Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

tổng hợp câu hỏi và đáp án ôn thi môn chủ nghĩa xã hội khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.58 KB, 19 trang )

Câu 1: Vấn đề giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của GCCN. GCCN VN trong sự nghiệp đẩy
mạnh CNH, HĐH gắn liền với kinh tế tri thức.
GCCN? GCCN là 1 tập đoàn xh ổn định hình thành và phát triển với nền phát triển công nghiệp hiện
đại, với nhịp độ phát triển của LLSX có tính chất xh hóa ngày càng cao, là LLSX cơ bản tiên tiến trực tiếp
hoặc tham gia sx, tái sx ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xh, là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch
sử quá độ từ CNTB lên CNCS.
G/c công nhân là g/c lao động bằng phương thức công nghiệp; là LLSX hàng đầu của nhân loại, lao động
của họ quyết định sự tồn tại của xh hiện đại và là nguồn gốc của sự giàu có của g/c tư sản.
Vì vậy GCCN có những đặc điểm:
- Là g/c của những người lao động sx vật chất là chủ yếu (với trình độ trí tuệ ngày càng cao, đồng thời
cũng ngày càng có những sáng chế, phát minh lý thuyết được ứng dụng ngay trong sx). Vì thế GCCN có vai
trò quyết định nhất sự tồn tại và phát triển xh.
- Có lợi ích g/c đối lập với lợi ích cơ bản của g/c tư sản (giai cấp công nhân: xóa bỏ chế độ tư hữu, xóa
bỏ áp bức bóc lột, giành chính quyền và làm chủ xã hội. Giai cấp tư sản không bao giờ tự rời bỏ những lợi ích
cơ bản đó). Do vậy, giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt để.
- Là “giai cấp dân tộc” - vừa có quan hệ quốc tế, vừa có bản sắc dân tộc và chịu trách nhiệm trước hết với
dân tộc mình.
- Có hệ tư tưởng riêng của giai cấp mình: đó là chủ nghĩa Mác-Lênin phản ánh sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân , đồng thời hệ tư tưởng đó dẫn dắt quá trình giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của
mình nhằm giải phóng xã hội, giải phóng con người. Giai cấp công nhân ở Đảng tiên phong của mình là Đảng
CS (Đảng Mác-Lênin).
- GCCN là g/c được tuyển mộ trong tất cả các g/c của dân cư. Lịch sử đã chứng minh rằng khi nền công
nghiệp ngày càng phát triển thì GCCN luôn tăng lên cả về số lượng lẫn chất lượng, do đó nó được bổ sung từ
g/c nông dân, tầng lớp trí thức, học sinh, tiểu chủ, tiểu thương, dân nghèo thành thị,
Ngoài những đặc điểm cơ bản trên, GCCN còn có một số đặc điểm riêng là:
- Trong chế độ TBCN GCCN không có TLSX, do đó phải bán sức lđ làm thuê cho g/c tư sản và bị bóc
lột giá trị thặng dư, GCCN không có chính quyền.
- Trong chế độ XHCN GCCN cùng toàn dân làm chủ các TLSX chính của xh, đảng của GCCN lãnh đạo
xh, lãnh đạo Nhà nước.
Chính từ những đặ điểm đó đã làm cho GCCN có những tính chất cơ bản, đó là:
- Tính tổ chức kỷ luật cao, do gắn với yêu cầu của nền sx hiện đại, do hoạt động có tổ chức của mình,


nhất là Đảng CS.
- Tính tiên phong về phương thức sản xuất, về hệ tư tưởng, về tổ chức.
- Tính triệt để cách mạng, do đại diện PTSX mới khác về bản chất với các chế độ tư hữu, do mâu thuẫn
và đối lập lợi ích với g/c tư sản và mội thế lực tư hữu áp bức bóc lột để vươn lên tự giải phóng bản thân và
giải phóng toàn nhân loại.
Sứ mệnh lịch sử của một g/c là trách nhiệm của một g/c đại diện cho PTSX tiến bộ, tiến hành đấu tranh,
xóa bỏ hình thái KT-XH cũ xây dựng thành công một hình thái KTXH mới.
Điều kiện để 1 g/c đảm nhận sứ mệnh lịch sử là g/c đại diện cho PTSX tiên tiến, có lợi ích đại diện cho
nhiều g/c, giai tầng trong xh, có hệ tư tưởng riêng phản ánh quy luật vận động của lịch sử và tổ chức được
chính đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh g/c.
* Có thể khái quát nội dung cơ bản sứ mệnh lịch sử GCCN qua mấy điểm sau:
- Một là, ngay trong CNTB hàng thế kỷ nay, cũng như trong CNXH, GCCN trước hết được đảm nhận sứ
mệnh trực tiếp là chủ thể lao động sx công nghiệp, là g/c giữ vị trí trung tâm của sx công nghiệp tạo ra của cải
vật chất, làm giàu cho xh, nếu tách rời sản xuất công nghiệp thì GCCN không còn sứ mệnh lịch sử ở những
nội dung khác tiếp theo. Những thành tựu to lớn về sản xuất của CNTB hàng thế kỷ nay và những thành tựu
bước đầu trong xây dựng CNXH đều có sự đóng góp to lớn và quyết định nhất của GCCN. Số lượng và chất
lượng GCCN ngày càng tăng. Như Mác và Awngghen đã đề cập: GCCN vừa là tập đoàn người lao động làm
thuê đông đảo nhất, cơ bản nhất trong trong nền công nghiệp TBCN, đồng thời là sản phẩm của nền công
nghiệp ấy. từ đó mới có thể xảy ra tình trạng bóc lột và bị bóc lột giá trị thặng dư, và do đó cuộc đấu tranh của
g/c vô sản chống lại g/c tư sản đã được diễn ra ngay từ khi g/c vô sản mới ra đời, tức là sứ mệnh lịch sử của
GCCN không phải bắt đầu với nội dung giành chính quyền mà trái lại có nội dung rộng lớn hơn kể cả trước
khi giành chính quyền.
- Hai là , thông qua đảng tiền phong của mình, GCCN lãnh đạo và tổ chức quá trình giành chính quyền
về tay mình và nhân dân lđ, xóa bỏ chế độ TBCN, xóa bỏ g/c tư sản, giải tán chính quyền nhà nước của chế
độ cũ, thành lập chính quyền mới của GCCN và nhân dân lđ, do đảng của GCCN lãnh đạo.
- Ba là, GCCN thông qua đảng của mình lãnh đạo, tổ chức thực hiện quá trình củng cố, bảo vệ chính
quyền, bảo vệ đất nước, đồng thời tổ chức xây dựng đất nước theo định hướng XHCN trên mọi lĩnh vực:
1
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, con người… để từng bước hình thành xh XHCN và CNCS trên thực tế ở
mỗi nước và trên toàn thế giới. đây là nội dung cơ bản nhất, quyết định nhất, phức tạp và lâu dài nhất trong sứ

mệnh lịch sử của GCCN. Không thể nhận thức và hoạt động chủ quan, duy ý chí, giản đơn, nóng vội,… cũng
không thể mơ hồ, hữu khuynh dẫn đến tự phát TBCN.
- Bốn là, GCCN ở mỗi nước luôn mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế của GCCN và nhân dân lđ các
nước trên thế giới để tăng cường sức mạnh và thực hiện nghĩa vụ quốc tế của mình vì hòa bình, độc lập, tự do,
dân chủ và tiến bộ xh. Đây là nội dung thể hiện bản chất quốc tế của GCCN.
- Năm là, GCCN và đảng CS thường xuyên đấu tranh chống mọi thứ chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại,
đấu tranh chống mọi thế lực thù địch với CNXH, với nhân dân.
Chúng ta có thể diễn đạt một cách khái quát nhất, cơ bản nhất những quan điểm của chủ nghĩa Mac lênin
về nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN là tiến hành nền sx hiện đại và thủ tiêu chế độ TBCN, chế độ áp bức
bóc lột cuối cùng trong lịch sử loài người đấu tranh cách mạng để giải phóng con người, xây dựng thành công
CNXH, CNCS trên phạm vi từng quốc gia và trên toàn thế giới.
* Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của GCCN:
- Xét về những điều kiện kinh tế kỹ thuật thì nền công nghiệp hiện đại đã quy định cho GCCN những đặc
điểm, tính chất cơ bản mà những g/c, tầng lớp xã hội như nông dân, trí thức, không thể có được và chính từ
những tính chất đặc điểm cơ bản ấy mà GCCN có sứ mệnh lịch sử nêu trên. Xét về mặt kinh tế GCCN gắn
liền với LLSX tiên tiến nhất dưới CNTB, do đó nó là nhân tố quyết định phá vỡ QHSX TBCN, là nguồi duy
nhất có khả năng lãnh đạo xh xây dựng một PTSX mới. cùng với nền sản xuất hiện đại ngày càng phát triển
và cùng với sự phát triển của phong trào công nhân. GCCN luôn được bổ sung thêm lực lượng trí thức mới và
những tầng lớp lao động xh khác làm cho nó trở thành một lực lượng xh đông đảo, hùng mạnh.
Tính khách quan mang ý nghĩa cơ bản nhất và tổng hợp cả về địa vị kinh tế lẫn chính trị xh đối với sự
mệnh lịch sử của GCCN là ngay từ khi chế độ TBCN mới ra đời thì ngay trong lòng nó đã xuất hiện một mâu
thuẫn cơ bản biểu hiện ở hai mặt: Về kinh tế, đó là mâu thuẫn giữa LLSX với QHSX, về chính trị, đó là mâu
thuẫn giữa GCCN với GCTS. Cả Hai mặt của mâu thuẫn này không thể giải quyết triệt để trong khuôn khổ
CNTB, và để giải quyết triệt để mâu thuẫn này thì CM xh đó là CM XHCN, CMVS nổ ra là một tất yếu.
* Điều kiện chủ quan:
Sứ mệnh lịch sử của GCCN xuất hiện một cách khách quan, song để biến khả năng khách quan đó thành
hiện thực thì phải thông qua những nhân tố chủ quan. Trong những nhân tố chủ quan ấy, việc thành lập ra
Đảng CS, chính đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh giai cấp, lợi ích của GCCN là yếu tố quyết định nhất đảm bảo
cho GCCN có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử. V.I.Leenin đã chỉ ra rằng Đảng là sự kết hợp phong trào công
nhân với CNXHKH. Những nhân tố đảm bảo cho ĐCS là nhân tố chủ quan đảm bảo cho GCCN thực hiện sứ

