Cặp phạm trù lượng và chất (định tính và định lượng)
trong nghiên cứu Địa lí
PHẦN MỞ ĐẦU
Phạm trù theo nghĩa rộng là phản ánh những mặt, những thuộc
tính, những mối quan hệ chung cơ bản nhất của sự vật, hiện tượng
thuộc một lĩnh vực nhận thức nhất định.
Trong triết học, các mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện
tượng được phép duy vật biện chứng khái quát thành các cặp phạm trù
cơ bản như cái riêng, cái chung, cái đơn nhất; tất nhiên và ngẫu nhiên;
bản chất và hiện tượng; nguyên nhân và kết quả; khả năng và hiện
thực; nội dung và hình thức…Chúng được hình thành và phát triển
trong quá trình hoạt động nhận thức, hoạt động cải tạo tự nhiên và xã
hội. Các cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật không phải là hệ
thống bất biến mà phát triển cùng với sự phát triển của khoa học và
thực tiển. Mối quan hệ giữa các phạm trù của các ngành khoa học với
các phạm tù của phép biện chứng duy vật là mối quan hệ giữa cái
chung với cái riêng. Do vậy, khi nghiên cứu các phạm trù cần liên hệ
chúng với nhau. Mỗi khoa học đều có các cặp phạm trù:
Trong địa lí cũng có 6 cặp phạm trù: không gian và thời gian; nội
dung và hình thức; cái chung và cái riêng; liên tục và gián đoạn; lượng
và chất (định tính và định lượng); nguyên nhân và kết quả. Các cặp
phạm trù của địa lí có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và với các cặp
phạm trù của phép biện chứng duy vật.
1
Trong 6 cặp phạm trù nói trên cặp phạm trù định lượng và định
tính có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc nghiên cứu địa lí. Việc
nghiên cứu về định tính và định lượng thành công bước đầu cho phép
chúng ta vững tin ở việc áp dụng các phương pháp định lượng trong
nghiên cứu địa lí kinh tế xã hội. Khi nắm vững quan điểm phương
pháp luận nghiên cứu của địa lí kinh tế xã hội, có định hướng nghiên
cứu đúng, biết cách phát hiện vấn đề, thì nhà địa lí có thể vận dụng
đúng các phương pháp và phương tiện nghiên cứu hiện đại, nâng cao
năng suất và chất lượng nghiên cứu của mình. Đây cũng là nguồn
động viên cho những nhà địa lí trẻ có thể vững bước trên con đường
nghiên cứu mà không sợ lệch hướng.
Vì lí do trên, tôi đi sâu tìm hiểu và làm rõ: “Cặp phạm trù lượng
và chất (định tính và định lượng) trong nghiên cứu địa lí”.
PHẦN NỘI DUNG
Trong triết học, lượng và chất được khái quát thành một quy luật
của phép biện chứng duy vật. Đó là quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi
về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại. Quy luật này
chỉ ra cách thức vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Trong
đó, chất là tính quy định vốn có khách quan vốn có của sự vật, là sự
thống nhất hữu cơ giữa các thuộc tính làm cho nó là nó mà không phải
là cái khác. Lượng là cái quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng,
qui mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự vật cũng
2
như các thuộc tính của nó. Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa chất và
lượng. Giới hạn trong đó những thay đổi về lượng của sự vật chưa gây
ra những thay đổi căn bản về chất được gọi là độ. Những thay đổi về
lượng vượt quá giới hạn độ sẽ làm cho chất của sự vật biến căn bản.
Điểm mà tại đó sự thay đổi căn bản về chất được thực hiện gọi là điểm
nút. Bước nhảy là bước thay đổi căn bản về chất của sự vật do sự thay
đổi về lượng trước đó gây ra. Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng
và sự thay đổi về chất còn có chiều ngược lại. Đến lượt nó, sự thay đổi
về chất lại tác động đến lượng, thúc đẩy lượng tiếp tục phát triển. Nắm
được nội dung quy luật này sẽ tránh được nôn nóng, đốt cháy giai đoạn
tích lũy về lượng, đồng thời tránh tư tưởng tuyệt đối hóa thay đổi về
lượng, không kịp thời chuyển những thay đổi về lượng sang những
thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính tiến hóa sang những
thay đổi mang tính cách mạng và ngược lại không biết sử dụng chất
mới để thúc đẩy lượng tiếp tục phát triển.
