Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

THỰC TRẠNG VỀ VIỆC SỬ DỤNG GIÁO CỤ TRỰC QUAN TRONG DẠY HỌC MỸ THUẬT TẠI TRƯỜNG THCS VĨNH TIẾN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (15.62 MB, 20 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC HUYỆN VĨNH BẢO
TRƯỜNG THCS VĨNH TIẾN
ĐỀ TÀI :
THỰC TRẠNG VỀ VIỆC SỬ DỤNG GIÁO CỤ
TRỰC QUAN TRONG DẠY HỌC MỸ THUẬT
TẠI TRƯỜNG THCS VĨNH TIẾN.
NGƯỜI THỰC HIỆN : NGUYỄN THÙY CHI
ĐƠN VỊ : TRƯỜNG THCS VĨNH TIẾN.
NĂM HỌC : 2011 - 2012
I.TÓM TẮT :
Trong dạy học mỹ thuật việc sử dụng giáo cụ trực quan là điều cần không thể
thiếu trong mỗi tiết dạy. Không chỉ trường cấp II Vĩnh Tiến mà tất cả các trường cấp II
trong huyện cũng thấy tầm quan trọng của vấn đề này. Trong điều kiện trường nằm
trong một xã nghèo,đại đa số dân trong địa bàn làm nông nghiệp nên việc đầu tư cơ sở
vật chất cho giáo dục còn gặp nhiều khó khăn, việc tăng cường thiết bị dạy học còn gặp
nhiều bất cập. Chính vì vậy giáo cụ trực quan cho môn học Mỹ Thuật của trường còn ít
và hạn chế. Số tranh phục vụ cho các bài học thường thức, bài học trang trí,vẽ tranh đề
tài chỉ thống kê được 08 tranh.Đồ dùng dành cho vẽ theo mẫu có số lượng ít chỉ áp dụng
được từ 1 đến 2 bài học.Bản thân tôi khi tham gia giảng dạy môn mỹ thuật cũng đã tận
dụng tranh ảnh sách báo sưu tầm,tranh vẽ của học sinh qua các năm sử dụng trong bài
dạy và nhận thấy hứng thú học tập của học sinh tăng lên so với tiết dạy “chay”. Tuy
nhiên những đồ dùng tự làm đó không được bảo quản nên hầu như hỏng hóc,tranh in
màu kinh phí tốn,lại dễ phai,ố đi.
Qua quá trình tìm hiểu thực tiễn tại trường THCS Vĩnh Tiến – Vĩnh Bảo - Hải Phòng
tôi nhận thấy việc dạy và học môn Mỹ thuật còn gặp nhiều khó khăn trong sử dụng đồ
dùng dạy học. Đồ dùng dạy học chưa đáp ứng được một tiết dạy hoàn chỉnh và nhu cầu
kiến thức của học sinh. Giải pháp đã làm là tự vẽ tranh, làm đồ dùng dạy học,sưu tầm
vật mẫu, hoặc đi mượn. Nghiên cứu thực trạng đồ dùng dạy học được sử dụng trong
những bài dạy và so sánh với tiết không sử dụng đồ dùng dạy học cho thấy tiết sử dụng
đồ dạy học kết quả bài vẽ tăng lên, học sinh hứng thú tham gia.
Được sự quan tâm, giúp đỡ của Ban giám hiệu trường THCS Vĩnh Tiến,tôi đã


tiến hành nghiên cứu đề tài : “Thực trạng về việc sử dụng giáo cụ trực quan trong dạy
học môn Mỹ thuật”.
II. GIỚI THIỆU:
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1 Mục tiêu, nhiệm vụ của môn Mỹ thuật ở THCS:
1.1.Mục tiêu:
Môn Mỹ thuật ở THCS không nhằm đào tạo hoạ sĩ sáng tác hay những người
chuyên làm về mỹ thuật. Môn Mỹ thuật ở THCS nhằm giáo dục thẩm mỹ cho học sinh
là chủ yếu: tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc, làm quen, thưởng thức cái đẹp, tập tạo ra
cái đẹp, vận dụng cái đẹp vào sinh hoạt học tập hằng ngày và những công việc cụ thể
sau này.
