạm thời (TEL); Danh
mục các sản phẩm nhạy cảm (SEL); Danh mục miễn trừ hoàn toàn (GEL).
CEPT cũng trải qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện để rút ngắn thời gian
thực hiện AFTA. Theo đó, các cam kết giảm thuế quan đối với các sản phẩm

thuộc danh mục IL xuống còn 0 - 5% vào năm 2003 với ASEAN - 6, năm 2006
đối với Việt Nam, năm 2008 với Lào và Mianma, năm 2010 với Campuchia;
xóa bỏ thuế quan với tất cả sản phẩm vào năm 2010 đối với ASEAN - 6 và 2015
đối với ASEAN - 4; tiến tới xóa bỏ các hạn chế về định lượng và các hàng rào
thuế quan khác.
Hiệp định khung AFTA thông qua chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu
lực chung đã thành công trong việc giảm mức thuế trung bình từ 11,4% (1993)
xuống 2,89% (2002) đối với các nước tham gia, đối với các nước ASEAN - 6
mức thuế giảm xuống 2,39% (2003). Theo đó, AFTA là biểu hiện sinh động của
hợp tác khu vực được triển khai trong 15 năm, bắt đầu từ năm 1993 và kết thúc
năm 2008 nhưng do tình hình thương mại quốc tế phát triển các nước ASEAN
rút ngắn thời gian thực hiện chương trình AFTA xuống còn 10 năm tức là đến
năm 2003.
Tính đến năm 2003, có khoảng 98,4% các dòng thuế của ASEAN - 6 đã
được sử dụng áp dụng đúng theo chương trình của CEPT tăng 10% so với năm
1993. Cũng trong năm này, khoảng 96,46% các dòng thuế ASEAN - 6 đạt 0 -
5% . Ngày 5/7/2002, Bộ trưởng kinh tế khối ASEAN đã họp tại Malaixia thống
nhất đưa ra nguyên tắc “10 - X” nhằm đẩy nhanh tiến trình xóa bỏ hoàn toàn
thuế quan trong khu vực ASEAN vào năm 2010. Theo đó ASEAN sẽ mở cửa
bầu trời, cho phép sử dụng thẻ căn cước thông minh hỗ trợ đi lại trong khu vực,
tự do hóa các lĩnh vực dịch vụ, tài chính, viễn thông, vận tải, thương mại.
ASEAN - 6 đã kí hiệp định CEPT hoàn thành AFTA vào ngày 1/1/2002 vượt
thời hạn một năm. Tính đến năm 2004, ASEAN - 6 sẽ cắt giảm thuế quan ít nhất
là 90% số mặt hàng trong danh mục cắt giảm xuống còn từ 0 - 5% tuy nhiên một
số trường hợp chưa thực hiện được. Cho nên, năm 2002 ASEAN buộc phải kí
Hiệp định thư thực hiện cắt giảm thuế quan với một số mặt hàng.
Nhằm thúc đẩy sử dụng hơn nữa kế hoạch CEPT/AFTA cộng tác đặc biệt
làm việc về các quy định xuất xứ của CEPT được tiến hành nhằm tạo ra các

