Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

skkn một số ví dụ thực tế dùng trong giảng dạy công dân 10 thpt chuyên lương thế vinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.14 KB, 20 trang )

2SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC

I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN:
1. Họ và tên: PHẠM TRÍ QUÂN
2. Ngày tháng năm sinh: 27/03/1958
3. Nam, nữ: nam
4. Địa chỉ: khu phố 2, phường Trảng Dài, Biên Hoà, Đồng Nai
5. Điện thoại: 0613.917784
6. E-mail:
7. Chức vụ: Giáo viên
8. Đơn vị công tác: Trường THPT Nguyễn Trãi
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO:
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân
- Năm nhận bằng: 2002
- Chuyên ngành đào tạo: Giáo dục chính trị
- Trường đào tạo: ĐHSP TP Hồ Chí Minh
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC:
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy môn GDCD
- Số năm có kinh nghiệm: 03
1
Tên sáng kiến kinh nghiệm
MỘT SỐ VÍ DỤ THỰC TẾ DÙNG TRONG
GIẢNG DẠY CÔNG DÂN 10
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Nếu ai đã từng giảng dạy Giáo dục Công dân lớp 10 đều biết chương trình
được đánh giá bởi 3 chữ K: “khó, khô, khổ”.
Tại sao lại có chuyện như vậy? Câu trả lời nằm trong nội dung chương trình
Công dân nói chung và Công dân lớp 10 nói riêng. Theo đó chương trình Công dân
lớp 10 gồm 2 phần. Phần thứ nhất chiếm toàn bộ học kỳ 1 có tiêu đề là “Công dân
với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học”. Như vậy, phần
này chính là Triết học, hay đúng hơn, là một số nội dung đã được rút gọn của triết


học Mác- Lênin. Mà triết học thì bao giờ cũng hết sức cao xa, trừu tượng, nhất là
đối với lứa tuổi vẫn còn trẻ con của học sinh lớp 10.
Vì vậy trong quá trình dạy và học, cả thầy lẫn trò đều gặp khó khăn. Dù vậy,
muốn hay không thì thầy vẫn phải dạy, và trò vẫn phải học, muốn ra sao thì ra, coi
như đã hoàn thành một nhiệm vụ bất khả thi. Bản thân tôi khi tìm cách “Phát huy
tính tích cực, chủ động của học sinh” đã nhận thấy: chỗ khó hiểu trong kiến thức
cần truyền đạt sẽ bớt đi nhiều nếu tìm được những ví dụ thực tế, gần gũi với cuộc
sống đời thường, hoặc gần gũi với những kiến thức về khoa học tự nhiên mà học
sinh đã biết, thay vì dùng những ví dụ trong sách giáo khoa, là những thứ đã được
đặt ra từ thế kỷ 20 do đó rất xa lạ với lứa tuổi 15 của học sinh lớp 10 hiện đang
sống trong thế kỷ 21
Với mong muốn giúp học sinh bớt khó hiểu, tiết học bớt nặng nề khi học
những những vấn đề cao siêu đó, xin trình bày ra đây một số ví dụ kiểu vừa nói,
cho các bài 3, 4, 5, 6, 7 trong sách Giáo dục công dân lớp 10, xem như là thực hiện
thêm một “nhiệm vụ bất khả …” khác nữa của mình
2
I. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI
1. Thuận lợi:
- Chương trình đã được thực hiện từ 10 năm nay nhờ thế giáo viên có rất
nhiều dịp để cải tiến quá trình giảng dạy bao gốm cả cải tiến về phương pháp giảng
dạy, cách tiếp cận vấn đề cần truyền đạt, cách thức kiểm tra đánh giá kết quả giảng
dạy của mình cũng như thu hoạch của học sinh. Ngoài ra cũng do chương trình đã
được thực hiện lâu như vậy do đó trên internet c1 rất nhiều giáo án mẫu để tham
khảo, cũng như có rất nhiều câu hỏi dược đặt ra và rất nhiều giải đáp dưới nhiều
quan điểm khác nhau tạo điều kiện thuận lợi cho việc tham khảo
- Xã hội hiện nay tạo điều kiện cho GV (và cả HS) có điều kiện tiếp cận
nhiều nguồn thông tin từ nhiều phương tiện khác nhau.
- HS đã tiếp cận với phương pháp dạy học tích cực từ những năm học cấp
dưới ở hầu hết các môn học nên rất thuận lợi cho việc tiếp thu bài học dù là dưới
hình thưc giảng dạy truyền thống hay hiện đại cho nên GV có thể rơng5 tay thử

