Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

skkn một vài giải pháp nâng cao tỉ lệ tốt nghiệp môn ngữ văn 12 thpt chuyên lươn thế vinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.6 KB, 22 trang )

Trường THPT Nhơn Trạch Giáo viên : Võ Thanh Minh
MỘT VÀI GIẢI PHÁP NÂNG CAO TỈ LỆ TỐT NGHIỆP
MÔN NGỮ VĂN 12
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Khi làm bất kỳ công việc gì, người ta cũng đều mong muốn
đạt được những thành công tốt đẹp. Nhà giáo vẫn thường được ví
như người trồng cây ươm mầm xanh cho đời. Thầy cô nào cũng
mong những nỗ lực, hy vọng của mình đưa đến kết quả cao, đạt
được những mùa vàng rực rỡ. Nhưng có khi niềm hy vọng lớn lao
lại không đạt được những thành quả như ý.
Trường THPT Nhơn Trạch đã nhiều lần tổ chức các chuyên
đề, hội thảo, hội nghị để bàn các giải pháp nâng cao chất lượng thi
tốt nghiệp. Tất cả các tổ bộ môn, các Thầy cô giáo đều bày tỏ mối
quan tâm đến chất lượng học tập, thi cử của học sinh và đều mong
muốn đạt được những kết quả tốt đẹp hơn.
Năm học 2010-2011, tỉ lệ học sinh đậu tốt nghiệp ở trường
Nhơn Trạch đã có tăng lên, có nhiều giải học sinh giỏi tỉnh, nhiều
học sinh đậu Đại học, Cao đẳng. Nhưng tập thể sư phạm nhà
trường vẫn mong muốn đạt những kết quả cao hơn. Đặc biệt là với
tổ bộ môn Văn.
Sáng kiến kinh nghiệm 1
Trường THPT Nhơn Trạch Giáo viên : Võ Thanh Minh
Là giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn ở các lớp 12 trong
nhiều năm liền, bản thân tôi rút ra được một số kinh nghiệm bổ
ích, thiết thực phần nào nâng cao được chất lượng môn Ngữ văn
trong kì thi Tốt nghiệp trung học phổ thông cho đối tượng học
sinh trung bình, yếu. Nay cũng xin nêu ra đây xem như một vài
kinh nghiệm nhỏ đưa ra để quý đồng nghiệp nhận xét. Nếu được
có thể áp dụng rộng rải nhất định có hiệu quả cao.
Vì những lí do đã nêu trên mà tôi đã chọn đề tài : Một vài
giải pháp nâng cao tỉ lệ tốt nghiệp môn Ngữ văn 12


II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI
PHÁP CỦA ĐỀ TÀI
1. Thuận lợi
Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm, tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho giáo viên cũng như tổ bộ môn thực hiện các kế
hoạch của mình.
Môn Ngữ văn, đặc biệt là những bài đọc văn vốn luôn hấp
dẫn, lôi cuốn học sinh. Có một số em thích môn Văn học và tỏ ra
có năng khiếu về môn học này.
Giáo viên nhiệt tình, tâm huyết với nghề, bồi dưỡng học
sinh giỏi cấp tỉnh 08 năm liên tiếp có giải với tổng số giải lên đến
29 giải, trong đó có 01 giải Nhì, 05 giải Ba và 23 khuyến khích
và luôn trăn trở trước thực trạng kết quả thấp của nhà trường.
Sáng kiến kinh nghiệm 2
Trường THPT Nhơn Trạch Giáo viên : Võ Thanh Minh
2. Khó khăn
Tuy giáo viên đã rất nỗ lực và đạt nhiều thành tích trong công
tác bồi dưỡng học sinh giỏi cấp tỉnh nhưng kết quả môn Ngữ văn
trong các kì thi tốt nghiệp vẫn chưa được như mong muốn. Điều
đó do nhiều nguyên nhân:
Nguyên nhân từ phía học sinh:
Với học sinh yếu: đa số chưa định hướng rõ mục tiêu học
tập, chưa hứng thú trong học tập, chưa nỗ lực rèn luyện các kỹ
năng ngôn ngữ như đọc hiểu, viết văn nghị luận
Khả năng vận dụng kiến thức đã học vào đề Văn còn hạn
chế. Năm 2010, thi giữa HKII, đề Nghị luận xã hội môn Văn có
chủ đề tình thương (Trái tim yêu thương gieo mầm hạnh phúc), đề
thi tốt nghiệp câu Nghị luận xã hội cũng có chủ đề tình thương,
nhưng có em cho biết không có ý tưởng để làm bài!
Học sinh cũng chưa thực hiện tốt nề nếp học tập, thi xong