mệnh lịch sử của mình: đó chính là ĐCS là một bộ phận của GCCN, đó là bộ phận gồm những người ưu tú
nhất, tiên tiến nhất, giác ngộ nhất, đóng vai trò tiên phong lãnh đạo công nhân, chính vì lẽ đó Đảng mang bản
chất của GCCN, điều này mang ý nghĩa sống còn đối với Đảng. ĐCS là đại biểu trung thành cho lợi ích của
GCCN, toàn thể nhân dân lao động và dân tốc. ĐCS là đội tiên phong chiến đấu, là bộ tham mưu, là lãnh tụ
của GGCN, do đó phải thực sự vững vàng, kiên định và sáng suốt, phải có đường lối chiến lược, sách lược,
phương pháp cách mạng đúng đắn để lôi cuốn GCCN, nhân dân lao động theo Đảng thực hiện sứ mệnh lịch
sử của GCCN.
-Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam :
+ Thuận lợi:
-Giai cấp công nhân VN là sản phẩm của quá trình khai thác thuộc địa của CN thực dân Pháp, vừa chịu
ách bóc lột của CNTB vừa chịu ách nô lệ của người dân mất nước. Cũng vì vậy G/c công nhân VN có ý thức
sâu sắc về sự gắn bó lợi ích của g/c và lợi ích của dân tộc.
-Được Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn dắt, sớm có tổ chức Đảng, g/c công nhân tuy còn non trẻ nhưng đã sớm
trưởng thành và trở thành g/c lãnh đạo dân tộc giành được nhiều thắng lợi trong cuộc CM giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước.Sự trưởng thành của g/c công nhân VN cả về số lượng và chất lượng. Từ 3,7 triệu công
nhân năm 1986 đến nay là 9,5 triệu( chưa kể gần 0,5 triệu công nhân xuất khẩu lao động) và đang không
ngừng tăng lên. Trong đó công nhân doanh nghiệp nhà nước chiếm 22%, các doanh nghiệp ngoài nhà nước
chiếm 61%, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 16,5% và tỷ lệ công nhân nữ chiếm 43,6% quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động theo hướng CNH-HĐH đã khiến cho giai cấp công nhân nước ta
có mặt trong hầu khắp các lĩnh vực kinh tế và các thành phần kinh tế (đóng góp 70%GDP và 60% ngân sách
nhà nước )cả về chính trị-xã hội.
-Quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử trong những năm đổi mới g/c công nhân nước ta có những chuyển
biến quan trọng, đã hình thành và phát triển bộ phận công nhân trí thức đang tiếp tục phát huy vai trò là g/c
lãnh đạo CM thông qua đội tiền phong là Đảng CS Việt Nam, g/c tiên phong trong sự nghiệp xây dựng
CNXH, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, lực lượng nồng
2
cốt trong liên minh công –nông –trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng , đóng góp trực tiếp vào sự phát triển của
đất nước.
+ Hạn chế:
-Sự phát triển G/c CN chưa đáp ứng cả về số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng

nghề nghiệp, thiếu các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề. Một bộ phận công nhân
chậm thích nghi với cơ chế thị trường, giác ngộ g/c và bản lĩnh chính trị chưa đồng đều, việc làm, đời sống
vật chất và tinh thần có nhiều khó khăn, bức xúc.
- Đảng có chú trọng xây dựng g/c công nhân nhưng chưa quan tâm đầy đủ, chưa ngang tầm với vị trí, vai
trò của g/c CN trong thời kỳ mới. Chính sách, pháp luật còn nhiều hạn chế, bất cập. Tổ chức công đoàn và các
tổ chức chính trị -xã hội hoạt động chưa cao.
- Phát triển giai cấp công nhân VN để xứng đáng g/c đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH-
HĐH trong nền phát triển kinh tế tri thức:
Quan điểm chỉ đạo:
1. Kiên định quan điểm g/c công nhân là g/c lãnh đạo CM thông qua đội tiền phong là Đảng CS Việt
Nam.
2.G/c đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất, là lực lượng nồng cốt trong liên minh công -
nông - trí thức và đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
3.Chiến lược xây dựng g/c công nhân lớn mạnh phải gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội, CNH-HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế.
4.Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt. Đặc biệt quan tâm xây dựng thế hệ trẻ, công nhân trẻ
có học vấn, chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao, ngang tầm khu vực và quốc tế.
5.Xây dựng g/c công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và sự nỗ
lực vươn lên của mỗi người công nhân, sự tham gia đóng góp tích cực của người sử dụng lao động. Trong đó
sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước có vai trò quyết định, Công đoàn có vai trò quan trọng trực
tiếp trong chăm lo xây dựng G/c CN.
Nhiệm vụ, giải pháp:
-Nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, pháp triển lý luận về G/c CN qua đó đề ra chủ trương, giải pháp xây
dựng g/c CN phát triển toàn diện trong thời kỳ mới.
-Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng bước tri thức hóa g/c CN để nước ta có một đội
ngũ CN có trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp ngày càng cao đáp ứng nhu cầu năng suất lao
động, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
-Quan tâm bồi dưỡng, ý chí vươn lên thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu.Quyết tâm xây dựng tác phong công
nghiệp và kỷ luật lao động, lương tâm nghề nghiệp…cho công nhân.
-Xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật để đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của

CN, chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho CN tương xứng với năng suất lao động và những đóng
góp của họ.
-Đề cao trách nhiệm, tính tự giác của người sử dụng lao động, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát của Nhà nước, tổ chức Công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác. Có chế tài xử lý nghiêm các
tổ chức và cá nhân vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động./.
3
Câu 2: Tính tất yếu và tầm quan trọng của liên minh công – nông – trí thức. Liên minh công –
nông – trí thức của nước ta hiện nay như thế nào? Phương hướng chủ yếu tăng cường liên minh công
nông trí thức ở nước ta hiện nay?
1. Tất yếu khách quan và tầm quan trọng LM: Vấn đề liên minh giai cấp công nhân vì giai cấp
công dân và các tầng lớp lao động xã hội khác trong cuộc cách mạng của giai cấp công nhân đấu tranh chống
giai cấp tư sản, do Mác, Ăng – ghen phát hiện xây dựng, được LêNin vận dụng phát triển trong quá trình cách
mạng XHCN và bước đầu xây dựng CHXH ở nước Nga, là một nguyên lý căn bản trong lý luận CNXH KH.
Tính tất yếu khách quan về sự liên minh của giai cấp công nhân với giai cấp nông nhân và tầng lớp
trí thức trong thời kỳ quá độ lên CHXH, không phải xuất phát từ ý chí chủ quan của các nhà kinh điền hay
của các ĐCS mà nó đặt trên cơ sở chín muồi của những yếu tố, điều kiện khách quan. Khi phân tích cơ cấu xã
hội – giai cấp trong CNTB ,C.Mác chỉ ra, ngoài g/cấp công nhân là giai cấp đang phát triển mạnh mẽ cùng
với nền công nghiệp hiện đại thì còn các giai cấp và tầng lớp lao động xã hội khác thống nhất với lợi ích cơ
bản của giai cấp công nhân và cùng đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản. Từ những cuộc đấu tranh
mang tính đối đầu, đầu tiên của g/cấp công nhân với g/cấp tư sản bị thất bại, như công xã Pari là do công nhân
chiến đấu đơn độc, chưa liên hệ được với nông dân nên trở thành “bài ca ai điếu “. Trong cách mạng tháng
Mười và sau khi g/cấp công nhân đập tan chính quyền của g/cấp thống trị bóc lột, Lênin khẳng định “Chuyên
chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp vô sản, đội tiền phong của những người lao
động với đồng đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân , trí thức )”
Đối với giai cấp công nhân: do vị trí lịch sử quy định, là giai cấp ngày càng đông đảo theo sự phát
triển của nền kinh tế công nghiệp trong nước cũng như trên thế giới. Họ có những đặc điểm riêng, có ưu việt
mà không có giai cấp nào có được. Trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm
vi thế giới, là giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo, đi đầu trong
việc giải phóng con người, giải phóng xã hội. Giai cấp công nhân phải tổ chức lực lượng cách mạng, vì sự
nghiệp cách mạng nào cũng là sự nghiệp của quần chúng. Viêc tìm đến với giai cấp nông dân và tầng lớp trí

thức là một nhu cầu tự thân .
Giai cấp nông dân có vai trò to lớn trong mỗi chế độ xã hội, là lực lượng cách mạng của giai cấp đại biểu
cho phương thức sản xuất tiến bộ của các giai đoạn lịch sử. Giai cấp nông dân đã được giai cấp công nhân
giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột, nhu cầu tìm đến với giai cấp công nhân cũng là nhu cầu tự thân của họ,
nên là người bạn tự nhiên, gần gũi nhất của giai cấp công nhân. Đây chính là mối quan hệ đồng hành, gắn bó
khách quan tạo ra sự cố kết chặt công – nông.
Tầng lớp trí thức là một tập đoàn những người lao động xã hội đặc biệt bằng trí óc, phương thức lao động
chủ yếu là lao động trí tuệ cá nhân, tạo ra những sản phẩm khoa học, trí tuệ tinh thần. Khi đã thấy được vị trí
vai trò tiên phong lãnh đạo của giai cấp công nhân thì họ sẵn sàng tự giác đứng về phía công nhân và dân tộc
để thực hiện sự nghiệp giải phóng xã hội chung, trong đó có bản thân mình.
Như vậy, cả giai cấp công nhân, giai cấp nông nhân và tầng lớp trí thức đều là những lực lượng lao động
sản xuất, lực lượng chính trị - xã hội với những đặc điểm, vai trò xác định. Họ có những đặc điểm chung là
người LĐ bị áp bức bóc lột, cùng có kẻ thù chung, cùng có nguồn gốc xuất thân, gần gũi, có chung truyền
thống dân tộc đoàn kết gắn bó lâu dài và chung hết họ cùng nguyện vọng không còn áp bức bóc lột, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Họ là những giai cấp, tầng lớp đông đảo nhất trong thời kì
quá độ lên CNXH đặc biệt đối với các nước tiền tư bản, nông nghiệp lạc hậu quá độ bỏ qua chế độ TBCN đi
lên CNXH đây là lực lượng cách mạng chủ yếu. Với tư cách là giai cấp lãnh đạo, giai cấp công nhân mà đứng
đầu là Đảng CS phải nắm bắt được những yếu tố khách quan từ các giai cấp tầng lớp, để tổ chức thành liên
minh vững chắc, khi đó không chỉ giành được thắng lợi mà cũng “không có thế lực nào phá vỡ nổi” Liên
minh muốn được phát huy và cũng cố hơn phải lấy kinh tế làm cơ sở. Phải xuất phát từ yêu cầu khách quan về
kinh tế - kĩ thuật của một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH, mà nhiệm vụ trung tâm là CNH, HĐH. Do
đó phải gắn công nghiệp với nông nghiệp và khoa học công nghiệp hiện đại. Về tất yếu kinh tế - kỹ thuật ,
Lênin chỉ rõ: nếu không có kinh tế nông nghiệp làm cơ sở thì một nước nông nghiệp không thể xây dựng
được nền công nghiệp. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ về tính tất yếu này: biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền
kinh tế XHCN với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến. Tư tưởng đó tiếp tục
được thể hiện trong hội nghị Trung ương bảy (Khóa IX ), Trung ương bảy (Khóa X ).
2. Liên minh công - nông - trí thức của nước ta hiện nay: Liên minh Công - Nông - Trí thức ra đời và
phát triển một cách khách quan và tất yếu trong sự nghiệp của cách mạng Việt Nam mà giai cấp công nhân
giữ vai trò lãnh đạo. Liên minh này có vai trò rất to lớn trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa hội
nhập quốc tế của nước ta.