nghiệm nhiều cách thức giảng dạy khác nhau
2. Khó khăn:
- Tài liệu tham khảo đặc thù phục vụ cho môn GDCD 10 không phong phú,
và hầu như đều na ná như nhau từ cách đặt vân đề đến nội dung, nhất là những vi
dụ minh họa đực nêu ra rất cũ kỹ xa rời thực tế của cuộc sống hiện nay nên khó
tiếp thu với học sính đặc biệt là HS lớp 10 (tính trong HS cấp 3)
- Quan niệm của xã hội, gia đình, và đặc biệt là HS đối với bộ môn naỳ còn
khá lệch lạc: không đầu tư, không chú ý thậm chí là xem thường hoặc học cho
xong…
3. Số liệu thống kê
Không có số liệu thống kê cụ thể
3
II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
A. Các ví dụ có thể dùng trong bài 3
1. Thế giới vật chất luôn vận động
Bài này sách giáo khoa đưa ra khá nhiều ví dụ về vận động trong phần 1a
(Thế nào là vận động) và cả trong câu hỏi 6 phần câu hỏi và bài tập. Tuy nhiên để
bài học dễ hiểu hơn giáo viên nên hướng dẫn để học sinh cho thêm những ví dụ
khác gần gũi hơn như
- Xe chạy, quạt quay, trái đất di chuyển xung quanh mặt trời, chim bay (vận
động cơ học)
- Nước sôi, các êlectron chuyển đông xung quanh hạt nhân, các phân tử khí
trong quả bóng chuyển động (vận động vật lý)
- Sắt bị ôxy hóa, ôxy và hydro kết hợp thành nước, axít ăn mòn kim loại (vận
động hóa học)
- Hoa nở, đứa trẻ đang lớn, người lớn đang già (vận động sinh học)
- Triều Trần thay thế triều Lý, Sự tăng trưởng kinh tế, sự tăng dân số của
một nước (vận động xã hội)
Nhìn chung kiến thức bài này không quá khó ngoài việc phải chúng minh
quan điểm “vận động là phương thức tồn tại của thế giới vật chất”. Nhưng đáng

buồn là mặc dù dây là phần rất quan trọng nhưng sách giáo khoa lại nêu rất sơ sài:
“Chúng ta biết rằng
- Trái đất chỉ tồn tại khi tự quay quanh trục của nó và quay xung quanh mặt
trời
- Sự sống chỉ tồn tại khi có trao đổi chất với môi trường bên ngoài”
Sau đó đi tới kết luận
“Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng luôn vận động. Bằng vận động và thông
qua vận động mà sự vật hiện tượng tồn tại và thể hiện đặc tính của mình. Bởi vậy
vận động là thuộc tính vốn có, là phương thức tồn tại của các sự vật hiện tượng”
Tất nhiên điều đó không hề sai nhưng lập luận không vững nhất là ở ví dụ 1:
“Trái đất chỉ tồn tại khi tự quay quanh trục của nó và quay xung quanh mặt trời”.
4
Chỗ này học sinh có quyền thắc mắc: dù không quay quanh trục của nó và xung
quanh mặt trời thì trái đất vẫn còn đó, sao lại bảo rằng không tồn tại?
Vì vậy để lập luận vững hơn nên sửa lại là: Trái đất chỉ là trái đất (tồn tại
với tư cách là trái đất) khi tự quay quanh trục của nó và quay xung quanh mặt trời
(nếu không nó chỉ là một hành tinh chết và không đáng được gọi là trái đất). Vì
vậy, nên sửa lại một chút về cách trình bày như sau
Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng luôn vận động. Bằng vận động và thông
qua vận động mà sự vật hiện tượng tồn tại và thể hiện đặc tính của mình
Ví dụ:
- Trái đất chỉ là trái đất, (một hành tinh có sự sống) khi tự quay quanh trục
của nó và quay xung quanh mặt trời
- Sự sống chỉ tồn tại khi có trao đổi chất với môi trường bên ngoài”
Bởi vậy: vận động là thuộc tính vốn có, là phương thức tồn tại của các sự
vật hiện tượng
2. Thế giới vật chất luôn phát triển
Cũng tương tự phần 1, sách giáo khoa đã nêu khá rõ khái niệm phát triển
đồng thời nêu khá nhiều ví dụ cho nên không khó để hiểu khái niệm phát triển.
Tuy nhiên phần quan trọng nhất: chứng minh phát triển là khuynh hướng tất yếu

của thế giới vật chất thì lại rất sơ sài
“ Quá trình phát triển của các sự vật hiện tượng không diễn ra một cách
đơn giản thẳng tắp mà diễn ra quanh co, phức tạp, đôi khi có bước thụt lùi tạm
thời. Song khuynh hướng tất yếu của quá trình đó là cái mới ra đời thay thế cái cũ,
cái tiến bộ thay thế cái lạc hậu”
Nêu vấn đề như vậy hoàn toàn chỉ là đưa ra một khẳng định, nhất là sau đó
sách giáo khoa đưa ra một yêu cầu: “Vận dụng quan điểm trên đây, em hãy phân
tích cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nước ta trong giai đoạn từ năm 1930
đến 1945”
Thử hỏi học sinh dựa vào quan điểm nào? Quan điểm “quá trình phát triển
của các sự vật hiện tượng không diễn ra một cách đơn giản thẳng tắp mà diễn ra
5
quanh co, phức tạp, …” hay quan điểm “khuynh hướng tất yếu của quá trình đó là
cái mới ra đời thay thế cái cũ, …” để phân tích trong khi chưa hiểu tại sao
“khuynh hướng tất yếu của quá trình đó là cái mới ra đời thay thế cái cũ, cái tiến
bộ thay thế cái lạc hậu”
Lẽ ra để học sinh nắm được quan điểm này trước hết phải nêu vài ví dụ để
chứng minh quan điểm : “Quá trình phát triển của các sự vật hiện tượng không
diễn ra một cách đơn giản thẳng tắp mà diễn ra quanh co, phức tạp, đôi khi có
bước thụt lùi tạm thời”
Ví dụ
+ Quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc của nước ta trong giai đoạn từ
năm 1930 đến 1945 (có lúc thành công, có lúc tạm thời thất bại nhưng cuối cùng
là thắng lợi)
+ Quá trình tiến hóa của các giống loài (một số bị tiêu diệt, nhưng một số
khác được sinh ra và nói chung đó là quá trình phát triển)
+ Sự lụi tàn và thay thế của những nền văn minh trong lịch sử (nhưng nhìn
chung lịch sử loài người là phát triển )
Từ đó đi tới kết luận: “khuynh hướng tất yếu là cái mới ra đời thay thế cái
cũ, cái tiến bộ thay thế cái lạc hậu” thì sẽ hợp lý và rõ ràng hơn

