Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

dạy học đoạn trích đất nước trường ca mặt đường khát vọng nguyễn khoa điềm từ hướng tiếp cận văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (865.44 KB, 126 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG

DẠY HỌC ĐOẠN TRÍCH “ĐẤT NƯỚC” (TRƯỜNG CA
“MẶT ĐƯỜNG KHÁT VỌNG” - NGUYỄN KHOA ĐIỀM)
TỪ HƯỚNG TIẾP CẬN VĂN HOÁ

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN
Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)
Mã số: 60 14 10

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Khánh Thành

HÀ NỘI – 2011

1


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................

1

2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................

3



3. Nhiệm vụ nghiên cứu ...........................................................................

7

4. Đối tượng nghiên cứu ...........................................................................

8

5. Để hoàn thành luận văn, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau ........

8

6. Cấu trúc luận văn..................................................................................

8

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ TRI THỨC VĂN HOÁ TRONG
TRƢỜNG CA “MẶT ĐƢỜNG KHÁT VỌNG” ..................................

9

1.1. Vài nét về văn hoá .............................................................................

9

1.1.1. Khái niệm văn hoá ..........................................................................

9


1.1.2. Đặc trưng văn hoá .......................................................................... 13
1.1.3. Chức năng của văn hoá ................................................................... 14
1.1.4.Văn hoá phản ánh và lưu giữ bản sắc dân tộc ở mọi thời đại ........... 14
1.2. Mối quan hệ giữa văn học và văn hoá ................................................ 15
1.2.1. Văn học là nơi lưu giữ, phản ánh và sáng tạo ra văn hoá ................ 15
1.2.2. Tri thức văn hoá là chìa khố để hiểu các giá trị tác phẩm văn học........... 16
1.2.3. Tiếp cận tác phẩm văn học từ góc nhìn văn hố .............................. 17
1.3. Biểu hiện của tri thức văn hoá trong trường ca “Mặt đường khát
vọng” và đoạn trích “Đất nước” ............................................................... 19
1.3.1. Biểu hiện của tri thức văn hoá trong trường ca “Mặt đường khát vọng”........... 19
1.3.2. Nội dung văn hố trong đoạn trích “Đất nước” ............................. 34
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG DẠY HỌC ĐOẠN TRÍCH “ĐẤT
NƢỚC” TRONG NHÀ TRƢỜNG PHỔ THƠNG VÀ HƢỚNG
TIẾP CẬN VĂN HỐ ........................................................................... 49
2.1. Khảo sát thực trạng dạy “Đất nước” trong nhà trường Phổ thông
2.1.1. Đối tượng khảo sát

49

...................................................................... 49

2.1.2. Kết quả và phân tích kết quả khảo sát ............................................. 50

3


2.2. Nguyên nhân ..................................................................................... 53
2.2.1. Từ đặc điểm văn chương Nguyễn Khoa Điềm ................................ 54
2.2.2. Từ phía người học ........................................................................ 55
2.2.3. Từ phía người dạy .......................................................................... 57

2.2.4. Từ phía tài liệu giảng dạy và học tập .............................................. 58
2.3. Đề xuất hướng tiếp cận văn hoá ......................................................... 60
2.3.1. Bổ sung tri thức văn hoá về “đất nước” cho học sinh ...................... 60
2.3.2. Các phương pháp, biện pháp thích hợp dạy học đoạn trích “Đất
nước” theo hướng tiếp cận văn hố .......................................................... 64
Chƣơng 3: THIẾT KẾ VÀ THỰC NGHIỆM DẠY HỌC ĐOẠN
TRÍCH “ĐẤT NƢỚC” CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM THEO
HƢỚNG TIẾP CẬN VĂN HỐ ........................................................... 77
3.1. Thiết kế đoạn trích “Đất nước” theo hướng tiếp cận văn hoá ............. 77
3.1.1. Mục tiêu bài học ............................................................................. 77
3.1.2. Chuẩn bị ......................................................................................... 77
3.1.3. Phương pháp................................................................................... 78
3.1.4. Thiết kế bài học .............................................................................. 78
3.1.5. Thuyết minh giáo án thực nghiệm .................................................. 112
3.2. Thực nghiệm sư phạm ....................................................................... 114
3.2.1. Tổ chức thực nghiệm ...................................................................... 114
3.2.2. Kết quả thực nghiệm....................................................................... 114
3.2.3.Đánh giá thực nghiệm...................................................................... 115
KẾT LUẬN ............................................................................................. 117
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................... 120

4


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lựa chọn đề tài: “Dạy học đoạn trích “Đất nước” (Trường ca “Mặt
đường khát vọng” - Nguyễn Khoa Điềm) từ hướng tiếp cận văn hố” chúng
tơi xuất phát từ những lí do chính sau đây:
1.1. Tri thức văn hố có vai trị quan trọng trong việc đọc hiểu tác phẩm

