Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Phân tích thực trạng của các cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.62 KB, 28 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
******
BIÊN BẢN THẢO LUẬN NHÓM 05
STT Họ và tên
Điểm tự đánh giá của các
thành viên
Điểm
trưởng
nhóm
chấm
Ghi chú
Điểm Ký tên
1
2
3
4
5
6
7
8
9
1
1
Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………… 4
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI
SUẤT CỦA NHNN VIỆT NAM…………………………………………. 5
I. Tìm hiểu về lãi suất……………………………………………………………………. 5
1. Khái niệm………………………………………………………………………… 5
2. Phân loại lãi suất………………………………………………………………… 5


a. Quan hệ giữa NHTM – Khách hàng………………………………………… 5
b. Quan hệ giữa NHTM – NHTM……………………………………………… 5
c. Quan hệ giữa NHTW – NHTM……………………………………………… 5
3. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế…………………………………………… 6
a. Là công cụ để khuyến khích tiết kiệm đầu tư………………………………… 6
b. Là công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô………………………………………… 6
c. Là công cụ phân phối vốn và kích thích sử dụng vốn có hiệu quả……………. 7
d. Là công cụ đo lường tình trạng sức khỏe của nền kinh tế…………………… 7
e. Là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia…………………………… 7
II. Cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam…………………………………… 8
1. Khái niệm………………………………………………………………………… 8
2. Mục tiêu của cơ chế điều hành lãi suất………………………………………… 8
3. Phân loại cơ chế điều hành lãi suất………………………………………………. 8
a. Cơ chế điều hành gián tiếp (cơ chế tự do hóa LS)…………………………… 8
b. Cơ chế điều hành trực tiếp…………………………………………………… 9
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA
NHNN VIỆT NAM……………………………………………………… 9
I. Thực trạng cơ chế điều hành LS của NHNN qua các thời kỳ……………………… 10
1. Cơ chế lãi suất thực âm giai đoạn trước 1992……………………………………. 10
2. Cơ chế điều hành khung lãi suất (06/1992 – 1995)……………………………… 11
3. Cơ chế điều hành lãi suất trần (1996 – 07/2000)………………………………… 12
4. Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ (08/2000 – 05/2002)……………. 13
5. Cơ chế lãi suất thỏa thuận (6.2002 – 5.2008)………………………………… 14
2
2
6. Cơ chế LSCB bằng Đồng Việt Nam (5.2008 – nay)…………………………… 15
II. Đánh giá về cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam qua các thời kỳ………. 20
1. Thành tựu………………………………………………………………………… 20
2. Hạn chế………………………………………………………………………… 21
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT

CỦA NHNN VIỆT NAM……………………… ………………………… 23
1. Cụ thể những việc cần làm trước mắt của NHNN trong giai đoạn hiện nay ……… 24
2. Đề xuất những giải pháp lâu dài những giải pháp lâu dài……………………………. 25
a. Củng cố, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng……………. 25
b. Phát huy vai trò của các công cụ gián tiếp…………………………………… 26
c. Phát triển thị trường tài chính đặc biệt là thị trường chứng khoán………… 27
d. Nâng cao năng lực tài chính, năng lực quản lý và năng lực kiểm soát rủi ro của
các TCTD ………… ………………………………………………………… 28
e. Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý……………………………………… 29
KẾT LUẬN…………………………………………………………………………… 30
3
3
Lời mở đầu
Đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới, lãi suất là một công cụ quan trọng trong
điều hành và quản lý kinh tế vĩ mô. Lãi suất ảnh hưởng tới quan hệ cung- cầu về vốn, đến
việc phân bổ các nguồn tài chính của nền kinh tế, tác động đến thị trường tiền tệ, từ đó
ảnh hưởng đến tỷ giá, lạm phát, tăng trưởng kinh tế. Lãi suất cũng là cơ sở để các cá
nhân, doanh nghiệp quyết định sử dụng vốn như thế nào, chi tiêu hay tiết kiệm, đầu tư
vào cái này hay cái khác.
Ở Việt Nam, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, lãi suất chưa được sử dụng một
cách đầy đủ như đòn bẩy kinh tế, nhằm kích thích kinh tế phát triển. Từ khi chuyển sang
nền kinh tế thị trường, lãi suất đã phần nào phát huy vai trò của mình. Tuy nhiên, để có
một chính sách lãi suất phù hợp với nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong thời gian tới,
làm “hạt nhân” thúc đẩy thị trường tài chính phát triển còn là vấn đề đáng được quan tâm,
nghiên cứu. Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã đưa ra các cơ chế lãi suất ở từng thời kỳ
khác nhau nhằm mục tiêu ổn định nền kinh tế. Vậy thì, câu hỏi được đặt ra ở đây là: Cơ
chế lãi suất nào là phù hợp với tình hình kinh tế của Việt Nam hiện nay?
Bài thảo luận của chúng tôi tập trung nghiên cứu, phân tích thực trạng của các cơ
chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam qua các giai đoạn với những tác động tích
cực và hạn chế. Việc nghiên cứu cũng nhằm đề xuất các giải pháp trước mắt cũng như lâu

dài nhằm làm cho cơ chế điều hành lãi suất của NHNN hoạt động có hiệu quả.
Bài thảo luận gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam
Chương II: Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam
Chương III: Giải pháp hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam
4
4
Chương I: Lý luận chung về cơ chế điều hành lãi suất
của NHNN Việt Nam
I. Tìm hiểu về lãi suất
1. Khái niệm
Lãi suất phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể sử dụng vốn (người vay vốn) với chủ
thể sở hữu vốn (người cho vay) theo nguyên tắc hoàn trả có kỳ hạn kèm theo lãi ở thị
trường vốn ở một thời điểm nhất định. Nói cách khác, lãi suất là giá cả của quyền được
sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định mà người sử dụng trả cho người sở hữu nó
hay lãi suất là tỷ lệ phần trăm của số tiền tăng thêm mà người đi vay phải trả cho người
cho vay so với phần giá trị vay ban đầu.
Tư duy kinh tế hiện đại có nhiều cách định nghĩa về lãi suất. Đồng thời cũng có rất
nhiều khái niệm được đưa ra để giải thích về vấn đề này. Nhưng nhìn chung, điều không
thể tránh là lãi suất luôn hàm chứa một mâu thuẫn: người đi vay muốn có lãi suất thấp
nhất trong khi người cho vay muốn lãi suất cao nhất. Vì vậy, như mọi loại hàng hoá khác,
lãi suất chủ yếu được xác định bởi cung-cầu về vốn.
2. Phân loại lãi suất
a. Quan hệ giữa Ngân hang thương mại (NHTM) – Khách hàng:
Lãi suất tiền gửi
Lãi suất cho vay
b. Quan hệ giữa NHTM – NHTM:
Lãi suất liên ngân hàng
Lãi suất tiền gửi giữa các ngân hàng
c. Quan hệ giữa Ngân hang trung ương (NHTW) – NHTM:

Lãi suất tiền gửi
Lãi suất cho vay: lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cầm cố thế chấp hay lãi suất tái cấp
vốn và lãi suất cho vay qua đêm
Trong bài thảo luận này chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn về cách phân loại lãi suất theo
quan hệ giữa NHTW – NHTM.
Lãi suất tiền gửi: Là lãi suất áp dụng để tính lãi cho NHTM khi NHTM gửi tiền tại
NHTW. Gồm có lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc và lãi suất tiền gửi thanh toán. Lãi suất
tiền gửi có nhiều mức khác nhau tùy thuộc vào thời hạn gửi và quy mô tiền gửi. Sự biến
động ở mức độ lớn của lãi suất tiền gửi không chỉ ảnh hưởng tới quy mô nguồn vốn của
các ngân hàng mà còn ảnh hưởng tới lượng cung, cầu tiền và qua đó ảnh hưởng tới lạm
5
5
phát. Chính vì vậy, việc áp dụng chính sách tăng mạnh lãi suất tiền gửi có hiệu quả cao
trong kiềm chế, đẩy lùi lạm phát.
Lãi suất cho vay: là lãi suất ngân hàng trung ương áp dụng khi cho các tổ chức tín
dụng vay đáp ứng các nhu cầu tạm thời về vốn theo các điều kiện do ngân hàng trung
ương qui định. Lãi suất cho vay do NHTW ấn định căn cứ vào mục tiêu của chính sách
tiền tệ (CSTT) trong từng thời kỳ và chiều hướng biến động lãi suất trên thị trường tiền
tệ. Đây là 1 trong những kênh phát hành tiền của NHTW. Sự thay đổi lãi suất cho vay tác
động đến khả năng cung ứng tiền của hệ thống NHTM và quy mô cho vay, lãi suất cho
vay của NHTM đối với nền kinh tế. Vì vậy, NHTW có thể thực hiện mục tiêu nới lỏng
hoặc thắt chặt cung ứng tiền thông qua công cụ lãi suất cho vay. Lãi suất cho vay bao
gồm:
Lãi suất tái chiết khấu: áp dụng khi NHTW tái cấp vốn cho các ngân hàng dưới
hình thức chiết khấu lại các thương phiếu hay các giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn
thanh toán cho các ngân hàng . Nó được tính bằng tỉ lệ % trên mệnh giá của giấy tờ có
giá và cũng được khấu trừ ngay khi NHTW cấp vốn tiền vay cho NHTM.
Lãi suất tái cấp vốn (lãi suất cầm cố, thế chấp): áp dụng khi NHTW tái cấp vốn
cho các ngân hàng dưới hình thức cho vay cầm cố hoặc thế chấp giấy tờ có giá.
Lãi suất cho vay qua đêm: là lãi suất vay nóng giữa các NHTM với nhau hoặc