B. Các ví dụ có thể dùng trong bài 4
1. Thế nào là mâu thuẫn
a/ Mặt đối lập của mâu thuẫn
Đây là bài học mở đầu cho chùm 3 bài về các quy luật của chủ nghĩa Mác-
Lênin. Nếu học sinh không nắm được kiến thức cơ bản của bài này thì rất khó nắm
kiến thức cơ bản bài 5 và 6. Trong đó việc nắm được khái niệm mâu thuẫn, mặt đối
lập của mâu thuẫn và đưa ra được nhiều ví dụ về mâu thuẫn là vô cùng quan trọng.
Muốn học sinh đưa ra được các ví dụ về mâu thuẫn thì chính sách giáo khoa và
giáo viên phải đưa ra được rất nhiều ví dụ để học sinh tham khảo và dựa vào đó để
tìm thêm những ví dụ khác. Rất tiếc về việc này sách giáo khoa đã không làm được
6
vì vậy nhiệm vụ nặng nề này trút lên vai của giáo viên. Cho nên xin đưa ra đây một
số ví dụ để tham khảo
- Trên-dưới, trong-ngoài, trái-phải, tốt-xấu (điều này có vẻ đương nhiên).
- Cha-con, mẹ-con, thầy-trò (vì cha, mẹ nuôi dưỡng con cái, con cái nhân sự
nuôi dưỡng của cha mẹ, thầy dạy, trò học …)
Xin nhắc là hoàn toàn có thể chấp nhận những ví dụ kiểu thứ hai này vì theo
định nghĩa: Mặt đối lập của mâu thuẫn là những khuynh hướng, tính chất
chúng phát triển theo những chiều hướng trái ngược nhau
Từ những ví dụ này và từ định nghĩa mâu thuẫn: mâu thuẫn là một chỉnh thể
trong đó 2 mặt đối lập … có thể nêu các ví dụ về mâu thuẫn như sau:
Cha mâu thuẫn với con, thầy mâu thuẫn với trò, học mâu thuẫn với dạy,
kiến thức đã học mâu thuẫn với kiến thức chưa học, nam sinh mâu thuẫn với nữ
sinh, học sinh chăm mâu thuẫn với học sinh lười …
Ngoài ra cũng cần nhấn mạnh:“Khi nói đến mặt đối lập của mâu thuẫn là
nói đến những mặt đối lập ràng buộc nhau bên trong mỗi sự vật hiện tượng không
nên hiểu đó là mặt đối lập bất kỳ giữa sự vật hiện tượng này với sự vật hiện tượng
kia”
b/ Sự thống nhất giữa các mặt đối lập
Nếu đồng ý với lý luận trên thì sẽ dễ dàng chấp nhận các ví dụ sau (mà nếu

