Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

phân tích thông tin bất cân xứng với hoạt động tín dụng của nhtm việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.48 KB, 29 trang )

GVHD: TS. HAY SINH
PHÂN TÍCH THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NHTM VIỆT NAM
PHÂN TÍCH THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
TH: NHÓM 6 ĐÊM 1 CHKT KHÓA 20
KIN TẾ VI MÔ
1
GVHD: TS. HAY SINH
PHÂN TÍCH THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NHTM VIỆT NAM
MỤC LỤC
Lời mở đầu Trang 1
Mục lục Trang 2
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG
1.1. Khái niệm về thông tin bất cân xứng
Trang 3
1.2. Giải pháp lý thuyết hạn chế thông tin bất cân xứng Trang 7
CHƯƠNG 2:THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1. Hoạt động tín dụng Trang 10
2.1.1. Khái niệm Trang 10
2.1.2. Đặc trưng: Trang 11
2.1.3. Phân loại Trang 11
2.2. Rủi ro tín dụng Trang 13
2.2.1. Khái quát về rủi ro tín dụng Trang 13
2.3. Lựa chọn bất lợi và hoạt động tín dụng Trang 16
2.4. Tâm lý ỷ lại và hoạt động tín dụng Trang 17
CHƯƠNG 3: ẢNH HƯỞNG CỦA THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG TRONG
HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM


3.1. Thực trạng tín dụng của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam Trang 18
3.2. Tình hình nợ xấu ở các ngân hàng thương mại ở Việt Nam Trang 19
3.3. Các NHTM Việt Nam hiện phải làm gì để giải quyết vấn đề thông tin bất cân
xứng? Trang 21
3.4. Những giải pháp cần thực hiện Trang 26
KẾT LUẬN Trang 30
TÀI LIỆU THAM KHẢO Trang 31
TH: NHÓM 6 ĐÊM 1 CHKT KHÓA 20
KIN TẾ VI MÔ
2
GVHD: TS. HAY SINH
PHÂN TÍCH THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NHTM VIỆT NAM

LỜI MỞ ĐẦU
Câu hỏi lớn đặt ra sau mỗi cuộc khủng hoảng luôn là làm thế nào một đất nước
từ trạng thái tăng trưởng cao ngay trước cuộc khủng hoảng có thể biến chuyển rất
nhanh chóng rơi vào tình trạng suy thoái, sụt giảm kinh tế trầm trọng. Trong những
năm gần đây, nhiều thị trường mới nổi đã trải qua những cuộc khủng hoảng tài
chính, như Mexico năm 1994, Châu Á năm 1997, Argentine 2001. Nhiều nghiên
cứu đã nảy sinh xung quanh cuộc khủng hoảng này và đòi hỏi có giải pháp tốt để có
thể tránh được những cuộc khủng hoảng khác.
Trên góc độ kinh tế, Frederic Mishkin, tác giả cuốn “The Economics of Money,
Banking and Financial Market” đã tiếp cận và giải thích trên khía cạnh vấn đề
thông tin bất cân xứng.Lý thuyết thông tin bất cân xứng (Asymmetric Information)
lần đầu xuất hiện những năm 1970 và đã khẳng định được vị trí của mình trong nền
kinh tế học hiện đại bằng sự kiện năm 2001, các nhà khoa học George Akerlof,
Michael Spence và Joseph Stiglitz cùng vinh dự nhận giải Nobel kinh tế. “Thông
tin bất cân xứng là một trong những nguyên nhân gây nên thất bại thị trường, trạng
thái mà ở đó thị trường không đạt được sự phân phối các nguồn lực tối ưu.”

George Akerlof đã lần đầu tiên nêu lên khái niệm “thông tin bất cân xứng” trong
nghiên cứu của mình về thị trường mua bán ô tô cũ tại Mỹ. Từ đó, các nhà kinh tế
học Michael Spence và Joseph Stiglitz đã phân tích biểu hiện cũng như biện pháp
khắc phục vấn đề này trong thị trường lao động. Ngày nay, vấn đề thông tin bất cân
xứng đòi hỏi cần có các cơ chế đặc thù riêng trong việc xử lý nhằm hạn chế tác
động của nó đến hoạt động của các bên tham gia cũng như hoạt động của toàn bộ
nền kinh tế.
Trong nội dung nghiên cứu này, chúng tôi trình bày về ảnh hưởng của thông tin
bất cân xứng đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng
TH: NHÓM 6 ĐÊM 1 CHKT KHÓA 20
KIN TẾ VI MÔ
3
GVHD: TS. HAY SINH
PHÂN TÍCH THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NHTM VIỆT NAM
như những giải pháp mà các ngân hàng đang thực hiện nhằm ngăn ngừa và giải
quyết vấn đề này.
TH: NHÓM 6 ĐÊM 1 CHKT KHÓA 20
KIN TẾ VI MÔ
4
GVHD: TS. HAY SINH
PHÂN TÍCH THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NHTM VIỆT NAM
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ THÔNG TIN BẤT CÂN
XỨNG
1.1. Khái niệm về thông tin bất cân xứng
Thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên giao dịch có ít thông tin hơn bên đối
tác hoặc có thông tin nhưng thông tin không chính xác. Điều này khiến cho bên có
ít thông tin hơn có những quyết định không chính xác khi thực hiện giao dịch đồng
thời bên có nhiều thông tin hơn cũng sẽ có những hành vi gây bất lợi cho bên kia

khi thực hiện nghĩa vụ giao dịch.
Tình trạng thông tin bất cân xứng hiện diện trong rất nhiều lĩnh vực:
- Ngân hàng
- Thị trường bảo hiểm
- Thị trường chứng khoán
- Thị trường đồ cũ
- Thị trường bất động sản
- Thị trường lao động
Hai hành vi phổ biến nhất do thông tin bất cân xứng gây ra là lựa chọn bất lợi
(adverse selection) và tâm lý ỷ lại (moral hazard).
a. Lựa chọn bất lợi
Lựa chọn bất lợi (hay còn gọi là lựa chọn ngược, lựa chọn trái ý, lựa chọn đối
nghịch) là kết quả của thông tin bị che đậy, nó xảy ra trước khi thực hiện giao dịch
hay nói cách khác trước khi ký hợp đồng khi mà bên có nhiều thông tin có thể gây
ra tổn hại cho bên có ít thông tin hơn. Lựa chọn bất lợi là một tình trạng kinh tế có
thể nảy sinh do tồn tại tình trạng thông tin bất cân xứng, người lựa chọn thứ tốt lại
chọn phải thứ không tốt.
Lựa chọn bất lợi là trục trặc của yếu tố cơ hội chủ nghĩa trước hợp đồng; nó nảy
sinh vì thông tin riêng mà người thực hiện "giao dịch" có trước khi họ ký hợp đồng,
trong lúc đang tính toán xem việc thực hiện "giao dịch" thì có lợi hay không.
Trong điều kiện thông tin đối xứng, các bên trong giao dịch nắm thông tin
ngang nhau và đầy đủ về thứ được giao dịch. Khi đó, người ta có thể tìm được thứ
tốt hoặc thứ tương xứng với cái giá mà họ phải bỏ ra. Nhưng trong điều kiện thông
TH: NHÓM 6 ĐÊM 1 CHKT KHÓA 20
KIN TẾ VI MÔ
5
GVHD: TS. HAY SINH
PHÂN TÍCH THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NHTM VIỆT NAM
tin phi đối xứng, nghĩa là một bên trong giao dịch có nhiều thông tin về đối tượng

