Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

skkn cách dạy trẻ tự kỷ phát triển ngôn ngữ và khả năng giao tiếp thcs bình sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.99 KB, 17 trang )

CÁCH DẠY TRẺ TỰ KỶ
PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ VÀ KHẢ NĂNG GIAO TIẾP
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Tự kỷ đang ngày càng trở thành vấn đề nóng bỏng trong giáo dục
đặc biệt, bởi trong những năm gần đây, số ca chẩn đoán tự kỷ ngày càng
tăng. Cứ 110 trẻ em ở Mỹ thì có 1 trẻ em mắc rối loạn tự kỷ, ở Việt Nam
cứ 50 gia đình thì có 1 gia đình có trẻ tự kỷ và số trẻ được chẩn đoán tự
kỷ đang tăng mạnh hàng năm, con số đó được so với số trẻ em trong độ
tuổi mầm non, con số trẻ tự kỷ chắc chắn rất lớn. Đây là thách thức với
xã hội nói chung và ngành giáo dục đặc biệt nói riêng.
Để nhấn mạnh sự phức tạp, nghiêm trọng của chứng tự kỷ và tác
động của nó đối với cộng đồng nên năm 2007 Liên hiệp quốc đã chọn
ngày 02/4 là “Ngày thế giới nhận biết về chúng tự kỷ”. Những trẻ tự kỷ,
thiếu hay chậm phát triển về khả năng liên hệ qua lại trong xã hội, không
sử dụng được ngôn ngữ trong sinh hoạt xã hội, không thông hiểu các
hình ảnh ký hiệu và không biết chơi các trò cần sức tưởng tượng. Trẻ
cũng có hành vi lặp đi lặp lại và nhạy cảm giác quan. Những trẻ này có
khuynh hướng khó khăn trong học tập và nhiều trẻ bị khiếm khuyết về
trí tuệ. Do vậy, việc tìm ra “Cách dạy trẻ tự kỷ phát triển ngôn ngữ
và khả năng giao tiếp” là một điều quan trọng thiết yếu. Đó cũng là
tâm nguyện của chúng tôi (những người làm công tác giáo dục), bằng
mọi cách giúp trẻ tự kỷ nói được bằng chính ngôn ngữ bình thường và
giao tiếp tốt với xã hội.
 Thực trạng trước khi thực hiện các giải pháp của đề tài:
Trung tâm Nuôi dạy trẻ khuyết tật Đồng Nai là một trường chuyên
biệt nuôi dạy trẻ khiếm thính, khiếm thị và chậm phát triển trí tuệ là con
em của nhân dân lao động trong tỉnh.
1
- Các trẻ chậm phát triển trí tuệ tại Trung tâm thường có biểu
hiện tự kỷ, các trẻ này có chỉ số IQ < 50, chỉ khoảng 20 – 30% có IQ >=
70. Do đa số trẻ tự kỷ khó làm các test trí tuệ (nhất là các test dùng lời


nói).
- Các trẻ tự kỷ có IQ thấp, thường kèm theo các khiếm khuyết
nặng về kỹ năng quan hệ xã hội và có nhiều đáp ứng xã hội lệch lạc.
 Việc dạy trẻ tự kỷ phát triển ngôn ngữ và khả năng giao tiếp
với xã hội tại trường có những thuận lợi và khó khăn như sau:
1. Thuận lợi:
- Trẻ mắc bệnh tự kỷ vẫn có thể phát huy những khả năng của
bản thân nếu ảnh hưởng tự kỷ nhẹ, được phát hiện sớm, can thiệp kịp
thời và hỗ trợ đúng cách. Có một tỷ lệ nhỏ trẻ tự kỷ trở thành những
thiên tài.
- Trẻ mắc bệnh tự kỷ khó tiếp thu ngôn ngữ, nhưng lại nhạy bén
về hình ảnh, khi thấy trẻ không hiểu lời nói thì giải thích bằng hình ảnh.
- Nói chuyện với trẻ này bằng những ngôn từ thật đơn giản, dễ
hiểu nhất.
- Mọi người đều thương yêu các trẻ này.
- Bệnh tự kỷ có thể chữa khỏi.
2. Khó khăn:
- Trẻ tự kỷ có vẻ lơ đãng, không lắng nghe. Vốn từ và giao tiếp
xã hội của trẻ dạng này rất hạn chế.
- Trẻ tự kỷ khó tiếp thu ngôn ngữ.
- Người tự kỷ là mối đe dọa cho xã hội.
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:
1. Cơ sở lý luận:
2
- Khi cuộc sống ngày càng phát triển với những khả năng giao
tiếp ảo ngày càng phổ biến thì dường như con người càng có xu hướng
sống biệt lập và ít giao tiếp với cộng đồng. Ảnh hưởng của lối sống công
nghiệp cùng với sự phát triển của internet dường như làm cho bệnh tự kỷ
có xu hướng phát triển. Trẻ em là đối tượng dễ mắc căn bệnh này.
Nguyên nhân gây bệnh tự kỷ là một rối loạn ở não đi kèm với một loạt