HKII, trong khi ở nhiều trường , học sinh bị ràng buộc vào một
chương trình ôn thi, truy bài căng thẳng (Thù lao do PHHS chi
trả), thì ở trường Nhơn Trạch, học sinh thậm chí trốn học cả
những tiết chính khóa! Vì vậy, việc ôn tập cuối năm học- thời
gian cần thiết nhất để củng cố kiến thức- không đạt hiệu quả.
Với học sinh trung bình, khá: Định hướng rõ mục tiêu học
tập nhưng lại muốn đầu tư nhiều cho các môn khoa học tự nhiên.
Đa số học sinh khá giỏi thường chọn thi Đại học khối A, B nên
mặc dù có khả năng học Văn, các em vẫn không muốn dành nhiều
Sáng kiến kinh nghiệm 3
Trường THPT Nhơn Trạch Giáo viên : Võ Thanh Minh
thời gian cho môn Văn. Có những học sinh lập trình sẵn cho điểm
thi tốt nghiệp của mình, trong đó, môn Văn chỉ cần có điểm, dù là
rất thấp, vẫn đậu được tốt nghiệp. Vì vậy, có tình trạng học tủ một
bài, nếu trúng tủ thì điểm cao, không trúng tủ vẫn đủ điểm đậu
Nguyên nhân từ phía giáo viên:
Nhìn chung, giáo viên tâm huyết, đầu tư nhiều cho việc ôn
tập, rèn luyện kiến thức kỹ năng cho học sinh
Tuy nhiên, có nhiều lý do khiến “Lực bất tòng tâm”, chưa
nhiều kinh nghiệm ôn thi, hoặc do giáo viên bận rộn với nhiều
công tác khác, hoặc do nản lòng trước thái độ học tập của học
sinh, nên chưa dành nhiều công sức đầu tư soạn giảng, khiến cho
nhiều tiết học Văn mất đi nguồn cảm hứng cho cả thầy lẫn trò.
Việc hướng dẫn ôn tập theo Sách giáo khoa mới cũng còn có
những khó khăn cho giáo viên. Theo tinh thần đổi mới của Bộ,
học sinh không nên học thuộc lòng kiến thức một cách máy móc,
học sinh phải biết vận dụng kiến thức một cách sáng tạo…Do đó,
giáo viên căn cứ theo Sách giáo khoa mới, thường ra cho học sinh
những đề phát huy sự sáng tạo. Nhưng đề thi tốt nghiệp ba năm
qua lại theo hướng cũ, đơn giản, cứ thuộc bài là làm bài được, câu

nào cũng phải thuộc. Học sinh gặp lúng túng khi làm Văn. Giáo
viên chưa định hướng “trúng tủ” cho học sinh thi tốt nghiệp…
3. Số liệu thống kê
Sáng kiến kinh nghiệm 4
Trường THPT Nhơn Trạch Giáo viên : Võ Thanh Minh
Kết quả thi tốt nghiệp môn Văn trường THPT Nhơn Trạch
ba năm học vừa qua, từ khi thay Sách giáo khoa mới (theo thống
kê của Hội đồng bộ môn Văn của Sở):
- 2008-2009: tỉ lệ học sinh đạt điểm 5,0 trở lên: 41,7% - Tỉ lệ
chung của toàn tỉnh: 58,9 % ; các lớp mà giáo viên giảng dạy đạt :
84,85%.
- 2009-2010: tỉ lệ học sinh đạt điểm 5,0 trở lên: 44,6% - Tỉ lệ
chung của toàn tỉnh: 56,2 % ; các lớp mà giáo viên giảng dạy đạt :
57,36%.
- 2010-2011: tỉ lệ học sinh đạt điểm 5,0 trở lên: 40,63% - Tỉ
lệ chung của toàn tỉnh: 54,82 % ; các lớp mà giáo viên giảng dạy
đạt : 54,09%.
Đánh giá chung: cả ba năm đều chưa đạt tỉ lệ mặt bằng
chung của tỉnh nhưng các lớp mà giáo viên giảng dạy đều đạt
hoặc vượt.
Như vậy, việc vân dụng nhiều giải pháp thích hợp để ôn tập
môn Ngữ văn có hiệu quả đối với học sinh lớp 12 là điều cần
thiết.
III. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận
Dạy Ngữ văn đã khó, hướng dẫn học sinh ôn tập có hiệu quả
để đạt kết quả cao trong các kì thi lại càng khó hơn đặc biệt là đối
với những học sinh có học lực trung bình, yếu.
Sáng kiến kinh nghiệm 5
Trường THPT Nhơn Trạch Giáo viên : Võ Thanh Minh