Trong Địa lí, quy luật lượng chất đã được các nhà khoa học nghiên
cứu và khái quát nên thành một cặp phạm trù: Đó là cặp phạm trù Định
lượng và định tính. Vấn đề nghiên cứu địa lí theo hướng định lượng và
định tính ra đời đã nhiều thập kỉ nay. Nó là địa hạt đầy khích lệ, đầy
kịch tính của địa lí học. Trong lịch sử nghiên cứu địa lí học thì phương
pháp định lượng đã bắt đầu được đặt nền móng từ thế kỉ 19, với một số
nhà đại lí vĩ đại như Humbolt, Ritter, Tunen. Trong những năm 30 của
thế kỉ này đã có những mô hình không gian toán học nổi tiếng của
Chistaller, của Losch đã khích lệ rất nhiều nhà địa lí học ở các nước
3
phương Tây phát triển mô hình này. Những nhà địa lí trẻ ở Châu Âu đã
đi đầu trong việc nghiên cứu định lượng. Một loạt các công trình
nghiên cứu của ông Chorley đã được đánh giá cao trên thế giới và đã
nhanh chóng được dịch ra tiếng Nga, giới thiệu với các nhà địa lí Xô
Viết. Đặc biệt trong công trình nghiên cứu của ông “ Địa lí học: Sự
tổng hợp địa lí hiện đại” đã được đánh giá như là “Cuốn sách của thế
kỉ”. Cuốn sách nổi tiếng của David Harvey “ Giải thích khoa học trong
địa lí” đã đề cập đến khoa học trong địa lí, từ đó ta có thể hiểu được
thấu đáo hơn mối quan hệ giữa định lượng và định tính trong nghiên
cứu địa lí.
Khẳng định việc nghiên cứu theo hướng định lượng trong địa lí học
gặp không ít quanh co. Sự cực đoan hóa, sùng bái các cộng cụ định
lượng có thể dẫn đến chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa thực chứng
mới, và nếu không thận trọng thì người đọc thậm chí người nghiên cứu
có thể bị đánh lừa vì bản chất không khoa học lại được che đậy bằng
cái vỏ có vẻ rất khoa học, hiện đại. Một điều còn có thể thấy trong kinh
nghiệm của thế giới là trong khi các nhà địa lí trẻ đón nhận phương
hướng định lượng rất nhiệt tình thì các nhà địa lí lão thành tỏ ra rất
thận trọng. Sự can thiệp của các cộng cụ định lượng không chỉ là cuộc
cách mạng trong phương pháp nghiên cứu, mà còn làm lay chuyển cả
nền tảng phương pháp luận của khoa học địa lí, và đương nhiên sẽ
không dễ gì khi chúng ta phải thay đổi, thậm chí phải loại bỏ kho tàng
tri thức của khoa học địa lí những điều gần như đã được mặc nhiên
thừa nhận. Ở Việt Nam, việc tạo ra sự phát triển kế tiếp giữa các
4
phương pháp định tính, định lượng, đồng thời từng bước làm giàu thêm
cả về phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu thông qua các thử
nghiệm áp dụng định lượng sẽ đem lại kết quả tốt.
1. Quan niệm về mối quan hệ giữa định tính và định lượng trong
nghiên cứu địa lí
Mối quan hệ này có cơ sở trước hết từ bản chất của quá trình nhận
thức: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu
tượng rồi lại trở về thực tiễn. Trực quan sinh động bao hàm nội dung
của trực giác khoa học, của những nghiên cứu định tính ban đầu, nó có
tính chất phát hiện, có tác dụng định hướng cho nghiên cứu sâu, định
lượng trong quá trình trừu tượng hóa và để trở lại với thực tiễn. Sau khi
đã tước bỏ đi các dấu hiệu cụ thể không bản chất, để lại những đặc tính
bản chất, cốt lõi những mối quan hệ bản chất, lặp đi lặp lại, quá trình
nhận thức đang trở về với định tính. Khi mà địa lí học đang gần với
thực tiễn, xâm nhập vào cuộc sống, thì càng cần đến những sản phẩm
định tính có chất lượng cao nhờ đã đúc kết từ nhiều quá trình xử lí định
lượng khách quan, trên cơ sở cắt nghĩa nhiều mô hình định lượng. Và
như vậy có thể nói rằng “ định tính” không đồng nghĩa với cái gì đó
thiếu cơ sở khoa học hay là kết quả của phương pháp nghiên cứu cổ
truyền, và “ định lượng” không phải là mục tiêu cuối cùng của các nhà
nghiên cứu địa lí.