* Giai cấp công nhân: Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao
gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh
và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp.
4
- Những mặt đạt được: Giai cấp công nhân ngày càng lớn mạnh về cả chất lượng và số lượng. Trình độ
chuyên môn ngày càng được nâng cao cần cù sáng tạo ham học hỏi tiếp thu nhanh kỹ thuật và khoa học công
nghệ. Xu hướng phát triển thành công nhân tri thức ngày càng nhanh trong nền kinh tế tri thức. Giai cấp công
nhân nước ta hiện nay có khoảng 9,5 triệu người ( chưa kể gần 0,5 triệu công nhân xuất khẩu lao động ) và
đang không ngừng tăng lên. Trong đó, công nhân doanh nghiệp nhà nước chiếm 22%, các doanh nghiệp nước
ngoài chiếm 61%, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 16,5% và tỷ lệ công nhân nữ chiếm
43,6%. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động theo hướng CNH, HĐH kiến cho giai cấp công nhân
nước ta có mặt trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế. Theo đó, công nhân có điều kiện để phát huy vai trò tích
cực của mình cả về kinh tế- kỹ thuật (đóng góp 70% GDP và 60% ngân sách nhà nước) cả về chính trị - xã
hội (tài liệu Hướng dẫn học tập Nghị quyết Trung ương lần thứ sáu khoá X, NXb. Chính trị quốc gia,
H.2008). Số lượng công nhân có trình độ đại học, cao đẳng ở nước ta chiếm trên 150.000 người (khoảng
3,3%). Trong sự nghiệp CNH, HĐH giai cấp công nhân đang có sự thay đổi mạnh mẽ và tiến bộ thực hiện
đúng đường lối cách mạng trong sự nghiệp xây dựng XHCN của Đảng.
- Những mặt hạn chế: Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yếu cầu của sự nghiệp
CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế cả về số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng
nghề nghiệp, thiếu các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; phần lớn công nhân
xuất thân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống. Một bộ phận công nhân chậm thích nghi với
cơ chế thị trường. Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không đồng đều; việc làm, đời sông
vật chất và tinh thần của công nhân đang có nhiều khó khăn bức xúc. Những hạn chế, yếu kém trong phát
triển kinh tế - xã hội cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc làm, đời sống và tư tưởng, tình cảm của công nhân.
Lợi ích mà một bộ phận công nhân được hưởng chưa tương xứng với thành tựu của công cuộc đổi mới và
đóng góp của chính họ.
* Giai cấp nông dân: Là những người lao động sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội trong lĩnh vực nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp gắn với thiên nhiên như đất, biển, rừng…
- Những mặt đạt được: Hình thành một bộ phận công nhân nông nghiệp, phong cách lao động của người
sản xuất nhỏ giảm dần.

Đội ngũ những người lao động thủ công nghiệp, dịch vụ kĩ thuật, dịch vụ sinh hoạt và lưu thông tăng lên.
Đặc biệt là, một bộ phận nông dân lao động mang tính chất trí thức xuất hiện ngày càng nhiều. Trong tiến
trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa của đất nước, nông thôn nước ta trong 5 năm qua đã có một bước phát
triển đáng kể: Giá trị sản lượng bình quân hàng năm tăng 5%. Sản lượng lương thực đạt gần 34 triệu tấn.
Tăng bình quân hàng năm 1,3 triệu tấn. Bình quân lương thực đầu người đạt 500kg . Nhiều vùng sản xuất
nông sản hàng hóa tập trung gắn với công nghiệp chế biến bước đầu được hình thành, chăn nuôi gia súc, gia
cầm, thủy sản phát triển. Kim ngạch xuất khẩu hàng nông – lâm – thủy sản đạt 4 tỉ USD/năm.
- Những mặt hạn chế: Tư liệu sản xuất phân tán, năng suất thấp, phụ thuộc nhiều vào tự nhiên nên đời
sống bấp bênh. Một bộ phận nông dân rời khỏi đất canh tác, bỏ nghề truyền thống trong khi có ít cơ hội để
chuyển sang những nghề phi nông nghiệp, và trở thành giai cấp khác. Do sự phát triển của kinh tế đất nước
nhiều tư liệu sản xuất nông nghiệp bị mất đi đặc biệt là đất đai canh tác bị thu hồi phục vụ cho công nghiệp
nông dân bị mất đất. Sự phân tầng, phân hóa giàu nghèo phát triển nhanh trong nội bộ giai cấp nông dân, giữa
các địa phương, vùng, miền khác nhau.
* Tầng lớp trí thức: Là một tầng lớp xã hội đặc biệt, lao động bằng trí óc ở trình độ cao. Trí thức giữ vai
trò chủ đạo trong việc phát minh, sáng tạo, ứng dụng khoa học vào thực tiễn… Cung cấp những cơ sở khoa
học trong việc hoạch định đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước.
- Những mặt đạt được: Nhìn chung, đội ngũ trí thức nước ta có truyền thống yêu nước, có tinh thần đoàn
kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong tầng lớp trí thức đang diễn ra quá trình biến đổi nhanh chóng về cơ cấu, lượng và chất; phong phú
về cơ cấu nghề; đa dạng về nguồn đào tạo. Hiện nay nước ta có khoảng 3 triệu người có trình độ đại học, cao
đẳng và 30.000 thạc sĩ, tiến sĩ. Nước ta có nguồn nhân lực trí thức chiếm tỉ lệ khá cao so với các nước đang
phát triển. Địa vị xã hội của tầng lớp trí thức được tăng cường và tăng tiến ổn định trong suốt thời kì đổi mới.
Có nhiều đóng góp to lớn trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Ngày nay, cách mạng khoa học công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, trí thức ngày
càng có vai trò, vị trí quan trọng, nhất là trong quá trình xây dựng kinh tế tri thức và quá trình hội nhập khu
vực và quốc tế.
- Những mặt hạn chế: Sự nảy sinh tính chất phức tạp trong tầng lớp trí thức về cơ cấu xã hội, về ý thức,
quan điểm chính trị. Trí thức không có hệ tư tưởng riêng vì không có phương thức sản xuất riêng và địa vị
kinh tế - xã hội độc lập. Vai trò và tư tưởng của họ phụ thuộc vào giai cấp thống trị xã hội.
* Khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức.

- Những mặt đạt được
5
Mối liên kết ngày càng được củng cố và phát triển lên theo sự phát triển của đất nước. Theo đuổi sự
nghiệp cách mạng của đất nước công nghiệp hóa hiện đại hóa. Đáp ứng được nhu cầu lợi ích chính trị của
từng giai cấp trong liên minh và các giai cấp khác và cả dân tộc. Xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân
tộc.
Cơ cấu kinh tế chung là “nông công nghiệp dịch vụ” từng bước phát triển lên nền kinh tế tri thức. Từng
bước hình thành nên QHSX XHCN dựa trên chế độ công hữu. Thực hiện những chính sách khuyến khích phát
triển kinh tế các ngành ví dụ: Chính sách khuyến nông khuyến ngư, cải cách hành chính…
Đạt được những thành tựu trong lĩnh vực văn hóa xã hội: Xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho
người lao động, có những chính sách xã hội cho người có công với CM, Nâng cao dân trí phổ cập giáo dục,
nâng cao chất lượng giáo dục. Gắn với phát triển công nghiệp và khoa học kĩ thuật với phát triển nông thôn
đô thị hóa: Xây dựng các cơ sở giáo dục, y tế văn hóa công trình phúc lợi công cộng. Kinh tế ngày càng phát
triển với nhiều hình thức hợp tác, liên kết, giao lưu,… trong cả sản xuất, lưu thông giữa công nhân, nông dân,
trí thức; giữa các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, khoa học, giữa các địa bàn, vùng miền dân cư trong cả
nước. Bước đầu đã có những hình thức tổ chức mới để phát huy sức mạnh của Liên minh công, nông, trí như :
Tổ chức Liên kết bốn nhà: Nhà nước, Nhà nông, Nhà khoa học, Nhà doanh nghiệp trong phát triển nông
nghiệp, nông thôn
Liên kết giữa Mặt trận Tổ quốc và các ngành văn hoá thông tin trong xây dựng nếp sống văn minh, gia
đình văn hoá ở nông thôn, đô thị.
Liên kết giữa ngành Công nghệ Thông tin với các địa phương, các trường học, các cơ quan nối mạng
Internet về nông thôn
- Những mặt hạn chế:
Sự liên kết liên minh còn chưa được vững chắc, bền vững ở một số địa phương mang tính hình thức
không thực chất.
Đôi khi có những xung đột mâu thuẫn không tránh khỏi giữa lợi ích của các giai cấp
Ví dụ: Việc tiêu thụ hàng hóa sản xuất ra không bán được hoặc quá rẻ .
Hay quan hệ lợi ích giữa nông dân sx ở các vung nguyên liệu tập trung với các xí nghiệp chế biến,
Một số chính sách với nông nghiệp nông thôn còn chưa hợp lý như đền bù đất đai, thuế , tín dụng.
Chênh lệch giữa giá cả hàng hóa công nghiệp, dịch vụ với giá cả nông sản ngày càng tăng. Chất lượng

nông sản làm ra chưa đảm bảo yêu cầu của công nghiệp chế biến và xuất khẩu
Một bộ phận giai cấp công nhân chưa nhận thức rõ được trách nhiệm của mình với sự nghiệp CNH –
HĐH đất nước, có nơi còn gây khó khăn trong việc giải phóng mặt bằng để xây dựng các công trình giao
thông, thủy lợi, điện hoặc các khu công nghiệp
3. Phương hướng tăng cường liên minh công nông trí thức ở nước ta hiện nay: :
Đảng CS Việt Nam đã ban hành các Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu và bảy Ban chấp hành Trung ương
khoá X (2008) “ Về việc tiếp tục xây dựng của Đảng ta về xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” Quán triệt và thực hiện tốt các Văn kiện này là xây dựng
được giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức vững mạnh và qua đó công - nông - trí thức đến
với nhau, đẩy mạnh liên minh, liên kết trên tất cả các lĩnh vực.
Văn kiện, Đảng ta nêu rõ những nhiệm vụ và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân là: tiếp tục nhiên
cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về giai cấp công nhân trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
XHCN, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế; đẩy mạnh và nâng cao
chất lượng đào tạo nghề, từng bước trí thức hoá giai cấp công nhân; quan tâm bồi dưỡng; nâng cao trình độ
chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần dân tộc cho giai cấp công nhân; bổ sung, sửa đổi, xây dựng và thực hiện
nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho công nhân, chăm
lo đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của tổ chức
công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong xây dựng giai cấp công nhân.
Về nhiệm vụ và giải pháp xây dựng giai cấp nông dân Đảng ta xác định: xây dựng nền nông nghiệp toàn
diện theo hướng hiện đại, đồng thời phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn; xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội nông thôn gắn với phát triển các đô thị; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư
ở nông thôn; nhất là vùng khó khăn; đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có hiệu quả
ở nông thôn; phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân
lực, tạo bước đột phá để hiện đại hoá nông nghiệp, công nghiệp hoá nông thôn; đổi mới mạnh mẽ cơ chế,
chính sách để huy động các nguồn lực, phát triển nhanh kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần nông dân; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của các đoàn thể
chính trị - xã hội ở nông thôn; nhất là hội nông dân.
Về nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức, Đảng ta chỉ rõ: hoàn thiện môi trường và điều kiện
thuận lợi cho hoạt động của trí thức; thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức; tạo chuyển
biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức; đề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố và nâng cao chất