Căn cứ cấu trúc đề thi môn Ngữ văn 12, gồm ba câu: Câu 1
(2 điểm): Tái hiện kiến thức văn học, Câu 2 (3 điểm): Nghị luận
xã hội và câu 3 (5 điểm): Nghị luận văn học. Đối với những học
sinh có học lực trung bình, yếu giáo viên đã ứng dụng rất nhiều
giải pháp để hướng dẫn các em ôn tập.
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài
Đề tài gồm hai nội dung chính: Khảo sát học sinh qua Phiếu
thăm dò (8 câu hỏi) và Các giải pháp (5 giải pháp)
a. Khảo sát học sinh
Nhằm nâng cao tỉ lệ thi Tốt nghiệp THPT môn Ngữ văn và để
nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của học sinh trong việc học
tập và ôn thi môn Ngữ văn có hiệu quả cao, giáo viên đã khảo sát
bằng cách phát Phiếu thăm dò ý kiến của học sinh lớp 12 qua một
số câu hỏi.
Giáo viên phát ra 84 phiếu, mỗi lớp 6 phiếu chia đều cho 6 tổ.
Thu vào 64 phiếu (có nhiều tổ không tham gia đóng góp ý kiến)
Câu hỏi 1 : Em có hứng thú học môn Ngữ văn không?
Có Không
Kết quả: 36 phiếu trả lời : Có; 25 phiếu trả lời : Không; 03
phiếu trả lời cả hai
Câu hỏi 2 : Giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn các lớp đã
nỗ lực rất nhiều để học sinh đạt kết quả cao. Theo em, thầy cô
Sáng kiến kinh nghiệm 6
Trường THPT Nhơn Trạch Giáo viên : Võ Thanh Minh
cần làm những gì để chất lượng học tập và làm bài thi của học
sinh được cao hơn?
Có rất nhiều ý kiến nhưng chủ yếu tập trung vào những
vấn đề sau:
- Thầy, cô cần giảng dạy sinh động, hấp dẫn hơn, gần gũi
với học sinh hơn.

- GV chấm bài cần có thang điểm cụ thể, khách quan,
không chấm cảm tính và khi trả bài cần nhận xét cụ thể bài của
học sinh để học sinh rút kinh nghiệm cho bài sau.
- Cần tóm tắt những kiến thức trọng tâm để học sinh dễ
ôn tập.
- Cần cung cấp cho học sinh nhiều bài văn mẫu để học
sinh tham khảo.
- Học sinh rất thích những tiết học có hình ảnh minh họa.
- Khi học tăng tiết xong, giáo viên cần dặn dò học sinh
làm bài và nộp cho giáo viên chấm, sửa ý.
- Cần động viên, khuyến khích học sinh hơn là phạt.
- Cô dạy văn lớp em quá tuyệt vời rồi, không cần gì thên
nữa.
Có một số ý kiến đối lập nhau: Thường xuyên cho học
sinh làm việc theo nhóm, số khác lại cho rằng: Không nên làm
việc theo nhóm vì như thế học sinh hoặc ỷ lại hoặc không thể
hiện được ý riêng của mình; cũng có nhiều ý kiến cho rằng giáo
Sáng kiến kinh nghiệm 7
Trường THPT Nhơn Trạch Giáo viên : Võ Thanh Minh
viên phải thường xuyên kiểm tra bài cũ và nghiêm khắc hơn với
những bạn lười học, số khác lại cho rằng: khảo bài nhẹ nhàng
hơn, cho học sinh điểm cao hơn để khuyến khích các em học bài;
Giáo viên cần cho ghi bài nhiều hơn để học sinh có bài để học, số
khác lại muốn ghi bài ít vì bài dài quá “ngán học bài”…
Câu hỏi 3 : Những khó khăn của em trong việc học và ôn
tập môn Ngữ văn là gì?
Có rất nhiều ý kiến nhưng chủ yếu tập trung vào những vấn đề
sau:
- Bài quá dài, học không nổi.
- Hiểu bài nhưng khi làm văn không có vốn từ, không