văn chương
Văn bản văn chương vốn là một sinh thể nghệ thuật, là sản phẩm tinh
thần của nhà văn – con người có một bề sâu hiểu biết, bề rộng về văn hố.
Đọc văn chính là quá trình người đọc tiếp xúc, cảm nhận, giải mã các tầng
cấu trúc ngơn ngữ, hình tượng.
Mơn Ngữ văn vừa là một ngành khoa học vừa là một ngành nghệ thuật.
Để cảm thụ và hiểu được tác phẩm văn chương thì độc giả phải có những hiểu
biết nhất định về văn học, văn hố, lịch sử, địa lí, xã hội... Những tri thức hiểu
biết đó của độc giả chính là chiếc chìa khố mở ra cánh cửa đối với mỗi tác
phẩm văn chương khi độc giả muốn tìm hiểu nó.
Tri thức văn hố là tri thức nền tảng cần thiết để học sinh đến với mỗi tác
phẩm văn chương sẽ có một kĩ năng tiếp xúc, cảm nhận, hiểu nội dung văn
học một cách thấu đáo, toàn diện, sâu sắc, thú vị hơn.
1.2. Xuất phát từ mục tiêu của việc dạy học văn trong nhà trường
Đất nước đang đứng trước xu thế hội nhập toàn cầu trên mọi lĩnh vực:
kinh tế, xã hội, chính trị, văn hố... và giáo dục khơng phải là một thành phần
ngoại lệ. Vì vậy để làm thế nào cho ngành giáo dục cũng phù hợp và bắt nhịp
được xu thế tồn cầu hố, hồ nhập và theo kịp các nước có nền giáo dục tiên
tiến? Chính vì thế mà trong nhiều năm gần đây giáo dục đã có nhiều cuộc đổi
mới, cách tân về phương pháp, cách thức, nội dung của dạy và học. Dạy và
học văn trong nhà trường cũng thay đổi cho phù hợp với nhu cầu của thực
tiễn. Trong cuốn “Chương trình giáo dục phổ thơng mơn Ngữ Văn” do Nhà
1


xuất bản Giáo dục ban hành đã chỉ rõ: “Môn Ngữ văn cung cấp cho học sinh
những kiến thức phổ thơng, cơ bản, hiện đại, có tính hệ thống về ngôn ngữ
(trọng tâm là tiếng Việt) và văn học (trọng tâm là phần văn học Việt Nam),
phù hợp với trình độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực
trong thời kì cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Mơn Ngữ văn hình

thành và phát triển ở học sinh các năng lực sử dụng tiếng Việt, tiếp nhận văn
học, cảm thụ thẩm mĩ, phương pháp học tập, tư duy, đặc biệt là phương pháp
tự học, năng lực ứng dụng những điều đã học vào cuộc sống. Mơn Ngữ văn
bồi dưỡng cho học sinh tình u tiếng Việt, văn học, văn hố, tình u gia
đình, thiên nhiên, đất nước, lòng tự hào dân tộc; ý thức tự lập, tự cường, lí
tưởng xã hội chủ nghĩa, tinh thần dân chủ nhân văn; giáo dục cho học sinh
trách nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị và hợp tác quốc tế, ý thức tôn trọng
và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc và nhân loại”.
Như vậy, việc dạy và học môn Ngữ văn không chỉ đơn thuần cung cấp,
trang bị cho học sinh kiến thức về văn học mà bên cạnh đó cần bổ sung cho
các em các kiến thức liên ngành khác trong đó có kiến thức về văn hoá để phù
hợp với nhu cầu của thực tiễn. Các tri thức về văn hoá mà học sinh thu lượm
được trong văn học sẽ góp phần giúp cho các em bồi dưỡng, giữ gìn, phát huy
sáng tạo bản sắc văn hoá của dân tộc và nhân loại.
1.3. Trường ca “Mặt đường khát vọng” - Nguyễn Khoa Điềm có giá trị văn
hố lớn
Mỗi tác phẩm văn học đều mang trong mình những giá trị văn hố riêng,
bởi nó là sản phẩm tinh của nhà văn. Nó hiện thân cho tư tưởng, tình cảm của
nhà văn cũng như của thời đại lúc tác phẩm ra đời. “Mặt đường khát vọng”
của Nguyễn Khoa Điềm không phải là một trường hợp ngoại lệ. Thơ ông
được nuôi dưỡng, ấp ủ từ xứ Huế mộng mơ, thâm trầm, cổ kính. Mảnh đất
quê hương giàu truyền thống văn hố ấy đã ni dưỡng và truyền cảm hứng
sáng tác thi ca dồi dào cho Nguyễn Khoa Điềm. Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu
2


chất suy tưởng, triết lí, chứa đựng nhiều chất liệu văn học và văn hoá dân
gian. Các sáng tác của nhà thơ dù ở thể loại nào cũng phảng phất phong vị của
ca dao, tục ngữ.
Đến với “Mặt đường khát vọng” đặc biệt là đoạn trích “Đất nước” người

đọc có thể cảm nhận được “màu dân tộc” thấm đẫm vào từng hơi thở của mỗi
câu thơ. Vẻ đẹp văn hoá ấy đã làm cho trường ca “ Mặt đường khát vọng” của
Nguyễn Khoa Điềm có sức sống lâu bền trong lịng người đọc qua nhiều thế
hệ. Chính vì vậy, văn hoá là một nội dung quan trọng cần phải khai thác khi
tìm hiểu tác phẩm nếu khơng sẽ khơng thấy hết được vẻ đẹp của tác phẩm cũng
như vị trí của tác phẩm trong diện mạo văn hoá tinh thần dân tộc. Do đó khai
thác giá trị văn hố của trường ca “Mặt đường khát vọng” nói chung và đoạn
trích “Đất nước” nói riêng là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Các cơng trình nghiên cứu về trường ca “Mặt đường khát vọng”
Trường ca “Mặt đường khát vọng” ra mắt bạn đọc năm 1974 đã đem lại
tiếng vang cho tên tuổi Nguyễn Khoa Điềm. Năm 1975, Nguyễn Văn Long có
bài viết “Nguyễn Khoa Điềm với Mặt đường khát vọng” in trên Tạp chí Văn
nghệ Quân đội. Ở bài viết này, tác giả đã lí giải nội dung của tập thơ và phân
tích con đường đi theo cách mạng của tuổi trẻ Miền Nam nói chung của
Nguyễn Khoa Điềm nói riêng. Tác giả bài viết cho rằng: “Có thể thấy những
dấu ấn rõ rệt của một vốn văn hoá nhà trường và sách vở, một ảnh hưởng của
cách suy tưởng... cả bài “Mặt đường khát vọng”có được sức rung động, âm
vang chính là tác giả thực sự sống với cảm xúc của mình” [47, tr 136]. Cả tập
thơ là sự tìm tịi, khám phá, suy nghĩ, trải nghiệm của Nguyễn Khoa Điềm về
quê hương, đất nước.
Năm 1976, Tôn Phương Lan đã khẳng định tiềm năng của nhà thơ trẻ
Nguyễn Khoa Điềm qua bài giới thiệu “Nguyễn Khoa Điềm nhà thơ trẻ có
nhiều triển vọng”, bài viết có cái nhìn bao qt về “Mặt đường khát vọng”.
3