15

chuyển biến đáng kể đối với các nhóm sản phẩm nhất định. Năm 2004, hoạt
động thương mại đã có nhiều khả quan hơn: tổng kim ngạch của 10 nước thành
viên tăng 20,7% từ 456,7 tỉ USD (2003) lên 551,19 tỉ USD (2004). Trong đó,
Singapo là nước đứng đầu ASEAN về xuất khẩu hàng hóa. Năm 2002, xuất
khẩu của Singapo đạt 125,18 tỉ USD, năm 2003 đạt 159,96 tỉ USD, năm 2004
đạt 198,63 tỉ USD, năm 2005 đạt 271,39 tỉ USD [3, 6].
Trao đổi thương mại giữa các nước thành viên cũng tăng nhanh chóng, kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2002 sang Inđônêxia là 330 triệu USD thì
năm 2005 tăng lên 1,03 tỉ. Năm 2005 Malaixia xuất khẩu sang Việt Nam 1,8 tỉ
USD, sang Thái Lan 8,49 USD, sang Inđônêxia 3,89 tỉ USD, tổng kim ngạch
xuất khẩu là 159,56 tỉ USD [10, 17]. Cũng trong năm này, kim ngạch xuất khẩu
của Thái Lan sang Việt Nam là 3,07 tỉ USD, sang Singapo 8,47 tỉ, sang
Inđônêxia là 3,03 tỉ USD. Về tổng thể, các nước tư bản phát triển như Nhật Bản,
Mĩ, EU, Trung Quốc và Hàn Quốc vẫn là những đối tác thương mại hàng đầu
ASEAN chiếm lần lượt là 13,8%; 13,17%; 123,1%; 8,31%; 4,1% tỉ trọng thương
mại trong tổng kim ngạch xuất khẩu ASEAN năm 2003 [7, 25].
Những năm gần đây tự do hóa thương mại và đầu tư vẫn sẽ là xu hướng
hợp tác chủ đạo trong khối ASEAN, theo kế hoạch đến năm 2015 mọi rào cản
đối với thương mại sẽ được xóa bỏ giữa các nước thành viên và đến năm 2015
ASEAN sẽ trở thành một khu vực tự do, toàn Đông Nam Á sẽ trở thành một thị
trường lớn hướng ra thị trường thế giới. Trên tinh thần đó, tại Hội nghị cấp cao
không chính thức lần thứ 4 ở Singapo năm 2000 các nhà lãnh đạo ASEAN đã
thông qua “Sáng kiến liên kết ASEAN” (IAI) với nội dung, biện pháp cụ thể là:
- Xác định lợi thế so sánh của các nước thành viên để tìm ra phương án bổ
sung cơ cấu cho nhau giữa các nền kinh tế.
- Giúp các nước thành viên mới xây dựng lộ trình hội nhập khu vực và quốc tế.
- Tăng cường nỗ lực trong việc xây dựng chương trình phát triển tiểu vùng
và tam giác tăng trưởng kinh tế, tập trung vào hai khu vực chính là tiểu vùng
sông Mê Công mở rộng để giúp đỡ các nước ASEAN - 4 phát triển và Khu vực
tăng trưởng kinh tế Đông ASEAN (BIMP - EAGA) để giúp đỡ các vùng nghèo

hơn của các nước ASEAN - 6 phát triển.
Hệ thống cơ sở hạ tầng liên ASEAN. Đối với các tuyến đường sắt và
đường cao tốc: tập trung vào hoàn thiện, đảm bảo an toàn; đối với lĩnh vực hàng
không: ký kết Hiệp định tự do hóa dịch vụ hàng không (dự kiến năm 2008), thi
hành Hiệp định về thị trường hàng không thống nhất ASEAN (năm 2015); đối
với lĩnh vực hàng hải: hoàn thành xây dựng các chiến lược vân tải biển thống

16
nhất; đối với năng lượng liên ASEAN: tập trung vốn của tư nhân và Chính phủ
để xây dựng mạng lưới truyền tải điện giữa các nước ASEAN 4; xây dựng mạng
lưới đường ống khí ga toàn ASEAN; cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin: thi hành
Hiệp định công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn và hợp chuẩn của các thiết bị công
nghệ thông tin và viễn thông trên toàn ASEAN (2010 - 2011).
Tính đến tháng 9 năm 2006, Kế hoạch “Sáng kiến liên kết ASEAN” đã
triển khai 132 dự án. Trong đó, 118 (89,5% tổng số dự án) đã được đảm bảo cấp
vốn, trong đó 87 dự án hoàn thành, 22 dự án đang được triển khai và 9 dự án
đang trong giai đoạn lập kế hoạch. ASEAN - 6 đã đóng góp 28,24 tỷ USD cho
các dự án này. Đồng thời theo dự án song phương các nước ASEAN - 6 đã đóng
góp khoảng 159 triệu USD cho các nước ASEAN - 4 để thi hành nhiều dự án
phát triển khác.
Ngoài ra còn có các hợp tác kinh tế khác như viễn thông và công nghệ
thông tin, khoáng sản và dịch vụ năng lượng, du lịch, quyền sở hữu trí tuệ.
Có thể nói, hợp tác kinh tế trong ASEAN khá toàn diện trên mọi lĩnh vực,
trong đó phát triển nhất là thương mại. Với những thành tựu đã đạt được như
trên ASEAN đang tiếp tục là một tổ chức hợp tác nhiều mặt, vững chắc.
1.3.2. Hợp tác kinh tế thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ
Cùng với chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, sự hợp tác toàn
diện về kinh tế khu vực ASEAN đã đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng nền kinh tế
trong thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI, đây là
thời kỳ nền kinh tế ASEAN phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết và cũng là thời