giao dịch hơn bên kia, người có ưu thế về thông tin có thể cung cấp những thông tin
không trung thực về đối tượng được giao dịch cho bên kém ưu thế thông tin. Kết
quả là, bên kém ưu thế về thông tin đồng ý hoàn thành giao dịch và nhận được thứ
không như mình mong muốn.
b. Tâm lý ỷ lại
Tâm lý ỷ lại (hay còn gọi là rủi ro đạo đức) là kết quả của hành vi bị che đậy và
xuất hiện sau khi ký hợp đồng, phát sinh do các hành động có tác động đến hiệu
quả nhưng lại không dễ dàng quan sát được và vì thế những người thực hiện các
hành động này có thể chọn theo đuổi những lợi ích cá nhân của mình trên cơ sở gây
tổn hại cho người khác. Đây là thuật ngữ để chỉ loại rủi ro phát sinh khi đạo đức
của chủ thể kinh tế bị suy thoái. Tâm lý ỷ lại là một kiểu thất bại thị trường nảy sinh
trong môi trường thông tin bất cân xứng.
Tâm lý ỷ lại nảy sinh khi bên có ưu thế thông tin hiểu được tình thế thông tin
phi đối xứng giữa các bên giao dịch và tự nhiên hình thành động cơ hành động theo
hướng làm lợi cho bản thân bất kể hành động đó có thể làm hại cho bên kém ưu thế
thông tin. Hành vi tha hóa theo hướng như thế của bên có ưu thế thông tin được bên
kém ưu thế thông tin cho là không đứng đắn, là một thứ nguy hiểm, rủi ro cho
mình.
Để có sự tồn tại của tâm lý ỷ lại, ba điều kiện phải được thỏa mãn:
- Thứ nhất, phải có sự khác biệt về quyền lợi giữa các bên;
- Thứ hai, phải có một cơ sở nào đó để tạo ra trao đổi có lợi hay một hình thức
hợp tác khác nhau giữa các cá nhân (tức là có lý do để đồng ý giao dịch) từ đó
làm lộ ra mâu thuẫn về quyền lợi;
- Thứ ba là phải tồn tại những khó khăn trong việc xác định xem các điều kiện
thỏa thuận có đúng là được tuân thủ và thực hiện hay không.
1.2. Giải pháp lý thuyết hạn chế thông tin bất cân xứng
TH: NHÓM 6 ĐÊM 1 CHKT KHÓA 20
KIN TẾ VI MÔ
6
GVHD: TS. HAY SINH

PHÂN TÍCH THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NHTM VIỆT NAM
Trong nhiều lĩnh vực xuất hiện thông tin bất cân xứng thì các giải pháp thường
được áp dụng chung để hạn chế mức độ thông tin bất cân xứng là cơ chế phát tín
hiệu, cơ chế sàng lọc và cơ chế giám sát.
a. Cơ chế phát tín hiệu
Cơ chế phát tín hiệu là việc bên có nhiều thông tin có thể phát tín hiệu đến
những bên ít thông tin một cách trung thực và tin cậy. Với việc phát tín hiệu này,
người bán những sản phẩm chất lượng cao phải sử dụng những biện pháp được coi
là quá tốn kém với người bán hàng hóa chất lượng thấp.
Đối với thị trường tài chính, để giao dịch được hiệu quả thì người đi vay có thể
vay được vốn với chi phí thấp, người cho vay chắc chắn khả năng thu hồi được nợ
hay người cho vay và đi vay phải nắm rõ quyền lợi và trách nhiệm của riêng mình.
Thông thường người đi vay là người nắm rõ thông tin về mình nhất thế nên họ sẽ
được lợi nhiều hơn trong giao dịch. Tuy nhiên, ngân hàng sẽ không dễ dàng cho
vay nếu như họ không biết rõ về khách hàng của mình. Thế nên, người đi vay phải
phát tín hiệu rằng mình là người có khả năng trả được nợ tốt. Vấn đề phát tín hiệu
trong trường hợp này là: Uy tín của công ty, qui mô và danh tiếng công ty, năng lực
tài chính, tài sản đảm bảo vv, ngược lại ngân hàng cũng phải phát tín hiệu để người
đi vay thực hiện trách nhiệm của mình trong hợp đồng vay như cơ chế xử lý tài sản,
lãi suất cho vay…
b. Cơ chế sàng lọc
Để hạn chế sự lựa chọn bất lợi của mình, ngân hàng thường áp dụng hạn mức
tín dụng khác nhau với mỗi đối tượng vay, dự án vay và thời hạn vay. Ở thị trường
chứng khoán, ngoại trừ một số nhà đầu cơ, đa phần nhà đầu tư mong muốn mình sẽ
đầu tư vào những công ty có khả năng mang lại hiệu quả cao và bền vững. Vì vậy
cơ chế sàng lọc đối với nhà đầu tư là đầu tư vào các công ty có thông tin minh bạch,
uy tín, làm ăn hiệu quả và có tiềm năng phát triển cao.
c. Cơ chế giám sát
Cơ chế giám sát được áp dụng nhằm mục đích kiểm soát tâm lý ỷ lại.

