Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Thực trạng tiền tệ trong ngân hàng từ năm 2008 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (743.69 KB, 48 trang )

Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn:
TANGGIAP.VN
I. Thực trạng áp dụng công cụ chính sách tiền tệ
I.1. Công cụ trực tiếp
I.1.1. Công cụ lãi suất
Ấn định lãi suất là việc NHTW trực tiếp khống chế lãi suất tiền
gửi – lãi suất tiền vay. Công cụ này được NHNN Việt Nam sử dụng
một cách linh hoạt trong giai đoạn nửa đầu năm 2008 và trong giai
đoạn 2011-2012 khi lạm phát tăng cao và diễn ra các cuộc đua lãi
suất gay gắt trên thị trường.
Năm 2008 diễn ra với hai thái cực đối lập giữa cuộc đua lãi suất
của các ngân hàng vào nửa đầu năm và một cuộc đua khác theo hướng ngược lại,
đua giảm lãi suất, vào nửa cuối năm, dù mức độ quyết liệt kém hơn.
Đầu năm 2008, với chủ trương kiềm chế lạm phát của Chính phủ, NHNN đã
thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, điều này công thêm với việc các NHTM tăng
trưởng tín dụng quá nóng trong năm 2007 đạt 53,89% và đi kèm với cơ cấu đầu tư
không hợp lý, tập trung vào bất động sản tạo ra sự mất cân bằng giữa tài sản có và tài
sản nợ do ngân hàng đã sử dụng quá nhiều nguồn vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn
1
đã
tạo ra tình hình căng thẳng thanh khoản cho các NHTM. Lãi suất huy động VND tăng
cao, trên thị trường liên ngân hàng đạt tới đỉnh điểm 43%/năm, lãi suất huy động đạt
19%/năm vào tháng 6/2008.
Để giải quyết tình trạng trên NHNN đã có các điều hành như sau:
Ngày Điều hành Mục đích
26/2/200
8
Công điện số 02/CĐ-NHNN
yêu cầu các NHTM không
được tăng lãi suất vượt quá
12%/năm


NHNN ấn định trần lãi
suất huy động nhằm
tránh hiện tượng đua lãi
suất của các NHTM có thể
gây nên mất an toàn hệ
thống ngân hàng.
1 Theo Ts. Tô Ngọc Hưng trên báo CafeF ngày 13/7/2008
1 | P a g e
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn:
TANGGIAP.VN
16/05/20
08
Sau 6 năm áp dụng cơ chế lãi suất
thỏa thuận (từ tháng 6/2002 đến
tháng 5/2008) NHNN ban hành
quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN
ngày 16/5/2008 về cơ chế điều
hành lãi suất cơ bản bằng đồng
Việt Nam. Theo đó, các NHTM ấn
định lãi suất kinh doanh (lãi suất
huy động, lãi suất cho vay) bằng
đồng Việt Nam đối với khách hàng
không vượt quá 150% lãi suất cơ
bản do NHNN công bố trong từng
thời kỳ.
Ngoài ra trần lãi suất theo công
điện số 02/CĐ-NHNN chính thức
được gỡ bỏ.
Việc NHNN điều hành lãi suất
dựa trên lãi suất cơ bản phù hợp

với quy luật thị trường hơn là
việc áp dụng lãi suất trần như
trước đây. Ngoài ra, cơ chế mới
cũng tránh hiện tượng các
NHTM xé rào lãi suất và thu hút
nguồn vốn chảy vào hệ thống
ngân hàng.
Cùng với việc NHNN sử dụng cơ chế điều hành lãi suất mới thì
lãi suất cơ bản cũng được điều hành một cách linh hoạt
Biểu đồ 1: Diễn biến các lãi suất chủ đạo trong năm 2008-2009
(Nguồn: Vietinbank)
Nửa đầu năm 2008, phù hợp với CSTT thắt chặt, LSCB được
điều hành theo hướng tăng từ 8,25% lên đạt đỉnh ở mức 14% vào
giữa tháng 6. Sang nửa cuối năm 2008, khi lạm phát đã được chặn
2 | P a g e
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn:
TANGGIAP.VN
đứng nhờ những can thiệp mạnh mẽ từ phía NHNN thì NHNN đã từng
bước nới lỏng CSTT và LSCB cũng dần được hạ xuống từ 14% xuống
còn 13% (ngày 21/10/08), 12% (ngày 05/11/08) và được điểu chỉnh
tới 3 lần trong vòng 1 tháng cuối năm xuống ổn định ở mức 8,5%
(ngày 22/12/08) (Xem biểu đồ 1).
Năm 2009, sau khi lạm phát được đẩy lùi, cùng với việc thực
hiện CSTT theo hướng nới lỏng thận trọng góp phần chống suy giảm
kinh tế. Điều hành lãi suất cũng được phần nào nới lỏng.
Ngày Điều hành Mục đích
23/1/20
09
NHNN ban hành thông tư số
01/2009/TT-NHNN, cho phép các

TCTD được thực hiện cơ chế lãi
suất thỏa thuận đối với các nhu
cầu vay vốn phục vụ đời sống,
cho vay thông qua nghiệp vụ
phát hành, sử dụng thẻ tín dụng.
Đáp ứng nhu cầu vay
vốn phục vụ đời
sống, cho vay thông
qua nghiệp vụ phát
hành, sử dụng thẻ tín
dụng.
• Ngày 1/02/2009: điều hành giảm
lãi suất cơ bản từ 8,5% xuống 7%
và duy trì ổn định đến hết tháng
11/2009.
• Lãi suất tái cấp vốn được điều
chính giảm 2 lần từ 9,5%/năm
xuống 8%/năm (Ngày 1/2/2009)
và xuống 7% (Ngày 10/4/2009).
• Lãi suất tái chiết khấu được điều
chỉnh giảm từ 7,5% xuống 6%
(1/2/2009) và xuống 5% (Ngày
10/4/2009)
Để giảm mặt bằng lãi
suất cho vay, đáp
ứng nhu cầu vốn cho
nền kinh tế phát
triển, nhất là những
lĩnh vực ưu tiên, sản
xuất-kinh doanh có

