Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Xã hội hóa giáo dục đại học ở Hà Nội thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (962.21 KB, 65 trang )


i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khóa luận “Xã hội hóa giáo dục đại học ở Hà Nội –
thực trạng và giải pháp” do tôi trực tiếp viết, không có bất kỳ hình thức sao in
trái phép nào. Các số liệu sử dụng trong khóa luận được thu thập từ Ban chính
sách dịch vụ công – Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung ương cùng với
các tài liệu trong mục tài liệu tham khảo. Khóa luận được sự giúp đỡ tận tình
của Ths. Vũ Thị Tâm – Giảng viên trường Học viện Chính sách và phát triển
và Ths. Bế Thu Trang – cán bộ Ban chính sách dịch vụ công, Viện nghiên cứu
và quản lý kinh tế Trung ương.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về nội dung của khóa luận này.
Hà Nội, ngày 23 tháng 5 năm 2014
Sinh viên

Lê Lệ Phƣơng


ii
LỜI CẢM ƠN

Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn:
Ths. Vũ Thị Tâm – Giảng viên khoa Chính sách công, Học viện Chính
sách và phát triển, người đã hướng dẫn tôi tận tình trong suốt quá trình học
tập cũng như nghiên cứu để hoàn thành khóa luận này.
Tôi cũng gửi lời cảm ơn chân thành tới:
 Ban giám đốc, phòng đào tạo trường Học viện Chính sách và phát triển.
 Các thầy cô trong khoa Chính sách công.
 Các anh chị trong Ban chính sách dịch vụ công, Viện nghiên cứu và
quản lý kinh tế Trung ương.


Đã tận tình giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho tôi hoàn thành chuyên đề này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc tới những người thân trong gia
đình và bạn bè tôi, những người đã luôn bên tôi ủng hộ và động viên tôi trong
những lúc khó khăn, giúp tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình trong suốt 4
năm đại học.
Hà Nội, ngày 23 tháng 5 năm 2014
Sinh viên

Lê Lệ Phƣơng



iii
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC BẢNG BIỂU v
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
4. Phương pháp nghiên cứu 3
5. Kết cấu chuyên đề 4
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC
ĐẠI HỌC 5
1.1 Một số khái niệm cơ bản 5
1.1.1 Xã hội hóa 5
1.1.2 Giáo dục đại học 8

1.1.3 Xã hội hóa giáo dục đại học 10
1.2 Bản chất và nội dung của xã hội hóa giáo dục đại học ở Việt Nam 10
1.2.1 Bản chất 10
1.2.2 Nội dung 12
1.3 Nhiệm vụ của Nhà nước và xã hội trong xã hội hóa giáo dục đại học 15
1.3.1 Nhiệm vụ của Nhà nước 15
1.3.2 Nhiệm vụ của xã hội 16
1.4 Tác động của xã hội hóa giáo dục đại học đến xã hội 18
1.4.1 Tác động tích cực 18
1.4.2 Tác động tiêu cực 19
1.5 Các chính sách hiện hành 20
1.5.1 Quy định chung về xã hội hóa giáo dục 21
1.5.2 Các văn bản liên quan đến xã hội hóa giáo dục đại học 25

iv
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở
HÀ NỘI 30
2.1 Tổng quan về hệ thống giáo dục đại học ở Hà Nội 30
2.2 Thực trạng xã hội hóa giáo dục đại học ở Hà Nội 31
2.2.1 Thành tựu 31
2.2.2 Hạn chế 37
Chƣơng 3: KINH NGHIỆM NƢỚC NGOÀI VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY
MẠNH XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC ĐẠI HỌC 45
3.1 Kinh nghiệm của nước ngoài trong xã hội hóa giáo dục đại học 45
3.1.1 Xã hội hóa giáo dục ở Malaixia 45
3.1.2 Xã hội hóa giáo dục ở Singapo 47
3.1.3 Xã hội hóa giáo dục ở Nhật Bản 48
3.1.4 Xã hội hóa giáo dục đại học ở Hàn Quốc 49
3.1.5 Xã hội hóa giáo dục ở Cộng hòa Liên bang Đức 50
3.1.6 Xã hội hóa giáo dục ở Mỹ 50

3.2 Giải pháp đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục đại học ở Hà Nội 52
3.2.1 Đối với cơ quan chính quyền 52
3.2.2 Đối với các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập 55
KẾT LUẬN 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO 60




v
DANH MỤC BẢNG BIỂU

Biểu đồ 2.1: Số lượng trường công lập và ngoài công lập tại Hà Nội 32
Biểu đồ 2.2: Số lượng trường ngoài công lập ở hệ đại học và hệ cao đẳng 33
Biểu đồ 2.3: Sự phân bố các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn Hà Nội 36
Biểu đồ 2.4: Hình thức tuyển sinh của các trường ngoài công lập trên địa bàn
Hà Nội 37
Biểu đồ 2.5: Học phí của các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập tại
Hà Nội 39
Biểu đồ 2.6: Các chuyên ngành đào tạo của các trường đại học, cao đẳng
ngoài công lập ở Hà Nội 41

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bất kỳ ở một giai đoạn lịch sử nào, giáo dục - đào tạo luôn đóng một vai
trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi cá nhân, tập thể, cộng
đồng, dân tộc và cả nhân loại. Từ xa xưa các học giả, các nhà lãnh đạo, quản
lý ở trong nước và trên thế giới đã từng luận bàn rất nhiều xung quanh vấn đề
này. Theo C.Mác: Giáo dục - đào tạo“Tạo ra cho nền kinh tế của một dân tộc