những vấn đề về phát triển, chủ yếu là về giao tiếp và tương tác với xã
hội. Bệnh hay gặp ở các bé trai gấp 4 lần các bé gái.
- Tự kỷ là căn bệnh của thời đại mà nạn nhân chính là trẻ em.
Quá trình điều trị bệnh ít tốn kém nhưng mất khá nhiều thời gian.
- Tự kỷ là một nhóm hội chứng được đặc trưng bởi suy kém
nặng nề và lan toả trong những lĩnh vực phát triển: tương tác xã hội,
giao tiếp và sự hiện diện của những hành vi rập khuôn Tự kỷ là một loại
khuyết tật phát triển suốt đời do rối loạn của hệ thần kinh gây ảnh hưởng
đến hoạt động của não bộ. Tự kỷ có thể xảy ra không phân biệt giới tính,
chủng tộc, giàu nghèo và địa vị xã hội. Tự kỷ được thể hiện ra ngoài
bằng các khiếm khuyết về tương tác xã hội, giao tiếp ngôn ngữ và phi
ngôn ngữ, hành vi, sở thích và hành động mang tính hạn hẹp và lặp đi
lặp lại.
- Hầu hết các trẻ tự kỷ đều có suy kém về mặt nhận thức ở tất cả
các lãnh vực, trẻ tự kỷ mất ngôn ngữ và kỹ năng xã hội.
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài:
Để dạy trẻ tự kỷ phát triển ngôn ngữ và khả năng giao tiếp tốt,
chúng ta có thể vận dụng các bài tập sau đây:
a) “Dạy cho trẻ học cách nghe”
- Sử dụng các dấu hiệu để gia tăng sự chú ý của trẻ, ví dụ chạm
vào tai trẻ để “nghe” và chạm vào má để “nhìn”.
3
- Khi bạn bắt đầu nói với trẻ, hãy sử dụng tên trẻ và đợi đến khi
bạn nghĩ là bạn đã đạt được sự chú ý lớn nhất từ trẻ và trẻ đã có khả
năng hiểu được câu “Phú nghe đây!”
- Khi làm việc hoặc chơi với trẻ, cố giảm bớt tiếng ồn xung
quanh hoặc những điều làm giảm sự tập trung.
- Hãy nói hoặc hát một cách lặng lẽ bên cạnh trẻ trong khi làm
các công việc hàng ngày của bạn, hãy sử dụng các bài hát quen thuộc và
hàng ngày, hãy nói những điều có liên quan đến thời gian trong ngày

(lúc ăn, lúc tắm, lúc ngủ) và những điều được nhắc đi nhắc lại hàng
ngày.
- Giới thiệu cho trẻ một loạt các âm thanh của các tiếng động
khác nhau và cường độ khác nhau.
- Sử dụng âm nhạc và các động tác để giúp bạn giao lưu với trẻ,
hãy hát với trẻ. Tạo ra các bài hát về những điều mà bạn và trẻ thường
cùng làm và sử dụng các nhịp điệu quen thuộc, hãy khuyến khích trẻ
phối hợp, nhảy hoặc lắc lư đúng nhịp của âm nhạc, hãy nhấc bổng trẻ
lên và nhảy hoặc quay tròn trẻ.
- Hãy sử dụng các bài hát và nhịp điệu có tính chất hành động
đơn giản rồi cố tạo ra sự tạm ngưng cho thời điểm thú vị nhất. Hãy kéo
dài việc tạm ngưng để trẻ có thể có sự phản ứng.
- Hãy động viên trẻ ngồi yên, và nhìn, nghe trong các giai đoạn
ngắn (lúc đầu rất ngắn sau dài dần), trẻ có thể thích có một cái đệm để
ngồi trong khi các bạn đang ngồi nghe băng hay trò chuyện cùng nhau.
- Hãy đảm bảo cho trẻ sự thoải mái và làm tất cả những gì có thể
để ngăn chặn các âm thanh làm trẻ buồn chán. Cần thiết thì đưa trẻ đi
chỗ khác đối với âm thanh bạn không thể kiểm soát được thì hãy thông
báo cho trẻ khi tiếng động bắt đầu. Để bắt đầu, trước hết hãy để trẻ ở
4
phòng khác với một ai đó, sau đó khi bạn thấy trẻ đã quen thì hãy giúp
trẻ chấp nhận nhiều hơn, mang trẻ lại gần hơn nơi có tiếng động, chỉ có
thể dần dần chờ đợi ở trẻ sự cố gắng chấp nhận bởi bản thân trẻ. Đôi khi
bạn có thể sử dụng các âm thanh mà trẻ không thích với cường độ nhẹ
hơn, mềm hơn để trẻ chấp nhận dần. Bạn có thể sử dụng băng hoặc đĩa
cho mục đích này.
- Khi bạn kiểm soát mức độ tiếng động cho trẻ, hãy sử dụng các
câu như “quá ồn” hoặc “vặn khẽ đi”. Nếu trẻ có thể tự sử dụng các từ
như vậy, hãy động viên trẻ khi trẻ bắt đầu bắt chước điều bạn nói. Điều
này tốn khá nhiều thời gian và hãy tin rằng một ngày nào đó trẻ tự nói