hiệu quả
Tháng 12/2009, NHNN đồng loạt
điều chỉnh tăng các mức lãi suất
điều hành tăng thêm 1%
Để kiểm soát chặt chẽ quy
mô và chất lượng tín dụng,
phù hợp với các mục tiêu
kinh tế vĩ mô theo Nghị
quyết của Quốc hội và chủ
trương của Chính phủ,
đồng thời tạo điều kiện
cho các TCTD huy động
các nguồn vốn từ nền kinh
tế để mở rộng kinh doanh
và đáp ứng các nhu cầu
3 | P a g e
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn:
TANGGIAP.VN
vốn sản xuất - kinh doanh
có hiệu quả,
Vào thời điểm cuối năm 2009, khi NHNN điều chỉnh tăng các
mức lãi suất điều hành lên 1% thì các NHTM có động thái đẩy lãi
suất huy động lên mức cao, một số ngân hàng lên đến 10,5%/năm
(chưa tính các hình thức khuyến mại và thưởng). Với diễn biến đó,
NHNN phát đi thông điệp kiểm tra toàn diện các trường hợp có lãi
suất huy động từ 10,5%/năm trở lên, các NHTM do vậy đồng loạt áp
tối đa ở mức 10,49%/năm. Diễn biến này cho thấy tình hình thanh
khoản đang gặp khó khăn trong hệ thống ngân hàng.
Biểu đồ 2: Diễn biến lãi suất điều hành 2010 (Nguồn: SBV)
Năm 2010, NHNN điều chỉnh các mức lãi suất điều hành một

cách linh hoạt để kiểm soát thị trường ổn định và phù hợp với điều
kiện và mục tiêu kinh tế vĩ mô.
4 | P a g e
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn:
TANGGIAP.VN
Biểu đồ 3: Diễn biến lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân
hàng giai đoạn 2007-2012
Nguồn: Reuters
Các mức lãi suất điều hành được NHNN giữ ổn định trong 10
tháng đầu năm 2010, do đó, mặt bằng lãi suất bình quân trên thị
trường liên ngân hàng khá ổn định so với năm 2009 và nhìn chung
có sự sụt giảm.
Cụ thể:
Giai
đoạn
Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3-9
Diễn
biến
Lãi suất qua đêm
bình quân: 9,15%;
giảm so với mức
10,72%/năm tháng
12/2009
Do nhu cầu vốn kinh
doanh tăng nên mặt
bằng lãi suất có xu
hướng tăng nhẹ ở
hầu hết các kì hạn.
Lãi suất
tương đối ổn

định
Từ tháng 11/2010, nhằm kiểm soát lạm phát, cân bằng lãi suất
USD và VND, NHNN điều chỉnh tăng 1%/năm với các mức lãi suất
điều hành: lãi suất cơ bản, lãi suất TCV tăng từ 8%/năm lên 9%/năm,
lãi suất tái chiết khấu tăng từ 6%/năm lên 7%/năm. Ngoài ra NHNN
còn chỉ đạo các TCTD ấn định lãi suất huy động bằng VND không
quá 14%/năm.
5 | P a g e
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn:
TANGGIAP.VN
Động thái này của NHNN đã làm cho lãi suất thị trường có xu
hướng tăng (cuối tháng 12, lãi suất huy động VND bình quân
12,44%/năm, cho vay 14,96%/năm, cho vay nông nghiệp nông thôn,
xuất khẩu 12-14%/năm, lãi suất liên ngân hàng 9,5-12%/năm).
Trong năm 2010, NHNN cũng có một động thái điều hành quan
trọng đó là chính thức triển khai cơ chế cho vay theo lãi suất thỏa
thuận theo thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010. Động thái
này nhằm thu hẹp chênh lệch lãi suất cho vay giữa VND và USD.
Năm 2011, điều hành lãi suất của NHNN phù hợp với diễn biến
của thị trường và hoàn thiện các văn bản quy định về cơ chế điều
hành lãi suất theo quy định của luật NHNN và luật các TCTD năm
2010.
Trước tháng 3/2011, chính sách lãi suất của Việt Nam không có
nhiều biến động so với năm 2010. Các mức lãi suất được duy trì ở
mức khá thấp sau gói hỗ trợ lãi suất của NHNN, do vậy, cơ chế lãi
suất trần không còn cần thiết.
Tuy nhiên, từ tháng 3/2011, tỷ lệ lạm phát tăng cao, do vậy với
mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định nền kinh tế, NHNN đã thực
hiện CSTT chặt chẽ, thận trọng, điều này đã làm lãi suất tiền gửi và
cho vay của các NHTM tăng. Nhằm ngăn chặn tình trạng cạnh tranh

không lành mạnh giữa các ngân hàng, NHNN đã ban hành thông tư
02/2011/TT-NHNN ngày 3/3/2011 quy định mức lãi suất trần huy
động tiền gửi là 14% cho các NHTM.
Trong tháng 9/2011, NHNN đã có những biện pháp quyết liệt
nhằm tăng cường biện pháp kiểm soát đối với chính sách trần lãi
suất huy động, chẳng hạn như sa thải lãnh đạongân hàng trong
trường hợp phát hiện những thủ thuật hay gian lận của ngân hàng
trong huy động tiền gửi. Bên cạnh đó, trước nguy cơ rủi ro cao khi
6 | P a g e
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn:
TANGGIAP.VN
một số NHTM chấp nhận huy động lãi suất 14%/năm với cả các kì
hạn rất ngắn, NHNN đã ban hành thông tư số 30/2011/TT-NHNN
ngày 28/09/2011 quy định lãi suất tối đa với tiền gửi bằng đồng VND
của tổ chức, cá nhân tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, cụ
thể: lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ
hạn dưới 1 tháng là 6%/năm, trên 1 tháng là 14%/năm, riêng quỹ tín
dụng nhân dân là 14,5%/năm.
Tuy nhiên, do trần lãi suất VND là 14% nên với các NHTM khó
khăn về thanh khoản phải đi vay trên thị trường liên ngân hàng với
lãi suất cao. Cá biệt, có những giao dịch lãi suất lên tới mức 30-
40%/năm kỳ hạn 1 tháng.
Biểu đồ 4: Theo thống kê của Cổng thông tin ngân hàng Laisuat.vn dựa trên mức lãi
suất niêm yết của 40 ngân hàng thì biểu đồ lãi suất trung bình trong năm 2011
Như vậy diễn biến lãi suất trong năm 2011 có thể tổng kết lại
như sau:
Giai đoạn Diễn biến
8 tháng đầu
năm
lãi suất huy động và cho vay VND ở mức cao, nhiều TCTD