6
lượng hoạt động của các hội trí thức; nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ trí
thức.
Trong tất cả các Văn kiện của Đảng vừa qua về xây dựng giai cấp công nhân, xây dựng nông nghiệp,
nông dân, nông thôn, xây dựng đội ngũ trí thức còn nêu rõ, phải thực hiện được liên minh công - nông - trí
thức mới giải quyết được các nhiệm vụ và giải nêu trên.
Cả về mặt lý luận và thực tiễn đều khẳng định rằng: liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và
đội ngũ trí thức luôn luôn là vấn đề có tính chiến lược của cách mạng, kể cả trong cách mạng dân tộc, dân chủ
cũng như cách mạng XHCN. Đó là lực lượng nòng cốt của khối đại đoàn kết toàn dân trong mặt trận dân tộc
thống nhất, nguồn sức mạnh và động lực to lớn của sự nghiệp của sự nghiệp CNH – HĐH, đưa đất nước tiến
lên XHCN. /.
7
Câu 3: Tồn tại hạn chế trong việc phát huy nhân tố con người Việt Nam. Phương hướng và giải
pháp phát huy nhân tố con người ở nước ta?
1.Quan niệm về nhân tố con người và phát huy nhân tố con người.
- Về nhân tố con người: Cho đến nay, có nhiều quan niệm khác nhau về nhân tố con người, song tựu
chung đều cho rằng: “nhân tố con người” là 1 thuật ngữ được dùng để nhấn mạnh chủ yếu đến mặt hoạt động
và vai trò của của con người với tư cách là một chủ thể sáng tạo thúc đẩy sự phát triển của lịch sử XH loài
người.
- Về phát huy nhân tố con người:
Nhân tố con người đóng vai trò là chủ thể quyết định tiến trình phát triển của lịch sử XH. Do vậy, mỗi
quốc gia, dân tộc phải biết cách phát huy có hiệu quả nhân tố con người trong tiến trình phát triển của mình.
Việc phát huy nhân tố con người bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
+ Phát hiện ra những tiềm năng, năng lực sáng tạo, những xu hướng của cả cộng đồng trong quá trình
hoạt động thực tiễn, trong quá trình lao động SX và sáng tạo.
+ Tạo ra những Đk và môi trường thuận lợi để tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể và cộng đồng bộc
lộ và tiếp tục nảy nở; khai phóng những tiềm năng, năng lực hiện có, đồng thời chăm lo bồi dưỡng để không
ngừng nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực lên những trình độ mới.
+ Kế thừa, bổ sung và phát triển những giá trị của dân tộc và thời đại, đồng thời tìm ra những biện pháp
hữu hiệu nhằm ngăn ngừa, khắc phục những nhân tố tiêu cực có tác động xấu đến xu hướng vận động và phát

triển nhân tố con người.
2. Tồn tại hạn chế trong việc phát huy nhân tố con người ở Việt Nam:
Một là, trong một thời gian khá dài, chúng ta đã tuyệt đối hóa mặt xã hội của con người, dẫn đến xem nhẹ
mặt tự nhiên, không quan tâm thỏa đáng đến những nhu cầu, lợi ích vật chất và tinh thần chính đáng của con
người, do vậy tính cách cá nhân và tính năng động sáng tạo của con người không được tôn trọng và phát huy
trong quá trình xây dựng đất nước.
Hai là, có lúc chúng ta đã đề cao tính giai cấp, không chú ý tính kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp của
con người VN mà xem nhẹ tính nhân loại nên đã làm cho nhân cách con người không được phát triển một
cách toàn diện, vì thế nhân tố con người chưa được phát huy có hiệu quả.
Ba là, tình trạng quan liêu trong bộ máy nhà nước chưa khắc phục được; một bộ phận cán bộ đảng viên
thoái hóa, biến chất cùng với những tiêu cực nảy sinh và phát triển chưa được ngăn chặn, giải quyết kịp
thời… đã và đang tác động xấu đến xã hội, làm giảm lòng tin của dân đối với Đảng, với chế độ; tính năng
động của con người trong nhiều trường hợp không có điều kiện để nảy sinh phát triển và phát huy có hiệu
quả.
Bốn là, trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp, lao động qua đào tạo nghề của nguồn nhân lực nước ta còn
thiếu về số lượng, bất hợp lý về cơ cấu và nhìn chung chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường. Lực
lượng lao động đến nay phổ biến là lao động giản đơn, thiếu nghiêm trọng lao động trình độ cao.
Năm là, do lịch sử để lại, con người VN chịu ảnh hưởng khá nặng tâm lý, thói quen của người sản xuất
nhỏ tiểu nông. Chủ nghĩa bình quân còn chi phối khá nặng trong xã hội. Tính tổ chức, kỷ luật lao động công
nghiệp còn nhiều hạn chế. Trong cơ chế thị trường và hợp tác quốc tế, nhiều thói hư tật xấu phát triển, tệ nạn
xã hội gia tăng, như chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng của một bộ phận người trong xã hội …
Sáu là, đầu tư cho giáo dục đào tạo còn thấp; “ chất lượng giáo dục còn nhiều yếu kém… chương trình,
phương pháp dạy và học còn lạc hậu, nặng nề, chưa thật phù hợp” (Văn kiện ĐH lần thứ X). Tình trạng tiêu
cức trong giáo dục còn đang phổ biến ở nhiều nơi, chất lượng giáo viên còn hạn chế. Những điều đó đang ảnh
hưởng đến chất lượng của nguồn nhân lực và quá trình phát huy nhân tố con người của nước ta chưa hiệu quả.
3. Phương hướng và giải pháp phát huy nhân tố con người ở nước ta:
a. Những phương hướng cơ bản:
Để phát huy có hiệu quả nhân tố con người VN cần thực hiện một số phương hướng cơ bản:
Thứ nhất, “đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức”.
Đặc trưng của CNH, HĐH là sử dụng 1 cách phổ biến nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật

cao dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ KH-CN nhằm tạo ra năng suất lao động XH cao. Tại
ĐH X, Đảng ta nêu ra mục tiêu: phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành 1 nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Để đạt được mục tiêu đó phải “đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển KT tri thức” nhằm
rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước và tạo ra cơ sở vật chất-kỹ thuật cần thiết cho CN XH ở VN. Chủ
trương của đảng và Nhà nước ta là đẩy mạnh CNH, HĐH và từng bước vững chắc chuyển sang nền KT tri
thức là có căn cứ KH và phù hợp với xu thế chung của thời đại. Song điều này chỉ thành công khi có chính
sách đúng về phát triển nguồn nhân lực và phát huy có hiệu quả nhân tố con người VN.
8
Như vậy CNH, HĐH vừu là đk vật chất cần thiết và quan trọng đề phát triển đất nước, nâng cao chất
lượng đời sống của con người, để bồi dưỡng phát huy nhân tố con người, đồng thời vừa đặt ra yêu cầu khách
quan phát huy nhân tố con người-yếu tố quyết định thắng lợi của quá trình CNH, HĐH đất nước.
Thứ hai, xây dựng và từng bước hoàn chỉnh 1 hệ thống chính sách XH phù hợp.
CS XH là 1 bộ phận hợp thành hệ thống chính sách của đảng và NN ta, là sự thể hiện lý tưởng chính trị,
cương lĩnh, đường lối CM của Đảng CS, trong hệ thống pháp luật của NN XHCN và thể hiện bằng quá trình
tổ chức thực hiện trong cuộc sống. Chính sách XH thể hiện trên tất cả các lĩnh vực và thể hiện rõ nhất bản
chất của 1 chế độ XH.
Thực hiện tốt chính sách XH phải hướng tới con người và vì con người, qua đó chăm lo và tạo ĐK thuận
lợi cho mỗi người được học tập rèn luyện phấn đấu vươn lên và cống hiến hết mình vì sự phát triển của đất
nước. Để thực hiện được điều đó phải đảm bảo “ tăng trưởng kinh tế pảhi gắn liền với tiến bộ và công bằng
XH ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển”.
Thứ ba, từng bước xây dựng và không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý của chế độ XHCN.
Cơ chế quản lý của 1 XH là toàn bộ những thiết chế, những quy định về mqhệ trách nhiệm, quyền hạn
giữa cá nhân với tổ chức, giữa tổ chức với tổ chức nhằm thực hiện mục đích quản lý XH theo 1 định hướng
nhất định của giai cấp cầm quyền.
Chế độ XHCN là chế độ quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, nhân dân làm chủ trên mọi lĩnh vực. Do
vậy, XH phải tạo ra những đk thuận lợi để người lao động có thể tham gia tích cực vào vào công việc quản lý
XH, quản lý kinh tế quản lý NN, qua đó, nhân tố con người mới được phát huy một cách hiệu quản vào các
quá trình phát triển.
Thứ tư, thực hiện cuộc CM XH trên lĩnh vực tư tưởng và VH.
Cuộc CM tư tưởng VH có nhiệm vụ trang bị lý luận CN Lác –Lenin, tư tưởng HCM cho quần chúng