NHTM với NHTW trong thanh toán điện tử liên ngân hàng nhằm đáp ứng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc hoặc bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHTW đối với các ngân hàng
với thời hạn 24h.
3. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế
Trước đây, trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp thì vai trò của lãi suất hết
sức mờ nhạt và lệ thuộc nhiều yếu tố. Nhiều khi được hiểu như là một sự phân phối cuối
cùng của sản phẩm giữa người đi vay và người cho vay. Ngày nay, khi chuyển sang nền
kinh tế thị trường, lãi suất đã giữ một vai trò hết sức quan trọng, tác động đến tất cả lĩnh
vực của nền kinh tế. Lãi suất là biến số thường xuyên biến động trong nền kinh tế thị
trường. Căn cứ vào sự biến động của lãi suất, người ta có thể dự báo các yếu tố khác của
nền kinh tế như: tính sinh lời của các cơ hội đầu tư, mức lạm phát dự tính, mức thiếu hụt
ngân sách Nhà nước. Người ta cũng có thể dựa vào mức lãi suất trong một thời kỳ để dự
báo tình hình kinh tế trong tương lai.
Vậy vai trò chủ yếu của lãi suất tín dụng trong nền kinh tế được thể
hiện như thế nào?
a. Là công cụ để khuyến khích tiết kiệm đầu tư:
Là công cụ kích thích lợi ích vật chất để thu hút các khoản tiền tiết kiệm của các
chủ thể kinh tế : lãi suất cao kích thích người ta hi sinh tiêu dùng hiện tại, tiết kiệm nhiều
hơn để có khoản tiêu dùng cao hơn trong tương lai và ngược lại.
b. Là công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô:
Đối với nhà đầu tư, khi mà lãi suất gia tăng, chi phí bỏ ra cũng sẽ tăng theo, do đó
là lợi nhuận trên một đồng vốn sẽ giảm đi, nhà đầu tư sẽ không muốn đầu tư nữa, và
ngược lại.
6
6
Đối với người tiêu dùng, khi mà lãi suất gia tăng, số tiền mà họ bỏ ra để có được
hàng hoá sẽ tăng lên, vì vậy họ sẽ chờ đợi chứ không mua ngay, tiêu dùng sẽ giảm và
ngược lại.
Vì sự biến động lãi suất có tác động đến đầu tư, đến tiêu dùng nên nó có tác động
gián tiếp đến các mục tiêu của nền kinh tế vĩ mô, biểu hiện trong các trường hợp:

+ lãi suất thấp ═> khuyến khích đầu tư, khuyến khích tiêu dùng ═> tăng tổng cầu
═> sản lượng tăng, giá cả tăng, thất nghiệp giảm, nội tệ có xu hướng giảm giá so với
ngoại tệ.
+ lãi suất cao ═> hạn chế đầu tư, hạn chế tiêu dùng ═> giảm tổng cầu ═> sản lượng
giảm, giá cả giảm, thất nghiệp tăng, nội tệ có xu hướng tăng giá so với ngoại tệ.
Như vậy bằng cách giảm lãi suất, NHNN có thể tạo điều kiện cho các hoạt động
kinh tế phát triển. Tương tự, NHNN có thể tăng lãi suất khi muốn thực hiện chính sách
thắt chặt tiền tệ, giảm bớt lượng khối lượng tiền cần thiết cho việc mở rộng hoạt động sản
xuất kinh doanh và chi tiêu của người tiêu dùng.
c. Là công cụ phân phối vốn và kích thích sử dụng vốn có hiệu quả:
Khi Nhà nước muốn khuyến khích phát triển một ngành nghề quan trọng nào đó
trong nền kinh tế, Nhà nước có thể thực hiện bằng cách ưu đãi về lãi suất cho vay
(như giảm lãi suất cho vay ), và ngược lại khi muốn hạn chế sự phát triển của các ngành
chưa cần thiết để dành nguồn lực cho các ngành khác thì Nhà nước có thể tăng lãi suất
cho vay của ngành đó. Như vậy, những ngành được hỗ trợ sẽ phát triển hơn còn các
ngành bị hạn chế sẽ ít phát triển hơn. Do đó chính sách lãi suất là một công cụ để phân
phối cơ cấu của nền kinh tế nhằm sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực.
d. Là công cụ đo lường tình trạng sức khỏe của nền kinh tế:
Nhìn vào đường cong lãi suất, có thể thấy được xu hướng biến động của lãi suất và
tình trạng sức khoẻ của nền kinh tế. Lãi suất lại là một biến số thường xuyên biến động
trong nền kinh tế. Căn cứ vào sự biên động của lãi suất người ta có thể dự báo được các
yếu tố khác của nền kinh tế như tính sinh lời của các dự án đầu tư, mức độ lạm phát, mức
độ thiếu hụt ngân sách và qua đó còn có thể dự báo được tình hình nền kinh tế trong
tương lai .
e. Là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia:
Trong quá trình hội nhập quốc tế, chúng ta từng bước nới lỏng các rào cản mang
tính hành chính để trả về cho nền kinh tế vận hành theo đúng quy luật vốn có của nó. Và
một trong những lĩnh vực thể hiện rõ cơ chế này là chính sách điều hành lãi suất của
NHNN. Khả năng điều tiết nền kinh tế vĩ mô của lãi suất làm cho nó trở thành công cụ
quan trọng để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.

NHTW sử dụng loại công cụ này dưới các hình thức ấn định trực tiếp lãi suất kinh
doanh cho các ngân hàng hoặc quy định khung lãi suất tiền gửi – lãi suất tiền vay hoặc
trần lãi suất tiền vay qua đó khống chế lãi suất cho vay của các ngân hàng theo hướng
thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ. Trong điều kiện thị trường tài chính phát triển, NHTW sử
dụng công cụ lãi suất gián tiếp chẳng hạn như lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay cầm
cố để tác động tới lãi suất thị trường. Lãi suất thị trường thay đổi sẽ tác động tới các biến
7
7
số kinh tế vĩ mô. Ngày nay theo xu hướng tự do hóa tài chính, cơ chế điều tiết nền kinh tế
bằng công cụ lãi suất ngày càng trở nên phổ biến trên thế giới.
II. Cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam
1. Khái niệm
Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương, chính sách và
giải pháp cụ thể của NHTW, nhằm kiểm soát và điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ,
tín dụng trong từng thời kỳ nhất định. Cơ chế điều hành lãi suất luôn gắn chặt không tách
rời với cơ chế lãi suất từng thời kỳ
2. Mục tiêu của cơ chế điều hành lãi suất
Hơn các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô khác, cơ chế lãi suất mà theo đó cơ cấu lãi
suất định hình và tác động tới môi trường hoạt động và phát triển của hệ thống tài chính
mỗi quốc gia với 3 mục tiêu chính:
Một là, khuyến khích việc tiết kiệm và sự phát triển của các trung gian tài chính,
phát triển chiều sâu thị trường tài chính.
Hai là, hướng các nguồn lực tài chính vào các lĩnh vực hoạt động có tỷ suất lợi tức
cao nhất tức các lĩnh vực có hiệu quả kinh tế cao nhất.
Ba là, mang lại mức chênh lệch đủ để các định chế tài chính trang trải các chi phí
hoạt động, chi phí vốn, chi phí chấp nhận rủi ro và lợi nhuận trên vốn tự có.
3. Phân loại cơ chế điều hành lãi suất
a. Cơ chế điều hành gián tiếp (cơ chế tự do hóa LS)
NHTW thực hiện quản lý gián tiếp lãi suất cho vay của các NHTM đối với nền kinh
tế thông qua cơ chế tái cấp vốn (chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay cầm cố chứng từ có

giá…) đối với các tổ chức tín dụng.
Cơ chế này được thực hiện theo 2 nguyên tắc: NHTW chỉ công bố các mức lãi suất
áp dụng đối với các khoản cho vay tái chiết khấu hoặc cho vay cầm cố các chứng từ có
giá của mình đối với các tổ chức tín dụng. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể
theo từng kỳ hạn, từng đối tượng của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế sẽ do tổ
chức tín dụng tự ấn định, dựa trên cơ sở cung-cầu về vốn và sự cạnh tranh trên thị trường,
từ đó mà hình thành nên các mức lãi suất phản ánh đúng yêu cầu của thị trường.
Cơ chế điều hành lãi suất này được áp dụng phổ biến đối với các nền kinh tế có hệ
thống tài chính phát triển. Cơ chế này cũng trở nên linh hoạt hơn khi bên cạnh các loại lãi
suất trên, NHTW chấp nhận lãi suất do thị trường hình thành và tác động vào lãi suất này
để duy trì ở mức mong.Vai trò điều hành lãi suất của NHTW chỉ mang tính định hướng
cho thị trường tiền tệ theo mục tiêu của CSTT từng giai đoạn. Đối với các quốc gia có
nền kinh tế chưa phát triển thì cơ chế này là một khó khăn.
Ưu điểm của cơ chế điều hành lãi suất gián tiếp là không có sự can thiệp trực tiếp
của NHTW vào lãi suất thị trường tiền tệ, lãi suất trên thị trường được hình thành và vận
8
8
động linh hoạt hoàn toàn phụ thuộc vào cung - cầu về vốn, mà không mang tính chủ
quan, áp đặt của Nhà nước. Vai trò điều hành lãi suất của NHTW chỉ mang tính định
hướng cho thị trường tiền tệ theo mục tiêu của chính sách tiền tệ từng giai đoạn.
b. Cơ chế điều hành trực tiếp
NHTW quản lý thống nhất lãi suất đối với nền kinh tế, thông qua các hình thức
quản lý lãi suất của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế quy định mức lãi suất cho
vay tối đa hoặc tiền gửi tối thiểu của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong
phạm vi lãi suất được phép, các tổ chức tín dụng được quyền ấn định mức lãi suất kinh
doanh phù hợp. Khi có các thay đổi về kinh tế vĩ mô, NHTW có thể xem xét để điều
chỉnh giới hạn lãi suất tối đa ở mức hợp lý. Theo cách thức điều hành lãi suất, cơ chế điều
hành trực tiếp gồm:
Cơ chế ấn định lãi suất: Nhà nước quản lý trực tiếp lãi suất bằng cách công bố tất cả
các loại lãi suất. Các ngân hàng và các tổ chức tín dụng đều phải thực hiện một cách tuyệt