được những từ như vậy.
b) “DẠy cho trẻ cách nhìn – mặt đối mặt”
- Tạo nên mối quan hệ với trẻ bằng mọi cách có thể, nên sử dụng
cách nhìn, nghe, sờ mó.
- Khi bạn muốn trẻ nhìn bạn, hãy đứng trước tầm nhìn của trẻ mà
nói: “Phú hãy nhìn cô!”
- Bạn có thể tạo sự giúp đỡ bằng việc sờ vào má trẻ và từ từ quay
đầu trẻ về phía bạn, nếu trẻ nghe hãy gọi tên trẻ.
- Hãy khuyến khích trẻ nhận biết vẻ mặt, ngón chân, ngón tay, cả
của bạn và của trẻ. Hãy chơi trò chơi và hát bài hát nhấn mạnh những bộ
phận của cơ thể.
- Khi bạn thấy rằng trẻ quan tâm đến chiếc hoa tai hay chiếc vòng
bạn đeo trên cổ, hãy sử dụng vật đó để thu hút sự chú ý của trẻ, hãy di
chuyển đầu của bạn từ từ để tạo ra sự giao tiếp bằng mắt nếu có thể.
- Hãy đội một cái mũ lạ thường hoặc đặt một cái gì đó ngộ
nghĩnh lên đầu bạn, lấy chúng để trước mắt bạn sau đó nhìn về phía trẻ
và mỉm cười.
5
- Thổi bọt xà phòng một cách nhẹ nhàng, khuyến khích trẻ nhìn
bọt xà phòng bay nổi và vỡ ra. Cố gắng để bọt xà phòng bay thấp xuống
dưới và bay qua mặt bạn, bạn có thể cố gắng hiểu được cách nhìn chằm
chằm của trẻ khi bọt xà phòng bay qua.
- Nếu bạn thấy rằng trẻ đang nhìn cái gì đó, hãy nói với trẻ về cái
đó và đưa vật đó vào tầm nhìn của trẻ khi bạn nói, nếu bạn thấy rằng trẻ
nhìn bạn, hãy trả lời cùng với nụ cười thân thiện hoặc nói chuyện với trẻ,
thay đổi một cách tự nhiên nhưng hãy cố gắng hiểu được cái nhìn của bé
và lặp lại.
- Hãy cố gắng giao tiếp bằng mắt khi bạn chơi với trẻ, ngừng lại
bất thình lình trong khi hy vọng rằng trẻ nhìn bạn, nếu trẻ làm như thế,
bạn hãy xử sự như đó là dấu hiệu để kêu gọi, nếu có thể bạn hãy phát

triển thành trò chơi quay người lại để nói chuyện.
- Nếu trẻ nhìn chằm chằm, hãy cố gắng đừng ngượng nghịu
nhưng hãy quay lưng lại, chớp lấy cái nhìn của trẻ và sau đó nhìn đi chỗ
khác, một lúc sau nhìn lại một cách tự nhiên.
- Hãy chơi trò đuổi bắt hoặc chơi trò chạy, dừng lại với câu nói:
chuẩn bị, sẵn sàng; rồi ra hiệu “chạy”, khuyến khích trẻ nhìn bạn nếu
bạn nhìn trẻ lúc trẻ chạy.
- Hãy vỗ nhẹ vào tay, lưng, vai của trẻ một cách kiên quyết để thu
hút sự chú ý của trẻ, hãy lấy cái gì đó đằng sau bạn để chỉ cho trẻ hoặc
xoè tay bạn ra để chỉ cho trẻ thấy cái bạn giấu trong tay.
c) “Thu hút sự chú ý của trẻ”
- Hãy chỉ cho trẻ thấy những điều bạn thấy thích thú dù rằng bạn
có thể nhận được rất ít phản ứng từ trẻ. Hãy chú ý đến trẻ và nhận xét
với những điều mà trẻ đang làm.
6
- Hãy liên hệ điều mà bạn khen ngợi, chú ý và các dấu hiệu ảnh
hưởng một cách trực tiếp với những việc trẻ đang làm.
- Làm cho sự hiện diện của bạn rõ ràng và lý thú hơn, hãy chọn
và làm những điều mà bạn cho rằng trẻ có thể thấy thích thú. Hãy mang
những việc bạn đang làm đến gần trẻ để thu hút sự chú ý của trẻ.
- Chỉ cho trẻ những vật đặc biệt, nếu bạn có thể chạm vào chúng
khi bạn và trẻ đang chơi ở ngoài, hãy cố gắng làm việc này thật đơn giản
mỗi khi chỉ một vật, hãy nói một cách đơn giản về những điều mà bạn
và trẻ đang nói tới. Hãy giúp trẻ hiểu ý nghĩa bằng các cử chỉ và hành
động.
- Nếu trẻ đang đứng trước bạn với một món đồ chơi với các cử
chỉ như muốn khoe hoặc đưa cho bạn thì hãy cầm lấy vật đó. Hãy thể
hiện một sự thích thú và nói về vật trước khi trả lại cho trẻ, để trẻ thấy là
bạn đang chia sẻ với trẻ.
- Rất tốt khi sử dụng các cuốn sách với các vật được giấu sau các