nhân dân lao động. Do vậy thực hiện cuộc CM tư tưởng và VH chính là nhằm bồi dưỡng, phát triển và phát
huy tốt hơn nhân tố con người VN trong quá trình xây dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc.
b.Những giải pháp phát huy nhân tố con người Việt Nam
Để phát huy nhân tố con người, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, trên lĩnh vực kinh tế:
Xác lập địa vị làm chủ của người lao động trong quá trình lao động SX thông qua việc tạo đk cho họ làm
chủ những tư liệu SX của toàn XH, ở mọi thành phần kt. Phát huy sáng kiến của người lao động trong quá
trình lao động SX, phát triển kinh tế nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu ăn, ở học hành, chữa bệnh, đi lại… của
người lao động; thực hiện phân phối công bằng, công khai và dân chủ.
Khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh của mỗi cá nhân, mỗi tập thể, mỗi địa phương trong quá trình SX
kinh doanh; phát triển ngành nghề truyền thống, phát triển kinh tế thị trưìơng định hướng XHCN để góp phần
giải quyết những khó khăn của đất nước.
Thứ hai, trên lĩnh vực chính trị.
Đảm bảo giữ vững sự ổn định chính trị và xây dựng môi trường chính trị dân chủ lãnh mạnh tạo đk cho
sự phát triển và phát huy có hiệu quả những tiềm năng, những năng lực sáng tao của mỗi tập thể lao động và
của cả cộng đồng vào các quá trình phát triển kinh tế-XH. Hướng tới các mục tiêu nhân văn, tiến bộ XH và
phát triển bền vững vì lợi ích của mỗi người và vì lợi ích của toàn XH. Thực hiện tốt pháp lệnh dân chủ ở cơ
sở để tạo động lực kích thích tính năng động sáng tạo của mọi người dân.
Tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của quần chúng nhân dân trong mọi hoạt động của bộ máy NN,
thực hiện dân chủ hoa đời sống XH. Giáo dục tinh thần yêu nước, nâng cao ý thức tự cường dân tộc, trách
nhiệm công dân, bản lĩnh chính trị cua mọi người dân; huy động quấn chúng tích cực tham gia đấu tranh
chống tham nhũng, tệ nạn XH; chống những âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, bảo vệ chế độ XHCN
và nhưng thành quả CM.
Thứ 3, trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
ĐH X khẳng định “ Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao”
chính là nhằm tạo ra nguồn năng lực nội sinh đủ mạnh đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH, HĐH gắn với
phát triển kinh tế tri thức. Các yếu tố quyết định năng lực nội sinh chính là nền VH, giáo dục và KH, đồng
thời đó là yếu tố cơ bản để tạo nên nguồn nhân lực chất lượng cao và phát huy nhân tố con người VN trong
quá trình phát triển.
Để nâng cao chất lượng nền giáo dục, bắt kịp được sự tiến bộ về KH giáo dục của thế giới và đòi hỏi của

nền kinh tế, cần tập trung đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục theo hướng vừa giữ gìn, phát huy các
giá trị VH truyền thống của dân tộc, vừa tiếp thu những tri thức mới để theo kịp với sự phát triển của thời đại.
Đổi mới phương pháp giáo dục theo hướng lấy hoạt động của người học làm trung tâm, khơi dậy tính chủ
động sáng tạo của người học trong quá trình học tập. Tạo ra một XH học tập, học tập suốt đời. Phương châm
của đổi mới giáo dục-đào tạo là đào tạo theo yêu cầu của XH và sự phát triển của KH; gắn đào tạo lý thuyết
9
với thực hành; đề cao vai trò tự học của người học, nhất là ở bậc đại học và sau đại học. Phương châm giáo
dục toàn diện phải được thực hiện.
Tiếp tục thực hiện tốt các mục tiêu:
+ Nâng cao mặt bằng dân trí, củng cố vững chắc những thành tựu đã đạt được trong việc xoá nạn mù chữ,
phổ cập tiểu học và trung học cơ sở, tiến tới phổ cập trung học phổ thông để tạo mặt bằng dân trí tối thiểu cho
việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
+ Đào tạo nhân lực. Trong những năm tới cần tập trung đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, có tay nghề
cao, có tri thức và có năng lực ứng dụng những kỹ thuật mới, những công nghệ mới trong quá trình sx công
nghiệp theo hướng ngày càng hiện đại. Coi trọng việc đào tạo nghề cho nông dân và chuyển giao những công
nghệ mới, nhất là công nghệ sinh học, những kỹ thuật mới vào sx NN để tăng năng suất và hiệu quả kinh tế.
+ Bồi dưỡng nhân tài. Để có nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH, HDH,
gắn với kinh tế tri thức cần coi trong chiến lược người tài. Thường xuyên chăm sóc cho tài năng sớm phát
triển. Xây dựng đội ngũ cán bộ KH tài năng, các nhà quản lý và các doanh nhân giỏi, hình thành nền KH tiên
tiến, đủ khả năng giải quyết các vấn đề chính trị, XH và kỹ thuật hiện đại đặt ra trong quá trình CNH, HĐH
và từng bước chuyển sang kinh tế tri thức.
Thứ 4, trên lĩnh vực XH.
Giải quyết những lợi ích chính đáng của người lao động như vấn đề việc làm, chế độ tiền lương, khen
thưởng, sử dụng, đề bạt, đảm bảo công bằng XH…để tạo ra động lực trực tiếp kích thích tính tích cực, sáng
tạo của người lao động trong tất cả các thành phần kinh tế.
Thực hiện tốt các chính sách chăm sóc sức khoẻ cộng động hướng tới “ Xây dựng chiến lược quốc gia về
nâng cao sức khoẻ, tầm vóc con người VN, tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi”
Từng bước khắc phục đi tới loại bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu, những bất bình đẳng XH; xdựng
quan hệ giữa người và người trên tinh thần tương trợ, giúo đỡ lẫn nhau trong sx kinh doanh, trong xóa đói
giảm nghèo, trong đời sống XH.

Thứ năm, trên lĩnh vực tư tưởng, VH
Đẩy mạnh cuộc đtranh trên lvực tt, vh, phê phán những tt phản động đang tìm cách phủ nhận con đường
XHCN ở VN; đấu tranh chống CN cá nhân, tt cơ hội, thực dụng; chặn đà suy thoái về đạo đức, lối sống.
Tiếp tục giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc, khắc phục những hạn chế của truyền
thống; đồng thời tiếp thu những tinh hoa VH của nhân loại và thời đại để bổ sung cho nền VH VN, hướng tới
xdựng nền VH tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Tạo ĐK cho hoạt động VH, nghệ thuật được phát triển hướng tới góp phần cổ vũ cái đẹp, cái hay và góp
phần xdựng lối sống lành mạnh, nâng cao giá trị nhân văn.
10
Câu 4: Dân chủ XHCN và bản chất của dân chủ XHCN. Quá trình thực hiện dân chủ ở VN như thế
nào?
Theo quan niệm của Lê-nin: Dân chủ là sự thống trị của đa số.
Với nghĩa này có thể hiểu dân chủ được nhìn nhận như một quyền lực mà tất cả quyền lực thuộc về đa số
người dân chứ không phải của một nhóm người, quyền lực này được nhân dân giao cho nhà nước của mình, là
người đại diện cho mình. Theo Lê-nin dân chủ được nhìn nhận như là một hình thức tổ chức nhà nước, trong
đó thừa nhận sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân vào công việc quản lý nhà nước để thực hiện sự
thống trị đối với thiểu số những kẻ vi phạm dân chủ của nhân dân. Mức độ, phạm vi tham gia thật sự của quần
chúng nhân dân vào công việc quản lý nhà nước phản ánh trình độ phát triển của nền dân chủ, phản ánh
những vấn đề cốt lỗi nhất của dân chủ.
Trong lịch sử phát triển với tư cách là một nhà nước một chế độ chính trị thì có ba nền dân chủ đó là: nền
dân chủ chủ nô, gắn với chế độ chiếm hữu nô lệ; nền dân chủ tư sản, gắn với chế độ tư bản chủ nghĩa; nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, gắn với chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên muốn biết một nhà nước dân chủ có thực sự
dân chủ hay không phải xem xét nhà nước ấy dân là ai và bản chất của chế độ xã hội ấy như thế nào. Như vậy
thuật ngữ dân chủ chỉ xuất hiện khi trước đó đã tồn tại ba yếu tố: nhân dân, quyền lực công cộng và mối quan
hệ giữa chúng. Thực ra các yếu tố cấu thành nội dung của khái niệm dân chủ đã tồn tại suốt chiều dài lịch sử
(trừ chế độ nguyên thuỷ), nhưng bản chất của dân chủ không nằm trong các yếu tố đó mà nằm trong mối quan
hệ xác định giữa chúng: quan hệ sở hữu và chi phối quyền lực công cộng từ phía nhân dân.
Ngoài các nghĩa trên dân chủ còn được hiểu là một nguyên tắc tổ chức, phương thức sinh hoạt của một tổ
chức chính trị- xã hội, một cộng đồng dân cư, theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số.
Khi xã hội phân chia thành giai cấp và có nhà nước thì không có dân chủ chung chung, dân chủ phi giai

cấp, siêu giai cấp, dân chủ thuần tuý. Trái lại, dân chủ mang bản chất giai cấp thống trị xã hội. Dân chủ còn là
một phạm trù chính trị vì nó thể hiện bản chất của chế độ chính trị, của giai cấp thống trị mà ở đó nó tồn tại,
phản ánh bản chất và lợi ích của giai cấp thống trị.
1. Bản chất của dân chủ XHCN
Dân chủ mang những giá trị nhân văn, nhân đạo. Thành quả của dân chủ đạt được trong xã hội trước hết
tuỳ thuộc vào thành quả đấu tranh của nhân dân, do đó những giá trị dân chủ đạt được trong các cuộc đấu
tranh đều mang tính nhân dân.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ được xác lập sau khi giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của mình
là Đảng CS giành được chính quyền, tiến hành cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội thông qua cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
- Là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua đảng của nó đối với toàn xã hội, nhưng có sự
thống nhất giữa tính giai cấp công nhân với tính dân tộc và tính nhân dân, do lợi ích của giai cấp công nhân
phù hợp với lợi ích của dân tộc và của đại đa số nhân dân lao động.
- Do Đảng CS lãnh đạo đây là yếu tố quan trọng để đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, bỡi vì
Đảng CS đại biểu cho trí tuệ, lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Với ý nghĩa
này dân chủ xã hội chủ nghĩa mang tính nhất nguyên về chính trị. Sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông
qua Đảng CS đối với toàn xã hội về mọi mặt mà Lênin gọi là sự thống trị chính trị.
- Nhân dân lao động là những người làm chủ mọi quan hệ chính trị trong xã hội. Họ có quyền giới thiệu
các đại biểu tham gia váo bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương, tham gia đóng góp ý kiến xây
dựng chính sách, pháp luật, xây dựng bộ máy và cán bộ nhân viên nhà nước. Mục đích của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa là xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, tạo điều kiện cho nhân dân làm chủ xã hội chủ nghĩa.
Quyền được tham gia rộng rãi vào công việc quản lý nhà nước chính là nội dung dân chủ trên lĩnh vực chính
trị.
- Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu đáp ứng sự phát
triển cao của lực lượng sản xuất hiện đại nhằm thoả mãn ngày càng cao nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân
dân. Trước hết đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân về các tư liệu sản xuất chủ yếu; quyền làm chủ trong
quá trình sản xuất kinh doanh, quản lý và phân phối.
- Dưới góc độ kinh tế dân chủ xã hội chủ nghĩa được biểu hiện là sự đảm bảo về lợi ích kinh tế, phải coi
lợi ích của người lao động là động lực cơ bản nhất có sức thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Thực chất của
11