những nhà khoa học, chuyên gia, kỹ sư trên các lĩnh vực kinh tế và nhờ đó
những tri thức ấy mới có thể sáng tạo ra những kỹ thuật tiên tiến, những công
nghệ mới. Nếu chúng ta không có đội ngũ ấy thì sự nghiệp xây dựng CNXH
chỉ là lời nói huênh hoang, rỗng tuếch” . Còn Ph.Ăngghen thì khẳng
định: “Một dân tộc muốn đứng lên trên đỉnh cao của nền văn minh nhân loại,
dân tộc ấy phải có trí thức”.
Kế thừa quan điểm của C.Mác-Ăngghen và trên cơ sở thực trạng giáo
dục-đào tạo ở Nga trong những ngày đầu cách mạng tháng 10 thành công,
Lênin đã sớm khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục-đào tạo trong việc
đưa nước Nga thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, tiến lên CNXH. Theo
Lênin: “Muốn tạo lập chủ nghĩa xã hội phải có một trình độ văn hoá nhất
định”. “Việc nâng cao năng suất lao động trước hết phải nâng cao trình độ
học vấn và văn hoá của quần chúng nhân dân” và “Nếu không có một mạng
lưới giáo dục quốc dân ít nhiều phát triển thì tuyệt nhiên không thể giải quyết
mọi vấn đề trên quy mô toàn dân”.
Kế thừa truyền thống văn hoá lịch sử của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hoá của nhân loại mà điển hình là Chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn luôn quan tâm và đề cao vai trò của giáo dục - đào tạo. Tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo xuất phát từ mục đích cao cả của sự
nghiệp cách mạng mà người theo đuổi, thể hiện nhất quán và xuyên suốt trong
tư tưởng, trong cuộc đời hoạt động của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
coi con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định của sự nghiệp cách
mạng. Chính vì vậy mà toàn bộ tư tưởng và cuộc đời hoạt động của người đều

2
nhằm thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
xã hội, giải phóng con người, vì con người và cho con người. Người từng
nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.

Từ những phân tích trên có thể nói những quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo không những đã khẳng
định vai trò, vị trí, tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo đối với quá trình
phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc mà còn là cơ sở để xác định chất lượng
nguồn nhân lực cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Ở
nước ta, cải cách giáo dục trở thành nội dung quan trọng của chiến lược phát
triển kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Và “
Xã hội hoá giáo dục đại học” cũng là một nội dung cải cách quan trọng của
nền giáo dục quốc gia. Hà Nội là thủ đô của nước ta, cũng là nơi tập trung
đông các trường đại học, cao đẳng nhất nhì cả nước nên mang những đặc
trưng chung của cả hệ thống.
Sau hơn 20 năm cải cách, xã hội hóa giáo dục đại học cũng đạt được
nhiều thành tựu tích cực. Số lượng trường, học sinh, giảng viên của cơ sở giáo
dục ngoài công lập ngày càng tăng. Chất lượng đào tạo của nhiều trường đại
học, cao đẳng được đánh giá cao như: đại học FPT, đại học Thăng Long, …
Tuy nhiên, kết quả đạt được còn chưa phù hợp với tiềm năng và thiếu
vững chắc. Tốc độ chuyển các cơ sở công lập sang các trường ngoài công lập
còn chậm tiến độ. Cơ chế, chính sách thu hút các nguồn lực xã hội còn chưa
hấp dẫn, các chính sách đòn bẩy: thuế, đất đai, tiền lương, bảo hiểm xã hội, …
chưa được triển khai đồng bộ và nhất quán. Các cơ quan quản lý còn buông
lỏng, lợi dụng thẩm quyền để tham nhũng.
Về cơ bản, nhận thức chung của người dân về xã hội hóa nói chung và ở
cấp đại học, cao đẳng nói riêng vẫn còn sự nhầm lẫn và chưa được đánh giá
đúng mức.

3
Vì vậy, đề tài nghiên cứu về “Xã hội hóa giáo dục đại học ở Hà Nội –
thực trạng và giải pháp” là phù hợp, nó đưa ra những khó khăn, thiếu sót của
các trường đại học ngoài công lập đang gặp phải và khuyến nghị những biện
pháp để khắc phục phần nào thực trạng đó.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu: đề tài nghiên cứu thực trạng các trường đại học, cao đẳng
ngoài công lập trên địa bàn Hà Nội nói riêng và trên cả nước nói chúng. Phân
tích những thành tựu cũng đồng thời tìm ra nguyên nhân để từ đó đề xuất
những biện pháp khắc phục những tồn tại, thiếu sót.
Để đạt được mục tiêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Hiểu đúng bản chất của xã hội hóa, xã hội hóa giáo dục đại học.
- Làm rõ nhiệm vụ của Nhà nước trong xã hội hóa giáo dục đai học
- Các chính sách xã hội hóa giáo dục đại học hiện hành.
- Thực trạng xã hội hóa giáo dục đại học ở Hà Nội hiện nay.
- Kinh nghiệm của nước ngoài.
- Giải pháp hoàn thiện chính sách.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các thực trạng của trường đại học và cao đẳng
ngoài công lập
Phạm vi nghiên cứu:
Địa bàn: Thành phố Hà Nội
Thời gian: 2013 – 2014
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu định tính và định
lượng:
Nghiên cứu định tính: Nghiên cứu tài liệu, phân tích, so sánh, tổng hợp,
phân loại, khái quát, hệ thống các nguồn tài liệu có liên quan đến đề tài;

4
Nghiên cứu định lượng: sử dụng phần mềm excel và SPSS để thống kê
và phân tích số liệu
5. Kết cấu chuyên đề
Gồm 3 chương:
Chương 1: Những cơ sở lý luận chung về xã hội hóa giáo dục đại học ở

Việt Nam
Chương 2: Thực trạng xã hội hóa giáo dục đại học ở Hà Nội
Chương 3: Một số kinh nghiệm nước ngoài và giải pháp khắc phục xã
hội hóa giáo dục đại học ở Hà Nội.

5
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Xã hội hóa
Cho đến nay ở nước ta, thuật ngữ “xã hội hóa” mặc dù đã được đề cập
đến trong nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước cũng như trên các phương
tiện thông tin đại chúng, tuy nhiên, thuật ngữ này còn gây rất nhiều tranh cãi,
thậm chí cả ý kiến trái chiều, do vậy vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về
“xã hội hóa” hay nội hàm đầy đủ của thuật ngữ này. Những cách hiểu khác
nhau này gây trở ngại lớn trong việc quán triệt và thực hiện chủ trương xã hội
hóa của nước ta.
Trước đó, trong quan điểm khoa học của C.Mác thì khi quá trình phân
hóa xã hội được thực hiện đầy đủ, tư liệu sản xuất dần biến thành tư liệu
sản xuất chung. Như vậy, xã hội hóa chính là quá trình chuyển từ một nền
sản xuất có tính chất cá nhân, tư hữu sang một nền sản xuất mang tính công
cộng, công hữu. Không chỉ chuyển biến nền sản xuất mà toàn bộ quá trình
xã hội khác, trong đó có vai trò xã hội của nhà nước, tức là, Nhà nước
không chỉ là bộ máy cai trị giai cấp mà còn là cơ quan đại diện của xã hội,
cơ quan công quyền.
Hiểu theo cách thông thường nhất, xã hội hóa chính là nghĩa của “xã
hội” cộng với nghĩa của từ “hóa” và với cách giải thích này, “xã hội hóa” là
“chung”:
1) Hoạt động sản xuất – kinh doanh là hoạt động có tổ chức và tính tập
thể cao;