xác định được ý để viết.
- Học trước quên sau, lẫn lộn giữa tác phẩm này và tác
phẩm kia.
- Vì bài “toàn chữ là chữ”, khi học bài là cảm thấy buồn
ngủ, không hứng thú học.
- Mất căn bản nên học kông hiểu.
- Không biết cách sắp xếp các ý trong việc viết văn.
- Không đủ thời gian để học bài, còn học nhiều môn khác
nữa.
- Không xác định được ý chính khi làm văn….
Sáng kiến kinh nghiệm 8
Trường THPT Nhơn Trạch Giáo viên : Võ Thanh Minh
Câu hỏi 4 : Môn Ngữ văn là môn học quan trọng, có vai
trò quyết định trong kì thi Tốt nghiệp THPT. Em đã làm gì để
ôn tập môn Ngữ văn có hiệu quả?
Có rất nhiều ý kiến nhưng chủ yếu tập trung vào những vấn đề
sau:
- Soạn bài trước ở nhà.
- Ghi chép bài và chú nghe giảng ở lớp.
- Học bài cũ kĩ càng.
- Luyện tập viết các đề văn.
- Cố gắng học thuộc lòng.
- Chưa chuẩn bị gì hết…
Câu hỏi 5 : Khi làm bài kiểm tra có nhiều đề khác nhau
có lợi ích gì cho em?
- Giúp em ôn bài toàn diện hơn, không “bị tủ đè”.
- Em phải tự làm chứ không thể chép bài của bạn bạn.
- Bạn bên cạnh không chép được bài của em.
- Biết làm nhiều dạng đề khác nhau.
Câu hỏi 6 : Nếu điểm bài kiểm tra dưới trung bình, giáo

viên yêu cầu làm lại em có hứng thú không?
Có Không
Kết quả: 62 phiếu trả lời : Có; 02 phiếu trả lời : Không
Sáng kiến kinh nghiệm 9
Trường THPT Nhơn Trạch Giáo viên : Võ Thanh Minh
Câu hỏi 7. Giáo viên soạn những câu hỏi cụ thể để các em
ôn tập, có thuận lợi cho em hay không?
Có Không
Kết quả: 64 phiếu trả lời : Có; 00 phiếu trả lời : Không.
Câu hỏi 8 : Khi em gặp khó khăn trong việc học môn Ngữ
văn, giáo viên quan tâm đặc biệt đến em, em có phấn khởi hơn
không?
Có Không
Kết quả: 58 phiếu trả lời : Có; 06 phiếu trả lời : Không
Kết luận:
- Phía giáo viên: Cần đổi mới phương pháp, nhiệt tình,
giảng bài kĩ, thường xuyên kiểm tra bài cũ nhưng không quá khắt
khe để thu hút, khơi gợi hứng thú học Ngữ văn ở học sinh…
- Phía học sinh: Chuẩn bị kĩ bài ở nhà, ghi chép nghiêm
túc và chú ý nghe giảng ở lớp, học bài cũ và làm các bài luyện
tập…

 
b. Các giải pháp
Sáng kiến kinh nghiệm 10
Trường THPT Nhơn Trạch Giáo viên : Võ Thanh Minh
Từ kết quả khảo sát trên, giáo viên đi đến rút ra những giải
pháp sau:
Giải pháp 1 : Hướng dẫn HS cách học bài, ôn bài, làm bài
Văn

Để học sinh học tốt môn Văn, cần có quá trình. Từ lớp 10
đến lớp 12, học sinh phải được rèn luyện dần các kỹ năng diễn
đạt, kỹ năng lập dàn ý, kỹ năng vận dụng các thao tác nghị luận.
Để học sinh học tốt môn Văn, giáo viên cần giúp các em ý
thức rõ hơn về tầm quan trọng của bộ môn, xác định đúng đắn
động cơ, mục tiêu học Văn, khơi dậy niềm yêu thích văn chương
của học sinh, bằng nhiều biện pháp như đổi mới phương pháp
giảng dạy, không lạm dụng việc đọc chép khiến học sinh mất
hứng thú, hướng dẫn học sinh soạn bài trước khi nghe thầy cô
giảng (học sinh thích được thuyết trình bài học bằng Công nghệ
thông tin). Cần sử dụng các phương tiện hữu hiệu như Công nghệ
thông tin, Đồ dùng dạy học… để làm cho tiết dạy phong phú, sinh
động. Giáo viên Văn nên sử dụng những biện pháp phù hợp với
đặc trưng bộ môn như thi vui, ôn tập vui, ngoại khóa… để
“khuyến học”.
Để học sinh ôn tập môn Văn có hiệu quả, tùy theo mỗi lớp,
học sinh có thể được cung cấp các tài liệu tham khảo do giáo viên
biên soạn, giới thiệu, hoặc đề cương ôn tập mỗi tuần. Trong đề
cương ôn tập có phần các câu hỏi kiến thức, phần thực hành đề
văn nghị luận xã hội và nghị luận văn học.
Sáng kiến kinh nghiệm 11
Trường THPT Nhơn Trạch Giáo viên : Võ Thanh Minh
Để học sinh ôn tập môn Văn có hiệu quả, học sinh cần ôn
bài theo các câu hỏi đã được giáo viên biên soạn, dựa theo chuẩn
kiến thức, theo các đề thi đã ra trong các năm học trước
Để có nhiều ý tưởng khi làm bài, giáo viên khuyến khích
học sinh đọc thêm sách tham khảo, tìm tòi sáng tạo mở rộng kiến
thức ngoài sách giáo khoa để làm tốt các đề văn, đặc biệt là đề
Nghị luận xã hội.
Để làm bài văn không bị thiếu ý, lạc đề, bị mất điểm, giáo