chấp nhận điều này thì sẽ chấp nhận các ví dụ về mâu thuẫn bên trên): Có con thì
mới có cha. Có cha thì mới có con (vì có sinh con mới trở thành cha). Có trò thì
mới có thầy. Có thầy thì mới có trò, và có thể nói đùa bằng câu trong truyện cổ tích
Việt Nam: “sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông”
c/ Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập
Có thống nhất đương nhiên có đấu tranh. Hoàn toàn có thể vận dụng những
ví dụ bên trên: Cha đấu tranh với con, thầy đấu tranh với trò. Điều này nghe thật
vô lý nhưng hoàn toàn có thể chấp nhận được khi hiểu đấu tranh ở đây là sự tác
động nhau: thầy tác động (dạy…) trò, trò tác động thầy (đặt câu hỏi …). Ngược lại
đấu tranh giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị là loại trừ, gạt bỏ nhau
7
Như vậy ngoài việc cung cấp thật nhiều ví dụ như trên, điều quan trọng
trong phần này là phải nhấn mạnh ý sau:”khái niệm đấu tranh trong quy luật mâu
thuẫn có ý nghĩa khái quát, tùy thuộc vào hình thức tồn tại cụ thể của các dạng vật
chất mà chúng có những biểu hiện khác nhau (tác động, bài trừ gạt bỏ)”
2. Mâu thuẫn là nguồn gốc vận đông phát triển của sự vật hiện tượng
Nếu học sinh có thể hiểu được khái niệm mâu thuẫn bên trên thì vấn đề còn
lại của bài trở nên hết sức đơn giản theo gợi ý trong sách giáo khoa (tìm một mâu
thuẫn trong lớp: ở đây giáo viên nên yêu cầu học sinh tìm một mâu thuẫn có tính
chất loại trừ nhau: VD: Nếu mâu thuẫn giữa kiến thức đã học với kiến thức chưa
học trong chương trình lớp 10 được giải quyết thì học sinh lớp 10 sẽ trở thành học
sinh lớp 11)
C. Các ví dụ có thể dùng trong bài 5
1. Chất
Trong bài này việc hiểu chính xác khái niệm chất và lượng hết sức quan
trọng. Tuy nhiên các ví dụ trong sách giáo khoa lại rất dài dòng, bí hiểm và dễ gây
hiểu lầm đặc biệt là khái niệm về lượng. Xin nêu ra đây một số ví dụ có thể dùng
để làm rõ bài học như sau:
Nếu dựa vào khái niệm: “Chất là khái niệm dùng để chỉ những thuộc tính
tiêu biểu, phân biệt nó vói sự vật hiện tượng khác” thì có thể nêu ví dụ sau

- Đường có những tính chất: ngọt, dạng tinh thể, tan trong nước
- Muối có những tính chất: mặn, dạng tinh thể, tan trong nước
Và hoàn toàn có thể chấp nhận kết luận: Ngọt là chất của đường, mặn là
chất của muối, chạy bằng sức người là chất của xe đạp, chạy bằng động cơ là chất
của xe máy.
Tuy nhiên khi đi so sánh với nước mía thì tính chất phân biệt của đường là
dạng tinh thể chứ không phải là ngọt, khi đi so sánh với ô tô thì tính chất phân biệt
của xe máy là có 2 bánh chứ không phải có động cơ. Vì vậy phải nói cho đầy đủ:
- Chất của đường là ngọt, có dạng tinh thể
- Chất của xe máy là có 2 bánh và chạy bằng động cơ
8
Cũng giống như trong ví dụ của sách giáo khoa:
- Chất của cách mạng tháng 8 năm 1945 là cách mạng dân tộc, dân chủ,
nhân dân (dân tộc không thôi chưa đủ, dân chủ, nhân dân không thôi cũng chưa
đủ).
- Chất của học sinh lớp 10 trường Nguyễn Trãi là học lớp 10 tại trường
Nguyễn Trãi thôi chưa đủ (vì chỉ phân biệt nhưng chưa tiêu biểu) mà phải thêm
vào tính chất: đã đậu kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 Nguyễn Trãi
2. Lượng
Nếu thấy như trên là đúng thì sẽ thấy còn nhiều tính chất khác nữa của sự
vật hiện tượng và nếu những tính chất đó không phải là chất, thì sẽ đương nhiên là
lượng (học sinh dễ dàng suy ra điều này). giáo viên chỉ còn cần phải khẳng định
bằng cách viện dẫn khái niệm lượng trong sách giáo khoa: Lượng dùng để chỉ
những thuộc tính …”
Nếu hiểu được như vậy thì sẽ dễ dàng thấy lượng không phải chỉ biểu thị
bằng các con số như trong các ví dụ của sách giáo khoa (và chính những ví dụ này
đã gây hiểu lầm là lượng cần phải biểu thị bằng những con số) đồng thời chất và
lượng là 2 khái niệm có sự phân biệt tương đối và có thể hoán đổi cho nhau (cùng
một tính chất ở chỗ này là chất nhưng chỗ khác lại là lượng). Chất và lượng đều là
thuộc tính của sự vật hiện tượng, không thể có chất mà không có lượng, không thể

có lượng mà không có chất.
Sau đây là một số ví dụ về lượng:
- Lượng của học sinh lớp 10 trường Nguyễn Trãi là 15 tuối, đã học hết
chương trình lớp 9, hiện ở tại TP Biên Hòa …
- Lượng của nước là thể lỏng, không màu, không mùi, không vị
3. Quan hệ giữa sự biến đổi về lượng và sự biến đối về chất
a/ Sự biến đổi về lượng sẽ dẫn đến sự biến đối về chất
Khi đã tự mình nêu được nhiều ví dụ về chất và lượng học sinh sẽ dễ dàng
trả lời các câu hỏi đại loại như: 1 kg vàng, 2 kg vàng có phải là lượng của vàng
không, 1 học sinh, 2 học sinh có phải là lượng của học sinh không (câu trả lời là
9
không vì 1 kg vàng, 2 kg vàng không phải là tính chất của vàng), từ đó sẽ dễ dàng
hiểu được quy luật: sự biến đổi về lượng sẽ dẫn đến sự biến đối về chất (học sinh
lớp 10 sau khi học hết năm, trải qua đủ các kỳ thi, đạt học lực từ trung bình trở lên
… sẽ trở thành học sinh lớp 11)
b/ Chất mới ra đời lại bao hàm một lượng mới tương ứng
Hiểu tất cả những điều trên thì điều này trở nên dễ dàng:
- Học sinh lớp 10 khi trở thành học sinh lớp 11 sẽ có nhiều kiến thức hơn, số
năm đi học nhiều hơn, tuổi lớn hơn…
- Nước khi đã đông thành nước đá thì sẽ có trạng thái khác, nhiệt độ khác, tỉ
trọng khác … hay nói cách khác: chất mới ra đời lại bao hàm một lượng mới tương
ứng
Từ tât cả những điều nêu trên, nhận định quan trọng cần phải được rút ra là:
“để tạo ra sự biến đối về chất nhất thiết phải tạo ra sự biến đổi về lượng đến một
giới hạn nhất định”
D. Các ví dụ có thể dùng trong bài 6
1. Phủ định biện chứng và phủ định siêu hình
Bài này thực ra không nhiều kiến thức khó. Khái niệm phủ định biện chứng
và phủ định siêu hình học sinh có thể dễ dàng hiểu. Tuy nhiên nếu không có ví dụ
thích hợp học sinh sẽ khó nắm được tính khách quan và tính kế thừa của phủ định