Tác giả đã nhận thấy một phong cách rất riêng của Nguyễn Khoa Điềm giữa
các gương mặt trẻ khác của thế giới thơ ca thời đó. Tác giả khẳng định “Một
phong cách Nguyễn Khoa Điềm khá rõ. Bạn đọc ghi nhận ở anh một cách suy

nghĩ và diễn đạt có âm hưởng rất riêng”.
Năm 1985, Nguyễn Xuân Nam tìm hiểu về phong cách Nguyễn Khoa
Điềm trong “Mặt đường khát vọng” với bài viết “Mặt đường khát vọng của
Nguyễn Khoa Điềm”. Trong bài viết tác giả nhấn mạnh điểm nổi bật của
Nguyễn Khoa Điềm “Khơng đặc sắc về tạo hình, màu sắc nhưng có sức liên
tưởng mạnh” và đặc biệt thơ Nguyễn Khoa Điềm “Có được cái nhìn vừa phân
tích vừa khái quát” [41, Tr 106-109] là một điều cần thiết cho thơ ca.
Tôn Phương Lan, Vũ Văn Sĩ, Vũ Tuấn Anh đều đánh giá cao tài năng
Nguyễn Khoa Điềm, cho rằng “Mặt đường khát vọng” đã góp một phong cách
mới, đi sâu vào khía cạnh nội dung lịch sử - dân tộc, thời đại, triết lí - trữ tình,
thể hiện nét tinh tế, tài hoa. Lối diễn đạt giàu sức khái quát hiện thực, suy tưởng
đầy chất chính luận, vừa “đồng thanh” vừa “cá tính” đại diện cho thế hệ.
Tác giả Nguyên An có bài viết “Giao hưởng và âm vang thơ thời trẻ
chống Mĩ”, bài viết đánh giá cao về trường ca “Mặt đường khát vọng”. Tác
giả khẳng định: “Cuối năm 1973, ngay sau khi chưa in thành sách, trường ca
“Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm đã được giới học sinh, sinh
viên, sau đó là cơng chúng đón chào, hoan nghênh. Tác giả là một tài năng
đầy triển vọng, người ta nói về Nguyễn Khoa Điềm như vậy. Trong trường ca
này có chương “Đất nước”, góp vào dòng thơ về tổ quốc Việt Nam những
trang thơ đặc sắc.”.
Tác giả Nguyễn Trọng Hoàn trong bài viết “Cảm nhận thơ Nguyễn Khoa
Điềm” đã ghi nhận một bước trưởng thành trong thơ Nguyễn Khoa Điềm qua
trường ca “Mặt đường khát vọng”: “...Ở đó hội tụ khơng chỉ độ chín của tư tưởng,
nhận thức mà còn thể hiện một phong cách thơ có chất giọng riêng. Anh tự bứt lên
khỏi mình để thơ vươn tới những khái quát mới lạ” [47, Tr 146].
4


Ngoài ra, trong luận văn thạc sĩ “Thơ Nguyễn Khoa Điềm nhìn từ góc độ
tư duy nghệ thuật” tác giả Lại Thu Hương chỉ rõ: “Trong trường ca, chúng ta

thấy rõ Nguyễn Khoa Điềm đã rất thành công mặc dù chỉ sáng tác một trường
ca “Mặt đường khát vọng” nhưng ông đã đem đến cho người đọc những ấn
tượng không thể phai nhồ. Trong trường ca ơng bộc lộ một cái nhìn hiện
thực hết sức tồn diện và sâu sắc, điều đó khơng phải ai cũng làm được.”
2.2. Các cơng trình nghiên cứu về chương “Đất Nước”
Trần Đình Sử khi nghiên cứu về đoạn thơ “Đất nước” đã phát hiện ra cái
mới mẻ của đoạn thơ là đã vẽ ra được một khoảng không gian tinh thần của
đất nước: “ Nguyễn Khoa Điềm đã vượt lên trên cả truyền thống viết về đất
nước trong tâm thức của mỗi người” [15, Tr. 236]. Nguyễn Khoa Điềm khơng
nhìn đất nước từ hình dáng bên ngồi như đất đai, ruộng đồng, sơng núi mà
nhà thơ hướng cái nhìn đất nước vào bên trong, vào tâm hồn, kí ức. Đất nước
ln gần gũi, gắn bó với mỗi gia đình. Tác giả cũng khẳng định “giúp người
đọc cảm nhận được đất nước sâu sắc và mới mẻ nhưng lại rất bình dị: đất
nước- văn hố – con người” [15, Tr. 236].
Khi nghiên cứu về “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Văn
Long chỉ ra cái đặc sắc, độc đáo của đoạn trích là cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp
để làm nổi bật tư tưởng “Đất nước của nhân dân”. Tác giả thấy chủ đề đất
nước được thể hiện trên ba bình diện:
- Chiều dài thời gian lịch sử: quá khứ - hiện tại – tương lai.
- Chiều rộng khơng gian địa lí.
- Chiều sâu văn hố phong tục, lối sống, tâm hồn và tích cách dân tộc.
Trong cuốn “Giảng văn văn học Việt Nam” Trần Đăng Xuyền có bài
nghiên cứu về đoạn trích “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Trong bài viết
tác giả cũng khẳng định chiều sâu của thi tứ, cảm hứng của mỗi phần bám
chắc vào tư tưởng cốt lõi: Đất nước của Nhân dân. Đặc biệt, tác giả nhấn
mạnh cả chương thơ như được bao bọc bởi khơng khí văn hố dân gian: “
5


Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rộng rãi và linh hoạt các chất liệu của văn hoá

dân gian, từ ca dao tục ngữ, đến truyền thuyết, cổ tích, từ phong tục tập quán
đến thói quen sinh hoạt” [47, Tr. 128]. Để từ đó tác giả cũng định hướng phân
tích hình tượng đất nước thì phải đặt trong những truyền thống, lịch sử, văn
hoá, phong tục ngàn đời của dân tộc.
Năm 2000, Chu Văn Sơn trong bài phê bình chương “Đất nước” của
Nguyễn Khoa Điềm lại đi sâu vào khẳng định tư duy thơ Nguyễn Khoa Điềm
là tư duy trữ tình - triết luận. Sự hoà hợp, đan quyện giữa hai tư duy này hình
thành nên một phong cách thơ rất riêng của Nguyễn Khoa Điềm: “Nét chủ
đạo trong tư duy triết luận trữ tình là đào sâu vào cái bản chất của sự vật dưới
dạng những biểu tượng thi ca sống động. Tư duy ấy chuyển động dựa trên
mạch lôgic biện chứng với những mối liên hệ bất ngờ kì thú”.[50, Tr. 11]
Phan Huy Dũng khi nghiên cứu chương “Đất nước” cũng triển khai từ tư
tưởng: Đất nước của Nhân dân. Tác giả đã phát hiện ra : “Cái hay của Đất
nước chưa hẳn đã ở lí mà ở sự hài hồ quyện chặt giữa lí và tình, giữa trí tuệ
và cảm xúc, ở chiều sâu của những phát hiện mới về đất nước” [3, Tr. 137]. Bao
trùm không gian nghệ thuật của đoạn thơ thì đậm đà màu sắc truyền thống lấy từ
huyền thoại, ca dao, tục ngữ... Tác giả cũng nhấn mạnh “ Nhìn đất nước từ góc độ
văn hố là một đóng góp của Nguyễn Khoa Điềm”. [3, Tr 140].
Khi nghiên cứu chương “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm tác giả Đào
Thị Thu Hằng đánh giá cao đóng góp của nhà thơ về đề tài này: “ Đoạn trích
Đất nước tập trung nhất cái nhìn mới về đất nước, cũng như ý thức trách
nhiệm của mỗi người dân đố với Tổ quốc mình” [3, Tr. 141]. Tác giả khai
thác hình tượng đất nước trong chiều sâu văn hoá lịch sử, để trả lời cho đáp án
Đất nước là do Nhân dân làm ra và do Nhân dân bảo vệ. Đất nước khơng cịn
là “Một khái niệm trừu tượng mà trở nên có hình hài, vóc dáng trong mỗi con
người Việt Nam cần cù lao động, yêu nước thương nòi” [3, Tr. 144].

6



Trong cuốn Sách giáo viên “Ngữ văn 12 - Tập 1” trong phần nội dung dạy
học tác giả SGK cũng định hướng cụ thể cho giáo viên khi giảng dạy đoạn
trích “Đất nước”: “ Sự độc đáo của đoạn thơ này là cảm nhận, phát hiện về
đất nước trong một cái nhìn tổng hợp, tồn vẹn, mang đậm tư tưởng nhân dân,
sử dụng phong phú các yếu tố của văn hoá, văn học dân gian một cách sáng
tạo” [53, Tr. 106].
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu về trường ca “Mặt đường khát
vọng” và chương “Đất nước” khá phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, hướng vận
dụng tri thức văn hoá vào phân tích cụ thể đoạn trích “Đất nước” chưa được
quan tâm đến nhiều. Chúng tôi thấy rằng việc phân tích và tìm ra phương
pháp thích hợp để tiếp cận đoạn trích này là cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn
đối với giáo viên THPT.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích chính của luận văn là đề ra phương hướng tiếp cận văn hố khi
đọc hiểu đoạn trích “ Đất nước” để nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc
giảng dạy.
Đề tài giải quyết các vấn đề sau:
* Nghiên cứu mối liên hệ giữa văn học và văn hoá.
* Tìm hiểu thực trạng giảng dạy và học tập đoạn trích “Đất nước” trong nhà
trường phổ thơng.
* Tìm ra biểu hiện của tri thức văn hoá trong tác phẩm, cụ thể ở đoạn trích
“Đất nước”, luận văn chỉ lựa chọn những biểu hiện văn hoá trong trường ca
“Mặt đường khát vọng” cần thiết, có ý nghĩa cho việc giảng dạy đoạn trích.
* Tìm ra phương hướng, biện pháp cụ thể để vận dụng tri thức văn hoá vào
hướng dẫn học sinh đọc hiểu đoạn trích “Đất nước”.
* Thiết kế giáo án thực nghiệm cho đoạn trích “Đất nước”, trong đó vận
dụng những phương pháp, biện pháp cách thức vận dụng tri thức văn hoá.