(2) Hoạt động do nhà nước quyết định, điều động và kiểm soát – huy
động mọi người làm chung;
(3) Hoạt động chung có tính tự nguyện: như là tập thể người bỏ vốn vào
công ty, quyền tùy thuộc số tiền bỏ vốn ra;

6
(4) Xã hội hóa là mỗi người tự đóng góp, tự lo, nhà nước có xu hướng
giảm đi trách nhiệm của mình…
Tuy nhiên, cách giải thích này còn mang tính phiến diện, đề cập đến số
lượng chứ chưa phản ánh được nội hàm của “xã hội hóa”.
Hiện nay, nội hàm khái niệm xã hội hóa ở nước ta còn rất nhiều quan
niệm khác nhau và cơ bản được sử dụng theo hai nghĩa chính
1
:
Thứ nhất, “xã hội hóa” nguyên nghĩa tiếng Anh là “socialization” được
hiểu là “ biến các tư liệu sản xuất và trao đổi thành của công”, hay “ tập thể
hóa”, “đặt dưới chế độ cộng đồng”, “quản lý hay điều khiển của nhà nước
nhân danh xã hội”… tức là những gì được xã hội hóa thì phải được chính phủ
cung cấp miễn phí. Theo đó, trong tiếng Việt, “xã hội hóa” được định nghĩa là
“làm cho tư liệu sản xuất của cá nhân trở thành của chung cho xã hội”, hay
“làm cho trở thành của chung cho xã hội”. Quan niệm này xuất phát từ lịch sử
phát triển sản xuất của nhân loại, xã hội hóa chính là quá trình chuyển biến
một nền sản xuất có tính cá nhân, tư hữu sang một nền sản xuất mang tính
chất công cộng, công hữu.
Từ góc độ xã hội học hay tâm lý học, có những định nghĩa về xã hội hóa
như: “Xã hội hóa là làm phát triển các mối quan hệ xã hội, sự hình thành
trong một nhóm xã hội, trong xã hội”, hay theo Từ điển Bách khoa toàn thư
Xô Viết, “Xã hội hóa là quá trình thích nghi của các thể chế với hệ thống tri
thức, chuẩn mực và các giá trị, cho phép cá thể đó hoạt động với tư cách là
các thành viên bình đẳng của xã hội, chịu tác động có chủ đích đến cá nhân

(giáo dục) cũng như quá trình tự phát ảnh hưởng đến sự hình thành nhân
cách”. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia cho rằng, xã hội hóa là “một quá
trình tương tác xã hội kéo dài suốt đời qua đó cá nhân phát triển khả năng con
người và học hỏi các mẫu văn hóa của mình”. Đó chính là quá trình con người
liên tục tiếp thu văn hóa vào nhân cách của mình để sống trong xã hội như


1
Nhận thức về xã hội hoá hoạt động giáo dục, y tế ở nước ta hiện nay, 2010,


7
một thành viên, tức xã hội hóa được dùng để chỉ xã hội hóa cá nhân, là quá
trình cá nhân học tập, lĩnh hội kinh nghiệm xã hội – lịch sử để trở thành cá
nhân và thành nhân cách – con người xã hội.
Xã hội hóa theo nghĩa này thường được sử dụng trong các khoa học
chuyên ngành như: triết học, xã hội học, tâm lý học, giáo dục học,
Thứ hai, “xã hội hóa” được sử dụng để chỉ những việc tăng cường sự
quan tâm, tham gia rộng rãi của xã hội (cá nhân, nhóm, tổ chức, cộng đồng, )
về cả vật chất và tinh thần vào một số hoạt động mà trước đó chỉ được một
đơn vị, một bộ phận hay một ngành chức năng nhất định thực hiện. Xã hội
hóa trở thành một phương châm hành động của các cấp, các ngành, các tổ
chức xã hội nhằm phát huy nội lực, huy động sức lực của cộng đồng, nguồn
vốn xã hội từ nhân dân, theo cơ chế: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ”; “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Và theo đó, “xã hội hóa có
thể xem là một hình thức phi công lập hóa, tức có sự tham gia của các đối
tượng khác bên ngoài Nhà nước”.
Thực tế hiện nay ở nước ta đang xảy ra tình trạng là một số nhà nghiên
cứu xuất phát từ quan niệm “xã hội hóa” theo nghĩa thứ nhất, không tán
thành, thậm chí phản đối việc sử dụng “xã hội hóa” theo nghĩa thứ hai. Thực

chất, “xã hội hóa” trên các phương tiện thông tin đại chúng là “tư nhân hóa”,
và đây là cách gọi không đúng với tên của nó.
Trường hợp khác, dựa vào nguyên nghĩa của từ “xã hội hóa” và căn cứ
vào một số hiện tượng lệch lạc, biến tướng, nhân danh xã hội hóa để kinh
doanh kiếm lời trong quá trình thực hiện xã hội hóa dịch vụ xã hội, có ý kiến
cho rằng cụm từ “xã hội hóa” ở Việt Nam “càng ngày càng bị sử dụng một
cách thản nhiên theo nghĩa ngược lại – theo nghĩa đẩy gánh nặng tài chính lên
vai công dân, và trao cho tư nhân đảm nhiệm một số lĩnh vực thuộc bổn phận
của Nhà nước phải quản lý, đặc biệt là giáo dục, đào tạo”. Từ đó có ý kiến
cho rằng cần xem xét lại thuật ngữ “xã hội hóa giáo dục” như hiện nay, trước
tiên phải xóa bỏ khía cạnh huy động sự đóng góp vật chất mà nên nhấn mạnh