đối (cơ chế này đã tồn tại ở VN trong thời kỳ nền kinh tế kế hoạch tập trung).
Cơ chế khống chế lãi suất: Nhà nước không ấn định các mức lãi suất, mà chỉ quy
định các mức lãi suất tối đa (lãi suất trần) và mức lãi suất tối thiểu (lãi suất sàn) tạo thành
khung giới hạn để trong đó các ngân hàng, các tổ chức tín dụng xác định lãi suất kinh
doanh. Phương pháp này không hoàn toàn cứng nhắc như cơ chế ấn định lãi suất, nhưng
vẫn giữ được vai trò điều hành lãi suất của nhà nước.
Ở nước ta từ 1992 đến đầu 1996 đã áp dụng phương pháp này. Cụ thể là NHNN quy
định lãi suất tối đa và lãi suất tối thiểu nhưng đến đầu năm 1996 NHNN chỉ quy định lãi
suất tối đa, không quy định lãi suất tối thiểu, đồng thời quy định mức chênh lệch giữa lãi
suất cho vay bình quân và lãi suất tiền gửi bình quân là 0,35%/tháng. Sau đó đến đầu năm
1998 NHNN bãi bỏ quy định chênh lệch này và chỉ quy định lãi suất tối đa cho đến nay.
Ưu điểm của cơ chế điều hành lãi suất trực tiếp là NHTW quản lý thống nhất lãi
suất đối với nền kinh tế, vì vậy cơ chế lãi suất này chỉ thích hợp và được áp dụng phổ
biến ở các nước có hệ thống tài chính chưa phát triển. Trong các nền kinh tế phát triển, lãi
suất ngày càng được tự do hoá, xu hướng chung là ngày càng giảm dần sự quản lý lãi suất
mang tính trực tiếp này.
Chương II: Thực trạng của cơ chế điều hành lãi suất
của NHNN Việt Nam
Ngày 6 tháng 5 năm 1951, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 15/SL thành lập
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam với các nhiệm vụ: phát hành giấy bạc, quản lý kho bạc,
thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với mậu dịch để quản lý
tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với thực dân Pháp.
Điều hành LS là cách thức được NHNN sử dụng chủ yếu để thực hiện chức năng
quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng bên cạnh việc kiểm soát cung tiền,
các biện pháp hành chính,…
9
9
I. Thực trạng cơ chế điều hành LS của NHNN qua các thời kỳ
1. Cơ chế điều hành lãi suất trần (1996 – 07/2000)
NHNN đã thay đổi căn bản cơ chế điều hành linh hoạt trần lãi suất, bước đầu thực

hiện tự do hóa lãi suất huy động và linh hoạt trần lãi suất cho vay. Mức lãi suất tái cấp
vốn được quy định cụ thể và điều chỉnh phù hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ cung cầu -
vốn trên thị trường.
Năm 1996-1997, NHNN khống chế về mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi
suất tiền gửi là 0,35%/ tháng. Quy định này đã gây mất công bằng giữa các tổ chức tín
dụng, bởi vì mỗi tổ chức có đặc thù riêng về chi phí huy động vốn. Vì vậy, đến năm 1998,
quy định này bị bãi bỏ. Đầu năm 1998, theo quyết định 39/1998/QĐ-NHNN, của Thống
đốc NHNN, trần lãi suất cho vay đã tăng thêm 1%/tháng lên 1,2%/ tháng, cho vay trung
và dài hạn tăng từ 1,10%/tháng lên 1, 25%/tháng. Việc điều hành nâng trần lãi suất cho
vay của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế là cơ sở để các tổ chức tín dụng tăng lãi
suất huy động vốn tương ứng, tạo điều kiện huy động vốn đủ đáp ứng các nhu cầu cho
vay, phát triển kinh tế xã hội.
Sang năm 1999, nền kinh tế có dấu hiệu thiểu phát, nhằm kích cầu NHNN liên tục
điều chỉnh giảm trần lãi suất, lãi suất cuối năm giảm 0,35%-0,4% so với đầu năm và ở
mức thấp so với những năm trước:
+ Cho vay khu vực thành thị : 0,85% /tháng
+ Cho vay khu vực nông thôn : 1%/tháng
11/1999, nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu giấy tờ có giá được bổ sung vào
các công cụ điều hành lãi suất. Đến 7/2000, NHNN đưa vào sử dụng nghiệp vụ thị trường
mở với lãi suất được hình thành qua các phiên giao dịch theo quan hệ cung – cầu.
Cơ chế lãi suất này đã góp phần duy trì sự tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát,
ổn định sức mua của VND trong sự tương quan của các đồng tiền trong khu vực do có
khủng hoảng tiền tệ năm 1997-1998 ở các nước Đông Nam Á. Song cơ chế này vẫn có
những hạn chế nhất định.
- Chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn thời kỳ này rất nhỏ, thậm chí
lãi suất cho vay thời kỳ hiện tại thấp hơn lãi suất huy động vốn của thời kỳ trước đó đang
còn số dư có. Khi NHNN quyết định không giảm lãi suất đối với các khoản cho vay trước
đây, người vay lập tức đến vay ở một ngân hàng khác có lãi suất thấp hơn để trả nợ cũ với
lãi suất cao. Kết cục rủi ro lãi suất luôn đặt gánh nặng lên vai các NHTM.
- Một hạn chế nữa của chính sách lãi suất thời kỳ này là các NHTM quốc doanh vẫn

phải bao cấp về tài chính. Trong việc cho vay các đối tượng chính sách lãi suất thấp như
cho vay giảm 15% và 30% lãi suất đối với khu vực 3 và khu vực 4, cho vay khắc phục
hậu quả thiên tai theo chỉ định của chính phủ với lãi suất 0,5 /tháng đối với cho vay ngắn
hạn, 0,6%/tháng đối với trung và dài hạn. Trong khi đó, lãi suất huy động bình quân của
10
10
các NHTM còn cao hơn lãi suất cho vay, có nghiã là NHTM quốc doanh cho vay lỗ hoặc
không có thu nhập, rủi ro tín dụng không nguồn bù đắp. Các ngân hàng không còn hăng
hái để cho vay.
- Hơn nữa, diễn biến lãi suất trong giai đoạn này ít có tác dụng đến việc tăng cường
huy động vốn trung và dài hạn thì lãi suất cao trong khi NHNN liên tục giảm lãi suất. Mặt
khác, do tồn tại trong một thời gian dài trước đây, lãi suất cho vay trung và dài hạn thấp
hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Trong khi đó nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước lại cần rất nhiều vốn đầu tư trung và dài hạn. Nhiều ngân hàng đã huy động vốn
ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn, rủi ro thanh toán rất cao khi có dòng tiền rút ra.
Như vậy, chính sách lãi suất thời kỳ này đã có những tác dụng tích cực, song những
hạn chế của nó đòi hỏi phải có 1 cơ chế điều hành phát huy được chức năng vốn có của
lãi suất hơn nữa.
2. Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ (08/2000 – 05/2002)
Đây là giai đoạn sử dụng LSCB – “Lãi suất do NHTW công bố làm cơ sở cho các
tổ chức ín dụng ấn định lãi suất kinh doanh” cùng với lãi suất tái cấp vốn trong điều hành
CSTT. Theo đó NHNN hàng tháng công bố LSCB (căn cứ vào lãi suất cho vay thương
mại tốt nhất của 1 nhóm các tổ chức tín dụng chiếm phần lớn thị phần tín dụng) và một
biên độ thích hợp làm căn cứ cho việc ấn định lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng,
trong trường hợp cần thiết, NHNN sẽ công bố điều chỉnh kịp thời.
Bảng 3: Lãi suất cơ bản từ tháng 8/2000 – 12/2002
Đơn vị tính: %/tháng
Thời điểm Mức lãi suất
8/2000-2/2001
3/2001

4-5/2001
6-9/2001
10/2001-7/2002
8-12/2002
0,750
0,725
0,700
0,650
0,600
0,620
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Biên độ trên được quy định hợp lý để đảm bảo cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi
suất một cách linh hoạt phù hợp với điều kiện kinh doanh và mức độ rủi ro cụ thể đồng
thời NHNN kiểm soát được lãi suất cho vay. Biên độ trên không phân biệt đối với lãi suất
áp dụng giữa khu vực thành thị và nông thôn, giữa các loại hình tổ chức tín dụng (trừ
Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở) mà chỉ quy định có sự phân biệt giữa lãi suất ngắn hạn và
lãi suất trung, dài hạn. Biên độ trên bao gồm cả các khoản phí liên quan đến khoản vay
nhằm tránh việc tổ chức tín dụng lợi dụng để thu phí nâng lãi suất cho vay lên quá mức
biên độ cho phép.
Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, về cơ bản các ngân hàng thương mại, các tổ
11
11
chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung
cầu vốn trong nước của từng loại ngoại tệ.
Có thể thấy chính sách lãi suất thời kỳ này đã tiến gần đến các nguyên tắc lãi suất
thị trường hơn, NHNNVN đã quyết tâm đổi mới chính sách lãi suất theo hướng tự do hóa
và từng bước gắn lãi suất trong nước vào thị trường khu vực và thế giới.
Việc sử dụng LSCB làm tham chiếu khi cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng chính
là bước chuẩn bị cho tự do hóa lãi suất hoàn toàn sau này.
3. Cơ chế lãi suất thỏa thuận (6.2002 – 5.2008)