biện chứng, đó là chưa kể khái niệm tính khách quan là gì.
a/ Tính khách quan của phủ định biện chứng
Việc đầu tiên cần làm là giải thích khái niệm tính khách quan là gì. Không
phải hoc sinh nào cũng biết tính khách quan hay tính tất yếu khách quan là tính bắt
buộc phải có, tất nhiên sẽ xảy ra. Nếu hiểu được khái niệm này học sinh sẽ dễ dàng
hiểu tính khách quan của phủ định biện chứng nghĩa là sự phủ định biện chứng
đương nhiên sẽ xảy ra, không thể tránh khỏi, khi đó sẽ dễ dàng chấp nhận tính
khách quan của nó thông qua những ví dụ sau đây
- Gieo một hạt đậu nếu không có gì bất thường xảy ra chắc chắn nó sẽ mọc
thành cây.
10
- Ấp một quả trứng gà nếu không có gì bất thường xảy ra chắc chắn nó sẽ
nở thành con gà
Tại sao lại như vậy? Lý do là vì trong hạt đậu đã có sẵn mầm mống của cây
đậu, trong quả trứng gà đã có sẵn mầm mống của con gà nói cách khác “nguyên
nhân của sự phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật hiện tượng. Đó là kết quả
của quá trình giải quyết mâu thuẫn”. Lúc này hoàn toàn có thể phân tích ví dụ
trong sách giáo khoa để học sinh hiểu sâu hơn và đúng y như sách
b/ Tính kế thừa của phủ định biện chứng
- Ấp một quả trứng gà chắc chắn sẽ nở ra con gà chứ không nở ra con vịt.
- Gieo một hạt đậu chắc chắn sẽ mọc thành cây đậu chứ không mọc ra cây
bắp
Tại sao lại như vậy? Lý do là vì con gà nở ra trong lòng quả trứng gà, cây
đậu mọc ra trong lòng hạt đậu hay nói cách khác: cái mới ra đời từ trong lòng cái
cũ, nó không phủ định sach trơn cái cũ nó chỉ gạt bỏ những yếu tố tiêu cực lỗi
thời, giữ lại những yếu tố tích cực để phát triển cái mới. Và sau đó là phân tích ví
dụ trong sách giáo khoa để học sinh hiểu sâu hơn và đúng y như sách
2. Khuynh hướng phát triển của sự vật hiện tượng
Phần này gồm 2 ý: khái niệm phủ định của phủ định, và khuynh hướng phát
triển của sự vật hiện tượng. Ý thứ nhất HS sẽ dễ dàng nắm được thông qua một số

ví dụ:
- Hạt đậu gieo xuông đất mọc thành cây đậu, cây đậu lớn lên lại sinh ra
những hạt đậu khác
- Quả trứng được ấp sẽ nở ra con gà, con gà lớn lên lại sinh ra những quả
trứng khác
Thông qua những ví dụ này ta có thể chứng minh luôn ý thứ 2: khuynh
hướng phát triển của sự vật hiện tượng là cái mới ra đời thay thế cái cũ nhưng ở
trình độ ngày càng cao hơn, hoàn thiện hơn nhờ lưu ý số lượng nhiều hơn của
những hạt đậu, những quả trứng trong ví dụ trên và nhấn mạnh người ta chứng
11
minh được không những cái sau nhiều hơn về số lượng mà còn có nhiều đặc tính
tốt hơn
E. Các ví dụ có thể dùng trong bài 7
1. Thế nào là nhận thức
Phần này tương đối dễ dạy. Để học sinh nắm được quá trình nhận thức gồm
2 giai đoạn chỉ cần cho học sinh tìm hiểu xem một vật nào đó là gì (vấn đề là phải
chọn một vật để khi tìm hiểu học sinh phải vận dụng vài giác quan và phải dùng
đến suy luận, phán đoán: ví dụ hộp phấn không có phấn, muối …). Sau khi học
sinh làm xong giáo viên mô tả lại quá trình nhận thức này và đi đến kết luận: để
nhận thức được chính xác vật đó là gì, phải dùng đến mắt, mũi, tay … để nhìn,
ngửi, ước lượng … và cả trí óc để so sánh, phán đoán … tức là phải dùng đến cơ
quan cảm giác và tư duy. Từ đó đi đến kết luận: quá trình nhận thức rất phức tạp
và gồm nhiều giai đoạn xen kẽ nhau nhưng có thể chia thành 2 giai đoạn chính là
nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Rồi giáo viên đặt câu hỏi: nếu chỉ dùng
các giác quan không thôi thì có nhận thức đúng không và gợi ý để học sinh trả lời
trong đa số trường hợp là đúng, sau đó hướng dẫn học sinh nêu khái niệm nhận
thức cảm tính và cho một số ví dụ chẳng hạn
Ví dụ
- Mắt cho ta biết muối có màu trắng
- Mũi cho ta biết nước không mùi