Đối với địa lí học, một khoa học nghiên cứu các địa tổng thể tự nhiên
hay các hệ thống kinh tế xã hội và sự tương quan giữa hệ thống lãnh
thổ này, thì các phương pháp định lượng có ý nghĩa lớn. Đây có các
5
hình thức vận động khác nhau của vật chất từ vận động cơ học, vật lí,
hóa học, sinh học cho đến vận động xã hội. Các chỉ tiêu để đo các quá
trình kinh tế xã hội diễn ra trên lãnh thổ thường có bản chất khác nhau
và không thông ước với nhau. Phải nhờ các công cụ toán thích hợp mới
có thể tiến hành nghiên cứu tổng hợp thực sự. Với sự phát triển nhanh
chóng của công nghệ GIS, thì những bài toán phân tích không gian
được tiến hành dễ dàng hơn nhiều, và tính phương án của các nghiên
cứu, các giải pháp được thực hiện có kết quả.
2. Ý nghĩa của định tính và định lượng trong nghiên cứu địa lí
2.1. Khi chúng ta đo đạc một yếu tố địa lí có nghĩa là chúng ta chưa đi
vào bản chất của yếu tố đó mà chỉ là đo về hình thức, định lượng được
cái bên ngoài. Như vậy khi xem xét một yếu tố địa lí nào đó thì phải đi
từ cái định lượng bên ngoài sau đó mới đi sâu vào tìm hiểu bản chất
bên trong của nó.
Trong quá rình nghiên cứu về định tính và định lượng không có ranh
giới cụ thể. Có thể bắt đầu đi từ định tính => định lượng => định
tính… => định tính ( Đó là cái đích cuối cùng). Chỉ khi nào đưa ra
được định tính thì mới đưa ra được khuyến cáo về biện pháp. Ví dụ
mức sống càng tăng thì tỉ lệ sinh càng giảm. Nếu mọi quy luật xã hội
đều mô tả bằng một câu đơn giản thì sẽ không tồn tại. Mức sống tăng
nhiều nước có mức sinh cao và họ quan tâm đến giáo dục và y tế.
Như vậy từ định tính => Định lượng => Định tính
Thống kê Trực tiếp, đồng pha (trễ)
6
Khi nói đến định tính ban đầu đầu tiên ta phải tìm dấu hiệu bên ngoài.
Điều này đòi hỏi người nghiên cứu phải biết lọc những dấu hiệu nào
mang tính bản chất, dấu hiệu nào không bản chất hay không cơ bản.
Ví dụ:
Nguyên nhân tại sao ở đồng bằng sông Cửu Long, diện tích đất
phèn và đất mặn lớn nhất cả nước. Ta đưa ra một số nguyên nhân: do
giáp biển, do địa hình thấp, do khí hậu…nhưng nguyên nhân chính là
gì? Nguyên nhân cơ bản là do chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển và mùa
khô kéo dài.
Theo dõi thấy ở Hải Phòng hàng năm tôm chết hàng loạt mà thời
điểm tôm chết của các năm lại trùng vào một tháng. Người ta đưa ra
một số nguyên nhân như sau: do nhiệt độ, do môi trường…, nhưng
nguyên nhân chính là gì? Sau một thời gian tìm hiểu kiểm tra thì các
nhà khoa học đưa ra nguyên nhân chính là do hàng năm cứ vào tháng
đó có lũ lớn đưa nước mặn từ biển vào nên tôm bị chết.
2.2. Từ định tính => Đo đạc ra các chỉ tiêu (định lượng). Tiêu chí là tập
hợp các chỉ tiêu để phản ánh đặc trưng cơ bản. Các tiêu chí đưa ra phải
khái quát, chỉ tiêu phải cụ thể và đo đạc được.
Việc lựa chọn các chỉ tiêu để phân tích, đưa vào các mô hình
định lượng có ý nghĩa quyết định đầu tiên. Trong nghiên cứu địa lí tự
nhiên, ta hay nói đến phương pháp chỉ thị dùng một thông số nào đó
làm chỉ thị chính xác hay quá trình cần nghiên cứu. Trong nghiên cứu
địa lí kinh tế xã hội, cách áp dụng này cũng rất có hiệu quả.