viên hướng dẫn học sinh các bước làm một bài Văn, cách lập dàn
ý bài văn theo một cấu trúc nhất định của mỗi kiểu bài: bài Nghị
luận xã hội – Nghị luận về một tư tưởng, đạo lý, bài Nghị luận về
một hiện tượng đời sống (học sinh cần phải xác định thật chính
xác hiện tượng tốt hay hiện tượng xấu để làm bài cho đúng cách),
bài Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ, bài Nghị luận về một tác
phẩm, đoạn trích văn xuôi. Khi học sinh đọc đề Văn, học sinh
phải viết ngay ra giấy nháp được những luận điểm cần thiết.
Giải pháp 2 : Thống nhất kế hoạch ôn tập chung của Tổ
trong các tiết dạy chính khóa, tự chọn Văn và tăng tiết.
Giáo viên Văn 12 đều bám sát chuẩn kiến thức của Bộ,
bám sát cấu trúc thi tốt nghiệp môn Văn của Bộ để ôn tập cho học
sinh. Mỗi cuộc họp Tổ cần dành thêm thời gian để trao đổi về nội
dung giảng dạy, hướng ra đề kiểm tra, ôn tập…
Giáo viên Văn 12 đã thống nhất chương trình ôn tập, tăng
tiết. Tiết Tự chọn Văn ở các lớp thường để truy bài, củng cố kiến
Sáng kiến kinh nghiệm 12
Trường THPT Nhơn Trạch Giáo viên : Võ Thanh Minh
thức. Tiết tăng tiết để rèn luyện kỹ năng viết văn nghị luận xã hội,
thực hành đề văn nghị luận Văn học
Giải pháp 3 : Đổi mới cách ra đề kiểm tra đánh giá môn
Văn các khối lớp, đặc biệt là khối 12
Dựa theo phân phối chương trình và số cột điểm quy định,
mỗi khối sẽ định ra thời điểm kiểm tra thích hợp trong học kì. Mỗi
đợt kiểm tra thường yêu cầu học sinh ôn từ 3 đến 4 bài học.
Đề 15 phút chủ yếu để kiểm tra kiến thức Văn học theo các
bài đã yêu cầu học sinh ôn tập. Mỗi đề bao gồm 2 phần. Phần trắc
nghiệm (điền khuyết, nhiều lựa chọn…) vừa giúp học sinh nắm
vững các chi tiết trong tác phẩm, vừa tạo điều kiện cho các em có
được một số điểm nhất định. Phần tự luận sẽ ra 4 đề. Học sinh căn

cứ theo số thứ tự của mình trong lớp để làm một đề theo yêu cầu
của giáo viên. Vì thời gian kiểm tra không nhiều, phần tự luận chỉ
yêu cầu học sinh nêu những luận điểm chính cho đề Văn, giúp học
sinh củng cố cách lập dàn ý và kiến thức Văn học.
Khi học đến phần Văn học nước ngoài, đề kiểm tra 15 phút
sẽ tập trung vào các tác giả, tác phẩm văn học nước ngoài, vì đây
thường là nội dung câu hỏi đầu, 2 điểm, trong đề thi tốt nghiệp.
Cách thực hiện đổi mới như sau: Nếu trước đây, giáo viên ra đề
bằng một câu hỏi, học sinh viết ra giấy trong khoảng thời gian 15
phút rồi nộp bài. Cách làm này không bao quát được kiến thức.
Nay giáo viên cô đọng phần Văn học nước ngoài lại trong 10 câu
hỏi và phần trả lời, cho học sinh thời gian hai tuần để học sinh học
Sáng kiến kinh nghiệm 13
Trường THPT Nhơn Trạch Giáo viên : Võ Thanh Minh
thuộc lòng. Đến hạn, học sinh trình bày, học sinh thuộc 1 câu
tương ứng với 1 điểm. Cán bộ lớp, tổ gương mẫu học thuộc và có
trách nhiệm động viên, nhắc nhở các bạn học thuộc.
Đề Tập làm văn dựa theo yêu cầu của Sách giáo khoa để
cho học sinh làm văn Nghị luận xã hội hoặc Nghị luận văn học,
hoặc phối hợp cả Nghị luận xã hội và Nghị luận văn học. Mỗi lần
làm văn, giáo viên cũng sẽ ra 4 đề theo các bài đã yêu cầu học
sinh ôn tập. Học sinh cũng căn cứ theo số thứ tự của mình trong
lớp để làm một đề Văn. Giáo viên cần tính toán sao cho học sinh
không làm cùng một tác phẩm ở đề 15 phút và 1 tiết. Ví dụ, nếu
bài 15 phút đã làm về tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài,
thì bài 1 tiết phải làm về “Vợ nhặt” của Kim Lân. Giáo viên cũng
cần tính toán sao cho cùng một số thứ tự nhưng học sinh ở các lớp
dạy không trùng đề nhau, tránh tình trạng học sinh biết trước đề
mình phải làm mà tủ sẵn bài làm trước ở nhà.
Khi trả bài Tập làm văn, trước đây, giáo viên chỉ sửa bài