nếp gấp, hãy cho trẻ thấy bạn rất thích cuốn sách. Hãy nói về những cái
mà bạn tìm thấy và hỏi “Cái bì thư trốn ở đâu nhỉ ?”
- Hãy cố gắng để trẻ chỉ tay hoặc có các hành động. Hãy cùng
nhau nhìn các vật và nói “Đây là cái…”, bạn có thể bắt đầu việc này với
việc nhẹ nhàng nắm tay trẻ hoặc ngược lại. Hãy giảm dần sự giúp đỡ
hướng dẫn của bạn để trẻ tự làm sau đó.
- Khi trẻ đã thành thục hãy để cho trẻ chỉ cho cả người khác điều
mà bạn và trẻ cùng làm.
- Nếu trẻ đã làm xong điều gì đó thì hãy động viên trẻ khoe điều
đó với mọi người xung quanh.
- Hãy dạy trẻ cách khoe một vật với người khác. Nếu trẻ hiểu
được mệnh lệnh đơn giản, hãy nói “Khoe với ba đi!”. Nếu trẻ cần sự
7
giúp đỡ, hãy giúp trẻ, hướng dẫn tay của trẻ để chỉ các vật cho mọi
người.
d) “Dạy trẻ bắt chước việc tạo ra các âm thanh”
- Để giúp trẻ biết cách lấy hơi, hãy chơi các trò chơi như thổi
bong bóng, thổi bóng bay hoặc các mảnh giấy nhỏ. Hãy sử dụng các
nhạc cụ, nếu trẻ không sẵn sàng bắt chước bạn, hãy quan sát xem trẻ có
nhìn bạn không. Hãy xem trẻ có cố gắng làm điều bạn đã làm khi bạn
không nhìn bé.
- Hãy khuyến khích hoạt động của môi trẻ. Nếu trẻ cảm thấy vui
thích khi nhìn vào gương, hoặc ngồi trên đùi bạn và ngồi đối mặt với
bạn, hãy khuyến khích trẻ phát hiện môi và mặt của bạn bằng cách va
chạm hoặc quan sát. Hãy biến đổi khuôn mặt của bạn, thay đổi hình
dạng môi của bạn. Hãy thè lưỡi ra và thụt lưỡi vào và quan sát xem trẻ
có bắt chước bạn hay không.
- Để khuyến khích trẻ sử dụng đầu lưỡi, hãy thử các động tác
liếm các kẹo mút, hoặc sử dụng các tờ giấy có độ dính để làm thí dụ.
- Để khuyến khích trẻ sử dụng giọng nói của trẻ, hãy sử dụng các

trò chơi hành động âm thanh như con vẹt biết nói, Hãy sử dụng một
cái kèn đồ chơi. Hát một cách thường xuyên với trẻ và thi thoảng lại
dừng lại để trẻ hát tiếp nếu có thể.
- Đừng quên rằng bạn phải sử dụng âm vực cao hơn hoặc thấp
hơn, mạnh hơn hoặc êm ái hơn để kích thích sự chú ý của trẻ.
- Hãy khuyến khích trẻ tiếp thu và đối thoại, bắt đầu bằng cách
bắt chước các âm thanh do trẻ tạo ra càng giống càng tốt. Làm việc này
ngay cả khi trẻ đánh trống hoặc gõ bàn. Hãy dừng lại một chút để trẻ
làm lại một lượt khác, cố gắng để tạo ra sự lần lượt, thỉnh thoảng hãy cố
8
thử các âm thanh mới thí dụ vỗ tay, hay đánh trống với nhịp điệu khác
và hãy quan sát xem trẻ có bắt chước bạn không.
- Nếu trẻ đang bập bẹ, hãy bắt chước âm thanh của bé và đôi khi
hãy tạo ra các âm thanh khác xem trẻ có bắt chước hay không. Hãy cười
và dừng lại xem trẻ có nhìn bạn không. Hãy thử các âm thanh hoàn toàn
khác với âm thanh mà trẻ đã tạo ra hoặc các âm thanh gần giống như cũ.
Ví dụ P và S là hoàn toàn khác nhau, B và P là gần giống nhau. Hãy thay
đổi cường độ và độ cao của âm thanh. Hãy luôn luôn chuẩn bị sẵn sàng
quay trở lại để bắt chước trẻ nếu trẻ không bắt chước bạn.
- Nếu trẻ thích các từ và chữ cái, hãy sử dụng các cái đó để
khuyến khích trẻ tạo ra âm thanh. Hãy thử nói ra âm thanh hơn là tên
của chữ cái khi bạn viết chữ.
e) “DẠy trẻ hiểu các cử chỉ”
- Hãy làm cùng một cử chỉ, hãy cố gắng nhấn mạnh trong cùng
một tình huống nhiều lần. Ví dụ, hãy chắc chắn rằng bạn đã thu hút được
sự chú ý của trẻ và sau đó đặt một chiếc ghế của trẻ trước khi trẻ ngồi
xuống vào bữa ăn và nói “Con hãy ngồi xuống!” đồng thời với việc chỉ
tay vào chiếc ghế.
- Khi trẻ có vẻ đã nghe theo mệnh lệnh vào bữa ăn, bắt đầu sử
dụng chúng vào các thời gian khác nữa và vào các vị trí khác khi bạn