việc tổ chức, quản lý nền kinh tế - xã hội chính là sắp xếp sao cho hài hoà các quan hệ lợi ích của các giai cấp,
các tầng lớp và của những người lao động. Lợi ích kinh tế phải thực hiện bỡi lao động, mọi người đều có
quyền lao động và đều có quyền được hưởng thành quả lao động của mình.
Bản chất chất kinh tế đó chỉ được bộc lộ đầy đủ qua một quá trình phát triển ổn định về kinh tế và chính
trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Mác Lênin và sự quản lý, hướng dẫn của nhà nước xã hội chủ nghĩa; là sự kế
thừa và phát triển mọi thành tựu mà nhân loại đã tạo ra trong lịch sử, đồng thời lọc bỏ những nhân tố lạc hậu,
tiêu cực, kìm hãm của các chế độ kinh tế trước, nhất là bản chất tư hữu, áp bức bóc lột, bất công đối với đa số
nhân dân lao động.
- Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác-Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân làm nền
tảng; đồng thời là sự kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hoá thuyền thống các dân tộc; tiếp thu những giá
trị tiến bộ, văn minh mà nhân loại đã đạt được. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân được làm chủ
những giá trị văn hoá tinh thần; được nâng cao trình độ văn hoá, có điều kiện để phát triển các nhân.
Ở khía cạnh văn hoá, sự phát triển của dân chủ xã hội chủ nghĩa và những thành quả đạt được trong công
cuộc đấu tranh cho dân chủ được coi như một quá trình sáng tạo văn hoá, một thành tựu văn hoá của loài
người.
2. Quá trình thực hiện dân chủ ở Việt Nam:
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta được xây dựng trong điều kiện có có Đảng CS do Chủ tịch Hồ
Chí Minh sáng lập và rèn luyện, là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt nam, là đại biểu trung thành
cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc. Kế tục tư tưởng vì dân của Chủ tịch
Hồ Chí Minh Đảng ta chủ trương xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, mở rộng và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, nhà nước của nhân dân do nhân dân và vì nhân
dân. Nhà nước ta thừa nhận nhân dân là cội nguồn của quyền lực, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Chúng
ta có hệ thống chính trị vững mạnh, đây là cơ sở đảm bảo cho việc xây dựng nền dân chủ XHCN nền dân chủ
thực chất.
Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu, đồng thời là động
lực bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, của công cuộc đổi mới.
Hiện nay ở nước ta thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa phát huy quyền làm chủ của nhân dân
được tiến hành dưới nhiều hình thức, nhiều cấp độ, trong đó thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở có ý nghĩa quan
trọng và cấp bách, nó mang tính chất cơ bản và lâu dài bởi vì việc thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở nhằm phát
huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân ở xã, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của nông

dân và nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội, tăng cường đoàn kết nông thôn, cải thiện
dân sinh, nâng cao dân trí, xây dựng Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể ở xã trong sạch, vững mạnh ngăn
chặn và khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu tham nhũng, góp phần vào sự nghiệp dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
Việc thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở còn làm tăng niềm tin của quần chúng nhân dân lao động vào sự lãnh
đạo của Đảng và Nhà Nước vào tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, tạo nên những điều kiện thuận lợi
và những động lực to lớn trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Việc thực hiện dân chủ ở cấp cơ
sở cần quán triệt những quan điểm chỉ đạo sau:
- Đặt việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cấp cơ sở trong cơ chế tổng thể của hệ thống chính
trị:"Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lí nhân dân làm chủ:"Trong quá trình thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở thì
cần phải coi trọng cả ba mặt nói trên.
- Vừa phát huy tốt chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của Quốc hội,
Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp, vừa thực hiện tốt chế độ, dân chủ trực tiếp ở cấp
cơ sở để nhân dân bàn bạc và quyết định trực tiếp những công việc quan trọng, thiết thực gắn liền với lợi ích
của mình.
- Phát huy dân chủ phải gắn liền với phát triển kinh tế, xã hội nâng cao dân trí, tạo điều kiện mở rộng dân
chủ có chất lượng hiệu quả.
- Nội dung các Qui chế phát huy dân chủ ở cấp cơ sở phải phù hợp với Hiến pháp, pháp luật, thể hiện tinh
thần dân chủ đi đôi với kỉ cương, trật tự quyền hạn gắn liền với trách nhiệm, lợi ích đi đôi với nghĩa vụ, chống
quan liêu mệnh lệnh, đồng thời chống tình trạng vô chính phủ, lợi dung dân chủ vi phạm pháp luật.
- Gắn quá trình xây dựng và hoàn thiện qui chế dân chủ với công tác cải cách hành chính, sửa đổi những
cơ chế, chính sách về thủ tục hành chính không phù hợp.
Cùng với việc ban hành nhiều văn bản pháp lí, tháng 5/1988 chính phủ đã ban hành quy chế thực hiện
dân chủ ở xã (phường, thị trấn). Qui chế đã qui định một cách cụ thể những vấn đề dân cần được biết, được
bàn, được làm và được kiểm tra.
Để đánh giá những thành tựu của nước ta trong quá trình mở rộng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta nhận xét:
"Dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy trên nhiều lĩnh vực, dân chủ về kinh tế ngày càng được mở
rộng đã tác động tích cực đến việc giải phóng sức sản xuất, là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao
12
đời sống nhân dân. Dân chủ về chính trị có bước tiến quan trọng thể hiện ở việc bầu các cơ quan dân cư, ở

chất lượng sinh hoạt của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, tại các cuộc thảo luận của nhân dân tham gia
ý kiến xây dựng các dự án luật, trong hoạt động của báo chí".
Cùng với những thành tựu trong việc mở rộng dân chủ trên phạm vi cả nước, đối với cấp cơ sở việc mở
rộng dân chủ cũng có những biến đổi quan trọng trên tất cả các lĩnh vực.
* Về lĩnh vực chính trị:
Quá trình thực hiện dân chủ trực tiếp của nhân dân đã có những bước tiến rất đáng quan tâm, các cuộc
bầu cử Đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp ngày càng thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham
gia và đem lại kết quả ngày càng cao, nhân dân ngày càng đóng vai trò to lớn trong việc đóng góp các ý kiến
để xây dựng các dự án luật và hoạch định các chính sách phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Việc thực
hiện: "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đã có những chuyển biến tích cực và giành được sự quan tâm
chú ý của toàn dân, của Đảng, của chính quyền, mặt trận tổ quốc, các đoàn thể, các hội quần chúng.
Kết quả khảo sát ở Bình Định cho thấy 89,6% số người được hỏi trả lời là cần biết về nghĩa vụ, quyền lợi
của công dân, 84,1% cần biết về hoạt động của mặt trận tổ quốc và các đoàn thể ở xã, 81,6% cần biết về chủ
trương của Đảng bộ xã, 78,3% cần biết về hoạt động của chính quyền xã, 72,0% cần kiểm tra việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ của công dân: 69,0% cần kiểm tra về thu nộp thuế; 66,8% cần kiểm tra việc chấp hành
chính sách; 65,6% cần kiểm tra việc xây dựng cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm….); 50,8% cần kiểm
tra việc bầu cử các cơ quan dân cử…"
Kết quả khảo sát trên cho thấy sự tham gia của quần chúng nhân dân vào đời sống chính trị ngày càng gia
tăng.
* Trong lĩnh vực kinh tế:
Cùng với việc mở rộng sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, các thành phần kinh tế ngày càng được phát
huy, đặc biệt là kinh tế hộ gia đình đang đóng một vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế của đất
nước, nhân dân được giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài và tự do lựa chọn các loại cây trồng, vật nuôi đem
lại lợi nhuận cao, người dân có quyền liên kết trong hoạt động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ pháp
luật.
* Trong lĩnh vực Văn hoá - tư tưởng:
Cùng với việc ổn định về kinh tế, đời sống của nhân dân ngày một tăng cao đặc biệt về trình độ dân trí và
năng lực của cán bộ. Đảng viên ở cấp cơ sở đáp ứng phần nào sự nghiệp đổi mới đất nước. Bên cạnh đó,
người dân được tự do tranh luận công khai được nói ra những suy nghĩ của mình đề đạt ý kiến với các cấp
lãnh đạo. Điều đó đã kích thích tính chủ động, sáng tạo của nhân dân trong việc đóng góp ý kiến để xây dựng

và hoạch định các chính sách phát triển kinh tế xã hội ở cấp cơ sở….
* Trong lĩnh vực xã hội:
Cùng với việc đổi mới các hình thức sinh hoạt, các tổ chức chính trị, xã hội ở cấp cơ sở như Mặt trận tổ
quốc, Đoàn thanh niên CS Hồ Chí Minh … phần nào cũng thể hiện được vai trò của mình trong việc vận động
quần chúng nhân dân xây dựng lối sống mới (xây dựng khối đoàn kết trong cộng đồng dân cư, mở rộng các
hình thức tự quản ở khu phố, thôn, làng…)
Đặc điểm kể từ khi chính phủ ban hành qui chế thực hiện dân chủ ở xã, ở nhiều nơi, nhiều địa phương đã
xây dựng được những mô hình thực hiện "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" và tạo nên một bầu không
khí dân chủ mới trong đời sống nhân dân, thu hút ngày càng nhiều quần chúng nhân dân tham gia vào công
tác quản lý, đáp ứng một cách rộng rãi nhu cầu dân chủ của nhân dân trong thời kỳ mới.
Những hạn chế:
Trải qua 20 năm đổi mới kể từ khi chúng ta thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh thành tựu đó chúng ta còn
gặp phải rất nhiều khó khăn và hạn chế trong việc thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở.
- Tình trạng dân chủ hình thức còn xảy ra ở một số nơi trong bầu cử, đề bạt, bố trí cán bộ, huy động sức
dân dẫn đến mất khả năng vận động giáo dục, thuyết phục nhân dân. Vì thế :"quyền làm chủ của nhân dân còn
bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực, tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu, gây
phiền hà cho dân vẫn đang phổ biến và nghiệm trọng mà chúng ta chưa ngăn chặn, đẩy lùi được…"
- Ở nhiều nơi, các cấp uỷ Đảng hoạt động chưa có hiệu quả, đảng viên chưa thật sự đoàn kết dẫn đến tính
trạng chia bè, kéo cánh, một số cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân bị kẻ địch lợi dụng, có hành vi lôi
kéo tụ tập, gây rối làm vô hiệu hoá sự lãnh đạo của Đảng, của chính quyền, một bộ phận tỏ ra hoài nghi, dao
động mất phương hướng chính trị. Sinh hoạt Đảng ở nhiều nơi diễn ra chưa đều đặn, đấu tranh phê bình và tự
phê bình còn mang tính hình thức do nể nang sợ mất lòng cho nên không dám nói thẳng ra sự thật…
Chính vì thế việc thực hiện "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" chưa có hiệu quả, các mệnh lệnh
chủ yếu được ban hành từ trên xuống, ít có thông tin phản hồi từ dưới lên. Những vấn đề được bàn, được làm
là những vấn đề chủ yếu liên quan đến nghĩa vụ hơn là quyền lợi của nhân dân, vì thế nó không đáp ứng được
nhu cầu dân chủ của nhân dân .
13
- Về phía quần chúng nhân dân, do trình độ văn hoá còn hạn chế, lại thiếu tuyên truyền giáo dục thường
xuyên, do đó họ thiếu sự hiểu biết về chính sách của Đảng và Nhà nước. Mặt khác, do đời sống vật chất và