theo1đề, nay phải sửa bài theo cả 4 đề văn, qua đó, giúp học sinh
ôn tổng hợp cả 4 tác phẩm. Giáo viên phải nhận xét đánh giá, giúp
học sinh khắc phục những điểm yếu về chữ viết, chính tả, ngữ
pháp, kiến thức, kỹ năng…
Đề Tập làm văn vừa yêu cầu học sinh nắm vững kiến thức-
hiểu bài, thuộc bài- vừa yêu cầu học sinh biết vận dụng kiến thức,
vận dụng các kỹ năng lập luận
Sáng kiến kinh nghiệm 14
Trường THPT Nhơn Trạch Giáo viên : Võ Thanh Minh
Cách ra đề như trên đã được thử nghiệm vào cuối HKI ở 3
lớp 12A2, 12C6, 12C10, bước đầu có hiệu quả, được các giáo
viên trong khối 12 áp dụng trong HKII
Bảng so sánh kết quả thi giữa HKI và kết quả thi cuối HKI của 3
lớp
Lớp Sĩ số
KT giữa HKI KT cuối HKI
Ghi chú
Số
HS
đạt
5,0
trở
lên
Tỉ lệ
Số
HS
đạt
5,0
trở
lên

Tỉ lệ
12A
2
46 37
80,43
%
41 89,1% tăng 8,67%
12C
6
37 28
75,67
%
29 78,4% tăng 2,73%
12C
10
34 20
58,82
%
21 61,8% tăng2,98 %
Song song với việc làm bài kiểm tra ở lớp, qua các tiết tăng
tiết (cuối HKII), học sinh sẽ thực hành những đề thi thử do giáo
viên và học sinh cùng biên soạn, theo sát với cấu trúc đề thi của
Bộ GDĐT
Sáng kiến kinh nghiệm 15
Trường THPT Nhơn Trạch Giáo viên : Võ Thanh Minh
Giải pháp 4 : Có hình thức xử lý phù hợp với học sinh đạt
điểm kiểm tra dưới 5,0
Ở nhiều trường, nếu học sinh không thuộc bài, học sinh
buộc phải cấm túc để truy bài cho đến bao giờ thuộc thì thôi. Ở
trường Nhơn Trạch, biện pháp cấm túc cũng đã từng được Ban