muốn trẻ ngồi xuống.
- Hãy giới thiệu các cử chỉ vào các công việc hàng ngày. Ví dụ:
“gật đầu” khi bạn nói “con lại đây”… Dần dần sử dụng các cử chỉ này
vào các thời điểm khác nhau và vị trí khác. Bạn phải dạy trẻ từng cử chỉ
mới, từng lần một theo cách như trên.
- Hãy dùng tay của bạn để nhấn mạnh các vật bạn đang nói tới, ví
dụ: to, bé, tròn…
9
- Hãy giúp trẻ tuân theo một sự chỉ trỏ bằng cách chỉ cho bé
những vật mà bé đã sẵn sàng nhìn vào trong khi bạn nói về vật đó.
- Hãy chỉ một vật gần ánh mắt của trẻ và cố gắng để trẻ nhìn vào
vật đó. Chạm vào vật đó và dịch chuyển vật đó theo tầm nhìn của trẻ.
- Hãy sử dụng các trò chơi xếp hình nếu trẻ thích, hãy chỉ ra các
mảnh xếp hình sắp tới phải được đặt vào đâu hoặc mảnh nào sau đó sẽ
cần sử dụng. Hãy sử dụng các câu như “ở chỗ này”, “ở trong này”, “cái
này”, “vào đây”… trong khi tay bạn đang chỉ.
- Hãy làm thật nhiều các hành động với bé để trẻ phải tách rời
ngón tay trỏ, ví dụ: quay số điện thoại, bật và tắt các nút, vẽ trên cát và
sơn ngón tay.
- Khi trẻ với một vật gì đó, hãy nắm lấy cánh tay đã vươn dài của
trẻ và nắn ngón tay của trẻ về một điểm để trẻ có thể chạm vào vật đó.
- Dạy trẻ cách lựa chọn bằng cách đưa ra hai loại đồ ăn, hai loại
đồ uống hay hai loại đồ chơi. Với loại trẻ thích, thì đặt loại khác xuống.
Và hãy làm như cách trên, “dí” ngón tay của trẻ về một điểm để trẻ có
thể chạm vào một vật mà trẻ đã chọn. Hãy làm những việc này càng
nhiều càng tốt với các tình huống khác nhau. Cố gắng đừng bao giờ nói
“chỉ vào”, “bé muốn gì” nhưng hãy nói cho trẻ tên của vật mà trẻ đã
chọn. Khi đã dạy trẻ chọn đồ vật bằng cách chỉ trỏ, bạn cần thể hiện các
hình thức chỉ trỏ khác, đặc biệt “hãy nhìn…”. Hãy chỉ các vật cho trẻ
với sự nhấn mạnh mỗi khi bạn có cơ hội. Hãy bắt đầu bằng việc chạm