NHNN đã có những thay đổi mang tính bước ngoặt trong điều hành lãi suất. Theo
QĐ 546 của NHNN ban hành ngày 30/5/2002 (có hiệu lực từ ngày 1/6/2002): Các tổ
chức tín dụng xác định lãi suất cho vay bằng Đồng Việt Nam trên cơ sở cung cầu vốn thị
trường và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng vay. LSCB do NHNN công bố (trên cơ
sở tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại đối với khách hàng tốt nhất của nhóm các
tổ chức tín dụng được lựa chọn theo Quyết định của Thống đốc NHNN) trong từng thời
kỳ để làm tham khảo và định hướng lãi suất thị trường.
Sang đầu năm 2003, cơ chế điều hành lãi suất tiếp tục được điều chỉnh, theo đó lãi
suất tái cấp vốn đóng vai trò là lãi suất trần, lãi suất tái chiết khấu là lãi suất sàn trên thị
trường tiền tệ liên ngân hàng, lãi suất thị trường mở là công cụ điều hành thường xuyên
của NHNN. Lãi suất cho vay qua đêm được áp dụng trong thanh toán điện tử liên ngân
hàng và thanh toán bù trừ, lãi suất tiền gửi của các tổ chức tín dụng tại NHNN đóng vai
trò làm phương tiện thường xuyên điều tiết lãi suất liên ngân hàng.
LSCV qua đêm của NHNN
LSTCV
LS liên NH
LSTCK
LSTG tại NHNN
Việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận đã tạo điều kiện cho các ngân hàng chủ
động trong việc huy động và cho vay vốn, lãi suất phản ánh được cung cầu trên thị
trường, tạo điều kiện khai thác triệt để sức mạnh của cơ chế thị trường, các nguồn lực
được phân phối và sử dụng có hiệu quả do đó đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của nền kinh
tế.
Tuy nhiên, thực tế từ khi cơ chế lãi suất thỏa thuận được đưa vào thực hiện lãi suất
vẫn còn thiếu tính thị trường. Nguyên nhân là thời kỳ này 4 “đại gia” NHTM quốc doanh
(Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam - VCB, Ngân hàng Nhà đồng bằng sông Cửu Long -
MHB, Ngân hàng Công thương Việt Nam - ICB và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam - BIDV) hiện đang chiếm 70% tổng tài sản của toàn bộ hệ thống ngân hàng, trong
12
12

đó mỗi NHTMQD hiện đang quản lý một khối tài sản tương đương 15 - 20% GDP với
các khách hàng chính là các DNNN. Trong khi đó, Chính phủ hạn chế việc tiếp cận thị
trường ngân hàng của các Ngân hàng liên doanh và chi nhánh Ngân hàng nước ngoài ở
Việt Nam. Do vậy 4 “đại gia” này dễ dàng chi phối lãi suất trên thị trường. Thêm vào đó,
quá nhiều ưu đãi về lãi suất của Chỉnh phủ thông qua con đường cho vay chỉ định cũng
làm mất đi tính thị trường của lãi suất.
Mặt khác, các tác động tiêu cực của tốc độ tăng trưởng nhanh cũng dần bộc lộ. Lạm
phát phi mã (lạm phát ở mức 2 con số) năm 2007 (được đo bằng chỉ số giá tiêu dùng cuối
năm so với cuối năm 2006) là 12,63%, cao nhất trong hơn chục năm trước đó khiến cho
các mặt hàng đua nhau tăng giá, đặc biệt một số mặt hàng tăng giá 1 cách chóng mặt (như
trong tháng 9/2007 ,tại các chợ đầu mối rau quả, một số loại như cải ngọt, gừng nội địa,
hành củ đỏ, khoai lang, xà lách búp… tăng 200 đồng đến 1.000 đồng/kg. Riêng giá cải
thảo tăng 1.100 đồng/kg lên 5.500 đồng/kg). Chính sách thắt chặt tiền tệ được đua ra để
đối phó với lạm phát. Theo Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN, NHNN sẽ mở rộng diện
các loại tiền gửi phải dự trữ bắt buộc, bao gồm các loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ
hạn, thay cho việc áp dụng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn từ
24 tháng trở xuống trong thời gian qua. Tiếp đó là quyết định số 346/QĐ-NHNN về việc
phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bằng tiền đồng dưới hình thức bắt buộc đối với
các tổ chức tín dụng nhằm thu hút 20.300 tỉ đồng.
Tình trạng khan hiếm tiền đồng trên thị trường tiền tệ xuất hiện và ngày càng trầm
trọng trong 6 tháng đầu năm 2008 (do các khoản thanh toán của doanh nghiệp tăng mạnh
trong thời gian này; sự thiếu hỗ trợ trong cơ chế tái cấp vốn của và những hoạt động rút
tiền khỏi hệ thống liên NH trên thị trường mở của NHNN) khiến cho lãi suất tiền gửi
VND liên ngân hàng tăng dữ dội, có thời điểm lên tới 30 - 40%/năm, đẩy các NHTM vào
cuộc chạy đua lãi suất huy động như một phản ứng tự nhiên nhằm huy động đủ một
lượng vốn lớn trong thời gian ngắn đáp ứng hàng loạt các yêu cầu thắt chặt tiền tệ của
NHNN như dự trữ bắt buộc, mua tín phiếu bắt buộc…
Và chỉ sau vài ngày chạy đua, lãi suất huy động của các NHTM (lên đến 15%-
16%/năm) đã cao hơn khá nhiều so với lãi suất tái cấp vốn của NHNN (13%/năm) và lãi
suất tái chiết khấu (11%/năm) mà NHNN cũng vừa nâng lên, đã tạo ra một làn

sóng chuyển tiền từ ngân hàng lãi suất thấp sang ngân hàng lãi suất cao, mà đi kèm với
đó là áp lực lạm phát. Lãi suất huy động liên tục tăng dẫn đến lãi suất cho vay cũng tăng
theo tỷ lệ thuận khiến hệ thống tài chính – ngân hàng mất an toàn, các doanh nghiệp đều
phải cân nhắc lại cơ cấu vốn của mình cũng như các dự định sản xuất.
Cùng với đó là dấu hiệu của những tác động của cuộc đại suy thoái kinh tế thế giới
mà khởi nguồn từ cuộc khủng hoảng tín dụng ở Mỹ diễn ra vào tháng 8/2007 ngày càng
rõ nét.
Như vậy, hiện thời chưa thể phát huy hiệu quả của cơ chế lãi suất thỏa thuận bởi các
yếu tố nền tảng của cơ chế này vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Do đó, đòi hỏi phải
có sự điều chỉnh trong cơ chế điều hành cho phù hợp với tình hình hiện tại.
4. Cơ chế LSCB bằng Đồng Việt Nam (5.2008 – nay)
13
13
a. Nhằm hạn chế cuộc chạy đua lãi suất huy động của các NHTM, NHNN đã quy
định trần lãi suất huy động là 12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày
26/02/2008.
Đến ngày 17/05/2008, NHNN thông báo những điều chỉnh trong chính sách điều
hành lãi suất. Đó chính là Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất
cơ bản bằng đồng Việt Nam. Theo Quyết định này, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất
kinh doanh (lãi suất huy động và lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam không vượt quá
150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố áp dụng trong từng thời kỳ; quyết định số
546/2002/QĐ-NHNN ngày 30 tháng 5 năm 2002 về việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa
thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng VNĐ của tổ chức tín dụng đối với khách
hàng hết hiệu lực thi hành. Việc huy động vốn bằng VNĐ của các tổ chức tín dụng phù
hợp với quy định về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mức trần lãi suất huy động
12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 cũng không còn hiệu lực.
Việc áp dụng kịp thời cơ chế điều hành LSCB đã ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn
thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán của các NHTM trong những tháng đầu năm
2008, an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư,
doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng. Khắc phục được tình trạng cạnh

tranh không lành mạnh trong huy động vốn giữa các NHTM bằng cách đẩy lãi suất lên
cao .
Cùng với diễn biến lạm phát có xu hướng giảm, kinh tế vĩ mô ổn định và hoạt động
của các NHTM đảm bảo khả năng thanh toán, làm cho thị trường tiền tệ và lãi suất trong
những tháng đầu năm 2009 tương đối ổn định. CPI bình quân năm 2009 chỉ tăng 6,88%
so với năm 2008, mức thấp nhất trong 6 năm trở lại đây (CPI bình quân năm 2004 t ăng
7,71%; năm 2005 tăng 8,29%; năm 2006 tăng 7,48%; năm 2007 tăng 8,3%; năm 2008
tăng 22,97%).
Cơ chế truyền dẫn của các biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và hiệu quả
đối với hoạt động kinh doanh của NHTM và lãi suất thị trường, thể hiện là lãi suất thị
trường liên ngân hàng đã biến động xoay quanh các mức lãi suất chủ đạo của NHNN; lãi
suất huy động và cho vay của các NHTM biến động theo cung – cầu vốn và tăng, giảm
theo sự thay đổi của các mức lãi suất điều hành của NHNN, đã tác động làm cho thu hẹp
hoặc mở rộng tín dụng.
Việc điều hành linh hoạt LSCB, vừa là công cụ điều tiết thị trường, vừa là động thái
phát tín hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp điều hành chính sách tiền tệ của
NHNN là “thắt chặt” hay “nới lỏng” tiền tệ. Năm 2008 và những tháng đầu năm 2009,
tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng phù hợp với chủ trương thắt chặt
hoặc nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng. Từ tháng 10/2008 đến nửa đầu năm 2009,
NHNN chuyển hướng điều hành chính sách tiền tệ từ “thắt chặt” để chống lạm phát sang
“nới lỏng” nhằm mục tiêu hàng đầu là ngăn chặn suy giảm kinh tế, điều chỉnh giảm mạnh
lãi suất cơ bản từ 14% – 13% – 11% – 8,5% – 7%/năm. Tính đến cuối tháng 5/2009, tăng
trưởng tín dụng tăng 14,01% so với cuối năm 2008.
14
14
Trong 10 tháng đầu năm 2010, lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn ổn
định ở mức 8%/năm, kết hợp với điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường
mở và giám sát việc thực hiện các tỷ lệ an toàn của TCTD, đã điều tiết lãi
suất huy động và cho vay giảm dần theo chỉ đạo của Chính phủ (đến cuối
tháng 10, lãi suất huy động VND bình quân 10,44%/năm, cho vay