8
đến khía cạnh nâng cao nhận thức, cùng với Nhà nước lo cho giáo dục con em
mình thành người có ích cho xã hội.
Với đề tài này, bản chất của xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục ở nước ta
hiện nay với quan niệm “xã hội hóa” theo các tiếp cận thứ hai.
Với cách hiểu thứ hai, trong quá trình thực hiện chủ trương xã hội hóa
của Đảng và Nhà nước, khái niệm xã hội hóa ngày càng được các nhà nghiên
cứu nhận thức và định nghĩa một cách hoàn thiện dần. Tuy vẫn còn rất nhiều
ý kiến khác nhau cần tiếp tục trao đổi, nhưng tựu chung lại đều có những
quan điểm thống nhất, đó là:
- Xã hội hóa là một quá trình mở rộng sự tham gia và huy động các tầng
lớp nhân dân, toàn xã hội để chia sẻ trách nhiệm cùng với Nhà nước
trong việc thúc đẩy sự phát triển của một lĩnh vực xã hội nào đó.
- Trong quá trình xã hội hóa, càng cần phải nêu cao hơn nữa vai trò,
trách nhiệm của Nhà nước.
- Cần mở rộng các cơ hội cho các tầng lớp nhân dân, cho toàn xã hội
tham gia rộng rãi, chủ động và bình đẳng vào các hoạt động xã hội.
- Cần đa dạng hóa các phương thức, mô hình thực hiện các hoạt động

trong quá trình xã hội hóa các lĩnh vực đó.
Từ cách phân tích tổng quát trên, chúng ta có thể đi đến định nghĩa xã
hội hóa
2
như sau: “Xã hội hóa là quá trình huy động có hiệu quả và mở
rộng sự tham gia của các tầng lớp nhân dân, của toàn xã hội, với nhiểu
phương thức và mô hình hoạt động phong phú, linh hoạt để cùng với Nhà
nước thúc đẩy sự phát triển của một lĩnh vực nào đó nhằm mục tiêu vì con
người và phát triển bền vững đất nước”.
1.1.2 Giáo dục đại học
Trong tiếng Anh, từ “giáo dục” được biết đến với từ “education”, đây là
một từ gốc Latin được ghép bởi hai từ là “Ex” và “Ducere” – “Ex-Ducere”.


2
PGS.TS Nguyễn An Lương, khái niệm cơ bản về xã hội hóa vệ sinh an toàn thực
phẩm tại trang

9
Có nghĩa là dẫn (“Ducere”) con người vượt ra khỏi (“Ex”) hiện tại của họ để
vươn tới những gì hoàn thiện, tốt lành hơn và hạnh phúc hơn.
Nói đến phạm trù giáo dục, thầy Thích Như Điển, chùa Viên Giác
Hannover – Đức Quốc cũng đưa ra quan điểm một cách đơn giản nhất: “Chữ
giáo có nghĩa là chỉ bày, nâng đỡ. Chữ dục nghĩa là mong muốn, trưởng
thành. Hai chữ nầy nếu ghép đứng chung lại, có nghĩa là một vị Thầy, Cô làm
nhiệm vụ hướng dẫn, chỉ bày cho đoàn hậu học trong ý nghĩa là mong muốn
thế hệ kế thừa tiếp nối được con đường của người xưa đã đi trên nhiều
phương diện khác nhau trong phương cách sống ở cuộc đời nầy”
3
.

Trong chương trình giáo dục của Việt Nam đều trình bày: “Giáo dục là
hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh
nghiệm lịch sử – xã hội của các thế hệ loài người”
4
.
Những định nghĩa và quan điểm này đều nhấn mạnh về sự truyền đạt và
lĩnh hội giữa các thế hệ, nhấn mạnh đến yếu tố dạy học, nhưng không đề cập
đến mục đích sâu xa hơn, mục đích cuối cùng của việc đó.
Theo ông John Dewey (1859 – 1952), nhà triết học, nhà tâm lí học và
nhà cải cách giáo dục người Mỹ, ông cho rẳng con người không bao giờ vượt
qua được quy luật sự chết và khi chết đi những kinh nghiệm cũng mất theo.
Tuy nhiên, tồn tại xã hội đòi hỏi những kiến thức, kinh nghiệm vượt qua cả sự
chết để duy trì tính liên tục của sự sống xã hội. Giáo dục là “khả năng” của
loài người để đảm bảo tồn tại xã hội. Ngoài ra, ông cũng cho rằng, xã hội
không chỉ tồn tại nhờ truyền dạy, mà còn tồn tại chính trong quá trình truyền
dạy ấy. Như vậy, theo quan điểm của ông John Dewey, ông cũng đề cập đến
việc truyền đạt, nhưng ông nói rõ hơn về mục tiêu cuối cùng của việc giáo
dục, là dạy dỗ.
Như vậy, giáo dục “là sự hoàn thiện của mỗi cá nhân, đây cũng là mục
tiêu sâu xa của giáo dục; người giáo dục, hay có thể gọi là thế hệ trước, có


3
Thích Như Điển, 2010, Giáo dục là gì? tại trang
4
Khái niệm giáo dục tại trang

10
nghĩa vụ phải dẫn dắt, chỉ hướng, phải truyền tải lại cho thế hệ sau tất cả
những gì có thể để làm cho thế hệ sau trở nên phát triển hơn, hoàn thiện

hơn”
5
. Giáo dục là một hoạt động có ý thức của con người nhằm vào mục
đích phát triển con người và phát triển xã hội.
“Đại học” được trình bày trong Luật giáo dục đại học “là cơ sở giáo dục
đại học bao gồm tổ hợp các trường cao đẳng, trường đại học, viện nghiên
cứu khoa học thành viên thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau, tổ chức
theo hai cấp, để đào tạo các trình độ của giáo dục đại học”
6
. Và đào tạo “học
vấn chuyên nghiệp bậc cao gồm học vấn khoa học cơ bản, khoa học cơ sở,
khoa học và lí thuyết kĩ thuật chuyên ngành, kinh nghiệm và kĩ năng hoạt
động nghề nghiệp diện rộng, hoạt động nghiên cứu khoa học - công nghệ, tổ
chức - quản lí công tác chuyên môn, phương pháp và kĩ năng tự học tập, nâng
cao nghiệp vụ”
7
.
Vậy giáo dục đại học là giai đoạn giáo dục thường được diễn ra tại các
trường cao đẳng, đại học, học viện với chương trình đào tạo bậc cao.
1.1.3 Xã hội hóa giáo dục đại học
Dựa trên những khái niệm đã đưa ra, xã hội hóa giáo dục đại học được
hiểu là quá trình huy động có hiệu quả và mở rộng sự tham gia của các
tầng lớp nhân dân, của toàn xã hội, với nhiều phương thức và mô hình
hoạt động phong phú, linh hoạt để cùng với Nhà nước thúc đẩy sự phát
triển của giai đoạn giáo dục tại các trường đại học, cao đẳng và học viện
nhằm mục tiêu vì con người và phát triển bền vững đất nước.
1.2 Bản chất và nội dung của xã hội hóa giáo dục đại học ở Việt Nam
1.2.1 Bản chất
Xã hội hóa giáo dục nói chung hay xã hội hóa giáo dục đại học nói riêng
là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân, của