vào các vật mà bạn muốn trẻ nhìn. Sau đó sử dụng các “điểm ở xa”, ví
dụ: một cái máy bay đang bay trên trời, một đoàn tàu vừa chạy qua.
f) “Dạy trẻ thể hiện bằng mọi cách”
- Hãy phóng đại mọi cử chỉ và biểu hiện của bạn, đừng ngại để có
dáng vẻ vô cùng ngạc nhiên, vô cùng vui vẻ hoặc buồn bã.
10
- Tránh bắt đầu bằng các trò chơi có tính chất trêu chọc. Hãy bắt
đầu các trò chơi với tính chất chờ đợi, với lời nói thân thiện và khuôn
mặt tươi cười.
- Hãy giữ thông điệp trên khuôn mặt của bạn, giọng nói của bạn
và ngôn ngữ của bạn để bắt đầu trò chơi. Ví dụ khi bạn vui vẻ thì giọng
nói vui vẻ, khuôn mặt vui vẻ và nếu cáu giận thì hãy thể hiện ngược lại.
- Nếu trẻ có thể hiểu được một số ngôn ngữ hãy nói “Nào hãy
nhìn mặt cô!” và nói với trẻ ý nghĩa sự biểu hiện trên khuôn mặt bạn.
- Hãy cùng trẻ nhìn vào một tấm gương và tạo ra các khuôn mặt
khác nhau.
- Hãy cùng nhìn vào quyển sách hoặc các bức tranh và nói “Hãy
tìm ra khuôn mặt vui vẻ!” hoặc “Người nào là người buồn bực”. Làm
một tấm ảnh có các khuôn mặt “vui vẻ” hay làm một bộ sưu tập các
“khuôn mặt vui vẻ” dán lên giấy và treo ở phòng ăn.
g) “Dạy trẻ học các từ và ý nghĩa”
- Hãy sử dụng các điều quan tâm của trẻ để bắt đầu cho trẻ học từ
mới. Thêm từ vào những gì trẻ nói. Nếu trẻ nói “nước”, bạn có thể nói
“uống nước” hoặc “con uống nước”. Việc mở rộng vốn từ giúp trẻ có
khả năng ghép các từ và học nói tốt hơn. Hãy tận dụng tất cả các tình
huống trong ngày để cung cấp vốn từ cho trẻ.
- Khuyến khích để trẻ nói các từ trong việc yêu cầu các vật mà bé
muốn, nhưng trước tiên hãy để trẻ nhắc lại các từ bạn nói. Bạn cũng có
thể giúp trẻ sử dụng các từ “thêm nữa”, “một lần nữa” là các từ mà trẻ
có thể sử dụng trong rất nhiều tình huống, ví dụ bé muốn thêm đồ ăn, đồ

uống Điều này tạo điều kiện cho bạn nói rất nhiều các cụm từ ngắn
khác nhau để cho trẻ bắt chước.
11
- Dạy trẻ nói “không” khi trẻ không muốn điều gì đấy, ví dụ khi
trẻ gạt đồ chơi sang một bên thì bạn hãy nói “không” để cho trẻ bắt
chước. Bạn sẽ giúp trẻ thực hiện các lựa chọn.
- Hãy tỏ ra hài lòng và có phản ứng với một điều trẻ đã nói ra dù
rằng điều đó có vẻ như không hoàn toàn chính xác. Hãy nói các từ đó
một lần nữa. Ví dụ nếu trẻ nói “ơm’’ bạn hãy nói đúng là “cơm’’ nhưng
đừng bắt trẻ nhắc lại cho đến khi trẻ tự nhắc lại được.
- Hãy chỉ cho trẻ làm thế nào để hỏi những đứa trẻ khác về một
vật nào đó ở quanh nhà hoặc là ở bên ngoài. Hãy chắc chắn rằng có
những lúc trẻ buộc phải hỏi để có một vật gì đó mà bản thân trẻ không tự
lấy được.
- Hãy tránh việc cung cấp cho trẻ quá nhiều vốn từ, điều đó sẽ
làm cho trẻ quá tải và dẫn đến chán nản, điều đó làm trẻ không hiểu gì
cả.
h) “Dạy trẻ sử dụng từ ngữ nhiều hơn các kí hiệu”
- Mỗi khi trẻ gọi tên các vật, hãy phản ứng như thể là trẻ đang nói
với bạn. Hãy cầm lấy vật và giữ lấy vật đó để cho trẻ thấy vật đó và
khuôn mặt của bạn khi đó, bạn nên nhắc lại tên của vật đó. Ví dụ như trẻ
nói “xe”, bạn nên nói “đúng, xe màu đỏ’’.
- Trẻ nói về một vật không thể lấy được hoặc không nhìn thấy
được như thể là trẻ yêu cầu được lấy cho trẻ và đưa vật đó cho trẻ. Hãy
kiên quyết với việc đó dù rằng ban đầu chuyện này có thể làm trẻ bối rối
hoặc khó chịu.
- Hãy chơi trò đưa và lấy, khi bạn yêu cầu một vật thể và đặt nó
sang một bên, sau đó là đến lượt trẻ hỏi về một vật nào đó.
- Hãy nói với trẻ về việc bạn đang làm. Hãy chơi các trò chơi
ngoài trời để bạn có điều kiện nói về các hành động. Hãy chạm vào vật