7
Chẳng hạn, khi nghiên cứu về đô thị hóa, ta có định nghĩa về đô
thị hóa: Đó là một quá trình kinh tế - xã hội, mà biểu hiện của nó là sư
tăng nhanh về số lượng và quy mô của các điểm dân cư đô thị, sự tập
trung dân cư trong các thành phố nhất là các thành phố lớn, là sự phổ
biến rộng rãi lối sống thành thị trong dân cư. Trong thống kê người ta
thường dùng chỉ tiêu về tỉ lệ phần trăm dân số đô thị trong toàn bộ dân
số để phản ánh trình độ đô thị hóa. Tuy nhiên chỉ tiêu này khá khái
quát và không phản ánh sự mau lẹ của đô thị hóa, cho nên cần dùng
thêm một số các chỉ tiêu khác như có thể sử dụng chỉ tiêu về hiện
trạng sử dụng đất để phản ánh sự đô thị hóa, vì ở khu vực đô thị hóa
đang tiến triển, thì tỉ lệ đất chuyên dùng cộng đất thổ cư tăng lên, và
trong thực tiễn ở nước ta thì đồng thời là một phần đất nông nghiệp bị
mất đi do chuyển mục đích sử dụng. Vậy thì thay cho chỉ tiêu tỉ lệ (Đất
chuyên dùng + đất thổ cư)/ tổng diện tích tự nhiên, ta nên dùng chỉ tiêu
(đất chuyên dùng + đất thổ cư)/ diện tích đất nông nghiệp vì với sự
tăng lên của tử số là sự giảm đi của mẫu số, các khác biệt theo lãnh thổ
được thấy rõ hơn. Trong khi phân biệt các kiểu quần cư nông thôn ở
Hà Nội đây là chỉ tiêu đặc biệt để tìm ảnh hưởng của đô thị hóa, phát
hiện các khu vực có kiểu quần cư hỗn hợp ngoại thành. Chính trong
nghiên cứu trên có thể thấy sự kết hợp giữa các hệ thống chỉ tiêu định
tính với các chỉ tiên định lượng để phân kiểu quần cư nông thôn Hà
Nội:
- Phân loại theo vị trí địa lí (định tính)
- Phân loại dựa trên hình thái ( định tính)
8
- Phân loại theo hoạt động kinh tế của dân cư ( định lượng), trong đó
sử dụng các số liệu thống kê về dân cư, hiện trạng sử dụng đất, hiện
trạng sản xuất
Việc nghiên cứu định tính và định lượng còn có ý nghĩa trong
việc định ra các thang bậc so sánh bao gồm tương đối và tuyệt đối. Ví
dụ tìm hiểu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu ấy bao gồm thành
phần nào, chúng ta phải Checklist (danh mục, kiểm kê): Cơ cấu bao
gồm những ngành nào? Cái nào quan trọng hơn?
Ví dụ muốn chứng minh Trái Đất đang nóng lên chúng ta phải
dựa vào:
Lí thuyết nhà kính, nguồn phát thải nhà kính, quan trắc nhiều
năm về nhiệt độ về mùa đông và mùa hè, có những năm chưa thấy
tuyết rơi, quan sát các núi tuyết thấy lượng tuyết bị mất đi qua các
năm. Như vậy đánh giá một hiện tượng phải xem xét nó trong mối
quan hệ với nhau chúng là tấm gương phản chiếu của nhau. Không
bao giờ được trả lời là không mà phải tìm ra các chỉ tiêu khác để thay
thế.
Mối quan hệ giữa các chỉ tiêu: sử dụng số liệu thống kê trong
giảng dạy địa lí kinh tế xã hội là rất quan trọng. Ví dụ: Tìm hiểu về
chất lượng cuộc sống bao gồm các chỉ tiêu: GDP/ đầu người, tuổi thọ
trung bình, trình độ học vấn. vấn đề quan trọng là phải lí giải được tính
đại diện của các chỉ tiêu này.
Các chỉ tiêu độc lập với nhau:
- Chỉ tiêu nhà kiên cố
9
- Chỉ tiêu nhà bán kiên cố
- Chỉ tiêu nhà tạm
Trong đó, chỉ tiêu nhà tạm phản ánh tỉ lệ nghèo. Chỉ tiêu nhà kiên cố
phản ánh sự khởi sắc của đất nước.