kỳ ảnh hưởng mạnh mẽ của toàn cầu hóa.
Trước khi cuộc khủng hoảng tài chính khu vực nổ ra (7/1997) thế giới từng
chứng kiến đây là cộng đồng phát triển năng động. Thái Lan trong thời kì này
liên tục đạt được tốc độ tăng trưởng cao: năm 1984 là 6% thì năm 1990: 10%,
năm 1993: 7,5%, năm 1995: 8,6%, năm 1996: 10%. Ở Malaixia, với việc thực
hiện các mũi đột phá trong kinh tế mà nền kinh tế Malaixia được đẩy mạnh, cụ
thể là: năm 1993 tăng trưởng đạt 7,6%, năm 1994: 8,1%, năm 1995: 8,5%.
Singapo với mô hình kinh tế được coi là thành công nhất khu vực với mức tăng
trưởng hàng năm từ 1990 - 1998 đạt 8%. Nhưng từ giữa năm 1997 cuộc khủng
hoảng tài chính và tiền tệ khu vực đã tác động mạnh mẽ vào nền kinh tế khu
vực. Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng kinh tế của toàn khu vực giảm sút nặng nề,
giảm từ 2 - 13%. Tốc độ tăng trưởng của Thái Lan từ 7% (1996) giảm xuống âm
0,4% (1997) và âm 8% (1998). Tương tự, Inđônêxia giảm 8% (1996) xuống âm

17
13,7% (1998). Tỉ lệ thất nghiệp ở Inđônêxia lên tới 6,4 triệu người, Thái Lan là
1,5 triệu người [11, 522].
Để đối phó và hạn chế tác động của khủng hoảng chính phủ các nước Đông
Nam Á đã nhanh chóng đưa ra các biện pháp khác nhau, nhờ sự nỗ lực của các
nước cũng như những giải pháp tập thể ASEAN và sự giúp đỡ của cộng đồng
quốc tế, các nước ASEAN dần thoát khỏi khủng hoảng. Sau đó các nhà lãnh đạo
ASEAN chủ trương phát triển quan hệ gắn bó, liên kết chặt chẽ hơn và thu hẹp
khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên.
Trong những năm gần đây ASEAN đã đưa ra hàng loạt biện pháp mới
nhằm mở rộng hợp tác giữa các nước thành viên thông qua các văn kiện
“chương trình hợp tác tiểu vùng sông Mê Công” (1995), “Sáng kiến hội nhập
ASEAN” (2000), Tuyên bố về thu hẹp khoảng cách phát triển nhằm tăng cường
liên kết ASEAN (2001).
Hiện nay khu vực kinh tế ASEAN vẫn tiếp tục được coi là “đèn hiệu của
Châu Á”. Nhiều dự báo đều cho rằng thế kỷ XXI vẫn là thế kỷ của Châu Á,