12
thể mà bạn đang nói tới nếu có thể. Hãy nói về vật tính của vật thể: ví dụ
như màu sắc, hình dáng. Hãy thu thập thật nhiều các vật khác nhau
nhưng có cùng một màu, hãy chạm vào vật đó và nói, ví dụ “màu vàng,
màu vàng,…”
- Hãy khuyến khích trẻ nói các từ thay vì các dấu hiệu. Hãy sử
dụng các đồ chơi và vật thể mà trẻ có thể gọi được tên. Hãy giới thiệu
các từ thuộc về hành động, ví dụ hãy nói: đi, nhảy, ngủ trong khi bạn
đang làm cho các đồ chơi có hành động như vậy. Hãy xem trẻ có yêu
cầu bạn nhắc lại các điều đó hay không.
- Hãy bắt đầu với một số từ hành động quen thuộc và sử dụng
chúng trong rất nhiều tình huống. Nếu trẻ thích chơi các trò chơi vận
động cơ thể mạnh mẽ, bạn có thể dạy trẻ các từ để ra lệnh cho bạn một
số việc, ví dụ: lần nữa, nhảy, hãy ngừng đi.
i) “Dạy trẻ hiểu ngôn ngữ”
- Hãy tìm hiểu các tình huống trẻ đã phản ứng được khi mọi
người nói. Sau đó cố gắng sử dụng cùng một từ cho cùng một tình
huống. Ví dụ khi trẻ quay đầu lại khi bạn nói: “Ba đã về’’ thì lần sau hãy
nói đúng câu như vậy.
- Hãy sử dụng tên của trẻ để thu hút sự chú ý của trẻ lúc bạn bắt
đầu nói, chứ không phải vào lúc kết thúc. Điều này để thu hút sự chú ý
của trẻ trước khi nói có thể vỗ vào trẻ và nói “Phú”.
- Sử dụng các vật thể để nói cho trẻ việc gì xảy ra. Ví dụ chỉ vào
cái muỗng và nói “Bây giờ là giờ ăn rồi”. Luôn luôn giữ cùng một vật
thể, để trẻ có thể học cách dự đoán cái gì sẽ xảy ra.
- Khi bạn chơi với trẻ, hãy sắp đặt các vật để cho thấy ý định của
bạn rất rõ ràng. Ví dụ: lấy giấy ra và tô màu sau đó nói “Chúng ta sẽ
vẽ!”.
13
- Hãy làm cho ngôn ngữ của bạn thật đơn giản và nói bất cứ khi

nào có điều kiện. Khi các công việc đã trở nên khá quen thuộc, bạn có
thể nâng cao sự hiểu biết của trẻ bằng cách sử dụng các ngôn ngữ hơi
khác một chút.
- Khi trẻ đang ở với những đứa trẻ khác, ví dụ trong một nhóm
bạn, hãy yêu cầu cô giáo giới thiệu hoặc giải thích riêng cho trẻ. Hãy
chắc chắn rằng ngôn ngữ phải đơn giản và các từ quan trọng phải được
nhấn mạnh.
- Luôn tạo điều kiện về thời gian cho trẻ khi trả lời câu hỏi, làm
các công việc được yêu cầu hoặc nghĩ những điều phải nói.
j) “Dạy trẻ kỹ năng giao tiếp”
- Vì một số trẻ tự kỷ không nói được nên giao tiếp có thể là bằng
lời cho những trẻ nào đã biết nói, hay dấu hiệu. Thường thì trẻ học nói
bằng cách bắt chước mà trẻ tự kỷ thì khả năng bắt chước lại không tốt,
vì vậy nguyên tắc dạy nói trong việc dạy trẻ là phải dựa trên nhu cầu của
trẻ khi trẻ muốn một điều gì vì lúc đó là trẻ có nhu cầu nói cao nhất.
- Không riêng gì trẻ tự kỷ, bất cứ trẻ nào chậm nói đều gặp phải
là do trẻ không hiểu được những danh từ khó. Khi nói chuyện với trẻ sơ
sinh người ta tự động điều chỉnh ngữ vựng cho đơn giản hơn, lặp đi lặp
lại nhiều hơn và lên xuống giọng rõ nét hơn. Do trực giác ta làm vậy để
khi trẻ nghe một chữ nhiều lần thì biết nắm lấy phát âm của chữ, thính
giác của trẻ sơ sinh chưa được thành thạo như của người lớn nên trẻ xếp
đặt thông tin chậm, chưa hiểu ngay ra được âm phát ra lần đầu.
- Nó giống như ta nghe nói một ngôn ngữ mà chỉ hiểu có một
phần, nếu không nắm được phần đầu thì phần sau trở nên khó hiểu hơn.
Cha mẹ ý thức là trẻ cần học nói nên nói chậm lại, nhìn vào mặt trẻ, cho
14
trẻ có nhiều thì giờ và cơ hội để nghe đi, nghe lại và nắm được chữ, khi
hiểu thì trẻ tỏ ra dấu hiệu như mỉm cười, khoa chân múa tay thích thú.
- Cách học này gây ra nhiều khó khăn cho trẻ tự kỷ. Một số em
gặp trục trặc ngay từ đầu và không bao giờ nói được, trẻ không đáp ứng