2.3. Bài toán phân tích tương quan
Có nhiều bài toán tính hệ số tương quan. Chúng ta tính hệ số
tương quan giữa các đơn vị lãnh thổ theo bộ chỉ tiêu đó, từ đó thấy
được sự tương đồng và khác biệt của cấu trúc lãnh thổ theo bộ chỉ tiêu
đã chọn. Điều đáng chú ý là khi chọn thông tin gốc để tính tương quan,
độ phân tích giảm khi đưa vào các chỉ tiêu phụ thuộc và khi sử dụng
các chuỗi nhỏ. Việc tính hệ số tương quan cặp hiện nay đã trở nên dễ
dàng nhờ sự trợ giúp của các phần mềm xử lí như Exel. Các kết quả
tính toán có thể trình bày bản đồ hệ số tương quan hoặc dưới dạng ma
trận tương quan.
2.4. Mô hình hóa bằng toán học và bằng bản đồ
Có thể mô hình một chiều hoặc hai chiều. Trong mô hình hóa thì
phân tích đa biến (Multivariate analysis).
Ví dụ:
Đồng bằng sông Hồng là nơi vựa người, vựa của của cuộc kháng
chiến, đây cũng là nơi mà tỉ lệ trẻ em bị nhiễm chất độc màu da cam
nhiều nhất.
Ở đồng bằng sông Cửu Long: Kinh tế khá phát triển, nhưng xét
về trình độ văn hóa thì lại kém phát triển (tỉ lệ trẻ em bỏ học nhiều, vấn
đề nước sạch, giao thông kém phát triển)
10
Đông Nam Bộ: Là nơi kinh tế phát triển nhất cả nước
Ví dụ: Nghiên cứu về sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ta thấy rằng:
Tỉ lệ ngành nông- lâm- ngư nghiêp giảm, tỉ lệ của ngành công nghiệp
và dịch vụ tăng nhanh. Khi nghiên cứu về cơ cấu kinh tế của Tây
Nguyên thì lại thấy có sự chuyển dịch ngược tức là tỉ trọng của ngành
nông – lâm - ngư nghiệp tăng, tỉ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ
lại giảm. Vậy thì điều này lí giải như thế nào? Nguyên nhân là trong
những năm đó ở Đắc Lắc cà phê được mùa và giá cà phê xuất sang các
nước tương đối cao.
2.5. Định lượng và định tính còn có ý nghĩa trong việc cắt nghĩa
(Explanation) trong dạy học địa lí.
Trong giảng dạy địa lí việc cắt nghĩa là việc hết sức khó khăn
nhưng vô cùng quan trọng từ việc cắt nghĩa chúng ta có thể hiểu bản
chất sự vật, hiện tượng.
Chẳng hạn, thường thì các vùng đồng bằng ở nước ta hay bị ngập
lụt nhưng vùng chịu lụt úng nghiêm trọng nhất ở nước ta là vùng châu
thố sông Hồng vậy thì phải cắt nghĩa như thế nào. Vấn đề đó liên quan
đến nhiều yếu tố do diện mưa bảo rộng, lũ tập trung trong các hệ
thống sông lớn, mặt đất thấp, xung quanh lại có đê sông, đê biển bao
bọc. Mật độ xây dựng cao ở đây cũng làm cho mức độ ngập lụt nghiêm
trọng hơn.
Hay trong vấn đề di cư phụ nữ di cư nhiều hơn nam giới. Theo
quy luật thì nam giới di cư nhiều hơn so với phụ nữ. Ở Việt Nam nữ di
cư nhiều hơn vậy thì phải cắt nghĩa như thế nào. Vấn đề di cư liên quan
11
đến việc di chuyển lao động( thị trường lao động diễn biến như thế nào
mà lại thu hút nhiều phụ nữ hơn). Tiền công lao động nữ rẻ hơn nam.
Ngành công nghiệp nhẹ phát triển nên thu hút nguồn lao động nữ, ở
thành phố tỉ lệ osin nữ nhiều. như vậy bản chất của vấn đề của vấn đề
di cư là liên quan đến thị trường lao động
Ví dụ: Trong sự phân bố về trang trại thì đồng bằng sông Hồng
số lượng trang trại tăng lên rất nhanh trong những năm gần đây. Điều
này lí giải như thế nào. Trước hết phải tìm hiểu có bao nhiêu loại trạng
trại, ở đồng bằng sông Hồng có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển
trang trại nhưng không sử dụng nhiều tài nguyên đất.
2.6. Phân tích hồi quy
Phân tích hồi quy có mô hình hồi quy một chiều và hồi quy
không gian.