13,18%/năm). Hai tháng cuối năm, NHNN điều chỉnh lãi suất cơ bản và tái
cấp vốn tăng 1%/năm, kết hợp với điều hành chặt chẽ lượng tiền cung ứng,
quy định trần lãi suất huy động VND 14%/năm để ổn định thị trường tiền tệ,
đã làm tăng lãi suất thị trường và giảm cầu tín dụng (cuối tháng 12, lãi suất
huy động VND bình quân 12,44%/năm, cho vay 14,96%/năm, cho vay nông
nghiệp nông thôn, xuất khẩu 12-14%/năm; lãi suất thị trường nội tệ liên
ngân hàng 9,5 - 12%/năm).
Ngoài ra, cơ chế điều hành LSCB là phù hợp với quy định của Luật NHNN và Bộ
luật Dân sự, mục tiêu của chính sách tiền tệ hiện nay và các năm tới đây là kiểm soát lạm
phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức cao và bền vững.
15
15
Tuy công cụ LSCB của NHNN đã phát huy hiệu quả trong năm 2008 và 6 tháng
đầu năm 2009 ở bối cảnh kinh tế vĩ mô có nhiều biến động, góp phần kiềm chế lạm phát
rồi chống suy giảm kinh tế cơ chế LSCB cũng có những hạn chế nhất định.
Việc khống chế biên độ lãi suất làm cho các TCTD không thể phản ánh kịp thời để
phòng tránh rủi ro về lãi suất và thanh khoản khi lãi suất thị trường tiền tệ trong nước và
ngoài nước có biến động, chênh lệch lãi suất huy động và cho vay bị thu hep do lãi suất
huy động tăng nhưng lãi suất cho vay không thể tăng được nữa.
Thực tế hoạt động ngân hàng thời gian qua cho thấy, do vướng trần lãi suất cơ bản,
quan hệ cung cầu vốn và lãi suất đã bị biến dạng nghiêm trọng. Về nguyên tắc kinh
doanh, khi cho vay, ngân hàng không thể cho vay với mức lãi suất thấp hơn chi phí và
người gửi tiền sẽ không gửi vào ngân hàng nếu các cơ hội đầu tư tương tự có mức sinh
lời tốt hơn. Do vậy, khi phải chịu khống chế bởi trần lãi suất các ngân hàng đã có những
phản ứng tiêu cực để có một mức lãi suất huy động cũng như cho vay sao cho hoạt động
kinh doanh của ngân hàng có được mức sinh lợi cao nhất. chẳng hạn như việc lách lãi
suất trần bằng việc thu phí dịch vụ “bất thành văn” khác từ các doanh nghiệp đi vay để
đảm bảo khả năng sinh lời. Những khoản phí phụ trội này khiến cho lãi suất cho vay thực
vượt xa 150% LSCB, cộng dồn lại có lúc một số nơi lên đến 18 – 20%, trong khi trần là
12%. Thanh khoản ngân hàng thường xuyên bị căng thẳng, lãi suất huy động bị biến

tướng và đẩy lên rất cao so với mức khống chế 10,5%/năm bởi nhiều chiêu khuyến mãi
phá rào.
Các điều chỉnh lãi suất của NHTW còn chưa linh hoạt , thường chậm hơn so với các
diễn biến của nền kinh tế và do đó chưa đạt được hiệu quả như mong muốn . Lấy ví dụ
như tình trạng lạm phát diễn ra trong năm 2007 với mục tiêu kiềm chế tốc độ lạm phát
thấp hơn tăng trưởng kinh tế , tuy nhiên khi tình trạng lạm phát diễn ra ( lên đến 12.63% )
thì NHNN vẫn duy trì mức lãi suất cơ bản như năm 2006 là 8,25% trong khi mức độ lạm
phát năm 2006 chỉ là 6,6% . Tiếp đó vào thời điểm lạm phát được kiểm soát vào khoảng
cuối năm 2008 thì lãi suất cơ bản không những không giảm mà còn tiếp tục tăng lên ( lên
đến 14% năm ) , điều này đã đẩy nhiều doanh nghiệp vào thế khó khi lãi suất quá cao gây
khó khăn cho việc vay vốn trong khi giá sản phẩm đã giảm xuống do tác động của lạm
phát đã được đẩy lùi . Mặt khác, nếu NHNN thi hành ngay việc tăng lãi suất cơ bản vào
cuối năm 2007 thì lạm phát đã không thể bùng phát mạnh mẽ như vậy và kéo dài sang cả
năm 2008 .
Thêm vào đó, quy định trần lãi suất như nhau cho mọi loại hình kinh tế là điều chưa
hợp lý. Nếu áp dụng cùng một mức lãi suất thì khả năng tiếp cận vốn của vay tiêu dùng bị
xếp sau thứ tự ưu tiên, làm ảnh hưởng tiêu cực và là nguyên nhân đẩy khách hàng cá
nhân ra khỏi hệ thống ngân hàng, họ phải tìm tới thị trường không chính thức với lãi suất
cao, nạn cho vay nặng lãi xuất hiện.
Chính sách lãi suất cơ bản chưa khuyến khích được các tổ chức tín dụng cho vay
trung và dài hạn . Trên thực tế, cho vay ngắn hạn vẫn chiếm tỉ trọng rất lớn trong tổng số
nguồn vốn cho vay của các ngân hàng . Do đó các dự án trung và dại hạn thường gặp rất
nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm các nguồn vốn từ Ngân hàng .
Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là công cụ can thiệp trực tiếp đối với lãi suất kinh
doanh của NHTM,do đó gây ra hạn chế nhất định trong việc thử nghiệm và đưa ra thị
trường các sản phẩm tín dụng có độ rủi ro cao nhằm tìm kiếm lợi nhuận trên thị trường
của các NHTM.
16
16
Cơ chế LSCB phải chăng chỉ là giải pháp tình huống để giữ lãi suất thị trường theo

mục tieu của CSTT nhằm đối phó với những biến động kinh tế đầu năm 2008
b. Hiện nay, với sự phục hồi của các nền kinh tế lớn trên thế giới như Nga, Mỹ,
Nhật, chúng ta có thể dự đoán rằng kinh tế thế giới sẽ đi lên trong thời gian tới.
Nền kinh tế VN cũng có những tín hiệu tốt như năm 2009 đạt mức tăng trưởng
GDP 5,32% so với các nước trong khu vực là 4-5%, kinh tế tháng 7/2010 tiếp tục thể
hiện sự ổn định khá tích cực ở hầu hết các số liệu vĩ mô (CPI tháng 7 chỉ tăng 0.06%, đưa
mức tăng luỹ kế 7 tháng lên 4.84%, đây là mức tăng thấp nhất trong vòng 14 tháng qua;
Dự báo lãi suất cho vay giảm xuống quanh 12% vào cuối quý 3, khi chính sách tiền tệ
được mở rộng; GDP 7 tháng đầu năm 2010 là 6,16% và ước tính cho cả năm là 6,67%
(sourse: tintuc.xalo.vn).
Có thể thấy với hoàn cảnh hiện nay, vai trò của việc áp đặt LSCB như 1 biện pháp
hành chính để ổn định thị trường tỏ ra mờ nhạt và không còn phù hợp. LSCB đang dần
mất đi ý nghĩa và trở thành “vòng kim cô” đối với lãi suất thị trường. Trong giai đoạn hội
nhập kinh tế ngày càng sâu rộng cần thiết phải để cung cầu trên thị trường quyết định giá
của quyền sử dụng vốn, và chỉ nên xem LSCB là lãi suất định hướng thị trường của
NHNN. Liệu đã đến lúc thay đổi cơ chế LSCB bằng 1 cơ chế khác phù hợp hơn?
Xử lý vấn đề này, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số
01/2009/TT-NHNN (có hiệu lực từ ngày 01/02/2009) hướng dẫn về lãi suất thỏa thuận
của các Ngân hàng thương mại đối với cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho
vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, đi kèm theo đó là cơ chế
thống kê, theo dõi và thanh tra, giám sát nhằm hạn chế rủi ro.
Ngày 26/2/2010, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chính thức có văn bản mở lại cơ
chế cho vay theo lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay trung và dài hạn theo Thông tư
số 07.
Ngày 14/4/2010, NHNN ban hành Thông tư 13 hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay
bằng VND đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận. Với thông tư này, chỉ đạo của
Chính phủ về việc mở cơ chế thỏa thuận lãi suất đối với các khoản vay ngắn hạn chính
thức được triển khai. Theo nội dung Thông tư, các tổ chức tín dụng thực hiện cho vay
bằng VND phải niêm yết công khai lãi suất cho vay ở mức hợp lý, trên cơ sở cung – cầu
vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng vay, tiết kiệm chi