5
Khái niệm giáo dục tại trang
6
Khoản 8, Điểu 4 Luật giáo dục đại học thông qua tại kỳ họp thứ 3 khóa XIII ngày
18 tháng 6 năm 2012
7
Định nghĩa đại học tại trang

11
toàn xã hội vào sự phát triển giáo dục đại học nhằm từng bước nâng cao mức
hưởng thụ và sự phát triển về thể chất và tinh thần của nhân dân. Xã hội hóa
là xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân trong việc tạo
lập và cải thiện môi trường kinh tế, xã hội thuận lợi cho các hoạt động giáo
dục đại học ở từng địa phương; là trách nhiệm lãnh đạo của Đảng bộ, quản lý
của chính quyền, sự tham gia, phối hợp của các đoàn thể quần chúng, các tổ
chức kinh tế, các doanh nghiệp đóng tại địa phương và của mỗi người dân…
Trách nhiệm phát triển sự nghiệp giáo dục không phải là của riêng tổ
chức, cá nhân nào mà đòi hỏi sự gánh vác của toàn xã hội, cụ thể là Đảng,
Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, doanh nghiệp, gia đình và tổ chức xã hội,
các chủ thể cũng ứng lẫn đối tượng thụ hưởng dịch vụ. Vai trò điều hành,
quản lý xã hội cũng như ưu thế về nguồn lực vượt trội của Nhà nước đòi hỏi
Nhà nước phải là người chịu trách nhiệm cao nhất trong việc tổ chức cung
ứng dịch vụ cũng cũng như bảo đảm chất lượng. Tăng cường sự quan tâm và
tham gia rộng rãi của xã hội về vật chất và tinh thần đối với giáo dục; mở
rộng nguồn đầu tư, khai thác tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực; phát
huy và sử dụng hiệu quả nguồn lực của nhân dân, tạo điều kiện cho giáo dục
phát triển với chất lượng cao.
Vì vậy xã hội hóa giáo dục đại học không phải là tư nhân hóa mà là một

phương cách ủy quyền có điều kiện của Nhà nước cho tư nhân cung ứng để
khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực, trí lực nhằm phát triển dịch vụ
giáo dục, nâng cao khả năng và hiệu quả cung ứng thông qua việc vận dụng
quy luật thị trường, tạo cơ hội cạnh tranh giữa các đơn vị công lập và ngoài
công lập.
Tư nhân tham gia vào cung ứng dịch vụ giáo dục đại học không được
phép biến giáo dục thành thị trường kinh doanh theo quy luật tuyệt đối của thị
trường, mà Nhà nước có thể mua dịch vụ của tư nhân hoặc ủy quyền cung cấp
dịch vụ phục vụ cho mục tiêu của Nhà nước. Hoạt động của các đối tác tham
gia thực hiện chính sách xã hội theo phương thức xã hội hóa chủ yếu không vì

12
mục tiêu lợi nhuận hoặc nếu có thì phải tuân theo các điều kiện, các quy định
và chế độ kiểm soát chặt chẽ.
Tóm lại, bản chất của xã hội hóa giáo dục đại học là mở rộng không gian
và quyền tham gia quản lý, tổ chức cung ứng và giám sát các dịch vụ giáo dục
đại học; là “Nhà nước và nhân dân cùng làm”; Nhà nước tăng đầu tư, người
dân phát huy nguồn lực trí tuệ, vật chất, tinh thần đóng góp vào các dịch vụ
giáo dục đại học theo khả năng, điều kiện của mình. Xã hội – Nhà nước, thị
trường, đơn vị sự nghiệp dịch vụ công, gia đình, tổ chức xã hội và mỗi người
dân đều tham gia trong xây dựng chính sách, pháp luật; quản lý, tổ chức cung
ứng và giám sát cũng như thụ hưởng dịch vụ giáo dục đại học với chất lượng
ngày càng tốt hơn.
1.2.2 Nội dung
Giáo dục đại học là một phần của hệ thống giáo dục. Do đó, xã hội hóa
giáo dục đại học cũng gồm 4 nội dung:
Thứ nhất, huy động, khai thác các nguồn lực xã hội và đa dạng hóa các
hình thức cung ứng dịch vụ giáo dục đại học, vận động toàn dân quan tâm
đến thế hệ trẻ, tạo môi trường giáo dục lành mạnh, tạo điều kiện để mở rộng
đối tượng thụ hưởng dịch vụ, đặc biệt là các đối tượng chinh sách, người

nghèo, vừa góp phần đảm bảo công bằng xã hội trong đóng góp và thụ hưởng
dịch vụ.
Lý thuyết hệ thống chỉ ra rằng khi hai hoặc nhiều đối tác hợp tác với
nhau để cùng giải quyết một công việc gì đó thì hiệu suất công việc sẽ cao
hơn, nhất là khi sự phân công dựa trên khả năng và lợi thế của từng đối tác.
Vì vậy, sự phối hợp hành động một cách có kế hoạch của mọi lực lượng xã
hội theo một định hướng, chiến lược quốc gia để giải quyết vấn đề phát triển
giáo dục sẽ đạt được hiệu suất cao hơn.
Dưới góc độ khai thác, phát huy nguồn lực, xã hội hóa giáo dục đại học
nhằm khơi dậy các tiềm năng về nhân lực, vật lực, tài lực trong xã hội, xây
dựng cộng đồng trách nhiệm trong việc đóng góp và chi trả cho các dịch vụ