Hồi quy một chiều chỉ ra sự phụ thuộc của một hiện tượng này
vào một hiện tượng khác, là guyên nhân quan trọng nhất của sự phổ
biến và phát triển của nó. Nó được dùng để giải các bài toán nội suy và
ngoại suy.
Hồi quy không gian lại phân tích sự phụ thuộc của hiện tượng địa
lí vào các tọa độ không gian. Nó là phương pháp hữu hiệu để mô hình
hóa các bản đồ trường địa lí, bao gồm bản đồ mặt phông, bản đồ phần
dư.
Ví dụ lập phương trình hồi quy phản ánh quan hệ tương quan
giữa đánh giá kinh tế đất và năng suất trung bình và mức lãi. Việc ứng
dụng phương pháp này vào hoàn cảnh Việt Nam, lập các phương trình
12
hồi quy như vậy có thể làm cơ sở để xác định các định mức về năng
suất và mức lãi để điều chỉnh hạng mức thuế nông nghiệp theo hạng
kinh tế đất.
Trong nghiên cứu trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa hộ nông
nghiệp và đất nông nghiệp tính bình quân trên một hộ nông thôn đã xác
định đường hồi quy và cho phép rút ra kết luận rằng: Dân số nông thôn
đồng bằng sông Hồng gây sức ép lên đất đai, sự hạn chế trong việc bảo
đảm tài nguyên lại trở thành sức ép, buộc người nông dân phải thay đổi
hoạt động kinh tế sang các hoạt động phi nông nghiệp.
2.7. Mô hình phân loại
Trong nghiên cứu địa lí kinh tế xã hội hay trong kinh tế vùng
nhiều khi phải tiến hành phân loại, gộp nhóm các đối tượng nghiên cứu
muôn vẻ vào các lớp nhất định để nhận dạng chúng và đánh giá, xem
xét sự phân bố của chúng cũng như quan hệ của chúng trong không
gian. Việc phân loại còn là một bước quan trọng để đi tới tổng hợp,
khái quát hóa các kết quả nghiên cứu. Nó cho phép phân tích ở trình độ
cao cấu trúc ngang của lãnh thổ, quy luật phân hóa lãnh thổ. Trong
nghiên cứu của GS Thịnh cũng dùng mô hình phân loại với sự trợ giúp
của máy vi tính tính ra các khoảng cách phân loại theo bộ chỉ tiêu phản
ánh điều kiện sinh thái nông nghiệp. Các chỉ tiêu phân hạng đất theo
mức độ thích hợp cho 17 nhóm cây trồng khác nhau của 163 đơn vị
lãnh thổ.
PHẦN KẾT LUẬN
13
Cặp phạm trù định lượng và định tính có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong việc nghiên cứu địa lí. Nghiên cứu bước đầu đề cập đến
lịch sử nghiên cứu phương pháp định lượng trên thế giới và Việt Nam,
quan niệm về mối quan hệ giữa định tính và định lượng trong nghiên
cứu địa lí, ý nghĩa của nó trong nghiên cứu địa lí. Từ đó, cho phép
chúng ta vững tin áp dụng các phương pháp định lượng trong nghiên
cứu địa lí đặc biệt địa lí kinh tế xã hội. Khi nắm vững quan điểm
phương pháp luận nghiên cứu của địa lí kinh tế xã hội, có định hướng
nghiên cứu đúng, biết cách phát hiện vấn đề, thì nhà địa lí có thể vận
dụng đúng các phương pháp và phương tiện nghiên cứu hiện đại, nâng
cao năng suất và chất lượng nghiên cứu của mình.
Tuy nhiên do thời gian không cho phép và khả năng tìm hiểu có
hạn, tôi chỉ dừng lại ở việc làm rõ quan niệm và ý nghĩa của căp phạm
trù định tính và định lượng trong nghiên cứu địa lí. Ta cần phải nghiên
cứu nó cùng với các cặp phạm trù khác và với các quy luật, nguyên lý
thì mới phản ánh đầy đủ các mối liên hệ trên thế giới.
Với việc nghiên cứu trên, tôi hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ nhằm
khẳng định tính đúng đắn và vai trò to lớn của phương pháp nghiên
cứu định lượng trong sự thành công của khoa học địa lí. Điều này giúp
giáo viên Địa lí cũng như các em học sinh yêu thích bộ môn có thể
vững bước trên con đường nghiên cứu mà không sợ lệch hướng.
Nguyễn Thị Thanh Hải – Trung tâm GDTX Tinh Vĩnh Phúc
14