7



4. Đối tƣợng nghiên cứu
* Trường ca “Mặt đường khát vọng” và chương thơ “Đất nước”.
* Các cơng trình nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Khoa
Điềm.
* Thực trạng dạy và học chương thơ “Đất nước” trong nhà trường phổ thơng.
5. Để hồn thành luận văn, chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp sau
- Phương pháp điều tra, khảo sát, thực nghiệm.
- Phương pháp so sánh loại hình.
- Phương pháp tiếp cận văn hố.
- Các thao tác phân tích, tổng hợp, xử lí thơng tin.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn gồm ba chương:
Chương 1:Cơ sở lí luận và tri thức văn hố trong trường ca “Mặt đường
khát vọng”.
Chương 2: Thực trạng dạy học đoạn trích “Đất nước” trong nhà trường
phổ thơng và đề xuất hướng tiếp cận.
Chương 3: Tổ chức học sinh tiếp cận đoạn trích “Đất nước” của Nguyễn
Khoa Điềm theo hướng tiếp cận văn hoá.

8


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ TRI THỨC VĂN HỐ TRONG
TRƢỜNG CA “MẶT ĐƢỜNG KHÁT VỌNG”
1.1. Vài nét về văn hố
1.1.1. Khái niệm văn hố
Theo các nhà ngơn ngữ học, văn hoá (culture) - với tư cách là một danh từ

độc lập - chỉ bắt đầu sử dụng vào cuối thế kỉ XVII đầu thế kỉ XVIII. Mặc dù
trước đó, khoảng đầu thế kỉ XVII Francis Bacon đã nói về văn hoá với sự
chuyển nghĩa từ “gieo trồng trên đất đai” sang nghĩa bóng “vun trồng cho trí
óc”. Người đầu tiên có cơng đưa từ “culture” vào trong khoa học là S.
Pufendorf (1632- 1694) – nhà nghiên cứu pháp luật người Đức. S.Pufendorf
sử dụng thuật ngữ này để chỉ toàn bộ những gì do con người tạo ra và các sản
phẩm nhân tạo này khác với sản phẩm thiên nhiên.
Ở Ý, nhà xã hội học, nhà triết học G.Vico (1668- 1744) quan niệm rằng
nếu như cuộc đời con người có các thời kì phát triển khác nhau thì mỗi dân
tộc cũng phát triển qua các thời đại không giống nhau về văn hố. Ơng coi
văn hố như một phức thể, trong đó bao gồm cả kinh tế, chính trị, khoa học và
nghệ thuật.
Cũng ở giai đoạn này, P. Voltaire (1694- 1778) – nhà văn, nhà triết học,
nhà sử học đã nhắc tới văn hoá khi bàn về sự phát triển của khoa học, nghệ
thuật, đạo đức... Ông tán thành ý kiến cho rằng lịch sử thực sự của loài người
là lịch sử xã hội, lịch sử văn hố, chứ khơng phải lịch sử của các vương triều.
Đến I.G.Herder (1744- 1803)- nhà triết học khai sáng, nhà văn, nhà
nghiên cứu văn học Đức- thì thuật ngữ văn hố được sử dụng rộng rãi. Ơng
gọi văn hố là q trình hình thành con người, là sự nắm bắt và sử dụng kinh
nghiệm, truyền thống, cho nên cần phải gắn văn hoá với việc giáo dục tính
nhân văn và lối sống của dân tộc.

9


Theo nhà nghiên cứu Phan Ngọc, người Trung Quốc đã dùng từ văn hoá
để dịch từ “culture” theo nghĩa gốc là vẻ đẹp do màu sắc tạo ra. Văn có nghĩa
là hình thức đẹp đẽ trong lễ, nhạc, trong cách cai trị trong ngôn ngữ cũng như
trong cách cư xử lịch sự... Cịn “văn hố” để dịch chữ culture là theo cái nghĩa
“trình độ phát triển lịch sử của xã hội và con người biểu hiện trong các kiểu

và các hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người, cũng như
trong các giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra” [20, Tr. 7].
Nhưng trước đó rất lâu, từ thế kỉ I trước Cơng nguyên, ở Trung Quốc,
Lưu Hướng (đời Hán đã quan niệm văn hoá là văn trị và giáo hoá hay “giáo
hoá bằng văn”.
Cho đến nay, chưa ai nói rõ khái niệm văn hoá được du nhập từ Trung Quốc
vào Việt Nam từ bao giờ, có thể là cuối thế kỉ XIV, hay đầu thế kỉ XX? Chỉ biết
rằng, trước cái thời điểm này từ rất lâu cha ông ta đã dùng khái niệm văn hiến và
văn vật ( như “Nước Việt Nam nghìn năm văn hiến” hay “ Hà Nội - Thăng Long
ngàn năm văn vật”). Điều này khẳng định rằng, trước khi khái niệm văn hố
được du nhập vào, thì Việt Nam đã có một nền văn hố từ lâu đời, cũng như đã
có những khái niệm tương ứng để biểu thị văn hố của mình.
Năm 1938, định nghĩa về văn hoá của Đào Duy Anh được đưa ra trong
cuốn “Việt Nam văn hoá sử cương” do Quan Hải tùng thư xuất bản tại Huế.
Khi tác giả nói “Văn hố tức là sinh hoạt” là ông đã chú trọng tới khía cạnh
cấu trúc, đã coi văn hố như một kiểu thức sinh tồn của xã hội do đó thấy
được sự gắn bó của nó với các bộ phận, các thiết chế xã hội.
Trong những năm gần đây ở Việt Nam vấn đề văn hoá và bản sắc văn hoá
dân tộc nổi lên như một vấn đề thời sự, được bàn luận trên nhiều quy mơ:
chun luận, giáo trình, báo chí... với các cơng trình tiêu biểu như: Trần Ngọc
Thêm “Cơ sở văn hoá Việt Nam” (1995); Trần Quốc Vượng (Chủ biên) “Cơ
sở văn hoá Việt Nam”; Phan Ngọc “Một cách tiếp cận văn hố”; Nguyễn San
và Phan Đăng “Giáo trình văn hoá Việt Nam” (2000); Đặng Đức Siêu “Giáo
10