khi nhìn trả lại, mỉm cười với cha mẹ… nên cuối cùng việc thiếu đáp
ứng này có thể làm cha mẹ nói với trẻ như với một người lớn, hay nói
mà không thực tâm chờ được trả lời. Làm vậy càng khiến cho cơ hội học
nói của trẻ giảm thêm. Mặt khác khi trẻ có anh chị thì cha mẹ thường
quen nói theo tuổi, dùng chữ có mức độ khó khăn theo tuổi và có thể
không nhớ rằng trẻ tự kỷ chậm phát triển, có tuổi năm tháng cao nhưng
ngôn ngữ không cao bằng. Kết quả là càng ngày trẻ càng thụt lùi tới, khi
phải có trợ giúp đặc biệt mới nói được.
 Hướng giải quyết cụ thể của Trung tâm trong thời gian qua
là khi tuyển sinh vào đầu mỗi năm học mới, chúng tôi luôn tìm hiểu kỹ
đặc điểm từng dạng tự kỷ đặc biệt của trẻ để giáo viên chú ý và có
hướng dạy theo biện pháp đặc thù riêng như đã nêu ở trên.
III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI:
Nhà trường đã thành công bước đầu trong việc dạy dỗ các học
sinh bị tự kỷ, các em đã có kỹ năng giao tiếp bằng mắt với các bạn cùng
lớp và giáo viên.
Chúng tôi cùng cảm nhận được sự thành công này không
thuộc về một cá nhân nào mà là cả sự cố gắng của một tập thể chịu
khó, thương yêu, đồng cảm, tận tuỵ của tất cả đội ngũ sư phạm
chúng tôi. Đây là “Cả một bài học kinh nghiệm sư phạm lý thú” của
tập thể hội đồng sư phạm, nơi chúng tôi sống, làm việc vui vẻ, đoàn
kết.
IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG:
15
Để đẩy mạnh việc tìm ra “CÁCH DẠY TRẺ TỰ KỶ PHÁT
TRIỂN NGÔN NGỮ VÀ KHẢ NĂNG GIAO TIẾP”, bản thân giáo
viên cần phải:
- Có kiến thức và kỹ năng dạy trẻ tự kỷ; luôn tìm tòi, nghiên cứu
để tìm ra cách dạy trẻ thuộc dạng này, tạo cơ hội hòa nhập cộng đồng
trong tương lai cho trẻ.

- Đoàn kết, có ý thức trách nhiệm trong việc chăm lo và giáo dục
cho học sinh khuyết tật nói chung và trẻ tự kỷ nói riêng.
- Việc dạy trẻ tự kỷ phát triển ngôn ngữ và khả năng giao tiếp
không chỉ xuất phát từ tình thương và lòng nhân đạo, mà còn là trách
nhiệm của xã hội mang tính nhân văn sâu sắc, nhằm tạo cơ hội cho việc
hòa nhập cộng đồng của trẻ khuyết tật nói chung và trẻ tự kỷ nói riêng,
hầu làm vơi bớt nỗi phiền muộn của những bậc cha mẹ có con bị mắc
chứng tự kỷ.
- Hãy chung tay vì cộng đồng, hãy xây dựng một xã hội tốt đẹp và
phồn vinh, hãy chăm lo cho trẻ vì “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”.
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Nghiên cứu ứng dụng trong giáo dục trẻ Chậm phát triển trí tuệ,
đề tài trọng điểm cấp trường, Nguyễn Thị Hoàng Yến, 2006.
2. Trẻ em tự kỷ – Phương thức giáo dục, Nguyễn Văn Thành,
2006.
3. Chương trình đào tạo giáo viên giáo dục đặc biệt với trẻ chậm
phát triển trí tuệ và kế hoạch đào tạo giáo viên cho tự kỷ, Kỷ yếu Hội
nghị Quốc gia lần thứ nhất “Rối loạn tự kỷ và can thiệp” Nguyễn Thị
Hoàng Yến, 2008.
16
4. Bước đầu thực hiện giáo dục hoà nhập cho trẻ có rối loạn phổ tự
kỷ tại Hà Nội, Kỷ yếu Hội thảo “Bệnh tự kỷ ở trẻ em”, Nguyễn Thị
Hoàng Yến, 2008.
5. Tăng cường số lượng trẻ khuyết tật trí tuệ tiếp cận giáo dục,
Nguyễn Thị Hoàng Yến, dự án hợp tác với tổ chức JICA và trường Đại
học Ritsumeikan 2008- 2010.
6. Can thiệp sớm cho trẻ khuyết tật phát triển và tự kỷ, Dự án
TRIG, Đỗ Thị Thảo - Trần Thị Thiệp, 2010.
Biên Hoà, ngày 28 tháng 4 năm 2012
Người thực hiện

Hoàng Thị Vân Nga
17

×