có lãi suất huy động thực tế trên 14%/năm
4 tháng cuối
năm
Với việc tăng cường thanh tra, giám sát và xử lý nghiêm các
trường hợp vi phạm trần lãi suất huy động và các giải pháp
7 | P a g e
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn:
TANGGIAP.VN
khơi thông vốn giữa thị trường 1 và thị trường 2 đã tạo điều
kiện giảm dần mặt bằng lãi suất huy động và cho vay. Từ
tháng 9, hầu hết các NHTM thực hiện nghiêm túc trần lãi
suất huy động. Nhiều NHTM đã giảm lãi suất cho vay VND
đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu, phổ
biến ở mức 15-17%/năm, giảm so với mức phổ biến từ 18-
21%/năm trong giai đoạn trước. . Lãi suất cho vay đối với
lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác thấp nhất là 17%/năm
(mức phổ biến là 18-21%/năm).
Điều hành lãi suất trong năm 2012 là thành công lớn của
NHNN khi đã từng bước giảm trần lãi suất huy động tuy nhiên dựa
không gây tác động tiêu cực đến lạm phát do vẫn duy trì được lãi
suất thực dương.
Các mức trần lãi suất trong năm 2012 được NHNN lần lượt điều
chỉnh giảm (xem bảng 1 ) và sau đó khi NHNN quyết định chỉ áp
dụng trần lãi suất với tiền gửi bằng VND có kỳ hạn từ 1 đến 12 tháng
và thả nổi tiền gửi kì hạn 12 tháng trở nên là quyết định hoàn toàn
đúng đắn.
Bảng 1: Quá trình điều chỉnh trần lãi suất huy động đối với tiền gửi
bằng VND
Thời gian 3/3/
201

1
1/10
/
201
1
13/3
/
201
2
11/4
/
201
2
28/5
/
201
2
11/
6/
201
2
24/1
2/
201
2
Tiền gửi không kì hạn
và kì hạn dưới 1
tháng
14% 6% 5% 4% 3% 2% 2%
Tiền gửi từ 1-12

tháng
14% 14% 13% 12% 11% 9% 8%
Tiền gửi từ 1-12
tháng với QTDNN
14,5
%
14,5
%
13,5
%
12,5
%
11,5
%
9.5
%
8,5
%
Tiền gửi từ 12 tháng
trở lên
14% 14% 13% 12% 11% Thỏ
a
thu
ận
Thỏa
thuậ
n
8 | P a g e
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn:
TANGGIAP.VN

Tiền gửi từ 12 tháng
trở lên với QTDNN
14,5
%
14,5
%
13,5
%
12,5
%
11,5
%
Thỏ
a
thu
ận
Thỏa
thuậ
n
Nhờ vào việc ổn định lãi suất tiền gửi, đặc biệt là lãi suất ngắn
hạn đã tạo điều kiện cho NHNN áp dụng trần lãi suất đối với 4 nhóm
đối tượng ưu tiên (Xem bảng 2) và kêu gọi các TCTD đưa lãi suất các
khoản vay cũ về 15%. Nhờ thực hiện các biện pháp này, điều hành
chính sách tiền tệ đã đạt được những thành công như giao dịch trên
thị trường liên ngân hàng đi vào ổn định, lượng tiền gửi của công
chúng trong hệ thống ngân hàng trở nên ổn định hơn, giúp bảo đảm
an toàn cho hệ thống ngân hàng, mặt bằng lãi suất cho vay giảm
dần, bước đầu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận hiệu quả
với nguồn vốn ngân hàng.
Bảng 2: Quá trình điều chỉnh trần lãi suất cho vay

Thời gian 8/5/
2012
28/5/
2012
11/6/
2012
24/12/
2012
Trần LSCV (4 lĩnh
vực)
15% 14% 13% 12%
Trong bối cảnh lạm phát tháng 9 và tháng 10/2012 tăng trở lại và nguy cơ lạm
phát trong năm 2013 vẫn tiềm ẩn, NHNN Việt Nam vẫn thận tọng trong điều hành
CSTT khi không tiếp tục giảm trần lãi suất huy động và cho vay. Khi các chỉ số về
nền kinh tế trong tháng 11 và 12/2012 cho thấy đã đạt các điều kiện giảm lãi suất thì
NHNN mới ban hành Thông tư 32/2012/TT – NHNN và Thông tư 33/TT – NHNN về
giảm mức trần lãi suất huy động và cho vay lần lượt về mức 8% và 12%. Đây là mức
lãi suất huy động và cho vay hợp lý khi mà tỷ lệ lạm phát trong năm 2012 là 6,81% và
chỉ tiêu trong năm 2013 là khoảng 6 – 6,5%.
9 | P a g e
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn:
TANGGIAP.VN
Các mức lãi suất chỉ đạo gắn với công cụ tái cấp vốn là lãi suất tái cấp vốn, lãi
suất chiết khấu cũng liên tục được điều chỉnh giảm trong năm 2012. Tuy nhiên, mặt
bằng lãi suất cho vay giảm chủ yếu là do các quy định về trần lãi suất hơn là chi phối
của lãi suất chỉ đạo đến lãi suất thị trường.
Bảng 3: Diễn biến lãi suất điều hành trong năm 2012
Thời
gian
13/3/

2012
11/4/
2012
28/5/
2012
11/6/
2012
1/7/
2012
24/12/
2012
LSCB 9 9 9 9 9 9
LSTCV 14 13 12 11 10 9
LSTCK 12 11 10 9 8 7
Việc NHNN điều chỉnh giảm các mức lãi suất trong năm 2012
đã mang lại nhiều tích cực cho nền kinh tế: (i) giảm lãi suất giúp cho
DN giảm bớt chi phí vốn để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh; (ii) hỗ
trợ cho quá trình tái cấu trúc lại thị trường tài chính để giúp các DN
huy động vốn trên thị trường chứng khoán khi đó sẽ giảm bớt gánh
nặng cho hệ thống ngân hàng. Cụ thể, là khi lãi suất huy động ở
mức 9%/năm thì với những DN có tỷ suất lợi nhuận khoảng 13% có
thể huy động được vốn qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu; (iii) giảm
lãi suất còn thúc đẩy quá trình tái cấu trúc các DNNN, thúc đẩy cổ
phần hóa; (iv) giảm lãi suất còn giúp cho việc phát hành trái phiếu
của Chính Phủ trở nên dễ dàng hơn, lãi suất phát hành thấp hơn.
Nếu năm 2012 dự kiến phát hành trên 100 nghìn tỷ đồng trái phiếu
Chính Phủ mà lãi suất phát hành chỉ 10% thì NSNN tiết kiệm từ 1 – 2
nghìn tỷ đồng.
Từ đầu năm 2013, mặc dù dư địa để tiếp tục điều chỉnh giảm
lãi suất là không còn nhiều do dự kiến lạm phát năm 2013 đạt 6,5-