trong đó kinh tế ASEAN giữ địa vị quan trọng.
Ngân hàng thế giới đã đưa ra một dự báo về tốc độ tăng trưởng GDP trung
bình năm của các nước ASEAN trong giai đoạn 1999 - 2010, cụ thể là: Singapo
là 5,4%, Malaixia là 5,8%, Thái Lan là 4,4%, Inđônêxia là 4,8%, Philippin là
4,4%, Việt Nam là 7,7%, Brunây là 2,1% [ 9, 147].
Như vậy, hợp tác kinh tế thúc đẩy kinh tế ASEAN phát triển mạnh mẽ, ở
tất cả các nước thành viên, điều này từng bước khẳng định vị thế của từng nước
và tổ chức kinh tế ASEAN trên trường quốc tế.
1.3.3. Hợp tác kinh tế ASEAN theo xu hướng đa dạng hóa quan hệ quốc
tế và giảm dần sự phụ thuộc vào một thị trường lớn
Song song với tăng cường kinh tế nội bộ, các nước ASEAN không ngừng
đẩy mạnh quan hệ với các nước, các nền kinh tế lớn trên thế giới, đặc biệt với
bài học kinh nghiệm rút ra từ khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 cộng với
những bất lợi của sự trông chờ quá lớn vào một thị trường trọng tâm và những
điều kiện, cơ hội thương mại lớn xuất hiện vào những năm cuối của thế kỷ XX
cho phép các nước ASEAN hình thành và thực hiện ý tưởng đa dạng hóa quan
hệ kinh tế đối ngoại một cách triệt để. Ngoài đối tác chiến lược là EU, Mỹ và
Nhật Bản, việc thúc đẩy quan hệ buôn bán và đầu tư với Trung Quốc và Hàn
Quốc đang chiếm vị trí quan trọng không kém. Tạo ra một thị trường thương
mại, đầu tư hiện đại và cạnh tranh hơn.

18
Đối với Mỹ, quan hệ đối thoại ASEAN - Mỹ chính thức bắt đầu quan hệ từ
1977, nhìn chung đang tiến triển tích cực. Mỹ hợp tác chặt chẽ với ASEAN
trong việc tạo ra một thị trường thương mại, đầu tư hiện đại và cạnh tranh hơn,
đồng thời 10 nước ASEAN cũng là đối tác kinh tế chiến lược của Mỹ. Khu vực
ASEAN phát triển năng động với 60 triệu dân được kỳ vọng là thị trường xuất
khẩu đặc biệt giúp kinh tế Mỹ thoát khỏi tình trạng trì trệ hiện nay. Trong những
năm gần đây Mỹ vẫn là một trong những đối tác thương mại và đầu tư hàng đầu
của ASEAN. Điều này cho thấy cả Mỹ và ASEAN đều là thị trường quan trọng

của nhau.
Để tăng cường quan hệ thương mại - đầu tư với ASEAN, Mỹ đưa ra “Sáng
kiến doanh nghiệp ASEAN” (2002) nhằm tạo điều kiện cho việc kí kết các Hiệp
định thương mại tự do song phương giữa Mỹ và các nước ASEAN. Ngày
17/11/2005, lãnh đạo cấp cao các nước ASEAN và Mỹ thông qua Tuyên bố tầm
nhìn chung về quan hệ đối tác tăng cường với nội dung khá toàn diện và tích cực
nhằm tạo ra khuôn khổ cho quan hệ đối tác lâu dài giữa ASEAN và Mỹ đồng
thời cũng thông qua Kế hoạch hành động với nhiều biện pháp cụ thể triển khai
tuyên bố. Hai bên cùng ký kết nhiều thỏa thuận hợp tác quan trọng về kinh tế
như Thỏa thuận khung về thương mại và đầu tư (TIFA).
Hai bên cũng đang xây dựng Chương trình hỗ trợ và đào tạo kĩ thuật
ASEAN - Mỹ giai đoạn 2 (TATF) và triển khai các hoạt động hợp tác trong
chương trình Viễn cảnh phát triển ASEAN (ADVANCE) trị giá 150 triệu USD
nhằm hỗ trợ các chương trình khu vực và song phương của ASEAN cũng như
nỗ lực liên kết kinh tế và xây dựng cộng đồng của ASEAN, hai bên cũng tiếp
tục đàm phán hoàn tất Hiệp định hợp tác khoa học và công nghệ.
Trong khuôn khổ Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 44 (AEM -
44), Hội nghị tham vấn giữa các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN và Bộ trưởng
Thương mại Mỹ, hai bên đã cam kết mở rộng các cơ hội để tăng cường quan hệ
kinh tế, thương mại và đầu tư.
Tại Hội nghị, các Bộ trưởng lưu ý quan hệ thương mại giữa ASEAN và
Mỹ tiếp tục phát triển mạnh, Mỹ hiện đứng thứ tư trong các đối tác thương mại
lớn nhất của ASEAN và ASEAN là đối tác trao đổi thương mại đứng hàng thứ
năm của Mỹ. Đồng thời, Mỹ đứng hàng thứ ba trong số các nhà đầu tư nước
ngoài lớn nhất vào ASEAN. ASEAN và Mỹ được coi là những động lực của các
hoạt động và sự phát triển kinh tế toàn cầu, do đó việc tăng cường hơn nữa các
mối quan hệ kinh tế có tầm quan trọng to lớn đối với cả ASEAN và Mỹ.