Để giảng phần nhận thức lý tính, nên nhấn mạnh: đa số trường hợp chỉ cần
các giác quan cũng đủ giúp ta nhận thức đúng tuy nhiên có nhiều trường hợp chỉ
dùng giác quan không thôi thì nhận thức sẽ sai và yêu cầu học sinh cho ví dụ về
các trường hợp này. Lúc này dù là do học sinh đưa ra hoặc do giáo viên gợi ý ta
nên nêu được các ví dụ mà đa số học sinh đều biết sau
Ví dụ
- Hàng ngày, ta đều thấy mặt trời đi từ đông sang tây, nhưng thực sự không
phải vậy, mà là do ta ở trên trái đất đang quay quanh trục của nó theo chiều từ tây
sang đông
12
- Khi đi trên sa mạc, người ta thường nhìn thấy đằng xa là ốc đảo xanh tốt
nhưng thực ra đó chỉ là ảo ảnh sa mạc
- Đi ngoài trời nắng trên đường, ta thường nhìn thấy trên mặt đường phía
xa óng ánh nước đọng nhưng thực ra không phải
- Nhìn một ngôi nhà ở xa, ta thấy nó nhỏ nhưng thực ra không phải nó nhỏ
mà là do ta ở xa
2. Thực tiễn là gì
Phần này không có gì khó, nhưng cũng nên cho học sinh nêu ra một số ví dụ
bằng cách trả lời các câu hỏi mà giáo viên cố tính sắp xếp để chia các câu trả lời
thành 3 nhóm
- Sản xuất vật chất: Người nông dân đang làm gì, người thợ mộc đang làm
gì…
- Chính trị-xã hội: Các em đang làm gì, các chiến sĩ biên phòng đang làm
gì…
- Thực nghiệm khoa học: Các nhà bác học đang làm gì, chuyên viên phòng
thí nghiệm đang làm gì …
Từ đó đi đến kết luận: tất cả những việc đó đều được coi là hoạt động thực
tiễn hay nói gọn là thực tiễn. Tiếp theo là phân loại các hoạt động đó làm 3 nhóm
và đặt vấn đề trong các hoạt động đó hoạt động nào là cơ bản nhất và hướng dẫn
học sinh trả lời

3. Vai trò của nhận thức đối với thực tiễn
Trong phần này nên sưu tầm thật nhiều những ví dụ mà học sinh cũng biết ở
đâu đó và đưa vào từng nội dung cho phù hợp sau đó mới nêu kết luận về một vai
trò nào đó của thực tiễn
a/ Thực tiễn là cơ sở của nhận thức
Có thể nhắc lại câu ca dao sau
- Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng …
- Cá không ăn muối cá ươn, con cãi …
- Con ơi nhớ lấy câu này: cướp đêm là giặc …
13
Và yêu cầu học sinh cho những ví dụ khác chẳng hạn
- Trăng quầng thì cạn, trăng tán thì mưa
- Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa
- Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén
Sau đó yêu cầu học sinh cho biết do đâu người xưa rút ra được điều đó (từ
việc quan sát thời tiết), sau đó giáo viên có thể hỏi những vấn đề đại loại như: do
đâu mà người xưa phát minh ra lịch (từ việc tính toán chu kỳ vận động của mặt
trời), do đâu mà người xưa phát minh ra toán số học và hình học (từ việc tính toán
số súc vật đang nuôi, từ việc đo đạc ruộng đất), từ đó gợi ý cho học sinh đi tới kết
luận: mọi hiểu biết của con người đều nảy sinh từ thực tiễn. nhờ tiếp xúc tác động
vào sự vật hiện tượng mà con người phát hiện các thuộc tính, hiểu được bản chất
quy luật của chúng rồi hướng dẫn cho học sinh nêu lại các ví dụ vừa nói
Ví dụ
- Từ việc quan sát thời tiết mà con người biết dự báo thời tiết để áp dụng
vào việc trồng trọt
- Từ việc tính toán số súc vật, và việc đo đạc ruộng đất mà con người phát
minh ra toán học
- Từ việc tính toán chu kỳ vận động của mặt trời mà con người phát minh ra
lịch
Cuối cùng là nhấn mạnh quá trình hoạt động thực tiễn cũng giúp con người