13
giáo dục đại học; khai thác hiệu quả nguồn lực của các đối tác nước ngoài, tổ
chức quốc tế, …
Dưới góc đô người thụ hưởng địch vụ, xã hội hóa hoạt động giáo dục đại
học phải tạo điều kiện cho họ được tham gia xây dựng cơ chế, chính sách và
quản lý, giám sát các hoạt động giáo dục đại học cũng như lựa chọn dịch vụ
giáo dục nhằm tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao về trí tuệ, kỹ năng và
kiến thức đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Dưới góc độ của người cung ứng dịch vụ, đội ngũ viên chức giáo dục đại
học được đảm bảo quyền tự do hoạt động nghề nghiệp theo quy định của pháp
luật; được phát huy mọi khả năng sáng thảo nhằm đa dạng hóa các loại hình
cung ứng dịch vụ như công lập. ngoài công lập. … nhằm góp phần thỏa mãn
nhu cầu đa dạng hóa, phong phú và ngày càng cao của tầng lớp nhân dân.
Thứ hai, khuyến khích và tạo điều kiện nâng cao tính tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của các cơ sở giáo dục đại học; thực hành dân chủ trong quản lý
và tổ chức các hoạt động giáo dục. Việc mở rộng dân chủ và tăng quyền tự
chủ cho các cơ sở giáo dục đại học nhằm thúc đấy sự tìm tòi, phát huy sáng
kiến tính năng động, chủ động của các tổ chức và công dân trong việc tham

gia quản lý, giám sát các hoạt động giáo dục; khắc phục tâm lý thụ động, phó
mặc mọi công việc cho cơ quan Nhà nước, từ đó làm cho hoạt động giáo dục
đại học thực sự là của toàn xã hội.
Phát huy vai trò, trách nhiệm giám sát của cộng đồng, tổ chức, xã hội;
khuyến khích tính tự quản của các hiệp hội nghề trong giáo dục đại học; thực
hiện chuyển giao một số công việc quản lý hoạt động chuyên môn nghề
nghiệp của đội ngũ giáo viên, góp phần làm giảm nhẹ gánh nặng quản lý của
các cơ quan nhà nước.
Trong đào tạo đại học, cao đẳng cần tăng cường sự tham gia và hợp tác
của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức sử dụng lao động trong quá
trình đào tạo của nhà trường, qua các hoạt động như hợp tác nghiên cứ, xây
dựng chương trình, hỗ trợ thực tập, mời giảng, tổ chức sinh hoạt chuyên đề…

14
gắn nội dung chương trình đào tạo với nhu cầu của doanh nghiệp, thị trường
lao động, nhằm khắc phục tình trạng sinh viên, học sinh tốt nghiệp các cơ sở
đào tạo không kiếm được việc làm thích hợp, không đáp ứng được yêu cầu
của nhà tuyển dụng.
Thứ ba, tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc bảo đảm tổ chức và
cung ứng các dịch vụ giáo dục, nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng phục
vụ người dân tốt hơn. Đẩy mạnh xã hội hóa là một phương thức nhằm thúc
đẩy sự phát triển của giáo dục trong điều kiện nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền.
Từ vai trò và nhiệm vụ của lĩnh vực giáo dục, Nhà nước không chỉ
chịu trách nhiệm ban hành các quy định và chính sách như mức phí, tiêu
chuẩn… mà còn đảm bảo việc cung ứng dịch vụ giáo dục cơ bản như giáo
dục phổ cập,…
Do đó, việc xã hội hóa giáo dục không chỉ huy động nguồn lực trong xã
hội mà còn nâng cao chất lượng giáo dục thông qua thanh tra, kiểm tra khắc
phục những hạn chế, yếu kém.

Thứ tư, đổi mới và hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách phát triển
giáo dục nhằm tạo môi trường phát triển lành mạnh và luật phát đồng bộ thúc
đẩy cạnh tranh công bằng của cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập.
Chuyển các cơ sở giáo dục hoạt động dưới hình thức sự nghiệp hành
chính bao cấp sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Chuyển các cơ sở công
lập sang hình thức tư thục. Khuyến khích, tạo điều kiện cho các cơ sở giáo
dục ngoài công lập hình thành, phát triển. Thực hiện các chính sách ưu đãi,
miễn thuế, cơ sở hạ tầng, đất đai…
Xây dựng cơ chế người thụ hưởng được lựa chọn loại hình dịch vụ,
không phận biệt công lập hay ngoài công lập, tạo môi trường cạnh tranh lành
mạnh giữa các loại hình cung ứng.
Việc thực hiện chính sách ưu đãi về tài chính, tín dụng, thuế, hoặc cơ sở
hạ tầng, đất đai, cần căn cứ vào hiệu quả hoạt động của cơ sở đào tạo, theo

15
đó cơ sở đào tạo công lập có thể nhận được sự tài trợ của tư nhân và cơ sở tư
nhân có thể nhận được sự tài trợ của Nhà nước.
1.3 Nhiệm vụ của Nhà nước và xã hội trong xã hội hóa giáo dục đại học
1.3.1 Nhiệm vụ của Nhà nước
Giáo dục đại học đào tạo các kiến thức chuyên sâu về khoa học – kỹ
thuật nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế của nền kinh tế thị trường. Do đó, chủ
trương xã hội hóa giáo dục đại học vừa có ý nghĩa thực tiễn vừa khai thác và
phát huy được tiềm năng của toàn xã hội.
Để xã hội hóa giáo dục đại học được thực hiện bài bản và thấu đáo thì
Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng và được thể hiện qua các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, Nhà nước có nhiệm vụ xác lập các khuôn khổ pháp lý để phát
triển xã hội hóa giáo dục nói chung, xã hội hóa giáo dục đại học nói riêng
nhằm mục tiêu tạo điều kiện cho toàn xã hội được tiếp cận và sử dụng nhiều
loại hình dịch vụ theo hướng công bằng, hiệu quả và phát triển. Nhà nước có
trách nhiệm thể chế hóa quyền và trách nhiệm tham gia cung ứng dịch vụ của

các cá nhân, tổ chức.
Trong xã hội hóa giáo dục đại học, Nhà nước vẫn nắm vai trò quan trọng
trong việc điều chỉnh vĩ mô thông qua nhiều biện pháp như hỗ trợ kinh phí,
quyết định mức học phí, kinh phí nghiên cứu khoa học, …
Thứ hai, Nhà nước có nhiệm vụ đầu tư chủ yếu các nguồn lực để phát
triển. Trong mọi trường hợp, Nhà nước luôn là nguồn đầu tư quan trọng nhất,
đặc biệt là vùng sâu vùng xa, nơi mà tư nhân khó có tiềm lực sức mạnh, khó
tìm kiếm lợi ích, người dân nghèo không đủ khả năng mua dịch vụ. Và do đó,
Nhà nước có nhiều lợi thế và sức mạnh cũng như thể hiện rõ bản chất ưu việt
của chế độ ta.
Thứ ba, Nhà nước có nhiệm vụ tạo lập cơ chế, chính sách và trực tiếp hỗ
trợ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, viên chức và những nhân viên hoạt
động trong các cơ sở giáo dục đại học. Đây là lực lượng nòng cốt có vai trò
quan trọng trong sự nghiệp phát triển xã hội hóa giáo dục đại học.