tinh thần của nhân dân ở một số vùng còn khó khăn đặc biệt với các khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, sự
chênh lệch giàu nghèo ở một số nơi còn lớn. Mức chênh lệch giàu nghèo càng lớn, từ những nguyên nhân đó
cho thấy một bộ phận quần chúng nhân dân có tâm lý suy bì, so sánh, tự ti…. dẫn đến những hành động tự
phát, phản ứng mang tính chất tự do vô chính phủ làm vi phạm pháp luật nghiêm trọng .
Cùng với đó, yếu tố dòng họ cũng có ảnh hưởng không nhỏ làm cho tình trạng dân chủ (đặc biệt là ở
nông thôn) mang tính cục bộ, bởi vì thế cho thấy có những xã, những làng, một vài dòng họ chiếm số đông
trong nhân dân). Điều đó dẫn đến tình trạng thiếu khách quan trong việc lựa chọn cán bộ vào trong hội đồng
nhân dân xã cũng như trong việc bầu các trưởng thôn, trưởng xóm .
Tóm lại, xây dựng và thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trước hết là thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở đây là một chủ trương lớn của Đảng. Để thực hiện tốt Qui chế dân chủ ở cấp cơ sở thì các giải pháp phải
được tiến hành một cách đồng bộ và thường xuyên. Việc thực hiện tốt các quy chế dân chủ là điều kiện để
chúng ta tiến hành thực hiện "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" ở cấp cơ sở một cách có hiệu quả theo
chủ trương của Đảng và Nhà nước đã đề ra, làm cho Qui chế dân chủ trở thành một nề nếp, một nguyên tắc
sinh hoạt thường xuyên của quần chúng nhân dân và các cấp chính quyền thể hiện bản chất tốt đẹp của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
14
Câu 5: Đặc điểm giai đoạn thấp và giai đoạn cao trong hình thái kinh tế CS chủ nghĩa. Ý nghĩa
phương pháp luận.
XH CSCN phát triển qua hai giai đoạn cơ bản: C. Mac gọi các giai đoạn đầu hay giai đoạn thấp và giai
đoạn cao. V.I.Lênin gọi giai đoạn đầu là CNXH hay XH XHCN, giai đoạn cao là CNCS, hay XHCSCN
Hai giai đoạn phát triển trong 1 XH thống nhất, do đó có điểm giống nhau về bản chất. Sự giống nhau về
KT là cùng tồn tại trên cơ sở chế độ công hữu TLSX, sự giống nhau về chính trị là người lao động làm chủ.
Sự khác nhau về KT thể hiện tập trung là ở giai đoạn đầu thực hiện “ phân phối theo lao động”, giai đoạn cao
“ phân phối theo nhu cầu”. Sự khác nhau về ctrị là ở gđoạn đầu còn sự khác giai cấp và còn nhà nước; ở giai
đoạn cao không còn sự khác giai cấp, khg còn NN.
Hai gđoạn cùng trong 1 Ht Kt XH, do đó giống nhau về bchất, khác nhau ở trđộ phát triển. Từ gđoạn thấp
phát triển sang gđoạn cao chỉ là quá trình chín muồi của các nhân tố ktế, ctrị Vh, XH…V.I.Lênin viết “ Sự
khnhau về măt Khọc giữa CNXH và CNCS chỉ là ở chỗ: danh từ trên chỉ giđoạn đầu của Xh mới, lọt lòng từ
CNTB; còn danh từ dưới thì chỉ gđoạn sau đó, gđoạn cao hơn của Xh đó”.
V.I. lennin còn chỉ rõ: “ Nhưng, về mặt KH, thì sự khác nhau giữa CNXH và CNCS thật là rõ ràng. Cái

mà người ta gọi là CNXH thì Mac gọi là giai đoạn “ đầu” hay giai đoạn thấp của XH CS CN”. Đồng thời V.I.
lenin chỉ rõ sự giống nhau giữa hai gđoạn để chúng ta có thể gọi giđoạn đầu là XH CSCN ở lĩnh vực ktế là
chế độ công hữu. V. I Lênin viết : “Trong chừng mực TLSX đã biến thành sở hữu chung , thì danh từ “
CNCS” ở đây có thể dùng được, miễn là đừng quên rằng đó khg phải là CN CS hoàn toàn.”
“ Chính quyền Xô viết, cái hthức đó của chuyên chính vô sản, còn dân chủ hơn gấp triệu lần so với
nước dân chủ nhất trong các nước cộng hoà tư sản”.
Cơ sở phân chia XH CS CN thành hai giai đoạn là lý luận về sự tiến hóa. Theo C. mac, mỗi sự vật đều có
quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, sự phát triển của XH CSCN cũng khg
nằm ngoài quy luât tiến hóa ấy. V.I. Lennin viết : “Mac đặt vấn đề CNCS giống như 1 nhà tự nhiên học đặt,
chẳng hạn, vấn đề tiến hóa của 1 giống sinh vật mới, một khi đã biết nguồn gốc của nó và định được rõ rệt
hướng của những biến đổi của nó”. Cmac còn chỉ rõ gđoạn đầu của XH CS CN tức là XH XHCN, là giai đoạn
XH vừa mới lọt lòng, thoát thai từ XH TBCN sau những cơn đau đẻ kéo dài. Đó cũng là cơ sở để C.Mac dự
báo những đặc điểm của XH XH CN.
15
Câu 6: Vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay như thế nào? Chính sách dân tộc của Đảng và nước ta hiện
nay?
1.Vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của xã
hội loài người. Trước khi tiến đến trình độ cộng đồng dân tộc, loài người đã trãi qua các hình thức cộng đồng
khác nhau, từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Sự biến đổi của phương thức sản xuất chính là nguyên nhân
quyết định sự biến đổi của cộng đồng người.
Dân tộc được hiểu theo nghĩa rộng: (dân tộc – quốc gia) chỉ một cộng đồng người được hình thành trong
quá trình phát triển của lịch sử được sự chỉ đạo của một nhà nước trên cơ sở có một lãnh thổ chung ổn định,
một nền kinh tế chung, một ngôn ngữ chung làm công cụ giao tiếp và một nền văn hóa mang bản sắc dân tộc.
Dân tộc được hiểu theo nghĩa hẹp: (dân tộc – tộc người, ví dụ dân tộc Tày, dân tộc Thái, Kinh, Bana …),
chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ với ba đặc trưng chính: cộng đồng về ngôn ngữ (ngôn ngữ
tộc người); cộng đồng về văn hóa; ý thức tự giác tộc người.
Việt Nam là 1 quốc gia đa dân tộc, trong đó dân tộc kinh chiếm khoảng 86% dân số, còn lại là 53 dân tộc
khác. Tỷ lệ giữa các dân tộc thiểu số cũng không đồng đều. Dân tộc Tày, Thái, Mường, Khơme có dân số trên
1 triệu người; 4 dân tộc Hoa, Nùng, H’Mông, Dao có dân số từ 60 vạn đến dưới 1 triệu người, 9 dân tộc (Gia

Rai, Ê đê, HRê, Bana, Sán Chay, Chăm, Cơ ho, Xơ đăng, Sán dìu) có dân số từ 10 vạn – 50 vạn người, 19 dân
tộc có số dân từ 10 nghìn – 10 vạn người, 12 dân tộc có số dân từ 1 nghìn – 10 nghìn người, 5 dân tộc có số
dân dưới 1 nghìn người (Sila, Pu Péo, Ơ đu, Rơ Măm, Brâu). Nhìn chung các dân tộc VN cư trú xen kẽ nhau,
không dân tộc nào có lãnh thổ riêng biệt. Cư dân của một dân tộc cư trú ở nhiều tỉnh, trên từng địa bàn một
tỉnh, huyện, xã, thôn, bản có thể có nhiều dân tộc cùng sinh sống. Tình trạng cư trú xen kẽ của các dân tộc tạo
điều kiện thuận lợi để các dân tộc giao lưu về văn hóa, trao đổi kinh nghiệm sản xuất… nhưng cũng nảy sinh
những vấn đề trong quan hệ giữa dân tộc này với dân tộc khác về phong tục tập quán, trình độ phát triển
không đồng đều, hoặc do bị kích động, chia rẽ dân tộc.
Dân tộc kinh sống chủ yếu ở đồng bằng, các dân tộc khác ngoài một số bộ phận nhỏ cư trú ở đồng bằng,
ven biển, còn lại cư trú chủ yếu ở vùng biên giới, miền núi. Đây là khu vực có vị trí chiền lược hết sức quan
trọng về biên giớí, thông thương, an ninh quốc phòng, môi trường sinh thái … chiếm 2/3 diện tích cả nước.
Các dân tộc ở VN có truyền thống đoàn kết, gắn bó với nhau lâu đời trong quá trình đầu tranh chống
ngoại xâm, xây dựng cộng đồng dân tộc thống nhất. Tuy nhiên các dân tộc Việt Nam có trình độ phát triển
kinh tế - xã hội không đồng đều do điều kiện tự nhiên và điều kiện lịch sử chi phối.
2. Chính sách dân tộc của Đảng và nước ta hiện nay
Chính sách dân tộc là một hệ thống những quan điểm chính trị của một giai cấp, đại diện là chính đảng và
nhà nước để giải quyết vấn đề dân tộc và mối quan hệ giữa các dân tộc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Chính sách dân tộc là cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng về vấn đề dân tộc; tác động trực tiếp đến
việc giải quyết mối quan hệ dân tộc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Xét về mục tiêu, chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước khôg có gì khác là khai thác mọi tiềm năng
đất nước để phục vụ đời sống nhân dân các dân tộc, thực hiện từng bước khắc phục khoảng cách chênh lệch,
xóa đói giảm nghèo, thực hiện “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Trong điều kiện của 1 quốc gia đa dân tộc, có điều kiện và đặc điểm mang tính đặc thù, sự cư trú xen kẽ,
các dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, truyền thống đoàn kết gắn bó với nhau trong quá trình dựng nước và
giữ nước. Vì vậy, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là chính sách chung cho tất cả các dân tộc.
Chính sách dân tộc được thực hiện thông qua các chính sách kinh tế, các chính sách xã hội được cụ thể hóa ở
từng vùng dân tộc, nhằm củng cố mối quan hệ bình đẳng, đoàn kết giúp nhau cùng phát triển.
Đảng ta khẳng định tại Đại hội VI (1986) “ Trong việc phát triển kinh tế xã hội ở những nơi có đồng bào
các dân tộc thiểu số, cần thể hiện đầy đủ chính sách dân tộc, phát triển mối quan hệ tốt đẹp gắn bó giữa các
dân tộc trên tinh thần đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau cùng làm chủ tập thể” ; Đại hội VII (1991) Đảng ta