trình cơ sở văn hố Việt Nam” (2009); “Bàn về văn hoá ứng xử của người
Việt Nam” (Nguyễn Tất Thịnh, 2006); “Người Việt phẩm chất và thói hư tật
xấu” (Nhiều tác giả, 2008)... Các cơng trình nghiên cứu nhìn chung đã xem
xét văn hoá trên nhiều phương diện: trong các cơng trình vật thể hay trong

cuộc sống sinh hoạt hằng ngày thể hiện qua các lễ hội, phong tục tập qn,
ngơn ngữ...
Mặc dù có nhiều cơng trình nghiên cứu về văn hoá nhưng đến ngày nay
văn hoá vẫn là một đối tượng chưa được thống nhất. Vì vậy vẫn tồn tại nhiều
quan niệm, định nghĩa khác nhau về văn hoá.
Trong cuốn “Xã hội học Văn hố” của Đồn Văn Chúc, Viện văn hố và
NXB Văn hố – Thơng tin, 1997, các tác giả định nghĩa: “Văn hố – vơ sở bất
tại: Văn hố – Khơng nơi nào khơng có. Điều này cho thấy tất cả những sáng
tạo của con người trên nền của thế giới tự nhiên là văn hoá, nơi nào có con
người nơi đó có văn hố”.
Theo Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hoá Việt
Nam - Bộ Giáo dục và đào tạo, do Nguyễn Như Ý chủ biên, NXB văn hố
Thơng tin, xuất bản 1998 thì: “Văn hố là những giá trị vật chất, tinh thần do
con người sáng tạo ra trong lịch sử”.
Trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, do NXB Đà Nẵng và
Trung tâm Từ điển học, 2004 đưa ra một loạt quan niệm về văn hoá:
- Văn hố là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra trong q trình lịch sử.
- Văn hố là tri thức, kiến thức khoa học (nói khái qt).
- Văn hố là những hoạt động của con người nhằm thoả mãn nhu cầu đời sống
tinh thần (nói tổng qt).
- Văn hố là trình độ trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh.

11


- Văn hoá là một cụm từ để chỉ một nền văn hố của một thời kì lịch sử cổ
xưa, được xác định trên cơ sở một tổng thể những di vật có những đặc điểm
giống nhau,ví dụ: Văn hố Hồ Bình, văn hố Đơng Sơn...
Từ những năm 70, 80 của thế kỉ XX Unesco đã có nhiều cuộc họp bàn về

văn hố dưới sự chủ trì của Liên hợp quốc, qua đó có nhiều định nghĩa văn
hố được đề xuất, có những định nghĩa được thừa nhận một cách rộng rãi,
được coi như là sự thể hiện quan niệm văn hoá của thế giới:
“Văn hoá bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc
khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục,
tập quán, lối sống và lao động” [49, Tr. 15].
“Văn hoá là năng lực và thành quả sáng tạo mà nhân loại đã đạt được
trong quá trình hoạt động thực tiễn trong xã hội... Văn hoá hiểu theo nghĩa
rộng bao quát năng lực sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần của nhân loại
cùng toàn bộ sản phẩm vật chất và tinh thần được làm ra. Văn hoá hiểu theo
nghĩa hẹp là năng lực sản xuất tinh thần và sản phẩm tinh thần... Văn hoá là
hiện tượng lịch sử cụ thể. Trong các giai đoạn lịch sử khác nhau của xã
hội...văn hố có những đặc điểm khác nhau. Các dân tộc khác nhau đẫ cấp
cho văn hoá những đặc điểm dân tộc khác nhau.” [49, Tr. 17]
Văn hố được Hồ Chí Minh định nghĩa rất dễ hiểu: “Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó chính là văn hố. Văn hố là
tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi
người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của
sự sinh tồn”.
Theo Trần Quốc Vượng: “Văn hoá là một quan hệ. Nó là quan hệ giữa
thế giới biểu tượng và thế giới thực tại. Quan hệ ấy biểu hiện một kiểu lựa
12


chọn riêng của một dân tộc người, một cá nhân so với một tộc người khác.
Nét khu biệt các kiểu lựa chọn làm cho chúng ta khác nhau, tạo thành những
nền văn hoá khác nhau là do độ khúc xạ. Tất cả mọi cái mà một tộc người tiếp