19
Trước năm 1997, ASEAN là một thị trường tăng trưởng khá nhanh đối với

lĩnh vực dịch vụ từ Mỹ. Thương mại hai chiều giữa Mỹ với ASEAN tăng gấp
đôi trong quãng thời gian từ năm 1989 - 1995. Tuy nhiên, xét về khía cạnh
thương mại song phương của ASEAN thì Mỹ chỉ chiếm vị trí thứ hai sau Nhật
Bản. Khoảng một thập niên sau đó 1995 - 2004, Mỹ luôn thuộc vào 1 trong
những đối tác mậu dịch lớn nhất của ASEAN (Nhật Bản, EU, Trung Quốc, Mỹ).
Chẳng hạn, năm 2004, Mỹ là đối tác mậu dịch lớn thứ 3, sau Nhật Bản và EU.
Còn xuất khẩu hàng hóa, Mỹ giữ vị trí thứ 4, sau Nhật Bản, Trung Quốc, EU.
Trong năm này, xuất khẩu của Mỹ chiếm 9,3% tổng xuất khẩu của ASEAN và
8% tổng nhập khẩu của khối này.
Có thể nói rằng, quan hệ kinh tế của Mỹ với ASEAN vẫn tiếp tục phát triển
đặc biệt là trên ba phương diện thương mại, ODA và FDI. Xét tổng thể, Mỹ luôn
là một trong 5 thị trường lớn nhất về thương mại, một trong 10 nhà đầu tư hàng
đầu trong số ít nhà tài trợ chính cho ASEAN.
Mỹ sẽ hợp tác chặt chẽ với ASEAN trong việc tạo ra một thị trường thương
mại và đầu tư hiện đại cạnh tranh hơn, đồng thời 10 nước ASEAN cũng là đối
tác kinh tế chiến lược của Mỹ.
Đối với Trung Quốc, Trung Quốc một thị trường kinh tế rộng lớn và tiềm
năng kề sát với ASEAN đồng thời với tư cách là thành viên của WTO đã thúc
đẩy Trung Quốc thực hiện chiến lược đẩu tư ra nước ngoài mà trước hết là
ASEAN. Quan hệ đối thoại ASEAN - Trung Quốc được thiết lập năm 1991 và
đang phát triển mạnh trên toàn diện các lĩnh vực chính trị - an ninh, kinh tế và
hợp tác chuyên ngành. Năm 2003, ASEAN và Trung Quốc đã thông qua Tuyên
bố chung về quan hệ đối tác chiến lược vì hòa bình thịnh vượng, nâng quan hệ
đối thoại và hợp tác lên một tầm cao mới và hiện đang tích cực triển khai Tuyên
bố chung thông qua chương trình hợp tác cụ thể.
ASEAN và Trung Quốc xác định 11 lĩnh vực hợp tác ưu tiên: nông nghiệp,
công nghệ thông tin và truyền thông, phát triển nguồn lực đầu tư hai chiều, phát
triển lưu vực sông Mê Công, giao thông, năng lượng, văn hóa, du lịch, y tế cộng
đồng, môi trường và đạt được những kết quả tích cực trong triển khai thực hiện
nhất là về kinh tế. Quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư ngày càng phát

triển sâu rộng. Các nước ASEAN là đối tác kinh tế, đầu tư quan trọng hàng đầu
của Trung Quốc.
Giá trị thương mại hai chiều tăng từ 59,6 tỉ USD năm 2003 lên 171,1 tỉ
USD năm 2007 và đạt 192,5 tỉ USD năm 2008. Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc
vào ASEAN đạt 3,6 tỉ USD năm 2007, tổng đầu tư hai chiều đến năm 2008 là 60

×