TH: NHÓM 6 ĐÊM 1 CHKT KHÓA 20
KIN TẾ VI MÔ
7
GVHD: TS. HAY SINH
PHÂN TÍCH THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NHTM VIỆT NAM
Trong thị trường tài chính, người cho vay thường thực hiện việc kiểm tra sử
dụng vốn vay sau khi giải ngân, kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh của khách
hàng vay theo định kỳ. Trong các hợp đồng tín dụng, luôn có điều khoản yêu cầu
khách hàng vay cung cấp đầy đủ và kịp thời các thông tín liên quan đến tình hình
hoạt động, những thay đổi tác động nhiều đến bên vay…
Ngoài ra, bên cho vay còn sử dụng các hệ thống giám sát khác như hệ thống
thông tin tín dụng, thông tin trên thị trường chứng khoán, thông tin từ các đối thủ
cạnh tranh, các cơ quan quản lý
Trong hệ thống giám sát nêu trên, đối với các tổ chức tín dụng, quan trọng nhất
là hệ thống thông tin tín dụng (hệ thống này thường do ngân hàng trung ương hoặc
cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng làm thiết lập và tổ chức hoạt động). Hệ
thống thông tin tín dụng làm nhiệm vụ thu thập tất cả các thông tín liên quan đến
hoạt động của tất cả cá đối tượng được cấp tín dụng và sẽ cung cấp cho các thành
viên trong hệ thống thông tin này hoặc cung cấp (bán) cho những đối khác có nhu
cầu.
Ngoài 3 cơ chế nêu trên, tâm lý ỷ lại còn được giảm thiểu bằng cơ chế khuyến
khích. Đây là một cơ chế rất hữu hiệu trên cơ sở chính sách cây gậy và củ cà rốt.
Các tổ chức tín dụng sẽ cấp tín dụng với những điều kiện ưu đãi về lãi suất, phí, hạn
mức tín dụng, tài sản đảm bảo cho những khách hàng có uy tín trong quan hệ, vay
trả sòng phẳng. Ngược lại, đối với các khách hàng không có uy tín trong quan hệ sẽ
bị hạn chế hạn mức tín dụng (thậm chí chấm dứt quan hệ tín dụng), phải chịu lãi
suất cao và những điều kiện khắt khe hơn về đảm bảo tiền vay
TH: NHÓM 6 ĐÊM 1 CHKT KHÓA 20
KIN TẾ VI MÔ

8
GVHD: TS. HAY SINH
PHÂN TÍCH THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NHTM VIỆT NAM
CHƯƠNG 2: THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG TRONG HOẠT
ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.3. Hoạt động tín dụng
2.1.1 Khái niệm
Hoạt động ngân hàng thương mại là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp
tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán
Luật các tổ chức tín dụng định nghĩa: “Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng
thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng
các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các
nghiệp vụ khác”.
Tín dụng là giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân
hàng) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho
vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo
thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên
cho vay khi đến hạn thanh toán.
Trong thực tế tín dụng hoạt động rất phong phú và đa dạng nhưng ở bất cứ dạng
nào cũng thể hiện hai mặt cơ bản:
- Người sở hữu một số tiền hoặc hàng hóa chuyển giao cho người khác trong
một thời gian nhất định.
- Đến thời hạn do hai bên thỏa thuận, người sử dụng hoàn lại cho người sở hữu
một giá trị lớn hơn. Phần tăng thêm được gọi là phần lời hay nói theo ngôn ngữ
kinh tế là lãi suất
Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng phát sinh giữa các ngân hàng, các tổ
chức tín dụng với các đối tác kinh tế - tài chính của toàn xã hội, bao gồm doanh
nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước.

2.1.2 Đặc trưng:
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách
khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc.
TH: NHÓM 6 ĐÊM 1 CHKT KHÓA 20
KIN TẾ VI MÔ
9
GVHD: TS. HAY SINH
PHÂN TÍCH THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NHTM VIỆT NAM
- Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là
cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản).
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản
cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng
hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng.
- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở bên đi vay
cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
2.1.3 Phân loại
Phân loại tín dụng hay phân loại cho vay là việc sắp xếp các khoản cho vay theo
từng nhóm dựa trên một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại cho vay có cơ sở
khoa học là tiền đề để thiết lập các quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu
quả quản trị rủi ro tín dụng. Phân loại cho vay dựa vào các căn cứ sau đây:
- Dựa vào mục đích của cho vay, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các
loại sau:
+ Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp.
+ Cho vay tiêu dùng cá nhân.
+ Cho vay mua bán bất động sản.
+ Cho vay sản xuất nông nghiệp.
+ Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu…
- Dựa vào thời hạn cho vay, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các loại
sau:

+ Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn đến 1 năm. Mục đích của
loại cho vay này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu
động.
+ Cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 1 đến 5 năm. Mục đích
của loại cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định.
+ Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục đích của loại
cho vay này thường là nhằm tài trợ đầu tư vào các dự án đầu tư.
- Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng, hoạt động tín dụng có thể phân
chia thành các loại sau:
TH: NHÓM 6 ĐÊM 1 CHKT KHÓA 20
KIN TẾ VI MÔ
10
GVHD: TS. HAY SINH
PHÂN TÍCH THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NHTM VIỆT NAM
+ Cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm
cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách
hàng vay vốn để quyết định cho vay.
+ Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho tiền
vay như thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào khác.
- Dựa vào phương thức cho vay, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các
loại sau:
+ Cho vay theo món vay: là loại cho vay mà mỗi lần vay vốn, khách hàng và
tổchức tín dụng thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín
dụng.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: là loại cho vay mà tổ chức tín dụng và
khách hàng xác định và thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một
khoảng thời gian nhất định.
+ Cho vay theo hạn mức thấu chi: là việc cho vay mà tổ chức tín dụng thỏa
thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài

khoản thanh toán của khách hàng.
- Dựa vào xuất xứ tín dụng, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các loại
sau:
+ Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng
thời người đi vay trực tiếp trả nợ vay cho ngân hàng.
+ Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại
các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh
toán như là: Chiết khấu thương mại; bao thanh toán.
2.2 Rủi ro tín dụng
2.2.1 Khái quát về rủi ro tín dụng:
“Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng
xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng
không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam
kết” (Khoản 01 Điều 02 của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự
phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng)
TH: NHÓM 6 ĐÊM 1 CHKT KHÓA 20
KIN TẾ VI MÔ
11
GVHD: TS. HAY SINH
PHÂN TÍCH THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NHTM VIỆT NAM
Rủi ro tín dụng có thể xuất hiện trong các mối quan hệ mà trong đó ngân hàng là
chủ nợ, mà khách hàng nợ lại không thực hiện hoặc không đủ khả năng thực hiện
nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Nó diễn ra trong quá trình cho vay, chiết khấu công cụ
chuyển nhượng và giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh, bao thanh toán của
ngân hàng.
Đây còn được gọi là rủi ro mất khả năng chi trả và rủi ro sai hẹn, là loại rủi ro liên
quan đến chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng.
2.2.2 Nguyên nhân:
- Nguyên nhân khách quan.