Môn Mỹ thuật ở THCS nhằm nâng cao hơn nữa về năng lực quan sát, khả năng tư
duy hình tượng, sáng tạo, phương pháp làm việc khoa học, nhằm hình thành ở các em
phẩm chất con người lao động mới đáp ứng đòi hỏi của xã hội ngày càng cao.
1.2. Nhiệm vụ:
Giáo dục thẩm mỹ cho học sinh thông qua ngôn ngữ tạo hình.
Cung cấp cho học sinh một số kiến thức phổ thông về Mỹ thuật.
Giúp học sinh nhận thức sâu sắc hơn về nền Mỹ thuật của dân tộc và thế giới.
Tạo điều kiện cho học sinh tiếo thu tốt hơn tri thức các môn học khác.
Định hướng cho một bộ phận học sinh học tiếp ngành Mỹ thuật, hay tạo điều kiện
cho các em thi vào các trường chuyên nghiệp có liên quan đến Mỹ thuật sau này dễ
dàng hơn ( kiến trúc, mỹ thuật ứng dụng, …)
2. Chương trình môn Mỹ thuật ở THCS:
2.1. Khái quát chương trình:
Chương trình môn Mỹ thuật ở THCS được chia thành 4 phân môn: vẽ theo mẫu,
vẽ trang trí, vẽ tranh và thường thức Mỹ thuật. Trong đó có các dạng bài lý thuyết và
bài thực hành. Các bài lý thuyết viết dưới dạng giới thiệu theo trình tự nội dung và cuối
bài là câu hỏi hướng dẫn. Các bài thực hành viết dưới dạng: quan sát, nhận xét; tìm và
chọn nội dung đề tài; cách vẽ; bài tập.
Về nội dung: giải thích các khái niệm, nêu lên đặc điểm của từng phân môn để

các em tìm ra cách học, cách vẽ, cung cấp những kiến thức cơ bản nhất cho từng phân
môn, bài tập ứng dụng.
Chương trình môn Mỹ thuật ở THCS được phân phối như sau:
Stt Phân môn
Lớp/Số tiết
6 7 8 9
1 Vẽ theo mẫu 8 9 8 3
2 Vẽ trang trí 9 8 10 6
3 Vẽ tranh 9 11 10 5
4 Thường thức mỹ thuật 7 6 6 4
2.2. Đặc điểm từng phân môn:
Môn Mỹ thuật ở THCS được chia thành 4 phân môn với những đặc điểm sau:
2.2.1 Phân môn “ Vẽ theo mẫu ”:
Đây là phân môn “ khô ” nhất trong các phân môn, tương đối khó dạy do đó giáo
viên ít quan tâm đến bài dạy để tìm ra những nét khác nhau giữa các bài. Về phía học
sinh , đây cũng là phân môn khó nhất không “ thích ”bằng vẽ trang trí hay vẽ tranh đề
tài. Trên thực tế, kết quả bài vẽ theo mẫu bao giờ cũng thua các phân môn khác.
Vẽ theo mẫu phải quan sát từ đầu đến kết thúc bài vẽ. Quan sát để tìm ra “ kiến
thức ”, vì vậy kết quả của bài vẽ phụ thuộc vào phương pháp quan sát.
Vẽ theo mẫu là vẽ từ mẫu thực. Từ mẫu thực đến bài vẽ do người vẽ quyết định.
Song trên thực tế, các khái niệm vẽ - theo - mẫu chưa được hiểu đúng ở học sinh và
ngay cả ở một bộ phận giáo viên.
Không vẽ tiếp khi không có mẫu ở trước mặt. Trong quá trình vẽ không thay đổi
vị trí của mẫu và vị trí của người vẽ, hướng ánh sáng…để đảm bảo cho bài vẽ khồng
thay đổi, không bị sửa chữa, điều chỉnh…Do vậy mẫu vẽ đối với bài vẽ theo mẫu là rất
quan trọng.
Với những đặc điểm đó, cần vận dụng những phương pháp sau đây khi dạy vẽ
theo mẫu: quan sát, trực quan, gợi mở.
2.2.2 Phân môn “ Vẽ trang trí ”:
Vẽ trang trí cũng từ những mẫu, từ kiến thức chung nhưng người vẽ có thể suy

nghĩ, tìm tòi để tạo ra bài vẽ, sản phẩm khác một phần hoặc khác hoàn toàn về hình
dáng, bố cục, màu sắc…Vì thế đặc điểm của trang trí là suy ngẫm - tìm tòi - sáng tạo
thường xuyên liên tục để luôn có cái mới, cái đẹp không lặp lại chính mình, không
giống với người khác. Trang trí tạo cho học sinh nếp nghĩ, phương pháp làm việc khoa
học, tư duy sáng tạo, góp phần hình thành phẩm chất con người lao động.