giám hiệu đề ra, nhưng chưa khả thi vì nhiều lý do.
Ở một số bộ môn khác, khi học sinh không thuộc bài, giáo
viên có thể bắt học sinh chép phạt để khắc sâu kiến thức.
Do đặc thù bộ môn Văn là sự sáng tạo, bài viết không thể
giống y khuôn nhau, nên khó áp dụng hình thức chép phạt, cũng
chưa thể bắt học sinh cấm túc. Do đó, tùy theo lớp, giáo viên sẽ có
những hình thức xử lý phù hợp. Những học sinh đạt điểm kiểm tra
dưới 5,0 có thể sẽ phải làm lại bài viết của mình, cứ dưới trung
bình 1 điểm phải làm thêm 1 bài Văn trong số 3 đề còn lại của
mỗi đợt kiểm tra (VD: học sinh đạt 3 điểm phải làm thêm 2 đề).
Điều này giúp học sinh ý thức về bài làm của mình, đồng thời tạo
thêm cơ hội cộng thêm điểm cho học sinh. Mỗi bài làm thêm tốt,
được cộng thêm 1 điểm, học sinh nỗ lực sẽ đạt được điểm 5,0.
Giáo viên cũng tăng cường kiểm tra đầu giờ những học
sinh chưa thuộc bài cũ.
Giải pháp 5 : Tác động tâm lý từng loại đối tượng học
sinh
Dạy học là một nghệ thuật. Quá trình dạy và học phải có sự
tương tác giữa thầy và trò. Nếu thầy đầu tư nhiều công sức mà học
Sáng kiến kinh nghiệm 16
Trường THPT Nhơn Trạch Giáo viên : Võ Thanh Minh
sinh không hưởng ứng, không cộng tác, thiếu thiện chí thì việc
giảng dạy cũng không đạt kết quả như ý.
Giáo viên Văn ở mỗi lớp cần phân loại thống kê được các
loại đối tượng học sinh sau: học sinh khá nhưng không quan tâm
đến môn Văn (thường tập trung vào các lớp ban Khoa học tự
nhiên), học sinh chăm nhưng không làm bài được, học sinh yếu
không nỗ lực học tập…
Giáo viên cần tác động tâm lý bằng cách trò chuyện, phân
tích, động viên, hiểu tâm tư tình cảm, hoàn cảnh học tập của các

em để có sự hỗ trợ hợp lý, khơi gợi khả năng sáng tạo, hứng thú
học tập cho học sinh, giúp học sinh nhận thức được tầm quan
trọng của việc học và thi môn Văn
Với đối tượng khá giỏi, không quan tâm đến môn Văn, học
sinh cần nhớ là điểm môn Văn sẽ góp phần đáng kể vào việc xếp
loại học lực cuối học kì, cuối năm học. Môn Văn là môn thi đầu
tiên, nếu làm tốt bài văn, học sinh sẽ có sự hứng khởi để làm tốt
các môn còn lại. Đã từng có trường hợp học sinh thi được môn
đầu tiên, sau đó bị bệnh bất ngờ phải vào bệnh viện không thi
được các môn còn lại, trong trường hợp đó, nếu điểm Văn không
đạt 5,0, chắc chắn không được đậu đặc cách.
Với đối tượng trung bình yếu, không học sinh nào muốn
hỏng thi, nếu biết cách học và làm bài ở từng câu trong đề Văn,
học sinh có thể đạt điểm trung bình, hơn nữa, các học sinh đã thi
rớt một năm, năm sau không dễ đậu …
Sáng kiến kinh nghiệm 17
Trường THPT Nhơn Trạch Giáo viên : Võ Thanh Minh

 
Khi vận dụng các giải pháp trên, giáo viên cần linh hoạt,
uyển chuyển, phối hợp nhịp nhàng nhiều giải pháp. Và để có hiệu
quả cao, giáo viên có một số kiến nghị sau:
Với nhà trường:
Tiếp tục thúc đẩy sự đổi mới phương pháp giảng dạy của
các tổ chuyên môn. Thường xuyên tổ chức kiểm tra chung ở các
bộ môn. Đưa các nội dung ôn tập do tổ chuyên môn biên soạn lên
trang Web của trường.
Trường và Đoàn trường cần có biện pháp duy trì nề nếp
học tập của học sinh, đặc biệt là các tiết ôn tập sau khi thi HKII.
Các phong trào thi đua của giáo viên và học sinh nên gắn liền với

chất lượng giảng dạy và học tập
Thư viện tạo điều kiện thuận lợi, giới thiệu sách mới để
học sinh tìm đọc thêm. Cần bổ sung vào thư viện những loại sách
“Quà tặng cuộc sống”, “Hạt giống tâm hồn’, “Học làm người”,
“Kỹ năng sống”…để học sinh vừa được bồi dưỡng đạo đức nhân
cách, vừa bổ sung tư liệu làm văn Nghị luận xã hội (câu này trong
đề thi được 3 điểm)
Cần tận dụng tiết chào cờ để cung cấp cho học sinh những
bài học về đạo đức, kỹ năng sống, giúp các em có thêm kiến thức
Sáng kiến kinh nghiệm 18
Trường THPT Nhơn Trạch Giáo viên : Võ Thanh Minh
làm văn nghị luận xã hội. Mỗi bài nói chuyện chỉ khoảng 10 phút.
Nên chọn lựa học sinh trình bày, dưới sự hướng dẫn của giáo
viên.
Tiết Hoạt động ngoài giờ lên lớp cần được tận dụng, tránh
lãng phí thời gian. Nếu sáng thứ Hai không có các Hoạt động
ngoài giờ lên lớp chung toàn trường, đề nghị sinh hoạt chủ nhiệm
vào tiết 2, tiết 3 (Hoạt động ngoài giờ lên lớp) để Giao1 viên chủ
nhiệm hướng dẫn học sinh ôn tập. Việc này phải có sự đồng thuận
trong toàn khối 12, tránh tình trạng lớp thì học, lớp thì chơi ồn ào,
không đồng bộ, không kết quả.
Cuối năm học cần có biện pháp quản lý chặt chẽ việc học
tập của học sinh.
Với phụ huynh học sinh:
Phụ huynh cần có sự quan tâm sâu sát đến việc học của
con em. Chú trọng cả những môn khoa học tự nhiên và khoa học
xã hội.
Thường xuyên liên hệ với nhà trường, với giáo viên chủ
nhiệm để nắm chắc tình hình học tập của con em (Qua trang Web
của trường, qua thông tin liên lạc điện tử, qua các cuộc họp