7% tuy nhiên NHNN vẫn tiếp tục bám sát diễn biến thị trường để
điều chỉnh các mức trần lãi suất phù hợp.
10 | P a g e
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn:
TANGGIAP.VN
Dựa trên diễn biến CPI, trong đó tháng 1 và tháng 2 CPI lần
lượt tăng 1,25% và 1,32%, NHNN không tiến hành giảm các mức lãi
suất điều chỉnh từ cuối năm 2012. Đến tháng 3 khi CPI giảm ở mức
-0,19%, NHNN đã tiến hành giảm lãi suất trên thị trường tiền tệ từ
8% xuống 7,5% và đồng loạt giảm các mức lãi suất TCV từ 9%
xuống 8%; TCK từ 7% xuống 6%. Với động thái điều chỉnh lãi suất với biên độ
hẹp từ 0.5 đến 1% thay vì điều chỉnh 1% như nhiều tháng trước đã đảm bảo được tính
linh hoạt, chủ động phát tín hiệu điều chỉnh lãi suất của NHNN. Đồng thời cách này
sẽ tránh gây ra cú sốc đột ngột có thể làm đảo ngược dòng tiền gửi đang ồ ạt đổ vào
HTTC, là cơ sở để lãi suất thị trường giảm khi chi phí vốn vay của các TCTD giảm.
Bảng 4: Quá trình điều chỉnh trần lãi suất huy động trong
năm 2013
Thời gian 26/3/2013 28/6/2013
Tiền gửi kỳ hạn dưới 1
tháng
2 1,2
Tiền gửi kỳ hạn từ 1-6
tháng
7,5 7
Tiền gửi kỳ hạn từ 6-12
tháng
7.5% Thỏa thuận
Tiền gửi từ 12 tháng trở
lên
Thỏa thuận Thỏa thuận

I.1.2. Công cụ hạn mức tín dụng
I.1.3. Công cụ tỷ giá
Năm 2008 bắt đầu với sự ổn định trên thị trường ngoại hối và tỉ
giá trên thị trường tự do liên tục giảm tuy nhiên thực hiện chủ trương
kiềm chế lạm phát của Chính phủ nên NHNN không thực hiện mua
ngoại tệ vào mà còn nới rộng biên độ dao tỉ giá từ 0,7% lên 1%.
Biểu đồ 5: Diễn biến tỉ giá năm 2008 (Nguồn BIDV)
11 | P a g e
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn:
TANGGIAP.VN
Sang thời điểm giữa năm 2008 thì tỷ giá tăng mạnh do sự suy
thoái kinh tế thế giới và nhà đầu tư nước ngoài tháo vốn khỏi thị
trường Việt Nam, chênh lệch giá vàng trong nước – thế giới và đặc
biệt là hiện tường các doanh nghiệp vay bằng USD với lãi suất thấp
và bán ra thị trường để lấy VND.
Để giải quyết các thực trạng trên, NHNN đã có các biện pháp điều hành:
Thời gian Điều hành Mục đích
7/3/2008 Ban hành quyết định số 504/QĐ-
NHNN không cho phép cho vay
với doanh nghiệp xuất khẩu
Tránh tình trạng vay USD
với lãi suất thấp và bán ra
thị trường để mua VND
11/6/2008 Phá giá VND từ 16.139VND lên
16.461 VND
Nhằm phán ảnh cung cầu
trên thị trường ngoại hối.
Tuy nhiên động thái này
lại gây ra tâm lý không tốt
do gây ra tâm lý găm giữ

ngoại tệ chờ đợi các đợt
phá giá tiếp theo.
Lần đầu tiên trong lịch sử, NHNN
công bố dự trữ ngoại hối quốc gia
là 20,7 tỷ USD
Giảm kì vọng của người
dân về các đợt phá giá tiếp
theo.
Đến Quý III/2008 thì tỷ giá đã có xu hướng giảm và ổn định trở
lại. Tuy nhiên vào quý IV do hiện tượng nhập lậu vàng và việc bán
mạnh chứng khoán của các nhà đầu tư ngoại để đảm bảo thanh
khoản cho chính quốc nên tỷ giá có xu hướng tăng trở lại. Để ổn
12 | P a g e
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn:
TANGGIAP.VN
định thị trường ngoại hối, NHNN đã can thiệp thị trường bằng cách
bán ngoại tệ một lượng lớn khoảng 1 tỷ USD từ 22/10 – 22/11/2008.
Biểu đồ 6: Diễn biến tỉ giá VND/USD năm 2008-2009 (Nguồn: Tổng hợp)
Trong năm 2009, do những bất lợi từ cuộc suy thoái kinh tế
toàn cầu ảnh hưởng bất lợi đến xuất nhập khẩu của Việt Nam, cụ thể
cán cân thương mại thâm hụt mạnh (12.783 tỷ USD) và sự suy giảm
các dòng vốn đầu tư từ bên ngoài vào Việt Nam ảnh hưởng không
tốt đến tỉ giá khiến cho xu hướng tăng trong năm này.
Mặc dù NHNN đã buộc phải mở rộng biên độ giao động của tỷ
giá chính thức trong tháng 3 từ +/-3% lên +/-5% – biên độ lớn nhất
trong vòng 10 năm qua, nhưng các NHTM vẫn giao dịch ở mức tỷ giá
trần. Để khơi thông nguồn ngoại tệ cho các TCTD cũng như việc loại
bỏ tâm lý chờ đợi của các nhà đầu tư nước ngoài chờ đợi tăng tỷ giá
thì ngày 26/11/2009 NHNN đã tăng mạnh tỷ giá lên 17.961 đồng
(tăng 5%) và thu hẹp biên độ dao động còn 3%. Kết hợp với đó là