Trang trí gần gũi, gắn bó với cuộc sống vì nó tạo tra những sản phẩm phục vụ
sinh hoạt hàng ngày cho tất cả mọi người trong xã hội.
Trang trí mang màu sắc dân tộc rõ nét nhất, bởi nó xuất phát từ nhu cầu cuộc
sống của mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia và như vậy nó mang tính giáo dục
sâu sắc.
Trong dạy học phân môn này cần sử dụng các phương pháp sau: trực quan, gợi
mở, luyện tập.
2.2.3 Phân môn “ Vẽ tranh ”:
Khai thác đề tài: từ đề tài chung mỗi người tìm ra cách thể hiện sâu sắc, độc đáo,
tìm ra những hình tượng điển hình để có thể diễn tả được tư tưởng chủ đề, ý đồ của
người vẽ, khêu gợi được sự tìm tòi và cảm nhận của người xem.
Phản ánh một cách sinh động bằng sự quan sát và hiểu biết cuả người vẽ; vì thế,
vẽ tranh đề tài là thể hiện sự hiểu biết nhiều mặt về cuộc sống, tự do tạo điều kiện cho
người vẽ có ý thức tìm hiểu thế giới xung quanh.
Khi dạy vẽ tranh cần vận dụng các phượng pháp sau: quan sát, liên hệ thực tiễn
với cuộc sống. Bên cạnh sử dụng các trực quan là bài vẽ của học sinh và họa sĩ để các
em nắm bắt được nội dung.
2.2.4 Phân môn “ Thường thức mỹ thuật ”:
Đây là phân môn mà học sinh không làm bài thực hành, là phân môn lịch sử mỹ
thuật tóm lược.
Lịch sử mỹ thuật gắn liền với sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá của một đất
nước, một vùng hay một mốc thời gian. Do đó dạy và học phân môn này cần có kiến
thức về các môn khoa học xã hội và có cách nhìn tổng quát, nhận xét sâu sắc, phân tích
có cơ sở.
Thường thức mỹ thuật nâng cao trình độ văn hoá chung cho học sinh, bồi dưỡng

thẩm mỹ thị giác, giáo dục tình yêu quê hương đất nước và tạo điều kiện cho các em học
tập các phân môn khác có hiệu quả hơn.
Phương pháp dạy thích hợp của phân môn này là: quan sát, vấn đáp, đàm thoại,
liên hệ với thực tiễn cuộc sống. Giáo viên cần sưu tầm, tìm hiểu nhiều tranh ảnh liên
quan đến bài học.
3. Phương pháp trực quan trong dạy học Mỹ thuật:
3.1. Dạy Mỹ thuật cũng là dạy học, vì Mỹ thuật cũng là một môn học ở trường
phổ thông. Do vậy, dạy Mỹ thuật cũng phải tuân theo những phương pháp chung và có
phương pháp riêng. Đối với môn học Mỹ thuật có thể kể đến một số phương pháp
thường vận dụng sau:
1.1 Phương pháp quan sát.
1.2 Phương pháp trực quan.
1.3 Phương pháp vấn đáp.
1.4 Phương pháp gợi mở.
1.5 Phương pháp luyện tập.
1.6 Phương pháp liên hệ thực tiễn với cuộc sống.
Đối với môn học Mỹ thuật đó là môn học trực quan, do vậy dạy Mỹ thuật ở
trường THCS dạy trên đồ dùng dạy học là chủ yếu. Đề tài này nhằm nghiên cứu về sử
dụng đồ dùng dạy học trong môn Mỹ thuật nên phương pháp trực quan sẽ được phân
tích sâu hơn.
3.2. Trực quan trong dạy học Mỹ thuật:
Mỹ thuật là môn học trực quan. Đối tượng của môn Mỹ thuật thường là những gì
ta có thể nhìn thấy, sờ được - có hình, khối, có đậm nhạt, có màu sắc, ở xung quanh ta,
gần gũi và quen thuộc.