phí hoạt động, tạo điều kiện cho khách hàng tiếp cận vốn vay để phát triển sản xuất –
kinh doanh, nhất là khu vực nông nghiệp và nông thôn, doanh nghiệp xuất khẩu, doanh
nghiệp nhỏ và vừa.
Sự điều chỉnh này đã mang lại những lợi ích cụ thể như sau:
- Thứ nhất, hình thành mặt bằng lãi suất cho vay minh bạch, rõ ràng và phản ánh
đúng tín hiệu của thị trường, chấm dứt tình trạng phí “ngầm” mà Ngân hàng Nhà nước
cũng khó kiểm soát.
- Thứ hai, tạo điều kiện cho các NHTM chủ động xác định mức lãi suất cho vay
dựa trên các yếu tố: chi phí vốn đầu vào của ngân hàng; mức độ rủi ro của từng khách
hàng; lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh của họ và một số yếu tố liên quan khác. Sự phân
hóa khách hàng sẽ diễn ra rõ hơn: Khách hàng có uy tín sẽ được hưỡng lãi suất thấp, còn
khách hàng kém uy tín phải chịu lãi suất cao với mức độ khác nhau rõ rệt.
17
17
- Thứ ba, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng mở rộng mạng lưới để huy
độngvốn với mức lãi suất phù hợp; đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu vốn của nền kinh
tế. Khi các ngân hàng chủ động hơn trong xác định lãi suất và quy mô huy động với thời
hạn hợp lý, rủi ro thanh khoản sẽ giảm.
- Thứ tư, chính sách lãi suất thỏa thuận làm tăng sức ép lên việc đổi mới cách thức
điều hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên thị trường tài chính- ngân
hàng Việt Nam.
- Thêm vào đó, hạn chế đối với các khoản vay trung và dài hạn khi áp dụng cơ chế
lãi suất cơ bản được giải quyết. Cụ thể theo báo cáo của Sở Kế hoạch và Đầu tư
Tp.HCM, đến cuối tháng 9/2010, cho vay trung dài hạn có mức tăng trưởng cao hơn cho
vay ngắn hạn, dư nợ tín dụng trung và dài hạn chiếm 44,7% và tăng 30,1%; dư nợ tín
dụng ngắn hạn tăng 17,4% so với cùng kỳ.
Đồng thời việc thực hiện cho vay theo lãi suất thỏa thuận cũng có những tác
động tiêu cực:
Thứ nhất, việc chưa gỡ bỏ trần lãi suất huy động trong khi thực hiện cơ chế lãi suất
cho vay thỏa thuận làm xuất hiện những vấn đề phát sinh:

+ Lãi suất “đầu ra” không có trần (cả ngoại tệ và VNĐ), nhưng “đầu vào” lại có
trần (đối với VNĐ), thì lợi ích sẽ nghiêng về các NHTM, chứ không nghiêng về người
gửi tiền và cũng không nghiêng về người vay.
+ Người vay tiền mới được “giải cứu” khi được cấp bù lãi suất, nhiều người chưa
hết khó khăn, nay vay vốn ngân hàng với lãi suất cao hơn khá nhiều thì sản xuất kinh
doanh sẽ khó khăn hơn, tác động không nhỏ tới tăng trưởng kinh tế vừa mới thoát đáy,
đang vượt dốc đi lên, đích phục hồi hoàn toàn sẽ còn xa.
+ Nguy cơ tái lạm phát cao đã được nhiều chuyên gia cảnh báo nay đã đến gần,
thậm chí đã có dấu hiệu xuất hiện.
Thứ hai, cạnh tranh giữa các ngân hàng khi không còn kiểm soát lãi suất sẽ dẫn tới
tình trạng các ngân hàng nhỏ khó có khả năng cho vay với lãi suất thấp để cạnh tranh với
các ngân hàng lớn.
Thứ ba, tăng trưởng tín dụng sẽ tăng lên do các NHTM đẩy mạnh cho vay nhằm
tìm kiếm lợi nhuận hoặc tiến hành các hoạt động kinh doanh mạo hiểm do sức ép phải
cho vay lại với lãi cao. Điều này cũng có nghĩa là sẽ tạo sự cạnh tranh thiếu lành mạnh,
thậm chí cấu thành các tội phạm và vỡ nợ tín dụng dây chuyền mang tính xã hội, làm
tăng tính rủi ro và nhạy cảm, sự mất ổn định của hệ thống ngân hàng và kinh tế vĩ mô
trong nước.
II. Đánh giá về cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam qua các
thời kỳ
1. Thành tựu
Có thể nói quá trình đổi mới cơ chế điều hành lãi suất ngân hàng ở nước ta từ khi
có mô hình ngân hàng hai cấp (1988) đến nay đã trải qua sáu bước chuyển đổi căn bản,
đó là những bước đi khá thận trọng, phù hợp với tình hình kinh tế từng thời kỳ và khẳng
định xu hướng tất yếu của quá trình tự do hóa lãi suất ở nước ta. Quá trình đã đạt được
những thành tựu không nhỏ:
• Tiến hành cải cách, điều chỉnh chính sách lãi suất làm cho lãi suất trong nền kinh tế đã trở
thành công cụ quan trọng của Nhà nước nhằm thực thi chính sách tiền tệ, ổn định môi
18
18

trường kinh tế vĩ mô, kiềm chế được lạm phát.
• Lãi suất góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế nói chung, kích thích sự tiết kiệm và
khuyến khích đầu tư. Việc xóa dần chính sách ưu đãi về lãi suất đã dần dần tạo điều kiện
cho các ngân hàng thương mại thực hiện tốt công tác hạch toán kinh tế và kinh doanh của
mình được chủ động và thuận lợi.
• Chính sách lãi suất qua các lần biến đổi đã tiến dần đến tự do hóa lãi suất, chuẩn bị cho
sự hội nhập về lãi suất với nền kinh tế thế giới. Những phản ứng tích cực của thị trường
là cơ sở khẳng định tính đúng đắn của Thông tư 07, 13. Và những phản ứng này là một
tín hiệu tốt để NHNN thực hiện những bước tiếp theo nhằm tự do hóa hoàn toàn lãi suất.
2. Hạn chế
• Hiệu lực, hiệu quả của các cơ chế điều hành LS chưa cao
Nguyên nhân: Năng lực tài chính, năng lực quản trị, khả năng cạnh tranh của các
thành viên trên thị trường tài chính không đồng đều, tính bền vững trong phát triển chưa
cao.
Nguồn: NHNN
Trên thị trường có sự cạnh tranh không lành mạnh. Biểu hiện là tình trạng đua nhau
tăng lãi suất cho vay và lãi suất huy động của các NHTM. Khi NHNN thực hiện cơ chế
lãi suất thỏa thuận đối với cho vay trung hạn, các NHTM đã đẩy mức lãi suất cho vay rất
cao, khoảng 18%. Những động thái tiêu cực đó là nguyên nhân gây ra sự bất ổn trong hệ
thống tài chính. Các dự án trung và dài hạn gặp nhiều khó khăn hơn trong việc tìm kiếm
các nguồn vốn từ Ngân hàng. Điều này là 1 trở ngại đối việc phát huy hiệu lực, hiệu quả
của các chính sách do NHNN đưa ra.
Bên cạnh đó, đối với nhóm ngân hàng lớn, thông qua vị thế mạnh của mình trong hệ
thống, những hành vi chi phối thị trường của các ngân hàng này có thể gây ảnh hưởng tới
tác động tổng thể của chính sách NHNN nói chung và chính sách lãi suất nói riêng.
19
19
• Mức độ tự do của LS còn hạn chế: Một trong những lý do là thị phần tín dụng áp dụng
mức lãi suất chính sách là không nhỏ. Ngoài các khoản vay áp dụng cơ chế hỗ trợ lãi
suất trong thời gian qua, thì chúng ta cũng có không ít các dự án, các lĩnh vực sản xuất

được áp dụng lãi suất ưu đãi được thực hiện thông qua Ngân hàng Phát triển, Ngân hàng
Chính sách xã hội, các dự án đầu tư phát triển được sử dụng các nguồn vốn ưu đãi ODA
khác nữa Ở chừng mực nào đó nó làm giảm hiệu quả của chính sách tự do hóa lãi suất,
vì khi đó lãi suất hình thành trên thị trường chưa phản ánh đúng cung cầu vốn nên việc
phân bổ nguồn vốn qua công cụ lãi suất cũng bị méo mó.
• Việc điều chỉnh cơ chế điều hành lãi suất rất dễ gây ra mất ổn định trong nền kinh tế và
khó có thể đảm bảo các mục tiêu của CSTT.
Các nhà đầu tư nắm bắt thông tin thị trường không đầy đủ, dẫn đến phản ứng theo
“bầy đàn” - là đặc điểm nổi bật của thị trường tài chính của Việt Nam hiện nay. Đặc điểm
này dễ gây nên những kỳ vọng về lạm phát trước bất cứ một động thái chính sách kinh tế
vĩ mô nào tạo tín hiệu áp lực lạm phát, nhất là chính sách tiền tệ - một chính sách theo
đuổi mục tiêu lạm phát là trụ cột.
• Những tác động không mong muốn trong cơ chế truyền dẫn.
Lãi suất thực dương là 1 tất yếu trong cơ chế tự do hóa lãi suất. Nhìn vào thực tế
của Việt Nam, hiện tại, mức lãi suất thực mà người gửi tiền nhận được là mức lãi suất
thực dương, trung bình trong 3 tháng đầu năm 2010 khoảng 2,8% - chưa kể đến các hình
thức khuyến mại khác. Tuy nhiên, lãi suất thực đang có xu hướng giảm xuống bắt đầu từ
tháng 2 do ảnh hưởng của tốc độ gia tăng CPI. Để thu hút nguồn vốn, các ngân hàng có
thể bước vào 1 cuộc chạy đua tăng lãi suất huy động khi NHNN dỡ bỏ trần lãi suất huy
động. Với xu hướng này, một tín hiệu nâng lãi suất chính sách có thể tạo ra kỳ vọng về
lạm phát.
Xét về góc độ lãi suất thực tác động đến tăng trưởng kinh tế, thì hiện nay, các nhà
đầu tư vay vốn ngân hàng đang chịu một mức lãi suất thực tương đối cao. Đánh giá tác
động của lãi suất thực đến tăng trưởng kinh tế, theo kết quả ước lượng mô hình đánh giá
tác động của lãi suất thực lên tăng trưởng kinh tế theo phương pháp OLS (41 quan sát từ
quý I/2000 đến tháng 3/2010 với mức ý nghĩa 10%) cho thấy khi lãi suất thực cho vay
ngắn hạn tăng 1% sẽ làm tăng trưởng kinh tế giảm 0,04% so với quý trước. Tuy nhiên,
ngoài lãi suất thực còn nhiều yếu tố khác tác động lên tăng trưởng kinh tế, vì vậy, mức độ
biến động của lãi suất thực mới chỉ giải thích được 12,3% biến động của tăng trưởng kinh
tế.