thu hay sáng tạo đều có một tộc người khác...” [58, Tr.127].
Trần Ngọc Thêm trong cuốn “Tìm về bản sắc văn hố Việt Nam” cho
rằng: “Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra và tích luỹ qua q trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương
tác giữa con người với mơi trường tự nhiên, xã hội của mình” [54, Tr.10].
1.1.2. Đặc trưng văn hố
Có nhiều cách hiểu khác nhau về văn hoá nhưng ở bất cứ thời điểm nào
văn hố ln tồn tại những đặc trưng cơ bản sau:
Văn hoá do con người tạo ra, con người tác động trực tiếp vào thế giới tự
nhiên để tạo ra những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể. Những giá trị văn
hố đó ln mang dấu ấn của con người qua mọi thời đại. Nó biểu hiện cho
tài năng, tâm tư, tình cảm, thế giới tâm hồn phong phú của con người. nó trở
thành sợi dây vơ hình gắn kết con người trong mọi thời đại.
Văn hố có tính giá trị, là thước đo độ nhân bản của xã hội lồi người.
Tính giá trị phân theo mục đích có: giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Giá trị
vật chất là của cải vật chất phục vụ nhu cầu sinh tồn của con người. Giá trị
tinh thần là những gì phục vụ cho thế giới tinh thần của con người. Tính giá
trị phân theo ý nghĩa có: giá trị sử dụng, giá trị đạo đức, giá trị thẩm mĩ. Tính
giá trị phân theo thời gian: giá trị vật chất và giá trị vĩnh cửu. Ngồi ra tính
giá trị được phân biệt với tính phi giá trị. Tuy nhiên trong văn hố khơng tồn
tại tính phi giá trị.
Văn hố mang tính lịch sử. Văn hố là sản phẩm được tạo ra trong suốt
chiều dài lịch sử. Nó được duy trì và liên thơng từ đời này sang đời khác tạo
thành những truyền thống văn hoá của một dân tộc.

13


Văn hố mang tính hệ thống. Tính hệ thống của nó chỉ ra mối quan hệ
mật thiết, gắn bó giữa các hiện tượng, sự kiện về một nền văn hoá cụ thể. Văn

hố có mặt trong tồn bộ đời sống của con người gồm đời sống vật chất và
đời sống tinh thần (ngơn ngữ, đạo đức...). Vì lẽ đó mà tất cả các mặt của cuộc
sống trong một giai đoạn lịch sử cụ thể đều có mối liên hệ mật thiết, giằng
buộc lẫn nhau không thể tách rời tạo nên khái niệm văn hố hay một nền văn
hố nào đó.
Tóm lại, ngồi những đặc trưng cơ bản của văn hố cũng cần lưu ý một
số thuộc tính cố hữu của nó như: tính phổ qt, tính vận động, tính thời đại,
tính khu vực, tính dân tộc và tính giai cấp.
1.1.3. Chức năng của văn hố
Văn hố có ba chức năng cơ bản sau:
Thứ nhất, văn hố có chức năng điều chỉnh xã hội. Văn hố giúp duy trì
hệ thống xã hội, qua đó xã hội khơng ngừng hồn thiện, thích ứng với những
biến đổi mới của môi trường sống.
Thứ hai, văn hố có chức năng giao tiếp. Bởi văn hố luôn gắn liền với
mọi hoạt động của con người trong đời sống xã hội. Văn hố trở thành một
cơng cụ thực hiện chức năng giao tiếp của con người. Con người giao tiếp với
nhau qua hình thức ngơn ngữ thì nội dung của ngơn ngữ là văn hố.
Thứ ba, văn hố có chức năng giáo dục. Văn hố bồi dưỡng những phẩm
chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh luôn hướng con người vươn tới
chân, thiện , mĩ.
1.1.4.Văn hoá phản ánh và lưu giữ bản sắc dân tộc ở mọi thời đại
Bản sắc khơng phải là cái gì bẩm sinh, cũng khơng phải là một món q
ngẫu nhiên do ai đó ban tặng. Bản sắc văn hố chính là sự kết tinh những giá
trị được coi là thiêng liêng và cao đẹp của một cộng đồng người trong tiến
trình lịch sử lâu dài mà có. Trải qua hàng trăm năm, hàng ngàn năm, mỗi
cộng đồng đều có một cách lựa chọn để tạo nên một lối sống của riêng mình.
14


Lối sống ấy không phải nảy nở từ ý thức của cá nhân lẻ mà được tạo nên như một

kinh nghiệm tập thể - cái kinh nghiệm được truyền từ những thế hệ trước cho thế
hệ sau và nó khơng giống với lối sống của bất kì một cộng đồng nào khác.
Bản sắc văn hoá là cái cốt lõi, đặc trưng của riêng một cộng đồng văn hoá
trong lịch sử tồn tại và phát triển giúp phân biệt dân tộc này với dân tộc khác.
Bản sắc văn hoá thể hiện trong tất cả các lĩnh vực đời sống, ý thức của một
cộng đồng bao gồm: cội nguồn, khoa học, nghệ thuật...
Bản sắc dân tộc của văn hoá Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững,
những tinh hoa vun đắp nên qua lịch sử hàng nghìn năm của cộng đồng dân tộc
Việt Nam, con người Việt Nam. Đó là lịng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường
dân tộc, tinh thần đồn kết, bao dung, trọng tình đạo lí, đầu óc thực tế, tinh thần
cần cù, sáng tạo trong lao động, tế nhị trong ứng xử, giản dị trong lối sống.
1.2. Mối quan hệ giữa văn học và văn hoá
1.2.1. Văn học là nơi lưu giữ, phản ánh và sáng tạo ra văn hoá
Văn hoá là tổng thể các giá trị do con người sáng tạo ra, trước hết là
những giá trị tinh thần. Trong đó văn học là một thành tố rất quan trọng của
văn hoá. Văn hoá phản ánh sự hình thành, phát triển của văn hố trong mọi
mặt của đời sống xã hội.
Văn học là công cụ chuyển tải văn hố và lưu giữ bóng dáng của con
người qua mọi thời đại. Các phong tục tập quán, các truyền thống văn hoá,
các lối sống ứng xử của con người được phản ánh trong văn học đều trở nên
đẹp và có giá trị hơn. Văn học giúp cho những giá trị văn hoá đến với đời
sống sinh hoạt của con người được dễ dàng tiếp nhận và phát triển hơn. Bởi
lẽ, đơi khi có những giá trị văn hố cịn tiềm ẩn, mơ hồ với con người mà
thơng qua văn học nó mới được hiểu sâu sắc và đầy đủ.
Văn học không chỉ lưu giữ, truyền đạt, phản ánh văn hố thời đại mà cịn
góp phần sáng tạo ra văn hố cho thời đại. Nếu khơng có văn học thì văn hố
khơng được phát triển rộng rãi và lâu bền. Văn học là mảnh đất màu mỡ, giàu
15