+ Sự thay đổi của môi trường tự nhiên như: thiên tai, dịch bệnh, bão lụt gây
tổn thất cho khách hàng vay vốn kinh doanh
+ Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới
+ Sự tấn công của hàng nhập lậu
+ Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi và sự kém hiệu quả của cơ
quan pháp luật cấp địa phương trong việc triển khai
+ Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của Ngân hàng Nhà nước
+ Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập
Sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá hối đoái, lạm phát, chỉ số giá cả tăng, nguyên vật liệu đầu
vào tăng làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của khách hàng, khó khăn tài chính
dẫn đến không có khả năng trả nợ.
- Nguyên nhân thuộc về năng lực quản trị của ngân hàng
+ Ngân hàng không có đủ thông tin về các số liệu thống kê, chỉ tiêu để phân
tích và đánh giá khách hàng
+ Sự lơi lỏng trong quá trình giám sát trong và sau khi cho vay
+ Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm, coi đó là vật đảm
bảo chắc chắn cho sự thu hồi cả gốc và lãi tiền vay
+ Chạy theo số lượng (hoặc theo kế hoạch) mà sao lãng việc coi trọng chất
lượng khoản vay, quá lạc quan và tin tưởng vào sự thành công của phương
án kinh doanh của khách hàng
+ Ngân hàng thiếu một bộ phận chuyên trách theo dõi, quản lý rủi ro, quản lý
hạn mức tín dụng tối đa cho từng khách hàng thuộc từng ngành nghề, sản
TH: NHÓM 6 ĐÊM 1 CHKT KHÓA 20
KIN TẾ VI MÔ
12
GVHD: TS. HAY SINH
PHÂN TÍCH THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NHTM VIỆT NAM
phẩm địa phương khác nhau để phân tán rủi ro, các dự báo cần thiết trong
từng thời kỳ

+ Năng lực và phẩm chất đạo đức của một số cán bộ tín dụng ngân hàng
chưa đủ tầm và vấn đề quản lý sử dụng, đãi ngộ cán bộ ngân hàng chưa
thỏa đáng
+ Ngân hàng không giải quyết hợp lý quan hệ giữa nguồn vốn huy động và
nguồn vốn sử dụng
+ Cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng chưa thực sự lành mạnh, việc chạy
theo quy mô, bỏ qua các tiêu chuẩn, điều kiện trong cho vay, thiếu quan
tâm đến chất lượng khoản vay
- Nguyên nhân thuộc về phía khách hàng
+ Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay
+ Năng lực quản lý kinh doanh kém, đầu tư nhiều lĩnh vực vượt quá khả
năng quản lý
+ Khách hàng vay vốn tại nhiều tổ chức tín dụng dưới một danh nghĩa hay
nhiều thực thể khác nhau nên thiếu sự phân tích trên tổng thể, khó theo dõi
được dòng tiền dẫn đến việc sử dụng vốn vay chồng chéo và mất khả năng
thanh toán dây chuyền
+ Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch
+ Chưa thực sự thay đổi quan điểm, còn xem vốn ngân hàng là vốn nhà nước
nếu doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả thì ngân hàng chịu, ngân hàng
thua lỗ thì nhà nước chịu
+ Doanh nghiệp cố tình lừa đảo ngân hàng
Một trong các thông số dùng để đánh giá mức độ an toàn của hoạt động tín dụng là
tỷ lệ nợ xấu. Theo kinh nghiệm của nhiều nước và từ nhiều nghiên cứu, trừ những
cú sốc bất ngờ như khủng hoảng kinh tế, thiên tai…nguyên nhân gây ra tình trạng
nợ xấu nhiều nhất là do các ngân hàng không có đầy đủ thông tin từ phía khách
hàng của mình mặc dù đã có rất nhiều nỗ lực trong công tác thẩm định . Nói một
cách đơn giản, là do cơ chế sàng lọc chưa đủ hiệu lực nên các ngân hàng đã để "lọt"
TH: NHÓM 6 ĐÊM 1 CHKT KHÓA 20
KIN TẾ VI MÔ
13

GVHD: TS. HAY SINH
PHÂN TÍCH THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NHTM VIỆT NAM
những khách hàng có khả năng che đậy hành vi và thông tin của họ trong giao dịch
vay vốn để thực hiện những dự án có rủi ro cao.
Như vậy, thông tin bất cân xứng là một trong những nguyên nhân cơ bản ảnh
hưởng đến rủi ro trong các hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại. Việc
nghiên cứu tác động của thông tin bất cân xứng sẽ được làm rõ thông qua nghiên
cứu về hai biểu hiện của nó là lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại.
2.3. Lựa chọn bất lợi và hoạt động tín dụng
Lựa chọn bất lợi xảy ra trước cho vay, khi ngân hàng bị khách hàng che giấu
một số thông tin dẫn tới việc lựa chọn khách hàng không tốt và cấp tín dụng không
hiệu quả. Khách hàng có độ rủi ro cao thường là những khách hàng tích cực nhất
trong việc xin vay. Hậu quả của sự lựa chon đối nghịch có thể dẫn đến việc cấp tín
dụng cho khách hàng có rủi ro cao nên trong trường hợp này các ngân hàng có thể
sẽ cắt giảm cho vay hoặc không tiếp tục cho vay mặc dù trên thị trường vẫn có
nhiều khách hàng tốt.
Đối với hoạt động tài chính ngân hàng, lựa chọn bất lợi sẽ xuất hiện khi nguồn
vốn khan hiếm, lãi suất cho vay bị đẩy lên cao. Theo nguyên tắc "rủi ro cao - lợi
nhuận cao” và nguyên tắc loại trừ, khi nguồn cung tín dụng dồi dào, mức lãi suất
cho vay thấp thì các dự án có suất sinh lợi thấp - rủi ro thấp, đảm bảo khả năng trả
nợ một cách chắc chắn và các dự án có suất sinh lợi cao - rủi ro cao với khả năng
trả nợ ít chắc chắn hơn đều được cấp tín dụng để thực hiện. Tuy nhiên, vấn đề nảy
sinh khi nguồn vốn khan hiếm, lãi suất cho vay bị đẩy lên cao. Khi đó các dự án an
toàn không được cấp tín dụng mà chỉ có những dự án có mức độ rủi ro cao, với suất
sinh lợi cao được vay vốn để thực hiện. Đây chính là vấn đề lựa chọn bất lợi trong
hoạt động tài chính ngân hàng đã xảy ra. Khi mà chỉ các dự án có độ rủi ro cao
được thực hiện thì nguy cơ vỡ nợ của các tổ chức tài chính là rất cao.
2.4. Tâm lý ỷ lại và hoạt động tín dụng
TH: NHÓM 6 ĐÊM 1 CHKT KHÓA 20