tiếp tục khẳng định “ Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc , cùng xây dựng cuộc sống ấm
no, hạnh phúc …” Đảng ta xác định tại Đại hội VIII (1996): thực hiện “bình đẳng, đoàn kết, tương trợ” giữa
các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quan điểm của Đảng được nêu
trong Đại hội IX (2001) “ Thực hiện tốt các chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau
cùng phát triển”; tại Đại hội X (2006) Đảng ta tiếp tục khẳng định “ Các dân tộc trong đại gia đình VN bình
16
đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH-HĐH,
cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc VN Xã hội chủ nghĩa”…
Chính sách dân tộc của Đảng CS VN thể hiện trên 3 nguyên tắc cơ bản: bình đẳng, đoàn kết, tương trợ,
giúp nhau cùng phát triển. Nội dung của 3 nguyên tắc có quan hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau,
hợp thành một thể thống nhất, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.
Bình đẳng giữa các dân tộc, là một nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc của Đảng ta, xuất phát từ
quyền cơ bản của con người. Các dân tộc trong cộng đồng Việt đều được bình đẳng như nhau không phân biệt
lớn nhỏ, giàu nghèo. Thực hiện việc bình đẳng giữa các dân tộc trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa.
Bình đẳng về chính trị là sự bình đẳng về quyền làm chủ đất nước, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa
vụ công dân, có quyền xây dựng thể chế chính trị ở nước ta. Không ngừng nâng cao ý thức chính trị và văn
hóa chính trị cho đồng bào các dân tộc.
Bình đẳng về kinh tế, là tạo điều kiện cho các dân tộc, nhất là dân tộc thiểu số phát triển kinh tế xã hội.
Từng bước khắc phục sự chênh lệch về trình độ giữa các dân tộc. Xây dựng chính sách kinh tế xã hội phù hợp
với đặc thù giữa các vùng, miền, đặc biệt chú trọng đến dân tộc thiểu số.Bình đẳng về kinh tế đóng vai trò vô
cùng quan trọng và có ý nghĩa quyết định cho sự bình đẳng về mọi mặt.
Bình đẳng về văn hóa, tiến tới xây dựng nền văn hóa VN tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Bảo tồn, phát
huy văn hóa các dân tộc thiểu số tạo ra sự phát triển hài hòa trong nền văn hóa đa dân tộc, đảm bảo tính thống
nhất trong đa dạng của nền văn hóa Việt Nam.
Đoàn kết các dân tộc, các dân tộc đều là thành viên của cộng đồng các dân tộc VN. Không phân biệt, chia
rẽ, khinh miệt dân tộc.Đoàn kết là truyền thống và sức mạnh của dân tộc để đi đến thắng lợi.
Giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển, là một quốc gia đa dân tộc; để tồn tại và phát triển cần có sự giúp đỡ
lẫn nhau giữa các dân tộc. Thực hiện sự giúp đỡ từ hai phía: các dân tộc thiểu số giúp đỡ lẫn nhau, dân tộc đa
số giúp đỡ dân tộc thiểu số và ngược lại. Chính sách dân tộc phải tạo mọi điều kiện để các dân tộc, nhất là dân
tộc thiểu số phát triển, gắn với sự phát triển chung của cả cộng đồng.

Các nguyên tắc trên đây có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động mạnh mẽ, cùng chiều tới việc củng
cố cộng đồng dân tộc trong suốt quá trình phát triển. Trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách dân tộc ở
nước ta không thể thiếu và xem nhẹ bất cứ một nguyên tắc nào, nếu không sẽ ảnh hưởng đến quan hệ dân tộc.
Do vậy việc xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc cần quán triệt đầy đủ tinh thần các nguyên tắc
nêu trên./.
Nước ta có 54 dân tộc anh em cùng chung sống từ ngàn đời nay. Đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tồn tại và phát
triển là quy luật và truyền thống quý báu của đồng bào ta. Đảng cộng sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn coi công tác dân tộc là nhiệm vụ chiến lược của Đảng. Văn kiện Đại hội XI của Đảng
xác định, đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của đất nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh, đồng bào dân tộc nước ta đều là anh em một nhà, sướng khổ cùng
nhau, đoàn kết, luôn giúp nhau cùng tiến bộ. Đây là những tư tưởng nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong
thực hiện công tác dân tộc. Bước sang thời kỳ đổi mới thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
mở cửa hội nhập với thế giới hiện đại, công tác dân tộc được Đảng ta nhấn mạnh qua Văn kiện Đại hội XI thể
hiện ở một số điểm chính.
Một là, mọi cán bộ, đảng viên, đồng bào dân tộc cần nhận thức sâu sắc về nhiệm vụ chiến lược của công tác
dân tộc nước ta hiện nay.
Không phải tất cả mọi cán bộ, đảng viên và từng người dân nước ta đều đã hiểu sâu sắc vị trí, ý nghĩa,
tầm quan trọng có tính chiến lược về công tác dân tộc ở nước ta. Trong khi 54 dân tộc anh em với những điều
kiện, trình độ, phong tục, tập quán khác nhau, hàng ngày, hàng giờ chung sống với nhau phấn đấu cho một
mục đích chung dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, nếu không có sự cảm thông, chia sẻ,
đồng thuận, giúp đỡ nhau, bình đẳng, tôn trọng nhau thì khó có thể bền vững. Cho nên nhận thức đúng sẽ chỉ
đạo hành động đúng ở mỗi người dân, người cán bộ, đảng viên trực tiếp hoặc gián tiếp làm công tác dân tộc
Hai là, tập trung thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của chiến lược công tác dân tộc ở nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ, mục tiêu chiến lược công tác dân tộc được Đại hội XI của Đảng xác định, các dân tộc trong đại gia
đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
17
Những mục tiêu, nhiệm vụ này có mối liên hệ biện chứng, tác động lẫn nhau. Các dân tộc có thật sự bình
đẳng, yêu thương, giúp đỡ nhau mới đoàn kết gắn bó với nhau. Ngược lại, đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc
thì mọi khó khăn, trở lực đều có sức mạnh vượt qua.
Tuy nhiên, những điều đó không thể tự nhiên diễn ra mà phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp bộ Đảng,

các cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền, đoàn thể chỉ đạo thông qua hệ thống chính sách cụ thể, phù hợp
với từng nơi, từng lúc, từng đồng bào vùng dân tộc. Để thực hiện bình đẳng, đoàn kết các dân tộc, chúng ta
phải tập trung phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đối với từng dân tộc, từng vùng một cách cơ bản, cụ thể
trước mắt và lâu dài. Trong lãnh đạo, chỉ đạo phải rất cụ thể, xác định rõ phát triển kinh tế là cái gì, như thế
nào, ai làm, làm trong bao lâu, đồng bào được cải thiện thế nào…
Tương tự, các công tác khác như giáo dục, đào tạo; phát triển văn hóa; xóa đói giảm nghèo; trồng và bảo vệ
rừng; trật tự an toàn xã hội… đều phải có mục tiêu, nội dung, biện pháp, hình thức, bước đi, trách nhiệm
người thực hiện rõ ràng, cụ thể, thiết thực. Tránh tình trạng làm theo phong rào “leo cột mỡ”, hình thức không
có hiệu quả vừa tốn kém, lãng phí, vừa mất lòng tin với đồng bào. Cho nên, tính chiến lược của công tác dân
tộc theo văn kiện Đại hội XI của Đảng là phải được xác định trong chính sách, trong cơ chế, trong hình thức,
bước đi chính xác. Gắn thực hiện chiến lược công tác dân tộc với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
Ba là, nâng cao đời sống văn hóa, đào tạo đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số.
Bác Hồ từng chỉ rõ, văn hóa soi đường cho quốc dân đi. Muốn đưa đồng bào dân tộc thiểu số còn đang sống
ở những vùng khó khăn, dân trí hạn chế phát triển về kinh tế xã hội thì nhất thiết phải nâng cao dân trí, bồi
dưỡng văn hóa, mở rộng sự giao lưu, hiểu biết của đồng bào.
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp tích cực phát triển văn hóa, nâng cao dân trí cho đồng
bào vùng dân tộc. Tuy nhiên, kết quả còn chậm, không đồng đều và thiếu vững chắc. Sự phát triển văn hóa
như vậy chưa đủ làm biến đổi về chất trong nhận thức, tư duy, trong cải thiện đời sống kinh tế - xã hội nhiều
vùng dân tộc.
Điều quan trọng là Đảng, Nhà nước có chính sách đào tạo, sử dụng, chăm lo đội ngũ cán bộ là người dân tộc,
cũng như là người Kinh lên công tác ở vùng đồng bào dân tộc, miền núi. Xác định họ là lực lượng nòng cốt,
quyết định trong việc đưa chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước vào vùng dân
tộc.
Đây là công việc chúng ta đã làm, vẫn làm, nhưng còn những yếu kém, hạn chế; làm không nhất quán, đồng
bộ nên có nhiều hạn chế.
Việc đào tạo, xây dựng con người, nguồn nhân lực là rất chiến lược, là cơ sở để thực hiện chiến lược công tác
dân tộc.
Bốn là, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, các tệ nạn vùng đồng bào dân tộc.
Mặt trái của kinh tế nhiều thành phần gắn với thị trường, mở cửa, hội nhập dẫn đến khá nhiều tiêu cực, tệ nạn

xã hội vùng đồng bào dân tộc, khiến chúng ta không thể xem thường.
Tệ buôn lậu, nhất là vùng giáp biên, cửa khẩu còn khá phức tạp, làm ảnh hưởng đến cuộc sống, sinh họat của
đồng bào. Các tệ nạn nghiện hút, đào vàng, phá rừng, đất đai canh tác, nguồn nước… là những bức xúc ở
nhiều vùng dân tộc, gây bất ổn với đời sống đồng bào. Tệ tham ô, tham nhũng, lãng phí ở một số cán bộ làm
mất lòng tin của nhân dân.
Những hiện tượng tiêu cực như vậy xảy ra ngay trong địa phương, nơi sinh sống hàng ngày khiến cho lòng
tin, tình đoàn kết, yêu thương giúp đỡ nhau trở thành hình thức, mất đi những giá trị thiêng liêng của chiến
lược công tác dân tộc. Trong khi đó, bọn xấu, các thế lực thù địch không ngừng lợi dụng những sở hở, yếu
kém của ta; lợi dụng những vấn đề lịch sử, tôn giáo để chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, gây hiềm khích giữa các
dân tộc.
18
Thực hiện quan điểm chiến lược của Đảng về công tác dân tộc ở nước ta hiện nay phải được đặt ra một cách
cơ bản, xác định nội dung, hình thức, biện pháp, bước đi một cách tòan diện và hệ thống, phù hợp với thực
tiễn cụ thể nước ta hiện nay.
19

×