16
Các cơ quan Nhà nước cần xây dựng, hoàn thiện thể chế quản lý, đào
tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ, tiền lương, kỷ luật, kỷ luật, tôn vinh, … đối với đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức và những người hoạt động trong cơ sở giáo
dục đại học ngoài công lập. Hoàn thiện cơ chế giúp nâng cao vai trò, trách
nhiệm và sự đóng góp hiệu quả của lực lượng này. Từ đó, xã hội tin tưởng,
tôn vinh và tham gia xây dựng môi trường giáo dục trong sạch, vững mạnh.
Chỉ khi đó, xã hội hóa giáo dục đại học mới đạt hiệu quả như mong muốn.
Thứ tư, Nhà nước là trung tâm huy động xã hội hóa phát triển giáo dục
nói chung, xã hội hóa phát triển giáo dục đại học nói chung. Chính việc thực
hiện khuôn khổ pháp lý, cơ chế, chính sách đào tạo tốt đội ngũ cán bộ, nhân
viên,… tạo điều kiện phát triển môi trường phát triển, cạnh tranh lành mạnh.
Thứ năm, Nhà nước có nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý
các vi phạm của các cơ sở ngoài Nhà nước
Xét cho cùng Nhà nước vẫn là người chịu trách nhiệm cuối cùng trước

xã hội về số lượng cũng như chất lượng giáo dục đại học, kể các các trường
được thực hiện bởi tư nhân hay các tổ chức kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, các
cá nhân, tổ chức đảm nhận nhiệm vụ cung ứng dịch vụ giáo dục đại học cũng
có những lợi ích riêng không thống nhất với lợi ích của Nhà nước. Vì vậy,
Nhà nước cần thực hiện tốt nhiệm vụ thanh tra, giám sát, kiểm tra, xử lý vi
phạm pháp luật. .
Như vậy, không phải Nhà nước chuyển giao hay phó hoàn toàn cho các
cá nhân, doanh nghiệp mà là tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia vào hoạt
động giáo dục, đảm bảo mọi nhu cầu cho mọi cá nhân trong xã hội được học
tập và phát triển trong môi trường lành mạnh.
1.3.2 Nhiệm vụ của xã hội
Thứ nhất, tất cả các tầng lớp nhan dân và các đoàn thể quần chúng, các
tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp đóng tại địa phương và từng người dan có
trách nhiệm động viên mọi người, các tổ chức xã hội đóng góp nguồn lực trí
tuệ, vật chất, tinh thần, cơ sở đất đai; tham gia ý kiến đối với chính sách, pháp

17
luật liên quan đến giáo dục đại học nhằm tạo lập và cải thiện môi trường pháp
luật, kinh tế - xã hội thuận lợi để phát triển sự nghiệp giáo dục đại học.
Mỗi người không chỉ cần biết duy trì việc học tập suốt đời và tự bảo vệ
sức khỏe, mà còn phải chủ động và tích cực tham gia vào phát triển xã hội
học tập.
Giáo dục là hoạt động tác động đến con người và làm biến đổi con người
về tính cách và hành động, nhận thức. Tham gia vào quá trình giáo dục có
nhiều lực lượng khác nhau như: cơ quan nhà nước, người thân, bạn bè, nhà
trường, văn hóa, gia đình, xã hội, thầy cô, bố mẹ, người thân, bạn bè, nhân
viên tròng nhà trường, cơ sở vật chất trường, lớp, phương tiện dạy học, phong
tục tập quán…Nói cách khác, giáo dục nói chung, giáo dục đại học nói riêng
từ trong bản chất và mục tiêu của nó không bao giờ có sự tồn tại biệt lập của
nhà trường đối với gia đình và xã hội mà là sự gắn kết, hỗ trợ mạnh mẽ lẫn

nhau giữa nhà trường, gia đình, doanh nghiệp, tổ chức xã hội trong giáo dục
đạo đức, trang bị kiến thức đến hình thành va phát triển nhân cách, định
hướng nghề nghiệp
Thứ hai, cùng với Nhà nước, các thành phần kinh tế, đoàn thể nhân dân
và mỗi người dân, tùy khả năng và điều kiện của mình, tham gia công việc
cung ứng và có quyền thụ hưởng các dịch vụ giáo dục đại học theo quy định
của pháp luật. Chỉ tính riêng 3 năm gần đây, ở nước ta đã có gần 40 trường
đại học dân lập ra đời, dù còn nhiều điều phải nói lên tiềm lực và nguồn vốn
trong dân và nhu cầu học tập của tầng của tầng lớp nhân dân.
Thứ ba, các tổ chức xã hội có chức năng giám sát, kiểm tra, phản biện xã
hội đồi với hoạt động giáo dục đại học, góp phần khắc phục hạn chế, tiêu cực,
tạo nên sự cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh trong các hoạt động giáo dục đại
học. Các tổ chức xã hội, cá nhân, nhân dân vừa là người cung ứng, vừa là
người thụ hưởng cá dịch vụ giáo dục đại học, nên hơn ai hết, họ hiểu biết sâu
sát thực tế, thành tựu, hạn chế, tiêu cực trong các hoạt động giáo dục. Cho nên
đây là lực lượng quan trọng để giám sát, kiểm tra, phản biện xã hội đối với
các hoạt dộng giáo dục đại học. Vấn đề là Nhà nước cần có cơ chế để các lực