tiềm năng để văn hoá gieo hạt, nẩy mầm, vun trồng để cho giá trị văn hoá mỗi
ngày trở nên đẹp hơn, hồn thiện và giàu sức sống hơn.
Văn hố bao giờ cũng là yếu tố có trước, là những nét đặc trưng về
truyền thống dân tộc. Văn học lưu giữ văn hoá tức là văn học giữ chức năng
bảo tồn những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc để nó khơng bị mất
mát, sai lệch. Nhưng đồng thời văn học cịn sáng tạo ra văn hố. Tức là, thơng
qua văn học, văn hố khẳng định được giá trị của mình và như vậy văn học
góp phần đem những giá trị văn hố đó đến với đơng đảo quần chúng nhân
dân để giúp họ biết và hiểu sâu sắc về văn hoá của dân tộc.
Giáo dục là chức năng bao trùm của văn hố thì văn học là một thành
viên quan trọng trong gia đình văn hố để thực hiện chức năng ấy. Văn học
luôn tỏ rõ ưu thế khi thực hiện chức năng này. Bởi văn học không trừu tượng
như triết học, không khô cứng như khoa học....Văn học thông qua những câu
thơ ngọt ngào, tha thiết, qua những câu chuyện nhẹ nhàng, sâu lắng...đã dần
thấm vào lịng người bao triết lí sống đẹp. Những nhà văn lớn thường là
những là văn hoá lớn. Và cũng dễ thấy những tác phẩm nghệ thuật lớn lao bao
giờ cũng có chức năng văn hố cao.
1.2.2. Tri thức văn hố là chìa khố để hiểu các giá trị tác phẩm văn học
Văn học được xem như là sự kết tinh cao độ của văn hoá trên cả hai
phương diện: văn học phản ánh mọi mặt của đời sống văn hoá và văn học
cũng đạt tới đỉnh cao chính là đã tạo ra các giá trị văn hố. Văn hóa chính là
cơ sở, nền tảng cho sự sáng tạo và phát triển của văn học. Cũng vì thế mà tri
thức văn hố cũng là cơ sở để hiểu và giải thích tác phẩm văn chương.
Văn hoá được hiểu là một tổng thể, một hệ thống nhiều yếu tố khách
quan trong đó có văn học. Như vậy văn hố chi phối văn học với tư cách là hệ
thống chi phối yếu tố, toàn thể chi phối bộ phận.Tuy nhiên so với các yếu tố
khác văn học là một yếu tố mạnh và năng động mà trong khi đó hệ thống văn
hố lại có tính duy trì, ổn định. Như thế nên giữa văn học và văn hố ln xảy
16



ra sự xung đột, chống trọi, nhờ đó mà văn học có sự sáng tạo. Sáng tạo ra
những giá trị mới cho bản thân và cho hệ thống. Đôi khi sự sáng tạo lớn, có
giá trị sẽ dẫn tới sự thay đổi của hệ thống.
Văn học được hiểu là một bộ phận, một yếu tố trong hệ thống văn hố
thì nó khơng thể đi ra khỏi hệ thống để tác động trực tiếp đến hệ thống xã hội
mà phải gián tiếp qua hệ thống văn hố. Từ đấy, có thể thấy văn học không
phản ánh hiện thực một cách trực tiếp được mà phải phản ánh thơng qua “lăng
kính” của văn hố. Văn học từ đó có cách phản ánh đặc trưng riêng - phản
ánh có nghệ thuật.
Qua đó, cũng có thể kết luận rằng, văn học khơng thể có ảnh hưởng tức
thời, trực tiếp đến hành động của con người mà chỉ tác động được đến con
người với tư cách là chủ - khách thể của văn hoá, làm cho con người chuyển
biến rồi mới phát sinh hành động cụ thể. Cho nên chúng ta thấy để hiểu được
giá trị tác phẩm văn học thì phải có những tri thức văn hoá cơ bản.
1.2.3. Tiếp cận tác phẩm văn học từ góc nhìn văn hố
Tiếp cận tác phẩm từ góc nhìn văn hố là việc dùng văn hố để lí giải tác
phẩm văn học, gọi là phương pháp văn hoá học. Phương pháp này nhằm khai
thác sâu hơn các giá trị văn học của tác phẩm. Có thể nói, cách tiếp cận này
đã mở ra thêm một con đường mới để khám phá văn học.
Dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường phổ thơng dưới góc nhìn
văn hố tức là không chỉ cung cấp thêm cho học sinh tri thức văn học như
ngơn ngữ nghệ thuật, hình tượng nhân vật, biện pháp tu từ, phong cách, thi
pháp của nhà văn... mà cao hơn nữa phải tăng cường tô đậm bản chất văn hoá
của văn học. Bởi văn hoá là “ngữ cảnh gần nhất luôn được cảm thấy của ngữ
bản văn học sử. Ngữ cảnh văn hoá ảnh hưởng tạo tác đến văn học trong tổng
thể của nó và đến từng thành tố của tác phẩm văn học” (Phan Cư Đệ).
Tiếp cận theo hướng văn hoá là một hướng tiếp cận ưu thế trong tay
nhiều nhà nghiên cứu trong thời gian qua. Trên thế giới, M.Bakhtin với tác
17




×