Dạy học nói chung và dạy học Mỹ thuật nói riêng bao giờ cũng mang lại hiệu quả
cao. Riêng với Mỹ thuật, tất cả các loại bài học đều phải sử dụng đồ dùng dạy học. Dạy
Mỹ thuật dạy trên đồ dùng dạy học. Do vậy đồ dùng dạy học là nội dung, kiến thức của
bài học. Đồ dùng dạy học còn phản ánh mức độ kiến thức của bài học , trình độ của học
sinh.
3.3. Phương pháp trực quan trong dạy học Mỹ thuật:

Nói đến phương pháp trực quan tức là đề cập đến sao cho học sinh thấy được
ngay, thấy một cách rõ ràng, cụ thể và hiểu nhanh, nhớ lâu, đồng thời có hứng thú học
tập, dù là những khái niệm như cân đối, hài hoà hay những gì ẩn chứa trong bố cục,nét
vẽ, màu sắc…mà nghệ sĩ muốn nói. Như vậy, phương pháp trực quan yêu cầu, giáo viên
dạy Mỹ thuật ở góc độ nhận thức cụ thể như sau:
* Về nhận thức: giáo viên phải coi trực quan và phương pháp trực quan là cần
thiết, là nội dung bài dạy.
* Về chuẩn bị: chủ động nghiên cứu bài dạy, tự tìm và thiết kế đồ dùng dạy học
sát với nội dung.
* Về phương pháp: sử dụng trực quan giáo viên cần lưu ý:
- Phân loại đồ dùng sao cho hợp với nội dung, thích hợp với từng thời kỳ, từng
giai đoạn của học tập và ý đồ của giáo viên.
- Hình thức đồ dùng dạy học cần có kích thước vừa phải, dễ quan sát, có trọng
tâm, đẹp để thu hút sự chú ý của học sinh.
- Trình bày đồ dùng dạy học cần rõ ràng, khoa học.
- Kết hợp giữa trình bày lý thuyết với giới thiệu trực quan đúng lúc, sao cho lời
nói hấp dẫn và minh hoạ đẹp hoà quyện làm một, tạo điều kiện cho học sinh nhận thức
nhanh, nhớ lâu.
4. Giáo cụ trực quan trong dạy học môn Mỹ thuật:
4.1. Các loại giáo cụ trực quan:
Giáo cụ trực quan môn Mỹ thuật là tất cả những phương tiện sử dụng trong tiết
dạy môn Mỹ thuật. Có thể kể đến các loại đồ dùng ( phương tiện ) đó là:
- Vật mẫu: nhiều chất liệu, hình dáng phong phú ( có thể tự làm ) như: hoa quả,
các khối hộp, cái phích, ấm tích, khối cầu, tượng…
- Hình mẫu: dưới dạng vật thật hoặc tự vẽ như: chén đĩa, khăn, gạch hoa…
- Mô hình: kích thước vừa phải, tiện lợi như: mô hình trại…
- Tranh ảnh:
+ Tranh nguyên bản, phiên bản: tranh thiếu nhi, tranh hoạ sĩ, tranh dân gian…
+Ảnh chụp theo đề tài, hoặc sưu tầm qua sách báo…
- Sơ đồ: sơ đồ có minh hoạ các bước vẽ.

- Sách giáo khoa, học sinh có thể tham khảo thêm sách thực hành Mỹ thuật.
- Bài vẽ của học sinh năm trước.
- Minh hoạ bảng.
- Đồ dùng dạy học: phấn, thước kẽ, bút chì, giấy vẽ…
- Phương tiện hiện đại: máy chiếu.
- Ngoài ra đối với các bài như: Tập vẽ dáng người, Giới thiệu tỉ lệ cơ thể người
( lớp 8 ),…có thể phải chuẩn bị thêm người mẫu là học sinh hoặc người lớn…
4.2. Vị trí, vai trò của giáo cụ trực quan trong dạy học môn Mỹ thuật:
Bất kỳ một môn học nào trông công tác giảng dạy trực quan đều có vị trí quan
trọng. Sử dụng giáo cụ trực quan trong giảng dạy Mỹ thuật được xem là một biện pháp
tốt nhất để các em dễ dàng năm bắt nội dung bài học, giáo cụ trực quan là cơ sở để giáo
dục thẩm mỹ.