• Tính kỷ luật trong hoạch định các chính sách vĩ mô chưa cao, tình trạng mâu thuẫn của
các mục tiêu của các chính sách vẫn thường xảy ra.
Là một nền kinh tế đôla hóa, lãi suất đồng nội tệ, lãi suất ngoại tệ và tỷ giá có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, với mức chênh lệch quá lớn giữa lãi suất nội tệ với lãi suất
đồng ngoại tệ cộng với mức kỳ vọng về tỷ giá sẽ làm dịch chuyển sự nắm giữ giữa đồng
nội tệ và đồng ngoại tệ của các thành viên trong thị trường, điều này sẽ gây ra những rối
loạn thị trường, tạo áp lực lên tỷ giá. Do vậy, chính sách lãi suất tiền đồng cũng phải giải
quyết hài hòa mối quan hệ này. Trong năm 2009, vấn đề tỷ giá nổi lên như một điểm nhấn
của sự ổn định, chính sách lãi suất của NHNN cùng hàng loạt các chính sách khác (như
yêu cầu các tổng công ty lớn bán ngoại tệ cho NHNN, điều chỉnh tỷ giá công bố, điều
20
20
chỉnh dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, qui định trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các doanh
nghiệp ) đã phải hướng tới sự ổn định này.
Chương III
Giải pháp hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất của
NHNN Việt Nam
Chính sách lãi suất là một công cụ của CSTT, vì vậy, mục tiêu theo đuổi của chính
sách lãi suất phải nằm trong mục tiêu của CSTT, quá trình hoàn thiện cơ chế điều hành lãi
suất trong từng thời kỳ luôn phải đảm bảo mục tiêu bao trùm của CSTT là ổn định tiền tệ,
kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Điều đó có
nghĩa, sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất không được gây ra những cú sốc thị trường,
đảm bảo tính ổn định và thực hiện các mục tiêu kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế.
Đây là nguyên tắc cơ bản trong hoạch định chính sách lãi suất từng thời kỳ.
Thực trạng của nền kinh tế nước ta hiện nay đang phải đối mặt với áp lực lạm phát
và với sức phục hồi nền kinh tế còn thiếu vững chắc: Mặc dù tăng trưởng kinh tế quý
I/2010 đạt 5,83%, cao hơn nhiều mức tăng trưởng quý I/2009, vốn đầu tư toàn xã hội
tăng 26,23%, cao hơn rất nhiều mức tăng 9% của quý I/2009, song nhập siêu vẫn ở mức
đáng lo ngại (xuất khẩu đạt 14 tỷ USD, nhập khẩu đạt 17,5 tỷ USD, nhập siêu đạt 3,5 tỷ
USD), lạm phát tuy vẫn trong tầm kiểm soát nhưng đang có xu hướng tăng trở lại.

Nguồn: Tổng cục Thống kê
Do đó trong năm 2010, hai vấn đề nổi lên mà việc điều chỉnh cơ chế điều hành lãi
suất cần hướng tới nhiều hơn là áp lực lạm phát gắn với hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn
định kinh tế vĩ mô. Theo đó, chính sách này phải giải quyết được những mối quan hệ
ràng buộc và bất cập hiện nay trên thị trường tiền tệ, nhưng đồng thời cùng với các công
cụ chính sách khác thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chế
21
21
điều hành lãi suất, ổn định mặt bằng lãi suất để kiểm soát lạm phát hướng tới ổn định
kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ trước mắt và trọng tâm của ngành Ngân hàng trong năm 2010.
Tự do hóa lãi suất là mục tiêu cần hướng tới để đảm bảo sự vận hành của thị trường
về cơ bản tuân theo qui luật cung cầu, phân bổ nguồn vốn hợp lý. Song với thực trạng
nền kinh tế đang phải đối mặt cùng với những bất cập của thị trường tiền tệ thì áp dụng
cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp là cần thiết, và từng bước tạo dựng những điều kiện cần
thiết để tự do hóa lãi suất.
Những điều kiện đó là:
- Môi trường kinh tế vĩ mô đã ổn định và khá chắc chắn.
- Hành lang pháp lý đã tương đối đồng bộ và hoàn chỉnh.
- Hệ thống ngân hàng ổn định, hoạt động hữu hiệu.
- Thị trường tài chính (bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán) đã
hình thành và đã vận hành có hiệu quả.
- Các nguồn lực trong nước đã được phân phối và sư dụng hợp lý.
- Các tổ chức kinh tế đều đảm bảo khả năng sư dụng vốn triệt để, có hiệu quả.
1. Cụ thể những việc cần làm trước mắt của NHNN trong giai đoạn hiện nay là:
• Trước mắt là phải thiết lập một mức lãi suất cơ bản định hướng được lãi suất thị trường.
Theo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, để có thể phát huy được tốt vai trò định
hướng của lãi suất cơ bản thì bản thân NHTW của quốc gia đó phải xác định được những
mục tiêu điều hành cụ thể trên cơ sở định lượng cụ thể về lạm phát, tăng trưởng, hoặc lãi
suất ngắn hạn mà tại đó nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng. Vì vậy, việc hoàn thiện cơ
chế hình thành lãi suất cơ bản - làm cơ sở định hướng chuẩn mực cho lãi suất thị trường

liên ngân hàng, thị trường tiền tệ là một việc cần thiết phải thực hiện trong thời gian này.
• Trên cơ sở mức lãi suất cơ bản, hình thành đồng bộ các mức lãi suất chỉ đạo, như lãi suất
tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất nghiệp vụ thị trường
mở nhằm chủ động điều tiết lãi suất thị trường và các hành vi cho vay, đi vay của các
thành viên trên thị trường tiền tệ. Lượng tiền cung ứng sẽ được điều tiết hợp lý để đảm
bảo các mức lãi suất mục tiêu.
• Đối với lãi suất huy động, do những bất cập về cấu trúc thị trường hiện nay làm nảy sinh
tình trạng cạnh tranh lãi suất thiếu lành mạnh, cũng như là diễn biến của lãi suất thực huy
động có thể làm kỳ vọng lạm phát gia tăng nên việc thực hiện duy trì mức lãi suất trần
trong giai đoạn này là cần thiết để bình ổn mặt bằng lãi suất.
• Đồng thời trong thời gian này, NHNN cần tích cực hỗ trợ thanh khoản đối với NHTM với
kỳ hạn dài hơn, khối lượng lớn hơn so với trước đây, hỗ trợ thông qua tái cấp vốn và hoán
đổi ngoại tệ và chỉ đạo các NHTM nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong cung ứng vốn và
điều chỉnh lãi suất giảm dần phù hợp diễn biến nền kinh tế. Tuy nhiên, về lâu dài, khi các
xu hướng đầu tư đã rõ nét, nền kinh tế dần ổn định thì việc tháo dỡ trần lãi suất huy động
cũng sẽ được thực hiện nhằm tuân thủ các nguyên tắc trên con đường tự do hóa lãi suất
đã lựa chọn.
• Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chế điều hành lãi suất, ổn định mặt bằng lãi suất để kiểm soát
lạm phát hướng tới ổn định kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ trước mắt và trọng tâm của ngành
Ngân hàng trong năm 2010. Để thực hiện nhiệm vụ đó, ngành Ngân hàng đang triển khai
những giải pháp ứng phó kịp thời. Tuy nhiên, để hỗ trợ cho các giải pháp ngắn hạn này có
22
22
hiệu quả, có cơ sở đầy đủ cho việc xây dựng các giải pháp điều hành trong dài hạn, bên
cạnh sự nỗ lực của toàn ngành Ngân hàng, cũng rất cần thiết phải có sự chỉ đạo sát sao
của Chính phủ và sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành hữu quan trong việc cơ cấu lại
thị trường tài chính, giảm dần cho vay với lãi suất ưu đãi, phát triển các thị trường nợ một
cách có hiệu quả, từ đó sẽ giảm bớt gánh nặng cho khu vực ngân hàng trong việc cung
cấp vốn phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế của cả nước.
2. Về lâu dài đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ, góp sức của cả NHNN và hệ thống

NHTM nói riêng, hệ thống tài chính trong nền kinh tế nói chung. Dưới đây là một số
biện pháp được đề xuất:
a. Củng cố, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng:
Trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập toàn cầu, quá trình hội nhập trong lĩnh vực tài
chính – ngân hàng diễn ra 1 cách mạnh mẽ. Theo lộ trình gia nhập WTO từ 1/4/2007, các
tổ chức tín dụng nước ngoài được phép thành lập và hoạt động dưới hình thức 100% vốn
nước ngoài tại Việt Nam. Sau lộ trình 5 năm gia nhập WTO các tổ chức tín dụng nước
ngoài sẽ được hưởng các ưu đãi như ngân hàng nội địa. Sự xâm nhập của các ngân hàng
nước ngoài ở mức độ ngày càng sâu, vì vậy củng cố, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
hoạt động của hệ thống ngân hàng là việc làm vừa cấp bách vừa lâu dài nhằm đảm bảo
cho hệ thống ngân hàng, hệ thống tài chính ổn định, đứng vững trước những tác động
trong quá trình hội nhập. Một hệ thống ngân hàng phát triển chính là 1 trong những điều
kiện để các cơ chế điều hành lãi suất của NHTW phát huy hiệu quả, lãi suất có thể tự do
hóa.
Ngày 17 tháng 10 năm 2007, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số
2449/QĐ-NHNN về chương trình hành động sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương
mại thế giới giai đoạn 2007-2012. Nội dung chương trình thể hiện những vấn đề cơ bản
sau:
+Xây dựng và phát triển thị trường tiền tệ, hoàn thiện những điều kiện kinh doanh
trong lĩnh vực ngân hàng phù hợp với chuẩn mực của Việt Nam. Cụ thể là: Nâng cao
năng lực xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ theo hướng chủ động, linh hoạt, bảo
đảm ổn định giá trị đồng tiền, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
+ Phát triển toàn diện hệ thống các tổ chức tín dụng theo hướng hiện đại, hoạt động
đa năng, đa dạng về sở hữu và về loại hình, đủ điều kiện hoạt động lành mạnh, ổn định và
nâng cao năng lực cạnh tranh; đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng, tăng quyền tự chủ và tự
chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng theo nguyên tắc thị trường
+ Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của NHNN, hoàn thiện các quy
định quản lý, đặc biệt là việc nâng cao năng lực giám sát và quản lý rủi ro đối với hoạt
động của các tổ chức tín dụng.
+ Đổi mới mạnh mẽ công tác cải cách hành chính, xây dựng NHNN Việt Nam trở