KIN TẾ VI MÔ
14
GVHD: TS. HAY SINH
PHÂN TÍCH THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NHTM VIỆT NAM
Trong hoạt động tín dụng, giám sát việc sử dụng các khoản tín dụng của ngân
hàng thường vấp phải nhiều khó khăn đến từ cả phía ngân hàng cũng như người đi
vay.
Bản thân các ngân hàng có thể gặp phải những rủi ro do tâm lý ỷ lại ở người đi
vay khi ngân hàng khi không giám sát được đầy đủ người đi vay, kích thích người
này dùng khoản vay một cách mạo hiểm quá mức.
Tâm lý ỷ lại xảy ra sau cho vay, khi khách hàng có động cơ đầu tư vào những
dự án có độ rủi ro cao. Nếu dự án đó thành công thì khách hàng sẽ thu được lợi rất
lớn, ngược lại nếu dự án thất bại thì ngân hàng sẽ phải gánh chịu hậu quả do khách
hàng thua lỗ. Tâm lý ỷ lại cũng có thể xảy ra khi khách hàng sử dụng vốn vay
không đúng mục đích, đầu tư vào dự án kém hiệu quả, lừa đảo ngân hàng Xung
đột về lợi ích giữa người vay và ngân hàng từ vấn đề tâm lý ỷ lại dẫn đến tình trạng
một số ngân hàng quyết định giảm cho vay, ảnh hưởng đến cả nền kinh tế.
Ngoài ra, còn có tâm lý ỷ lại của các tổ chức tín dụng sau khi cho vay. Thiếu sót
trong quá trình kiểm tra sử dụng vốn vay có đúng mục đích.
TH: NHÓM 6 ĐÊM 1 CHKT KHÓA 20
KIN TẾ VI MÔ
15
GVHD: TS. HAY SINH
PHÂN TÍCH THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NHTM VIỆT NAM
CHƯƠNG 3: ẢNH HƯỞNG CỦA THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG
TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI VIỆT NAM
3.1. Thực trạng tín dụng của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam

Song song với sự hoàn thiện của hệ thống ngân hàng và cơ chế điều hành lãi
suất, hoạt động tín dụng đã đạt được nhiều bước đột phá và khẳng định được tầm
quan trọng của mình trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại nói
riêng và trong hoạt động kinh tế của đất nước nói chung.
Ngân hàng thu được lợi nhuận thông qua các hoạt động dịch vụ cung cấp cho
khách hàng như thanh toán, tư vấn và quan trọng nhất là hoạt động cho vay (hoạt
động tín dụng). Sự chênh lệch giữa tiền lãi kiếm được thông qua hoạt động và tiền
lãi phải trả thông qua các huy động tạo nên lợi nhuận của ngân hàng. Đây chưa phải
là toàn bộ lợi nhuận của ngân hàng, tuy nhiên nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ chủ
yếu của ngân hàng và nó chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số lợi nhuận của ngân
hàng.
Tín dụng ngân hàng đã đóng vai trò quan trọng từ buổi sơ khai đến mô hình
ngân hàng hiện đại ngày nay. Với khái niệm ấy đối với riêng trong lĩnh vực tín
dụng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế, xã hội. Thực tiễn
cho thấy hiệu quả sử dụng vốn là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy, mở rộng
quan hệ giao lưu quốc tế, tác động tích cực đến nhịp độ phát triển và thúc đẩy sự
cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Tuy là nghiệp vụ kinh doanh chính đem lại hơn 80% doanh thu, nhưng hoạt
động tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam dường như có trục trặc mà
nó được thể hiện qua khối lượng nợ xấu tương đối cao.
3.2. Tình hình nợ xấu ở các ngân hàng thương mại ở Việt Nam
 Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN và Quyết định 18 quy định Tổ chức tín
dụng thực hiện phân loại nợ như sau:
* Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
TH: NHÓM 6 ĐÊM 1 CHKT KHÓA 20
KIN TẾ VI MÔ
16
GVHD: TS. HAY SINH
PHÂN TÍCH THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NHTM VIỆT NAM

- Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ khả năng thu hồi
đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn;
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại Khoản 2, Điều
này.
* Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại;
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Khoản 3 và
Khoản 4 Điều này.
* Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã
cơ cấu lại;
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại Khoản 3 và
Khoản 4 Điều này.
* Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo
thời hạn đã cơ cấu lại;
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại Khoản 3 và
Khoản 4 Điều này.
* Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
- Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
- Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn
đã được cơ cấu lại;
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại Khoản 3 và
Khoản 4 Điều này.
Nợ xấu bao gồm nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ, nợ có khả năng mất vốn.
a. Nguyên nhân hình thành nợ xấu:

Nợ xấu là hệ quả của rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại được hình
thành từ hai nhóm nguyên nhân cơ bản:
- Nguyên nhân khách quan xuất phát từ sự thay đổi của môi trường tự nhiên (thiên
tai, dịch bệnh,…), sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường
TH: NHÓM 6 ĐÊM 1 CHKT KHÓA 20
KIN TẾ VI MÔ
17
GVHD: TS. HAY SINH
PHÂN TÍCH THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NHTM VIỆT NAM
thế giới, sự tấn công của hàng nhập lậu, rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi
và sự kém hiệu quả của các cơ quan quản lý nhà nước, hệ thống thông tin quản lý
còn bất cập…
- Nguyên nhân chủ quan xuất phát từ sự quản lý yếu kém của ngân hàng cũng như
từ phía khách hàng. Các ngân hàng thương mại quốc doanh chỉ bị ràng buộc tài
chính “mềm” , dẫn đến việc các ngân hàng không quan tâm đến việc đánh giá sát
sao năng lực tài chính của người vay, gây ra và tích đọng nợ xấu.
Lãi suất huy động vốn quá cao dẫn đến lãi suất cho doanh nghiệp vay tăng lên,
các doanh nghiệp mạnh sẽ không chấp nhận mức lãi suất quá cao, họ có khả năng
tìm đến những nguồn vốn khác. Nghi vấn đặt ra đối với những doanh nghiệp dám
chấp thuận mức lãi suất cao. Phần lớn sự chấp thuận đó xuất phát từ sự thiếu vốn
trầm trọng, năng lực tài chính hạn chế, độ tín nhiệm thấp nên không tiếp cận được
những nguồn vốn khác. Và tất nhiên, nguy cơ nợ xấu ngân hàng tăng lên từ nhóm
đối tượng này.
Nguyên nhân chủ quan còn là hệ quả của việc thiếu thông tin về người đi vay
của các ngân hàng thương mại cũng như thiếu cơ chế giám sát quá trình thực hiện
dự án sau khi vay. Đây đều là hệ quả của vấn đề thông tin bất cân xứng gây nên.
b. Hậu quả
Nợ xấu ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh của cả chủ nợ và doanh
nghiệp. Chủ nợ mất nhiều thời gian, công sức thu hồi nợ. Trong khi đó, doanh