hoàn thiện giác quan, nhờ đó khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ và
hướng dẫn học sinh cho các ví dụ mà ai cũng biết
Ví dụ:
- Càng rèn luyện, bàn tay người thợ càng khéo léo
- Càng rèn luyện, khả năng thẩm âm của nhạc sĩ càng nhạy bén
- Càng rèn luyện, năng lực tính toán của con người càng tốt
b/ Thực tiễn là động lực của nhận thức
Nêu câu hỏi: Tại sao người ta phát minh ra TV màu (xe gắn máy, đèn điện,
TV, điện thoại di động, máy giặt …). Sau đó hướng dẫn học sinh trả lời: vì TV đen
14
trắng không thể hiện tốt hình ảnh (giúp đi lại thuận tiện, thắp sáng tốt hơn) từ đó đi
đến kết luận: Thực tiễn luôn vận động, luôn đặt ra những yêu cầu mới cho nhận
thức. Sau đó tiếp tục đặt câu hỏi: nhờ đâu người ta đã phát minh được TV màu
(sáng chế ra xe máy, đèn điện) và hướng dẫn học sinh trả lời: nhờ hiểu biết về kỹ
thuật chế tạo TV đen trắng (nhờ đã có phát minh ra xe đạp và ô-tô) từ đó đi đến kết
luận: chính thực tiễn đã tạo tiền đề vật chất cần thiết thúc đẩy nhận thức phát triển
Sau đó nêu kết luận chung: Thực tiễn luôn vận động, luôn đặt ra những yêu
cầu mới cho nhận thức và tạo ra những tiền đề vật chất cần thiết thúc đẩy nhận
thức phát triển
Cuối cùng là hướng dẫn học sinh phân tích và tóm tắt ví dụ trong sách
Ví dụ:
Do pê-ni-xi-lin không chữa được những vết thương mãn tính đã mưng mủ,
cần phải có một loại kháng sinh mới (thực tiễn đặt ra những yêu cầu cho nhận
thức). Nhờ Watman tìm ra strep-tô-mi-xin (thực tiễn tạo ra tiền đề vật chất), bác sĩ
Đặng văn Ngữ liền nghiên cứu loại nấm mới này và tìm ra nhiều loại strep-tô-mi-
xin cần thiết
Các ví dụ khác để tham khảo
- Do TV đen trắng không thể hiện tốt hình ảnh nên đòi hỏi phải có 1 thứ
khác thể hiện tốt hơn. Trên cơ sở kiến thức về kỹ thuật chế tạo TV đen trắng người
ta đã phát minh ra TV màu

- Do đèn sợi đốt tốn điện, nên cần có một loại đèn khác ít tốn điện hơn. Nhờ
kiến thức về đèn huỳnh quang người ta đã phát minh ra đèn compac
- Do điện thoại bàn có hạn chế là chỉ có thể liên lạc tại vị trí cố định. Dựa
vào nguyên lý thông tin vô tuyến điện trong truyền thanh người ta chế tạo ra điện
thoại di động
c/ Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Nên đặt câu hỏi xem học sinh có biết về một vài phát minh rất ít người biết
hay không
Ví dụ:
15
- Các em có nghe nói đến xe gắn máy chạy bằng gas chưa
- Các em có nghe nói đến động cơ chạy bằng nước chưa
Sau đó giáo viên đặt câu hỏi tiếp xem học sinh có biết mỗi năm hiện nay có
bao nhiêu phát minh được đăng ký hay không (năm 2010 có 1,98 triệu bằng phát
minh)
Với câu hỏi loại này đa số học sinh chưa nghe nói đến lúc này giáo viên có
thể giải thích rằng điều đó là do những phát minh này không mang lại hiệu quả, từ
đó kết luận như sách giáo khoa: “Các tri thức khoa học …. Nhu cầu vật chất và
tinh thần của con người”
Cuối cùng là cho một ví dụ nào đó để chứng tỏ điều này chẳng hạn
- Nhiều phát minh không được ai biết đến vì không được ứng dụng trong
thưc tiễn
- Nghiên cứu về gien của Men-den rất nổi tiếng vì đã được ứng dụng để tạo
ra nhiều giống cây trồng vật nuôi, có chất lượng tốt năng suất cao
d/ Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Có thể nêu những ví dụ gần gũi trong đời thường như
- Nhìn phía xa trên đường thấy óng ánh nước, có người bảo đó là nước
đọng, có người bảo đó là ảo ảnh, làm sao biết ai đúng, ai sai
- Nhìn bề ngoài một vật, có người bảo vật này rất bền, có người bảo không
phải như vậy, làm sao biết ai đúng, ai sai