những biện pháp hành chính như kết hối ngoại tệ của 7 tổng công ty
Nhà nước và hỗ trợ bán ngoại tệ cho các TCTD có trạng thái ngoại tệ
từ -5% trở xuống. Nhờ những nỗ lực này mà đến cuối năm thị trường
đã ổn định trở lại và chênh lệch giữa thị trường tự do và thị trường
chính thức từ mức kỉ lục 2.000VND xuống còn dưới 1.000 VND.
13 | P a g e
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn:
TANGGIAP.VN
Biểu đồ 7: Diễn biến tỉ giá giai đoạn 2009-giữa tháng 6/2011
Bước sang năm 2010, nửa đầu năm ổn định do những động thái quyết liệt của
NHNN trong việc ổn định thị trường ngoại hối cũng như giảm chênh lệch tỉ giá
giữa thị trường tự do và chính thức. Điều đó được thể hiện qua những biện pháp
như giảm tỉ lệ DTBB bằng ngoại tệ, quy định lãi suất tiền gửi tối đa bằng ngoại tệ
ở mức 1%. Tuy nhiên trong giai đoạn này vẫn tiềm ẩn nguy cơ áp lực tăng tỉ giá do
hiện tượng doanh nghiệp vay ngoại tệ và quy đổi ra VND.
Đến cuối năm do những căng thẳng như vậy khiến cho NHNN vào ngày 18/8 phải
điều chính tỷ giá nâng tỷ giá lên mức 18.932 giảm giá VND 5,34%. Sau sự điều
chỉnh tỉ giá của NHNN, tỉ giá ổn định một thời gian ngắn sau đó lại bước vào đà
tăng kéo dài đến hết năm 2010, một phần là do các doanh nghiệp vẫn duy trì tâm
lý găm giữ ngoại tệ vì lo ngại nếu bán ra và khi phải mua vào sẽ có chi phí cao
hơn, phần khác đến từ phía xuất nhập khẩu khi nhập khẩu cuối năm thường cao.
Để giải tỏa tâm lý lo ngại của các doanh nghiệp XNK, NHNN đã tuyên bố không
điều chỉnh tỷ giá trong ngắn hạn.
14 | P a g e
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn:
TANGGIAP.VN
Biểu đồ 8: Diễn biến tỉ giá 2011
Nguồn: Nhận định về điều hành chính sách tỉ giá của NHNN Việt Nam 2011-
Ts.Phạm Thị Hoàng Anh
Năm 2011, để bình ổn thị trường ngoại hối có dấu hiệu căng

thẳng, NHNN điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng 9,3%
và thu hẹp biện độ dao động từ 3% xuống còn 1% trong tháng 2. Tuy
nhiên động thái điều chỉnh tỉ giá này dường như chưa tác động tích
cực đến thị trường tự do khi giá USD liên tục tăng kể từ 11/2 đến
cuối tháng 2. Nguyên nhân của việc này phần lớn đến từ chênh lệch
giá vàng trong nước và thế giới vẫn còn cao, thêm vào đó là tâm lý
đầu cơ của người dân cũng như sự e ngại về giá trị VND.
Tuy nhiên giai đoạn từ trung tuần tháng 3 đến đầu tháng 8/2011 tỷ
giá giao dịch của các NHTM được giữ ở mức ổn định có thời điểm
xuống sát với giá sàn do những nỗ lực chống đô la hóa nền kinh tế.
Cụ thể đó là NHNN áp trần lãi suất huy động USD là 3% đối vs tiền
gửi USD của cá nhân và 1% đối với tiền gửi của tổ chức, từ ngày
13/4/2011, và giảm các mức này xuống tương ứng 2% và 0,5% vào
ngày 2/6/2011. Bên cạnh đó cũng tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với
15 | P a g e
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn:
TANGGIAP.VN
tiền gửi ngoại tệ từ 4% lên 6% (ngày 9/4/2011) và cuối cùng là 7%
(ngày 1/6/2011). Tuy nhiên cuối năm do chênh lệch giá vàng làm tỉ
giá có xu hướng biến động tăng nhưng mức chênh lệch giữa hai thị
trường chỉ ở mức 300-400 VND đây là mức có thể chấp nhận được.
Năm 2012 là năm thành công trong việc điều hành tỷ giá của
NHNN, tỷ giá ổn định và chỉ có một vài đợt sóng nhé, ví dụ như đợt
sóng vào ngày 20/3/2012 khi NHNN thu hẹp trạng thái ngoại tệ từ
30% xuống 20%. Tuy nhiên năm này NHNN đạt được nhiều thành tưu
như (i) thành công trong việc theo đuổi chính sách neo tỷ giá
USD/VND ổn định trên các thị trường trong suốt 2012; (ii) không còn
hiện tượng chênh lệch tỷ giá giữa thị trường tự do và thị trường
chính thức; (iii) dự trữ ngoại hối tăng đáng kể so với đầu năm 2012,
đạt khoảng 11,5-12 tuần nhập khẩu (tương đương 22-23 tỷ USD) đây

là kết quả của yếu tố cung cầu thuận lợi.
Tiếp theo, từ đầu năm 2013 cho đến nay nhờ diễn biến lạm
phát ổn định, thị trường ngoại hối giao dịch ổn định, tỷ giá bình quân
liên ngân hàng ở mức 21.036 VND/USD, và NHNN cũng thực hiện
mua một lượng ngoại tệ đáng kể để vừa củng cố dự trữ ngoại hối
vừa tăng thanh khoản tiền đồng trong hệ thống ngân hàng.
I.2. Công cụ gián tiếp
I.2.1. Công cụ nghiệp vụ thị trưởng mở
Nghiệp vụ thị trường mở là việc NHTW thực hiện mua, bán
ngắn hạn các loại giấy tờ có giá trên thị trường tiền tệ, thông thường
là tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, thương phiếu Trong đó,
tín phiếu kho bạc là công cụ được sử dụng phổ biến nhất. Việc sử
dụng công cụ này của NHNN thời gian qua chủ yếu mang tính phòng
thủ (defensive OMOs) để hạn chế những tác động từ việc thay đổi dự
trữ nhằm quản lí tỷ giá ổn định.
16 | P a g e
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn:
TANGGIAP.VN
Năm 2008, nghiệp vụ thị trường mở năm 2008 có doanh số
tăng kỷ lục, đạt 947.205 tỷ đồng, chiếm 91,42% tổng số giao dịch và
gấp 15 lần so với năm 2007. Đặc biệt, mức lãi suất đặt thầu trong 1
phiên giao dịch kỳ hạn có thời điểm ở mức rất cao, lên tới 40%/năm,
vì vậy NHNN đã áp dụng phương thức đặt thầu theo số lượng thay vì
đặt thầu theo lãi suất.
Bảng 5: Tổng số các phiên giao dịch trên OMO năm 2008
Loại giao
dịch
Số phiên Tổng số
dự kiến
(tỷ đồng)