nghiệp gần như mất khả năng trả nợ, chủ nợ có nguy cơ mất trắng.
Tuy nhiên, việc loại trừ nợ xấu gần như là điều không thể. Việc phản ánh tình trạng
nợ xấu trong báo cáo tài chính của các ngân hàng thương mại càng đầy đủ và chi
tiết càng phản ánh tình trạng tín dụng càng đảm bảo thông qua việc trích lập các
khoản dự phòng chính xác và mang tính thực tế.
3.3. Các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện phải làm gì để giải quyết vấn đề
thông tin bất cân xứng?
Hiện nay, vấn đề xử lý thông tin bất cân xứng đang được các ngân hàng thương
mại ở Việt Nam chú trọng nhằm giải hạn chế rủi ro trong tín dụng, khắc phục tình
TH: NHÓM 6 ĐÊM 1 CHKT KHÓA 20
KIN TẾ VI MÔ
18
GVHD: TS. HAY SINH
PHÂN TÍCH THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NHTM VIỆT NAM
trạng nợ xấu. vấn đề cơ bản trong việc giải quyết thông tin bất cân xứng chính là sự
cân bằng thông tin. Để giúp các ngân hàng tìm được "đúng" khách hàng, "đúng" dự
án và khách hàng thực hiện "đúng" những hành động như đã cam kết thì một nền
kinh tế cần phải có các cơ sở hạ tầng và điều kiện cần thiết:
- Các quy định pháp lý rõ ràng và chặt chẽ
- Hệ thống kế toán và báo cáo tài chính minh bạch, đủ độ tin cậy phản ánh đúng
năng lực tài chính của khách hàng
- Hệ thống thông tin đầy đủ, có độ tin cậy và tính chính xác cao
- Các tiêu chuẩn đánh giá xếp loại rõ ràng, minh bạch, dễ áp dụng
- Tổ chức đánh giá, xếp loại tín dụng độc lập
- Hệ thống đăng ký tài sản
3.3.1 Các quy định về pháp lý
Ở Việt Nam, hoạt động ngân hàng nói chung, hoạt động tín dụng nói riêng được
quy định bởi văn bản cao nhất là Luật các tổ chức tín dụng. Ngoài ra còn có các văn
bản hướng dẫn của Chính phủ, của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các văn bản

liên quan đến hoạt động tín dụng. Các quy định về hoạt động tín dụng tại Việt Nam
được đánh giá là tương đối đầy đủ và theo thông lệ chung với các hướng dẫn rõ
ràng, quyền tự chủ dành cho bên cấp tín dụng trên cơ sở bảo đảm những quy định
về an toàn.
3.3.2 Hệ thống thông tin tín dụng
Hầu như không ngân hàng nào đủ khả năng tự mình xử lý được vấn đề thông tin
bất cân xứng mà cần có hệ thống thông tin phục vụ đánh giá xếp loại khách hàng và
hệ thống thông tin phục vụ cho việc thẩm định dự án. Hệ thống thông tin tín dụng
đóng vai trò như là người trung gian trong quá trình đánh giá mức độ “an toàn” của
khách hàng, là cơ sở cho các quyết định cấp tín dụng của các ngân hàng.
Hệ thống thông tin đầy đủ về khách hàng như lịch sử hình thành, quá trình phát
triển, năng lực tài chính, mức độ tín nhiệm,… là cơ sở hết sức quan trọng giúp cho
việc thẩm định, xếp loại, lựa chọn khách hàng. Nếu hệ thống này không đầy đủ sẽ
ảnh hưởng lớn đến khả năng đánh giá, thẩm định khách hàng của ngân hàng.
TH: NHÓM 6 ĐÊM 1 CHKT KHÓA 20
KIN TẾ VI MÔ
19
GVHD: TS. HAY SINH
PHÂN TÍCH THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NHTM VIỆT NAM
Ngoài hệ thống thông tin tín dụng chung cho các ngân hàng thương mại, các
ngân hàng thường tự xây dựng cho mình cơ chế riêng trong việc đánh giá, thẩm
định khách hàng. Hệ thống thông tin tín dụng cùng với hệ thống xếp hạng tín dụng
nội bộ cung cấp những thông tin cần thiết về người đi vay cho các ngân hàng
thương mại. Trên cơ sở nắm đầy đủ thông tin về khách hàng, ngân hàng có thể hạn
chế hữu hiệu rủi ro do lựa chọn bất lợi nảy sinh từ vấn đề thông tin bất cân xứng.
3.3.3 Sử dụng hệ thống thông tin phục vụ công tác thẩm định, kiểm tra sử dụng
vốn vay
Ngoài hệ thống thông tin dùng để đánh giá khách hàng, khi thẩm định dự án,
phương án kinh doanh, các ngân hàng cần phải có hệ thống thông tin nhằm xác

định, kiểm tra thông số đầu vào - đầu ra của dự án, nhất là các thông số về thị
trường nguyên liệu đầu vào và thị trường đầu ra của sản phẩm…Khi thẩm định dự
án, phương án kinh doanh, ngân hàng thường xử dụng các tiêu chuẩn thẩm đinh dự
án đầu tư kết hợp với các kỹ thuật phân tích báo cáo tài chính, thẩm định dự án.
Hai tiêu chuẩn thông dụng nhất đánh giá dự án là dựa vào giá trị hiện tại ròng
(NPV) và suất thu hồi vốn nội bộ (IRR). Một dự án có NPV dương hay suất thu hồi
vốn nội bộ lớn hơn một ngưỡng yêu cầu là có thể quyết định đầu tư hoặc cấp tín
dụng cho dự án đó. Vấn đề khó khăn đầu tiên đối với các tổ chức tín dụng khi tính
NPV hoặc đánh giá theo tiêu chuẩn IRR thì suất chiết khấu nào được sử dụng ở
đây.
Kỹ thuật đánh giá, thẩm định dự án nói riêng, dự báo nói chung hiện nay được
sử dụng phổ biến nhất là dựa vào phân tích mô phỏng (phân tích động) để tính xác
suất có khả năng xảy ra các trường hợp tốt và các trường hợp bất lợi cho dự án.
Việc nhìn vào biểu đồ phân bố xác xuất của dự án có thể biết được xác suất để NPV
dương là bao nhiêu, âm là bao nhiêu.
- Đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng: Yếu tố cơ bản của tiêu chí này là mối
quan hệ dài hạn, uy tín, thương hiệu của khách hàng trên thị trường, năng lực và
trình độ quản lý, sự am hiểu trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh Những yếu tố
TH: NHÓM 6 ĐÊM 1 CHKT KHÓA 20
KIN TẾ VI MÔ
20
GVHD: TS. HAY SINH
PHÂN TÍCH THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NHTM VIỆT NAM
rất khó đánh giá vì Việt nam mới chuyển sang kinh tế thị trường gần 20 năm. Ý
thức doanh nghiệp về xây dựng thương hiệu, uy tín trên thương trường với chiến
lược kinh doanh dài hạn mới chỉ được đề cập. Hoạt động tín dụng ngân hàng mới
thực sự phát triển trong vòng 5 năm trở lại đây (khi cơ chế đảm bảo tiền vay được
nới lỏng, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh được khuyến khích, tín dụng theo chỉ
định và theo kế hoạch được tách khỏi tín dụng thương mại ). Mối quan hệ giữa