Mỹ thuật là môn học phải có giáo cụ trực quan vì Mỹ thuật là môn rèn luyện bồi
dưỡng và phát triển khả năng cảm thụ thị giác nên Mỹ thuật thông qua trực quan dạy
cho học sinh quan sát, so sánh đối chiếu, phân tích nhằm lĩnh hội tri thức, rèn luyện kĩ
năng, kĩ xảo. Giáo cụ trực quan nhằm mục đích cụ thể hoá bài giảng , tăng thêm hiểu
biết cho học sinh, giúp học sinh thu nhận thông tin về các sự vật, hiện tượng một cách
đầy đủ và chính xác.
Giáo cụ trực quan nhằm kích thích tò mò và chăm chú, theo dõi bài giảng, gợi ý
cho học sinh hoặc để giải thích chứng minh cho một luận cứ, quy tắc nào đó. Mặc dù
giáo cụ trực quan hết sức quan trọng nhưng cũng hết sức nguy hiểm vì tâm lý chung của
học sinh là hay bắt chước. Nhờ giáo cụ trực quan để thấy được cái hay, cái đẹp, tránh
được cái chưa đạt, thấy rõ mục tiêu bài học, khắc sâu kiến thức hơn nữa, thế nhưng phải
biết sử dụng hợp lý, đúng lúc.
Giáo cụ trực quan là phương tiện giúp trẻ tiếp thu nhận thức tốt lý thuyết cũng
như hướng dẫn thực hành, từ đố gây cho các em niềm say mê hứng thú trong cái hay,
cái đẹp, hình thành thị hiếu tốt, đồng thời giúp các em học tốt các môn khác.
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Cuộc sống con người ngày càng phát triển về mọi mặt và hướng đến chân thiện mỹ. Mỹ
thuật dần đi vào cuộc sống của con người trong mọi hoạt động, mọi công việc. Ví dụ

như: làm một ngôi nhà, may một bộ đồ đẹp, chọn màu sắc cho một chiếc xe máy yêu
thích,…Như vậy thuật ngữ “ mỹ thuật ” từ lâu đã đi vào con người, đó là “ cách làm
đẹp ” không thể thiếu. Cũng chính vì tầm quan trọng của Mỹ thuật mà nó đã được đưa
vào chương trình trung học cơ sở ( THCS ) trở thành một môn học chính thống.
Môn Mỹ thuật ở THCS nhằm giáo dục thẩm mỹ cho các em và tạo điều kiện cho
các em sáng tạo ra cái đẹp, nâng cao khả năng nhận thức thẩm mỹ của các em. Không
những thế, học Mỹ thuật còn giúp các em hiểu về cái đẹp để sống và hoạt động theo quy
luật của cái đẹp.
Môn Mỹ thuật được ngành Giáo dục và mọi người quan tâm, bên cạnh những
thành công bước đầu đạt được việc dạy và học Mỹ thuật còn nhiều hạn chế và khó khăn.
Trong dạy học, đồ dùng dạy học đóng vai trò rất quan trong trong suốt quá trình dạy
học. Đối với môn Mỹ thuật, đồ dùng dạy học càng quan trọng hơn, nó làm tăng hiệu quả
của tiết dạy rất nhiều.
Qua quá trình tìm hiểu thực tiễn tại trường THCS Vĩnh Tiến – Vĩnh Bảo - Hải
Phòng tôi nhận thấy việc dạy và học môn Mỹ thuật còn gặp nhiều khó khăn trong sử
dụng đồ dùng dạy học. Đồ dùng dạy học chưa đáp ứng được một tiết dạy hoàn chỉnh và
nhu cầu kiến thức của học sinh. Do vậy tôi mạnh dạn đi tìm hiểu thực trạng vấn đề này.
Giải pháp chung:
Qua tìm hiểu về cơ sở lý luận, tìm hiểu thực tiễn về việc sử dụng giáo cụ trực
quan trong dạy học môn Mỹ thuật ở trường THCS Vĩnh Tiến tôi xin đưa ra một số giải
pháp sau:
- Giáo viên cần nhận thức rõ tầm quan trọng của giáo cụ trực quan để từ đó có kế
hoạch soạn bài dạy và chuẩn bị trực quan chu đáo, hiệu quả.
- Cần phân loại trực quan cho phù hợp với nội dung, thời gian bài dạy.