Tất nhiên câu trả lời sẽ là: lại gần xem hoặc cứ dùng đi rồi biết
Đó là những ví dụ rất tốt để khẳng định một điều: nhận thức của con người
có thể đúng có thể sai chỉ có được kiểm Đó là những ví dụ rất tốt để khẳng định
một điều: “nhận thức của con người có thể đúng có thể sai, chỉ có đem những tri
thức thu nhận được kiểm nghiệm với thực tiễn mới thấy rõ được tính đúng đắn hay
sai lầm của chúng”
Đến lúc này có thể phân tích lại ví dụ trong sách giáo khoa: Trước đây người
ta cho rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ (vì thấy mặt trời đi quanh trái đất mỗi
ngày) riêng Cô-pec-nic lại không đồng ý như vậy. Làm sao biết ai đúng ai sai
16
Với câu hỏi này học sinh dễ dàng tìm thấy câu trả lời: Chính Ga-li-lê đã làm
được điều đó. Nhờ có kính viễn vọng và kiên trì quan sát bầu trời. Ga-li-lê đã
khẳng định thuyết Nhật tâm là đúng và còn bổ sung: Mặt trời tự quay xung quanh
trục của nó.
Giáo viên chỉ còn việc nhấn mạnh ý còn lại trong nội dung chính: “Việc vận
dụng tri thức vào thực tiễn còn có tác dụng bổ sung, hoàn thiện những nhận thức
chưa đầy đủ”
III. KẾT QUẢ
- Học sinh bớt khó hiểu, tiết học bớt nặng nề
- Kết quả và thành tích học tập cao hơn:
+ Kiến thức của HS sẽ giảm bớt tính thụ động làm tăng tính chủ động và
do đó trở nên sâu sắc, bền vững dễ nhớ và nhớ nhanh hơn
+ Do nắm được kiến thưc cơ bản nên HS thoải mái, tự tin hơn trong việc
trình bày ý kiến của mình và biết lắng nghe có phê phán ý kiến của những
thành viên khác.
IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Nên cố gắng tìm tòi phát hiện các cách thức tiếp cận vấn đề sao cho gần gũi
với thực tế cuộc sống và kiến thức đã biết của từng đối tượng của cần truyền đạt
kiến thức vì như thế sẽ giúp mang lại hiệu quả cao hơn. Điều này thực ra hoàn toàn
không có gì trái quy luật như chính kiến thức trong bài 7 của chương trình cũng đã

khẳng định “thực tiễn là cơ sở của nhận thức” và hoàn toàn phù hợp với nguyên lý
“học đi đôi với hành”
V. KẾT LUẬN
Mặc dù những đóng góp trên đây đã được kiểm chứng trong thực tiễn giảng
dạy suốt 3 năm học và cho thấy có kết quả tốt. Tuy nhiên do không thống kê nên
nhận xét trên có thể mang đậm tính chủ quan. Vì vậy mong rằng các đồng nghiệp
17
nếu đồng tình với tác giả thì cũng xin vừa vận dụng vừa kiểm tra tính hiệu quả của
nó để cái tạm gọi là sáng kiến này có tính khoa học hơn
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sách giáo khoa Giáo dục công dân 10, NXB Giáo dục năm 2008
- Giáo trình Triết học Mác Lê-nin dùng cho các trường đại học cao đẳng do
Bộ giáo dục xuất bản (tái bản lần thứ 3)
- Giáo án của các đồng nghiệp chia sẻ trên thư viện trực tuyến tại địa chỉ
violet.vn,
- Các trang hỏi đáp trên internet
18
Trên đây là những ví dụ được rút từ nhiều nguồn: một phần từ các tài liệu
ghi trong phần tài liệu tham khảo, một phần là phát biểu của học sinh thu thập
được trong quá trình giảng dạy, phần còn lại do tác giả tự nghĩ ra. Mặc dù vậy tất
cả đều được chỉnh sửa theo quan điểm riêng của tác giả với mong muốn cung cấp
cho những ai đồng tình với quan điểm này vài ba gợi ý để nghĩ ra nhiều ví dụ khác,
hoặc tìm ra biện pháp khác tốt hơn phục vụ cho quá trình giảng dạy một khi học
sinh vẫn còn phải học những kiến thức cao siêu này
Điều mong muốn cuối cùng là: những bậc cao minh nếu không đồng tình thì
xin cũng bỏ qua, cứ xem đây là một thử nghiệm hỏng của một người trí não xơ
cứng, đầu óc có vấn đề, bị bắt buộc phải viết ra chỉ để thực hiện một nhiệm vụ bất
khả mà thôi
NGƯỜI THỰC HIỆN
PHẠM TRÍ QUÂN

19
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Đơn vị: TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRÃI Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Biên Hòa, ngày tháng năm 2013
PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2012- 2013
Tên sáng kiến kinh nghiệm: Một số ví dụ dùng trong giảng dạy Công dân 10
Họ và tên tác giả: PHẠM TRÍ QUÂN
Đơn vị (Tổ): Sử- Địa- GDCD
Lĩnh vực:
Quản lý giáo dục  Phương pháp dạy học bộ môn GDCD 
Phương pháp giáo dục  Lĩnh vực hác 
1. Tính mới
- Có giải pháp hoàn toàn mới 
- Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có 
2. Hiệu quả:
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao 
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng
trong toàn ngành có hiệu quả cao 
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao 
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng
tại đơn vị có hiệu quả 
3. Khả năng áp dụng:
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách:
Tốt  Khá  Đạt 
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện
và dễ đi vào cuộc sống:
Tốt  Khá  Đạt 
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu
quả trong phạm vi rộng:

Tốt  Khá  Đạt 
XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
20

×