Khối
lượng
đăng ký
(tỷ đồng)
Khối
lượng
trúng
thầu
(tỷ
đồng)
LS trúng
thầu
bình
quân
(%/năm)
Mua kỳ
hạn
260 979.800 3.883.09
8
947.205 12,92
Bán giao
ngay
133 368.000 135.553 76.837 4,6
Bán kỳ
hạn
9 12.022 12.022 12.022 14,91
Tổng số 402 1.359.822 1.030.67
3
1.036.0
66

Ngu^n: NHNN Việt Nam
Trong vòng 7 tháng đầu năm 2008, để hỗ trợ vốn ngắn hạn cho
các TCTD và khắc phục tình trạng thị trường tiền tệ chưa thực sự
thông suốt, NHNN đã thực hiện các phiên chào mua giấy tờ có giá
với kỳ hạn ngắn (7, 14, 21, 28 ngày). NHNN cũng đã thực hiện chào
bán tín phiếu NHNN kỳ hạn 182 và 364 ngày, lãi suất phổ biến lần
lượt là 7,5%/năm và 7,75%/năm. Riêng tháng 3/2008 NHNN đã phát
hành tín phiếu NHNN bắt buộc 20.300 tỷ đồng kỳ hạn 1 năm, lãi suất
7,8%/năm, trong đó, ba ngân hàng có quy mô lớn nhất là
Vietcombank, BIDV, Agribank, mỗi ngân hàng phải mua tới 3000 tỷ
đồng. Hai NHTMCP đứng đầu phải mua 1500 và 1200 tr đồng, các
NHTMCP nhóm trung phải mua 400-500 tỷ đồng.
17 | P a g e
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn:
TANGGIAP.VN
Bước sang nửa cuối năm 2008, trước những tín hiệu khả quan
về lạm phát, (Trung bình năm là 22.97%) NHNN đã từng bước nới
lỏng CSTT để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và chủ động
hạn chế tác động của khủng hoảng tài chính và ngăn chặn nguy cơ
suy giảm kinh tế. Vì vậy, lúc này, NHNN chủ yếu chào mua giấy tờ
có giá kỳ hạn 7, 14 ngày với khối lượng và lãi suất hợp lý để thúc
đẩy sản xuất, kinh doanh nhằm khôi phục kinh tế. Năm 2008, tổng
số NHNN đã bơm ròng 100.685 tỷ đồng.
Nghiệp vụ thị trường mở năm 2008 được điều hành linh hoạt,
phối hợp chặt chẽ với các công cụ CSTT khác. Các giao dịch được
thực hiện hàng ngày theo phương thức đấu thầu khối lượng, công bố
lãi suất để bình ổn định thị trường.
Năm 2009, việc bơm tiền của NHNN năm 2009 chủ yếu được
thực hiện thông qua nghiệp vụ thị trường mở, NHNN chủ yếu chào
mua giấy tờ có giá nhằm hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống đang gặp

nhiều căng thẳng. Nửa đầu năm 2009, nghiệp vụ thị trường mở được
điều hành linh hoạt, bám sát diễn biến cung – cầu vốn của các TCTD.
NHNN thực hiện các phiên chào mua kỳ hạn ngắn (14 ngày) theo
phương thức đấu thầu khối lượng, với lãi suất giảm từ 9% xuống còn
7% nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho các chương trình kích thích tăng
trưởng kinh tế. Nửa cuối năm 2009, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của
các TCTD có xu hướng tăng cao theo chương trình kích cầu của
Chính phủ, NHNN đã tăng khối lượng chào mua qua thị trường mở,
khối lượng trúng thầu bình quân tăng mạnh, đạt 95% khối lượng
chào mua của NHNN, và gấp 6 lần so với 6 tháng đầu năm. Tổng thể
năm 2009, NHNN đã bơm ròng 122.830 tỷ đồng, điều này góp phần
thúc đẩy tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống.
Cụ thể, các diễn biến trên OMO được cho trong bảng dưới đây:
Bảng 6: Điều hành nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng nhà
nước năm 2009
Thời Điều hành Mục đích Kết quả
18 | P a g e
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn:
TANGGIAP.VN
gian
Nửa
đầu
năm
2009
Chủ yếu chào
mua kỳ hạn
14 ngày, lãi
suất giảm dần
từ 9%/năm
năm 2008

xuống còn
7%/năm
Hỗ trợ thanh
khoản cho thị
trường, đồng
thời, cung ứng
vốn ngắn hạn
cho nền kinh tế,
kích thích tăng
trưởng.
Doanh số trúng thầu
chỉ đạt 74% so với
lượng tiền chào. Khối
lượng trúng thầu bình
quân mỗi phiên đạt
khoảng 1.000 tỷ
đồng/phiên.*
Nửa
cuối
năm
2009
NHNN tích cực
mua giấy tờ
có giá trên
OMO, tiếp tục
mở rộng MB
nhằm tăng MS
Nhằm đáp ứng
nhu cầu vốn của
các TCTD có xu

hướng tăng cao
theo các chương
trình kích cầu của
Chính phủ, hỗ trợ
thanh khoản.
Khối lượng trúng thầu
bình quân tăng mạnh,
đạt 95% khối lượng
chào mua của NHNN
và đạt khoảng 6.000
tỷ đồng/phiên.
Nửa
đầu
tháng
12
NHNN đã chào
mua với khối
lượng bình
quân xấp xỉ
15.000 tỷ
đồng/phiên
với kì hạn từ
7-14 ngày, lãi
suất chào
mua tương
ứng là
7%/năm và 7-
8%/năm.
Hỗ trợ thanh
khoản cho các