PHHS, hoặc gặp gỡ trực tiếp…)
Trên đây là một số giải pháp nâng cao chất lượng thi tốt
nghiệp môn Ngữ Văn, đúc kết từ thực tế giảng dạy, từ sự trăn trở,
Sáng kiến kinh nghiệm 19
Trường THPT Nhơn Trạch Giáo viên : Võ Thanh Minh
ưu tư của giáo viên dạy Văn 12 trường THPT Nhơn Trạch. Hy
vọng kết quả thi tốt nghiệp môn Văn năm học 2011-2012 sẽ cao
hơn, đáp ứng được sự mong mỏi của gia đình, địa phương và nhà
trường
IV. KẾT QUẢ
Khi giáo viên áp dụng đề tài này, quả thật kết quả rất khả
quan. Kết quả học môn Ngữ văn của học sinh tăng mà giáo viên
giảng dạy cũng tìm được niềm vui lớn cho mình.
Năm học 2011 – 2012, bản thân giáo viên giảng dạy ba lớp
12A2 (46HS), 12C6 (37HS), 12C10 (34HS). Kết quả thống kê
cho thấy qua các kì kiểm tra tập trung (đề Sở ra), khi giáo viên
ứng dụng đề tài chất lượng được nâng lên rõ rệt:
- Kì kiểm tra cuối học kì I : 91/ 117 chiếm tỉ lệ 76,43%, mặt
bằng chung của khối là 61,7%.
- Kì kiểm tra cuối học kì II: 92/ 117 chiếm tỉ lệ 78,77%, mặt
bằng chung của khối là 59,6%.
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Dạy Văn cho hay vốn là việc rất khó khăn, tìm ra được giải
pháp hữu hiệu để dạy học sinh đạt kết quả cao trong các kì thi lại
càng khó hơn. Không có một phương pháp dạy học nào là chìa
khóa vạn năng mà đòi hỏi người Thầy giáo phải xuất phát từ thực
Sáng kiến kinh nghiệm 20
Trường THPT Nhơn Trạch Giáo viên : Võ Thanh Minh
tiễn dạy học, tùy thuộc vào đối tượng học sinh của mình và vận
dụng linh hoạt nhiều giải pháp để nâng cao tỉ lệ học sinh đạt điểm

cao trong các kì thi.
Để ôn tập môn Ngữ văn có hiệu quả cao đòi hỏi ở người giáo
viên sự nhiệt tình, lòng nhẫn nại, phải biết chuẩn bị những kiến
thức cơ bản cho học sinh ôn tập và phải kết hợp linh hoạt nhiều
giải pháp đã trình bày trên đây.
VI. KẾT LUẬN
Trong năm học 2011 – 2012 giáo viên đã ứng dụng đề tài này
và cũng đã gặt hái được thành công. Học sinh hứng thú hơn trong
học tập và rất tin tưởng vào giáo viên vì tỉ lệ các kì kiểm tra tập
trung luôn cao hơn những lớp khác.
Như trên đã nói, không có phương pháp, giải pháp nào là chìa
khóa vạn năng ngay lập tức nâng cao tỉ lệ học sinh đậu tốt nghiệp
ngay. Dù chưa thật hoàn hảo nhưng đề tài này đã có những lợi ích
nhất định. Mong rằng nó sẽ được áp dụng rộng rãi để kết quả thi
môn Ngữ văn cao hơn.
Nhơn Trạch, ngày 19 tháng 05 năm
2012
NGƯỜI THỰC HIỆN
Sáng kiến kinh nghiệm 21
Trường THPT Nhơn Trạch Giáo viên : Võ Thanh Minh

VÕ THANH MINH
Sáng kiến kinh nghiệm 22

×