- Kích cỡ trực quan tương đối, rõ ràng, đẹp, đảm bảo nội dung để thu hút tầm
nhìn.
- Trình bày phải rõ ràng, khoa học, kết hợp với minh hoạ bảng, tạo điều kiện cho
học sinh nhận thức nhanh, nhớ lâu.
- Khi học sinh làm bài giáo viên cần xem kĩ những trực quan nào cần để lại để
học sinh xem, những trực quan nào nên cất đi. Riêng đối với bài vẽ theo mẫu cần giữ

nguyên mẫu.
- Tranh ảnh, bài vẽ nên chọn nhiều chất liệu, mẫu vẽ có thể là hoa quả nhựa để
tiết kiệm và sử dụng lâu năm.
- Đối với bài Vẽ theo mẫu, giáo viên nên bố trí hai vật mẫu ở phía trên và phía
dưới để học sinh quan sát rõ hơn ( bởi hiên nay chưa có phòng học đặc thù ).
- Cách sử dụng giáo cụ trực quan: có thể treo tranh theo từng bước giảng, giảng
nội dung nào treo tranh đó. Hoặc treo tất cả các tranh một lần rồi phân tích từng tranh.
- Bảo quản, giữ gìn trực quan tranh ảnh không bị nhàu nát, nhà trường nên trang
bị tủ đựng riêng.
- Hằng năm giáo viên nên có kế hoạch đề nghị Nhà trường cấp thêm kinh phí cho
việc dạy học.
- Công ty thiết bị dạy học nên sản xuất thêm nhiều trực quan không những là
tranh ảnh mà cả vật mẫu.
Giải pháp khi thiết kế giáo cụ trực quan cho các phân môn trong dạy học Mỹ
thuật:
1. Phân môn “ Vẽ theo mẫu”:
- Bài “ Mẫu có hai đồ vật ”, giáo viên có thể sử dụng các mẫu như: cái ấm tích –
cái bát, cái phích - khối cầu, cái ấm nhôm – cái bát, cũng có thể sử dụng mẫu sau :
Giáo viên nên sắp xếp mẫu khác với sách giáo khoa để dễ nhận ra học sinh nào
vẽ theo sách.
- Đối với bài học vẽ theo mẫu ở chương trình lớp 6 để học sinh nắm kĩ hơn về các
góc nhìn khác nhau, khung hình mỗi góc khác nhau, vị trí mỗi góc khác nhau …chúng
ta có thể sử dụng trực quan để chỉ rõ hơn .
- Đối với tiết học vẽ đậm nhạt giáo viên có thể sử dụng đèn học cá nhân để chiếu
sáng vào mẫu. Như vậy học sinh sẽ thấy rõ đậm nhạt trên vật mẫu. Trong khi hướng dẫn
học sinh cách vẽ nên dùng giấy vẽ treo lên bảng và lên bóng sẽ có hiệu quả hơn như
cách giáo viên thường hay minh hoạ bảng ( độ đậm là độ trắng của phấn ).
- Bên cạnh giáo viên cần sử dụng một số trực quan là bài vẽ các em học sinh năm
trước để học sinh nhận xét ra những điểm chưa đúng và rút kinh nghiệm cho bài vẽ của
mình.

2. Phân môn “ Vẽ trang trí ”:
- Trong hoạt động hướng dẫn học sinh cách vẽ có thể sử dụng giáo cụ trực quan
sau: ( Tên gọi: “ Ti vi màn hình phẳng ” )
Với trực quan này giáo viên có thể vận dụng cho nhiều bài trang trí khác nhau và
cả trong phân môn vẽ tranh. Tác dụng: gây hứng thú cho học sinh, tạo ra nhiều bất ngờ
khi giáo viên cho xuất hiện từng bước…Đối với cách thường sử dụng là: vẽ sơ đồ các
bước có hình vẽ như vậy khi treo lên học sinh đã thấy rõ ngay các bước và sẽ không còn
thú vị, hấp dẫn.
Không những thế, đối với bước phác mảng giáo cụ trực quan này còn giúp cho
giáo viên chuẩn bị minh hoạ nhiều cách phác mảng và mảng không hợp lý một cách dễ
dàng.