TCTD do nhu cầu
thanh toán tăng
cao trong dịp Tết
dương lịch
Nửa
cuối
tháng
12
Chào bán tín
phiếu NHNN
với định kỳ 3
phiên/tuần,
kỳhạn 3 tháng
và 6 tháng;
đấu thầu lãi
suất, kiểu đấu
thầu một giá.
Kiểm soát lạm
phát, điều tiết
linh hoạt vốn khả
dụng của các
TCTD.
Các phiên chào bán
đạt kết quả thấp. Điều
này cho thấy các TCTD
vẫn còn trong tình
trạng thiếu vốn, đồng
thời, đây cũng là một
cảnh báo sớm cho tình
trạng lạm phát thời

gian sau đó.
Năm 2010, thanh khoản thị trường trở nên căng thẳng, nghiệp
vụ thị trường mở được nhận định là linh hoạt, bám sát diễn biến
cung cầu vốn, góp phần ổn định lãi suất thị trường. Trong 9 tháng
19 | P a g e
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn:
TANGGIAP.VN
đầu năm, với mục tiêu hỗ trợ thanh toán VND cho các TCTD, ổn định
thị trường tiền tệ và hỗ trợ các TCTD bằng giảm lãi suất huy động
vốn, NHNN thực hiện mua GTCG với kỳ hạn ngắn: 7, 14 và 28 ngày;
lãi suất được điều chỉnh giảm nhẹ (lần lượt là 7%, 7,5% và 8%/năm);
khối lượng chào mua bình quân khoảng 5.400 tỷ đồng/phiên, với
khối lượng trúng thầu bình quân khoảng 3.200 tỷ đồng/phiên. Đối
ngược lại, ba tháng cuối năm 2010, nghiệp vụ thị trường mở được
điều hành chặt chẽ hơn, lãi suất chào mua thời gian này cũng tăng
3% với các mốc: 7,0-8,75-9,0-10%/năm. Khối lượng chào mua lúc
này được tăng lên, bình quân khoảng 7.160 tỷ đồng/phiên, khối
lượng trúng thầu bình quân khoảng 6.970 tỷ đồng/phiên.
Bảng 7: Lượng tiền cung ứng ròng qua nghiệp vụ thị trường mở giai
đoạn 2008-2010

Đơn vị: tỷ đ^ng
Năm Doanh số
mua
Doanh số
bán
Tổng
doanh số
GD
Số phiên Doanh số

bình
quân/phiê
n.
2008 947.205,90
0
88.859 1.036.066 402 2.577
2009 966.880,46
0
100,162 966.980 329 2.939
2010 2.101.420,4
01
7.294,919 2.108.715 491 3.240
Ngu^n: NHNN Việt Nam
Năm 2011, nghiệp vụ thị trường mở 6 tháng đầu năm 2011
đảo chiều hoàn toàn so với giai đoạn 2008-2010. Nếu như giai đoạn
trước, NHNN chủ yếu bơm tiền thông qua OMO, thì 6 tháng năm
2011, NHNN lại hút là chủ yếu, chỉ bơm một lượng nhỏ vào tháng 5
và 6; NHNN chỉ bơm ra khoảng 13.056 tỷ đồng, tổng số, NHNN đã
hút ròng 38.964 tỷ đồng.
20 | P a g e
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn:
TANGGIAP.VN
Biểu đồ 9: Diễn biến bơm, hút trên thị trường mở năm 2011
Nguồn: Bloomberg
Nếu tính trong khoảng 9 tháng đầu năm 2011 thì đã NHNN
thực hiện chào mua GTCG kỳ hạn 7 ngày, đồng thời lãi suất được
điều chỉnh tăng lên 15%/năm; khối lượng chào mua bình quân
khoảng 8400 tỷ đồng/phiên; khối lượng trúng thầu bình quân khoảng
8000 tỷ đồng/phiên.
Việc hút ròng trên thị trường mở thời gian này ngoài thực hiện

mục tiêu kiềm chế lạm phát như bình thường, còn để trung hòa một
khối lượng lớn tiền mà NHNN đã bỏ ra mua khoảng trên 2 tỷ USD bổ
sung cho quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia nhằm ổn định tỷ giá. Chỉ tính
trong gần 2 tháng, từ 4/5 đến hết 1/7/2011, NHNN đã có 9 tuần hút
ròng liên tục trên OMO với số tiền lên đến 482.165,5 tỷ đồng.
Từ nửa cuối tháng 9, trong bối cảnh tốc độ tăng trưởng TD và
tổng phương tiện thanh toán cả năm được kiểm soát, lạm phát có
dấu hiệu tăng chậm lại, nghiệp vụ thị trường mở của NHNN thực
hiện chào mua với kỳ hạn 7 và 14 ngày; lãi suất 14%/năm, khối
lượng chào mua bình quân giảm còn khoảng 3400 tỷ đồng/phiên,
khối lượng trúng thầu bình quân khoảng 3100 tỷ đồng/phiên.
Bên cạnh việc hút mạnh trên thị trường OMO, lãi suất trên thị
trường mở cũng có nhiều biến động. Trong tháng 1/2011, lãi suất
mua có kỳ hạn 7 ngày đã tăng lên 10%/năm, và tiếp tục tăng trong
các tháng tiếp theo cho đến ngày 17/5, NHNN đã nâng lãi suất trên
thị trường mở lên 15%. Sau đó, từ ngày 4/7/2011, lãi suất trên
nghiệp vụ thị trường mở giảm nhẹ xuống 14%/năm và giữ nguyên
cho đến cuối năm.
21 | P a g e
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn:
TANGGIAP.VN
Sự thay đổi tới 5 lần lãi suất nghiệp vụ thị trường mở trong 6
tháng đầu năm 2011 thể hiện sự bám sát lãi suất thị trường của
NHNN. Sự phối hợp chặt chẽ giữa lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp
vốn, lãi suất thị trường mở, lãi suất liên ngân hàng, lãi suất chiết
khấu góp phần định hướng đầu tư cho các chủ thể trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, với mức lạm phát cao năm 2011 (18,58%), NHNN thực
hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, hút vốn trên thị trường dẫn đến
tình hình thanh khoản của các NHTM khó khăn, đặc biệt là các NHTM
cổ phần quy mô nhỏ.