khách hàng và các tổ chức tín dụng gần như mới được xác lập, chưa đủ độ dài thời
gian để tạo ra sự tin cậy. Do đó việc đánh giá mức độ tín nhiệm để làm tiêu chí
quyết định cấp tín dụng đã được đặt ra nhưng còn rất mờ nhạt.
Việc đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng được thực hiện trên cơ sở đánh
giá tình hình tài chính và kết quả kinh doanh. Hiện tại, hệ thống tiêu chuẩn kế toán
Việt Nam (VAS) vẫn còn những khác biệt so với với hệ thống tiêu chuẩn kế toán
quốc tế (IAS). Theo Nghị định về kiểm toán độc lập, trừ một số loại hình doanh
nghiệp phải thực hiện kiểm toán như bảo hiểm, ngân hàng, các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước, số còn lại (chủ yếu là các doanh
nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp), nhà nước chỉ khuyến khích các doanh
nghiệp thực hiện kiểm toán các báo báo tài chính. Mặt khác, hầu hết các ngân hàng
chưa yêu cầu khách hàng đến xin cấp tín dụng phải có báo cáo tài chính được kiểm
toán.
Phó tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - ông Lê Đào
Nguyên ''Các DN vừa và nhỏ thường xây dựng báo cáo tài chính mang tính chất đối
phó với cơ quan thuế; báo cáo chính thức (báo cáo được pháp luật công nhận)
thường thấp hơn tình trạng thực tế, không đảm bảo đủ điều kiện vay vốn ngân
hàng''.
Những vấn đề nêu trên đã tạo ra kẽ hở để một doanh nghiệp có nhiều hệ thống
sổ sách báo cáo kế toán. Một dùng để báo cáo thuế (kết quả kinh doanh thấp hơn
thực tế). Một dùng để vay vốn ngân hàng (kết quả báo cáo thường hơn thực tế).
TH: NHÓM 6 ĐÊM 1 CHKT KHÓA 20
KIN TẾ VI MÔ
21
GVHD: TS. HAY SINH
PHÂN TÍCH THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NHTM VIỆT NAM
Một dùng cho nội bộ (số liệu thực). Với tình trạng như vậy, khi doanh nghiệp gặp
khó khăn thì ngân hàng rất khó nhận biết tình trạng thực của doanh nghiệp là như
thế nào. Đây chính là vấn đề mà việc đánh giá năng lực tài chính của khách hàng

không đóng vai trò quan trọng trong các quyết định cấp tín dụng. Có chăng việc
phân tích tài chính chủ yếu mang tính hình thức và thủ tục
- Thẩm định và đánh giá dự án: Hiện nay ở Việt Nam, các kỹ thuật phân tích báo
cáo tài chính, thẩm định dự án tiên tiến chưa được áp dụng và phổ biến rộng rãi tại
Việt nam do điều kiện về công nghệ và những người am hiểu về nó còn rất hạn chế.
Vì vậy việc áp dụng đại trà gặp rất nhiều khó khăn.
Từ thực tế, một người am hiểu một chút về kỹ thuật thẩm định dự án là có thể
biến một dự án có xác xuất NPV dương hay IRR lớn hơn ngưỡng cần thiết đạt
100%. Khi muốn bác một dự án hoặc đánh giá một doanh nghiệp hoạt động không
hiệu quả là vấn đề hết sức khó khăn đối với cán bộ tín dụng. Nhất là đối với những
dự án của những doanh nghiệp có "mối quan hệ" tốt.
3.3.4 Hệ thống đăng ký tài sản
Do hệ thống đăng ký tài sản hoạt động không hiệu quả nên hoạt động tín dụng ở
Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn. Liệu ngân hàng có thể tin được khách hàng sẽ
đảm bảo có đủ nguồn vốn "tự có" tham gia vào dự án như cam kết. Dù khách hàng
đưa ra các bằng chứng thì độ tin cậy vẫn rất hạn chế:
- Xác nhận có tiền gửi ngân hàng: Liệu có ngân hàng có tin chắc rằng bên vay
vốn không "vay nóng" đâu đó rồi gửi vào ngân hàng để nhờ xác nhận. Thậm
chí, bên vay có bằng chứng khoản tiền gửi đó là 5 năm hay 20 năm thì ngân
hàng cũng rất khó có thể tin được đó là tiền của bên vay vì bất cứ loại tiền gửi
nào khách hàng đều có quyền rút trước hạn.
- Chứng minh có lợi nhuận giữ lại: Đây là vấn đề rất khó khăn với ngân hàng vì
lợi nhuận của doanh nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào các khoản phải thu, các
loại chi phí chờ phân bổ … Với hệ thống sổ sách kế toán không đủ độ minh
TH: NHÓM 6 ĐÊM 1 CHKT KHÓA 20
KIN TẾ VI MÔ
22
GVHD: TS. HAY SINH
PHÂN TÍCH THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NHTM VIỆT NAM