18
lượng này tiếp cận được thông tin, bày tỏ được chính kiến, đề đạt được
nguyện vọng nhằm thực hiện tốt hơn chức năng này.
Hoạt động xã hội hóa giáo dục đại học không chỉ là công việc của ngành
giáo dục mà là sự nghiệp của toàn dân, của mọi tổ chức kinh tế, xã hội với sự
lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Cùng với Nhà nước, các tổ chức
xã hội, nhân dân có vai trò quan trọng trong phát triển giáo duc đại học. Các
tổ chức xã hội và cá nhân có chức năng, nhiệm vụ nâng cao ý thức trách
nhiệm và sự tham gia của toàn dân, của mỗi người đối với giáo dục đại học
nhằm củng cố, tăng cường hiệu quả của hệ thống giáo dục, y tế để phục vụ
ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập. Vì vậy, xã hội hóa giáo dục nói chung,
giáo dục đại học nói tiếng không phải là một giải pháp ngắn hạn mà là một

biện pháp lâu dài, mang tính chiến lược.
1.4 Tác động của xã hội hóa giáo dục đại học đến xã hội
1.4.1 Tác động tích cực
Chính sách xã hội hóa giáo dục đại học cho phép các tổ chức, cá nhân
tham gia vào cung cấp dịch vụ đại học, nhờ đó, số lượng trường đại học, cao
đẳng tăng, giảm bớt áp lực quá tải cho các trường đại học, cao đẳng công lập.
Xã hội hóa giáo dục đại học còn nhằm đảm bảo quyền tự do lựa chọn nơi
học tập cho các sinh viên. Trước đây chỉ có các trường đại học, cao đẳng công
lập do Nhà nước quản lý chung, do đó môi trường học tập không có sự khác
biệt nhiều giữa các trường. Khi chính sách xã hội hóa của Nhà nước được
triển khai, hệ thống trường ngoài công lập do tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước quản lý, tạo nên môi trường học tập năng động và hội nhập.
Trước kia khi chưa có trường đại học, cao đẳng ngoài công lập, các học
sinh không đủ điểm vào trường đại học mong muốn, gia đình thường lo lắng
cho con em họ sẽ buồn chán dẫn đến những hành vi sai phạm, bị bạn bè lôi
kéo, sa đà vào các tệ nạn xã hội. Từ khi có các trường đại học, cao đẳng ngoài
công lập, gia đình họ sẽ yên tâm khi con em họ được sống trong môi trường
giáo dục lành mạnh. Không chỉ vậy, có những gia đình giàu có, muốn con em

19
của họ vào học ở những trường tốt hơn thì nhà nước tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp, tổ chức mở những cơ sở giáo dục tiện nghi, chất lượng cao hơn
để đáp ứng nhu cầu.
Sự xuất hiện của các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập tạo sức
cạnh tranh cho các trường đại học, cao đẳng công lập về chất lượng đào tạo để
thu hút sinh viên. Bên cạnh đó, các trường ngoài công lập do không nhận
được sự hỗ trợ từ Nhà nước nên học phí của các trường ngoài công lập cao
hơn so với các trường công lập. Việc này đòi hỏi các trường ngoài công lập
phải nâng cao chất lượng đào tạo để tạo niềm tin và thu hút sinh viên và nhà
tuyển dụng lao động.

Các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập hoạt động theo hình thức
“tự thu tự chi” giúp giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Không chỉ
vậy, với kinh phí do các cá nhân bỏ ra nên sẽ được sử dụng một cách hợp lý
và có hiệu quả nhất.
1.4.2 Tác động tiêu cực
Giáo dục là lĩnh vực then chốt của một quốc gia, là nhiệm vụ chính danh
của Nhà nước. Khi tiến hành xã hội hóa giáo dục, có sự tham gia của các tổ
chức, cá nhân, giáo dục dễ bị mang mục tiêu lợi nhuận mà không quan tâm
đến chất lượng đào tạo gây tác động xấu đến niềm tin của xã hội vào hệ thống
giáo dục đại học trong nước.
Khi tiến hành xã hội hóa giáo dục đại học, mạng lưới trường đại học, cao
đẳng tăng nhanh tạo tâm lý hoang mang cho các bậc phụ huynh và học sinh
khi tham dự kì thi tuyển sinh đại học, cao đẳng hàng năm. Không chỉ vậy, số
lượng trường tăng đồng nghĩa với số lượng sinh viên đại học, cao đẳng đông
hơn, do đó, tình trạng “thừa thầy” cũng ngày càng tăng.
Mạng lưới các trường đại học, cao đẳng ngày càng đông cùng với quyền
tự chủ về tài chính của các trường ngoài công lập, các cơ quan quản lý gặp
nhiều khó khăn trong việc thanh tra, kiểm tra và giám sát.

20
1.5 Các chính sách hiện hành
Tư tưởng xã hội hóa giáo dục đầu tiên được khởi xướng trong Chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 được thông qua tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng: “Khai thác mọi tiềm năng
của toàn xã hội tham gia phát triển phát triển giáo dục và đào tạo”. Và đến
Đại hội VIII, khái niệm xã hội hóa được làm rõ hơn và chính thức đưa vào
trong văn kiện: “Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã
hội hóa. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt đồng thời động viên mỗi người dân,
các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước
ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội”.

Đến Đại hội VIII, khái niệm xã hội hóa được làm rõ hơn và chính thức
đưa vào trong văn kiện: “Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo
tinh thần xã hội hóa. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt đồng thời động viên mỗi
người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức
nước ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội”. Và Đảng ta khẳng
định: “Thực hiện phương châm xã hội hóa giáo dục các hoạt động văn hóa,
thông tin, thể dục thể thao, y tế, dân số, kế hoạch hóa gia đình, giáo dục và
các mặt xã hội khác, hướng vào nâng cao chất lượng cuộc sống, tinh thần và
thể lực của nhân dân”. Tại Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII), Đảng yêu
cầu “Thể chế hóa chủ trương xã hội hóa giáo dục đã ghi trong Nghị quyết Đại
hội VIII”. Chủ trương này tiếp tục được khẳng định tại Văn kiện Đại hội lần
thứ IX của Đảng, tại một số Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng, tại
Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2000 – 2010
của Chính phủ và được cụ thể hóa tại nhiều văn bản pháp luật của Nhà nước
Trên cơ sở chủ trương của Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành
nhiều văn bản quy phạm pháp luật về xã hội hóa giáo dục đại học góp phần
đưa các chủ trương vào thực tế.

×