thành Ngân hàng Trung ương hiện đại với mô hình tổ chức và quản lý mới; chú trọng
phát triển nguồn nhân lực có chuyên môn nghiệp vụ cao
Về những giải pháp cụ thể:
+ Nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ trong điều kiện hội nhập, trong đó
chú trọng:
· Tăng cường công tác dự báo những diễn biến về kinh tế thế giới, nhất là những
23
23
biến động của kinh tế Mỹ, các nước EU; sự biến động của đồng USD, Euro và những vấn
đề liên quan khác.
· Tham mưu cho Chính phủ thực hiện việc quản lý luồng vốn nước ngoài vào Việt
Nam (cả ngắn và dài hạn); theo dõi chặt chẽ cán cân thanh toán, hoạt động xuất nhập
khẩu của Việt Nam.
· Tiếp tục triển khai có hiệu quả sự chỉ đạo của Chính phủ về chống lạm phát tại
văn bản số 75/TTg-KTTH ngày 15/01/2008 và văn bản số 319/TTg-KTTH ngày
03/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ ưu tiên chống lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, tiếp
tục ổn định và tăng trưởng kinh tế.
+ Tiếp tục củng cố hệ thống ngân hàng, chú trọng việc ổn định hệ thống, tiến hành
cơ cấu lại để tăng cường năng lực cạnh tranh trong điều kiện mới
+ Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về ngân hàng, trong đó chú trọng việc
hoàn thiện các quy định về đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng phù hợp với thông lệ
quốc tế; bổ sung, sửa đổi các quy định về cấp phép thành lập, ngân hàng mới một cách
chặt chẽ, tăng mức vốn điều lệ, yêu cầu về năng lực quản trị cao hơn…
+ Củng cố tổ chức và hoạt động giám sát và kiểm soát hoạt động của Ngân hàng
thương mại chuyển từ thanh tra tuân thủ sang thanh tra, giám sát, kiểm toán nội bộ theo
định hướng rủi ro
+ Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, tiếp tục hiện đại hoá ngân hàng, đẩy mạnh
các hoạt động ngân hàng mới…
b. Phát huy vai trò của các công cụ gián tiếp
Công cụ dự trữ tối thiểu bắt buộc (dự trữ bắt buộc): Về mặt lý thuyết khi thực

hiện công cụ dự trữ tối thiểu bắt buộc sẽ đạt được ba mục tiêu.
Thứ nhất là đảm bảo khả năng thanh toán cho tổ chức tín dụng, đây là mục đích
quan trọng nhất của công cụ này;
Thứ hai là khống chế bội số tiền tệ, tín dụng. Tỷ lệ dự trữ tối thiểu càng cao thì bội
số tiền tệ, tín dụng càng nhỏ và ngược lại;
Thứ ba là gây nên hiệu ứng lãi suất của dự trữ tối thiểu
Công cụ dự trữ tối thiểu bắt buộc lần đầu tiên được qui định trong pháp lệnh Ngân
hàng nhà nước ban hành vào tháng 5/1990. Trên thực tế qua các năm thực hiện, công cụ
dự trữ tối thiểu mới phát huy được tác dụng ở mức độ còn hạn chế nhưng ba năm trở lại
đây tỷ lệ này ngày càng được giảm dần từ 15% xuống 12% v.v và quyết định mới nhất
gần đây của Ngân hàng nhà nước qui định dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng ở
mức rất thấp là 2%/tổng tiền gửi để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng có nguồn vốn
dồi dào đáp ứng thanh toán đầu tư cho vay đó là quyết định số 581/2003/QĐ-NHNN
ngày 9/6/2003 và QĐ831/QĐ-NHNN ngày 30/7/2003.
Công cụ lãi suất cho vay: Khi NHTW tăng lãi suất cho vay sẽ làm giảm nhu cầu
vay NHTW của các tổ chức tín dụng đồng thời làm tăng nhu cầu vay giữa các tổ chức tín
dụng trên thị trường liên ngân hàng dẫn đến sẽ làm tăng lãi suất thị trường liên ngân
hàng. Khi NHTW giảm lãi suất cho vay thì xảy ra hiện tượng ngược lại làm tăng nhu cầu
vay NHTW của các tổ chức tín dụng, giảm nhu cầu vay vốn lẫn nhau như vậy làm giảm
lãi suất trên thị trường liên ngân hàng. Như đã đề cập, lãi suất thị trường liên ngân hàng
thay đổi sẽ tác động làm thay đổi lãi suất cơ bản của các tổ chức tín dụng và mặt bằng lãi
suất trong nền kinh tế.
Từ tháng 10/1992,NHNN đã tiến hành cho các Ngân hàng thương mại quốc
24
24
doanh vay dưới hình thức cho vay lại các khế ước cho vay có chất lượng tốt. Lãi suất cho
vay được qui định dưới dạng tỷ lệ phần trăm (nhỏ hơn hoặc bằng 100%) so với lãi suất
trên khế ước cho vay của các Ngân hàng thương mại quốc doanh. Mục đích của loại hình
cho vay này là NHNN tạo thêm nguồn vốn cho các Ngân hàng thương mại quốc doanh để
mở rộng cho vay đối với nền kinh tế .

Từ năm 1997 đến nay Ngân hàng nhà nước từng bước điều chỉnh và biến lãi suất
cho vay thành công cụ của chính sách tiền tệ. Đối tượng được vay NHTW không chỉ bó
hẹp trong khuôn khổ các Ngân hàng thương mại quốc doanh mà được mở rộng đến các
loại hình tổ chức tín dụng khác, làm tài sản cầm cố cho khoản vay không chỉ các hoạt
động tín dụng cho vay có chất lượng tốt mà còn có các chứng từ có giá của tổ chức tín
dụng.
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: Thực hiện nghiệp vụ thị trường mở là việc ngân
hàng trung ương mua hoặc bán các chứng từ có giá trên thị trường chứng khoán (chủ yếu
là thị trường OTC) thông qua đó thực hiện việc cung ứng hoặc rút khối lượng tiền khỏi
lưu thông. Tín phiếu và trái phiếu kho bạc sẽ là công cụ chủ yếu của thị trường mở hiện
nay có thêm trái phiếu chính phủ.
Như vậy khác với cho vay là hoạt động trong nội bộ hệ thống ngân hàng, trong hoạt
động thị trường mở Ngân hàng nhà nước can thiệp trực tiếp vào thị trường chứng khoán,
trong đó ngoài các tổ chức tín dụng còn có sự tham gia của các khu vực ngoài ngân hàng,
tức là các đơn vị kinh tế và dân cư. Về nguyên tắc khi ngân hàng trung ương bán chứng
khoán còn người mua bất kỳ có thể là tổ chức tín dụng, các tổ chức khác hay cá nhân thì
cũng đều làm giảm tiền dự trữ của các tổ chức tín dụng, bởi vậy sẽ làm tăng nhu cầu vay
mượn giữa các tổ chức tín dụng dẫn đến lãi suất thị trường liên ngân hàng tăng lên.
Ngược lại, khi ngân hàng trung ương mua chứng khoán sẽ làm tăng tiền dự trữ của các tổ
chức tín dụng, giảm nhu cầu vay mượn của các tổ chức tín dụng và dẫn đến giảm lãi suất
cho vay trên thị trường liên ngân hàng.
Các NHTW đều cố gắng để điều hành lãi suất trên cơ sở phân tích, đánh giá các
chỉ số vĩ mô trong nền kinh tế để có thể xác định được lãi suất trên thị trường là cao
hay thấp, có tương ứng so với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thì việc lãi suất được
hình thành tự do trên thị trường cũng chưa phải là lãi suất tối ưu. Điều đó được lý
giải tại sao những nước có nền kinh tế thị trường phát triển ở mức cao Ngân hàng
trung ương cũng phải có những biện pháp để tác động điều chỉnh lãi suất thị trường
thông qua các công cụ gián tiếp. Chính vì thế ngoài các biện pháp can thiệp trên thì để
có được các mức lãi suất cơ bản công bố phù hợp với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô thì
Ngân hàng nhà nước cần phải có sự điều chỉnh thích hợp được tính toán dựa trên

kinh nghiệm thực tế trong quản lý, điều hành lãi suất trong nhiều năm qua.
c. Phát triển thị trường tài chính đặc biệt là thị trường chứng khoán
Việt Nam không thể đẩy quá nhanh việc xây dựng thị trường tài chính, cũng như thị
trường chứng khoán vượt lên trên sự phát triển chung của nền kinh tế,mà phải phát triển
đồng bộ có ưu tiên. Thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán có mối liên hệ mật thiết
với nhau, khi lãi suất trên thị trường tiền tệ tăng lên, thị trường tiền tệ nóng lên, thì thị
trường chứng khoán cũng sôi động. Phát triển thị trường tiền tệ, làm tăng tốc độ chu
chuyển vốn ngắn hạn trong nền kinh tế, nâng cao khả năng kinh doanh trên thị trường
tiền tệ của các tổ chức trung gian tài chính, tạo điều kiện cho các tổ chức này sẵn sàng
tham gia có hiệu quả trên thị trường chứng khoán.
25
25

×