bạch, không có kiểm toán thì rất khó có thể xác định được doanh nghiệp lãi
thật hay lãi giả.
Nói chung, khi thẩm định khả năng góp vốn tự có của khách hàng trong việc
thực hiện dự án ngân hàng chủ yếu tin vào sự trung thực của khách hàng. Rất khó
khẳng định là khách hàng có thực sự bỏ vốn vào thực hiện dự án hay toàn bộ là vốn
vay.
Một phương thức mà các doanh nghiệp có thể "qua mặt" các tổ chức tín dụng là
sử dụng biện pháp nâng giá trong các hợp đồng. Với sự không minh bạch và khó
xác định tính xác thực, hợp lý, hợp lệ cũng như giá trị của các loại tài sản đã gây rất
nhiều khó khăn cho các ngân hàng trong việc đưa ra quyết định cấp tín dụng của
mình.
3.3.5 Hệ thống đăng ký giao dịch đảm bảo
Đăng ký giao dịch bảo đảm là việc cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm ghi vào
sổ Đăng ký giao dịch bảo đảm là việc bên bảo đảm dùng tài sản thế chấp để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm.
Hệ thống đăng ký giao dịch đảm bảo cung cấp cơ sở cho việc tuân thủ và thực
hiện đúng cam kết của người đi vay đối với khoản vay cũng như nghĩa vụ trả nợ
cho ngân hàng. Nhờ có hệ thống đăng ký giao dịch đảm bảo, những rủi ro do tâm lý
ỷ lại gây ra sẽ được hạn chế.
Để tránh tình trạng khách hàng sử dụng một tài sản thế chấp, cầm cố vay vốn
nhiều ngân hàng hoặc tạo điều kiện cho khách hàng có một tài sản có giá trị lớn có
thể vay vốn nhiều tổ chức tín dụng, hiện nay có các cơ quan đăng ký giao dịch bảo
đảm bao gồm: Cơ quan đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm và chi nhánh; Cơ quan
đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực; Cục Hàng không dân dụng Việt Nam; Sở
Tài nguyên môi trường; Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Mỗi cơ quan nêu
trên thực hiện đăng ký giao dịch đảm bảo mỗi loại tài sản theo quy định.
3.4 Những giải pháp cần thực hiện
TH: NHÓM 6 ĐÊM 1 CHKT KHÓA 20
KIN TẾ VI MÔ
23

GVHD: TS. HAY SINH
PHÂN TÍCH THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NHTM VIỆT NAM
Từ thực tiễn môi trường thông tin cũng như điều kiện tồn tại trong bản thân các
ngân hàng thương mại, nhóm chúng tôi đề xuất một số giải pháp trong việc hạn chế
ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng sau:
3.4.1 Về phía Nhà nước:
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách, hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng
phát triển và ổn định
- Ban hành Các Luật về Ngân hàng; Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của NHNN;
Chỉ thị, Nghị quyết của Bộ Chính trị; Chỉ thị, Nghị định, Quyết định, Nghị
quyết của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của
các Bộ, ngành về Ngân hàng.
- Cho phép và tạo điều kiện thuận lợi cho tư nhân tham gia xây dựng các trung
tâm thông tin tín dụng, từ đó tạo được nhiều kênh thông tin cho các ngân hàng
thương mại.
- Hỗ trợ các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm bảo thực hiện đúng vai trò của
mình
3.4.2 Về phía các ngân hàng:
- Xây dựng và không ngừng nâng cao chất lượng hệ thống trang thiết bị, công
nghệ để thu thập, lưu trữ, phân tích, xử lý thông tin KH
+ Hoàn thiện bộ máy giám sát rủi ro hoạt động của NH trên cơ sơ hình thành
một bộ phận độc lập không tham gia vào quá trình tạo ra rủi ro, có chức năng
quản lý, giám sát rủi ro cho các NH; nhận diện và phát hiện rủi ro; phân tích
và đánh giá các mức độ rủi ro trên cơ sơ các chỉ tiêu, tiêu thức được xây dựng
đồng thời đề ra các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn giảm thiểu rủi ro.
+ Xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống văn bản chế độ quy chế quy
trình nghiệp vụ, cụ thể: Ban hành đầy đủ các quy chế quy trình nghiệp vụ trên
nguyên tắc tuân thủ các quy định của Nhà nước, của NHNN Việt Nam; Kịp
thời hướng dẫn các văn bản chế độ có liên quan để áp dụng thống nhất trong

toàn hệ thống NH. Đồng thời, hệ thống văn bản chế độ, quy chế, quy trình
TH: NHÓM 6 ĐÊM 1 CHKT KHÓA 20
KIN TẾ VI MÔ
24
GVHD: TS. HAY SINH
PHÂN TÍCH THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NHTM VIỆT NAM
phải được tổ chức nghiên cứu, tập huấn và quán triệt để đảm bảo mọi cán bộ
phải nắm vững và thực thi đầy đủ, chính xác.
+ Cần phải có có các giải pháp để đối phó với các yếu tố từ bên ngoài như sự
thay đổi về cơ chế, chính sách của Nhà nước, sức ép từ việc thực hiện các cam
kết theo thông lệ, các diễn biến phức tạp của xu thế thị trường, tác động tiêu
cực của các thông tin truyền thống bất cân xứng
+ Xây dựng hệ thống công nghệ thông tin tiên tiến, hiện đại, ổn định. Thường
xuyên kiểm tra bảo trì, bảo dưỡng kịp thời thay bổ sung khi cần thiết để đảm
bảo hoạt động ổn định trong mọi trường hợp.
+ Tuân thủ các điều kiện bảo hiểm bắt buộc theo quy định của Nhà nước và NH.
+ Thường xuỵên cập nhật thông tin liên quan từ bên ngoài, kiểm soát được và
hiệu chỉnh kịp thời các văn bản nội bộ khi phát sinh các thay đổi hoặc chủ
động xây dựng các lộ trình để thực hiện các cam kết theo thông lệ.
+ Hướng tới hình thành bộ phận chuyên gia hàng đầu về các lĩnh vực kinh tế.
Nhiệm vụ của nhóm chuyên gia này là định kỳ đưa ra các báo cáo phân tích,
đánh giá tổng quan về nền kinh tế thế giới và trong nước, xu hướng phát triển
và nhưng tác động của nó đến hoạt động NH. Từ đó có những tham mưu kịp
thời trong xây dựng, điều chỉnh chính sách và định hướng chiến lược phù hợp.
- Xây dựng và hoàn chỉnh cơ chế tuyển dụng, đào tạo:
+ Thi tuyển nhân viên
+ Đào tạo, nâng cao trình độ, năng lực cho cán bộ tín dụng
+ Nâng cao công tác tổ chức
+ Khuyến khích đãi ngộ

+ Biện pháp hành chính
+ Kiểm tra nội bộ
3.4.3 Về phía khách hàng
- Phát tín hiệu
- Phát triển thương hiệu
- Tham gia hoạt động bình chọn (Hàng Việt Nam chất lượng cao, Sao Vàng đất
Việt)
- Sử dụng kiểm toán kiểm tra báo cáo tài chính hàng năm
TH: NHÓM 6 ĐÊM 1 CHKT KHÓA 20
KIN TẾ VI MÔ
25

×