Năm 2012, là một trong những năm hoạt động trên thị trường
OMO đạt hiệu quả cao, trở thành công cụ chủ chốt để NHNN bơm
hút tiền kiểm soát cung tiền và lạm phát.
Biểu đồ 10: Bơm, hút trên thị trường mở (nghìn tỷ đồng)
22 | P a g e
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn:
TANGGIAP.VN
Ngu^n: Cafef
- Ở nghiệp vụ mua kì hạn: năm 2012 có 450.020 tỷ đ^ng trúng thầu và
482.528 tỷ đ^ng đến hạn thanh toán; trạng thái cuối năm là hút ròng
32.508 tỷ đ^ng.
- Ở nghiệp vụ bán tín phiếu: có 173.850 tỷ đ^ng trúng thấu (tháng 1, 2, 3,
7, 8, 9 không phát hành) và 110.892 tỷ đ^ng đến hạn thanh toán (tháng 1,
2, 3 không có tín phiếu đến hạn), lượng hút về cả năm là 62.958 tỷ đ^ng.
- Ở cả hai nghiệp vụ, NHNN đã hút ròng 95.466 tỷ đ^ng
Năm 2012, tính riêng 6 tháng đầu năm, tổng lượng tiền NHNN
“hút về” qua thị trường mở đạt 116.517 tỷ đồng. Tuy nhiên sau đó,
thông tư số 21/2012/TT-NHNN của NHNN về những quy định đối với
hoạt động liên ngân hàng, có hiệu lực từ ngày 01/09/2012 đã làm
giảm sự sôi động của thị trường này cho đến những ngày cuối tháng
12-2012, NHNN lại thay đổi chính sách, liên tục cung ứng tổng cộng
hơn 10.000 tỷ đồng cho các NHTM. Đỉnh điểm là tuần từ 24 –
28/12/2012, NHNN đã bơm ra thị trường lượng vốn lớn tổng cộng
28.473 tỷ đồng, với kỳ hạn 7 ngày và lãi suất 7%/năm để hỗ trợ
thanh khoản cho các ngân hàng, đáp ứng mùa thanh toán cuối năm.
Năm 2013, từ đầu năm 2013 đến nay, NHNN đã thực hiện rất
nhiều hoạt động bơm và hút vốn trên TTTT. Trong quý I, NHNN đã
thực hiện hút ròng tổng cộng 32.816 tỷ đồng, các diễn biến bơm và
hút có nhiều biến động và đảo chiều liên tục. Tình trạng tương tự
cũng diễn biến sang quý II. Tuy nhiên, đến quý III năm 2013, trạng

thái tương đối cân bằng giữa khối lượng phát hành với khối lượng
đáo hạn đối với cả nghiệp vụ mua kỳ hạn và bán tín phiếu trên OMO
nên kết quả là NHNN chỉ hút ròng tổng cộng 5.122 tỷ đồng (1.250 tỷ
đồng là số tiền NHNN bơm ròng qua nghiệp vụ mua kỳ hạn và 6.372
tỷ đồng là số tiền NHNN hút qua kênh tín phiếu)
Biều đồ 11: Diễn biến bơm, hút trên OMO 3 quý đầu năm
2013 (tỷ đồng)
23 | P a g e
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn:
TANGGIAP.VN
Ngu^n: cafef.vn
Cụ thể, diễn biến trên thị trường mở trong tháng 8 tương đối
ảm đạm sau khi NHNN điều chỉnh hạ lãi suất 0,5%/năm (từ mức
6%/năm xuống còn 5,5%/năm) kể từ cuối tháng bảy. Trong tháng 8,
khối lượng trúng thầu trên thị trường mở chỉ đạt 4.593 tỷ đồng (giảm
35.399 tỷ đồng so với tháng 7); trong khi đó khối lượng đáo hạn là
19.839 tỷ đồng. Như vậy, NHNN đã hút ròng tiền từ lưu thông qua thị
trường mở tổng cộng 12.246 tỷ đồng trong tháng 8. Tính đến ngày
30/8, số dư trên thị trường mở là 1.066 tỷ đồng.
Việc sử dụng công cụ này của NHNN thời gian qua được đánh
giá là tương đối linh hoạt, đã có những tác động tích cực đến việc ổn
định lãi suất và lạm phát trên thị trường. Trong thời gian tới, NHNN
sẽ tiếp tục điều hành thực hiện các nghiệp vụ thị trường mở thông
qua các phiên đấu thầu tín phiếu và nghiệp vụ kì hạn, điều tiết hợp lí
cung cầu tiền trên thị trường, đảm bảo sự ổn định trong tỷ giá, lãi
suất cũng như mục tiêu lạm phát, tăng trưởng đã đề ra.
24 | P a g e
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn:
TANGGIAP.VN
I.2.2. Chính sách tái chiết khấu

Trong suốt giai đoạn 2008-2013, công cụ chính sách tái chiết
khấu của CSTT đã được sử dụng linh hoạt với việc liên tục thay đổi
sàn lãi suất tái chiết khấu và trần lãi suất tái cấp vốn để phù hợp với
điều kiện của thị trường.
Năm 2008, NHNN đã thiết lập một hành lang lãi suất thị trường
liên ngân hàng với biên độ chênh lệch khoảng 2% để điều tiết lãi
suất thị trường: “Trần” là lãi suất tái cấp vốn, “sàn” là lãi suất tái
chiết khấu để các lãi suất được xác định theo đó và thực hiện vai trò
của mình.
Trong 6 tháng đầu năm 2008, NHNN điều chỉnh lãi suất cơ bản,
lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn có xu hướng tăng nhằm tạo
hành lang lãi suất phù hợp với định hướng kiểm soát hạn mức tín
dụng và từng bước đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi
tiền.Trước tình hình lạm phát luôn ở mức 2 con số, NHNN đã 2 lần
tăng lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn. Cụ thể, ngày
30/1/2008 sau 3 năm giữ ổn định lãi suất tái chiết khấu đã tăng từ
4.5% lên 6%. Tiếp đó ngày 19/5 lãi suất được đẩy lên 11%/năm và
lên đến đỉnh điểm là 13%/ ngày 11/6/2008.
Cùng với lãi suất tái chiết khấu thì lãi suất tái cấp vốn và lãi
suất cơ bản cũng được đẩy tăng lên 2 lần:
Tăng lần 1: lãi suất cơ bản lên 12%/năm, lãi suất tái cấp vốn lên 13%/năm, lãi
suất chiết khấu lên 11%/năm.
Tăng lần 2: Lãi suất cơ bản lên 14%/năm, lãi suất tái cấp vốn lên 15%/năm, lãi
suất chiết khấu lên 13%/năm
Sang nửa cuối năm 2008, sau khi hứng chịu những hệ lụy của
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng nổ vào tháng 9/2008, nền
kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng suy thoái, chỉ số CPI tăng chậm
25 | P a g e

×