- Riêng đối với bài kẻ chũ in hoa nét đều và kẻ chữ in hoa nét thanh nét đậm, giáo
viên nên chuẩn bị những câu chữ không hợp lý về ngắt nhịp, nét chữ, khoảng cách…để
học sinh lên chỉ ra những điểm sai để từ đó chủ động cho bài làm của mình.
- Trực quan hình vẽ của giáo viên cũng nên sử dụng nhiều chất liệu ( màu nước,
màu bột, màu sáp, sáp dầu…) để học sinh thấy rõ hiệu quả từng chất liệu. Lựa chọn bài
của học sinh cũng nên chọn phong phú về mảng, hình, màu…và thậm chí các bài chưa
đẹp để học sinh chủ động nhận xét.
3. Phân môn “ Vẽ tranh ”:
- Đối với phân môn này giáo viên nên lồng ghép nội dung và không khí tiết học
sao cho thích hợp với nội dung đề tài của bài . Đặt biệt là trong phần vào bài cần sử
dụng những đồ dùng hấp dẫn thu hút học sinh.
Ví dụ: Bài “ Mẹ của em ”, giáo viên nên cho học sinh xem hình vẽ thật đẹp về mẹ
và cho cả lớp cùng hát một bài hát về mẹ…Bài “ Minh hoạ truyện cổ tích ”, để tạo ra
không khí của những câu truyện cổ tích trong toàn bộ bài dạy chúng ta có thể mở bài
bằng cách: cho một vài em học sinh đóng vai các nhân vật cổ tích và giáo viên gợi ý,
dẫn nhập vào bài…Trong toàn bộ bài này giáo viên có thể sử dụng những câu nói mang
tính cổ tích, những vật dụng trong truyện cổ tích. Ví dụ chúng ta có thể để tất cả những
đồ dùng dạy học hay trực quan chúng ta trong một “ chiếc rương thần ”…
- Với phân môn này chúng ta cũng có thể sử dụng trực quan “ Ti vi màn hình

phẳng ” như trên.
- Nên lựa chọn trực quan điển hình, sát nội dung, thể hiện rõ nội dung. Trực quan
bài vẽ học sinh nên lựa chọn cả bài đẹp và bài chưa đẹp.
- Ở phân môn này giáo viên cũng có thể sử dụng các đồ dùng phục vụ cho trò
chơi để học sinh thấy nội dung đề tài phong phú hơn…Ví dụ như: trong bài “ Trò chơi
dân gian ” giáo viên có thể chuẩn bị thêm bảng, bút dạ cho học sinh kể tên những trò
chơi dân gian và trò chơi hiện đại mà các em biết.
4. Phân môn “ Thường thức mỹ thuật ”:
- Đây là phân môn lý thuyết không thực hành, giáo viên cần chuẩn bị các dụng cụ
đầy đủ đặc biệt là tranh ảnh. Cần sưu tầm thêm tranh ảnh thông qua sách báo.
- Trong quá trình dạy giáo viên có thể yêu cầu học sinh phân tích những tranh ảnh
sưu tầm được hoặc tổ chức các trò chơi bằng những dụng cụ trực quan hấp dẫn tự sáng
chế như chơi giải đáp ô chữ…
- Đối với phân môn này giáo viên có thể sử dụng công nghệ thông tin để dạy học
rất thuận lợi. Các tranh ảnh có thể truy cập mạng internet để chuẩn bị cho bài giảng
III. PHƯƠNG PHÁP :
a.Khách thể nghiên cứu:
a.1. Khách thể nghiên cứu: Sử dụng đồ dùng dạy học môn Mỹ thuật ở trường
THCS Vĩnh Tiến.
a.2. Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng đồ dùng dạy học môn Mỹ thuật ở trường THCS Vĩnh Tiến.
. b. Thiết kế :
Tôi chọn hai lớp khối 8. Lớp 8A làm nhóm đối chứng, lớp 8B làm nhóm thực
nghiệm. Qua các tiết dạy tại hai lớp tôi thấy điểm KT định kỳ hai lớp có sự khác nhau,
do đó tôi dùng phép kiểm chứng T-Test để kiểm chứng sự chênh lệch điểm trung bình
của hai lớp trước khi tác động.
Kết quả : Bảng 1 .Kiểm chứng để xác định các nhóm tương đương :
Đối chứng Thực nghiệm
TBC
p =

p= >0,05 từ đó kết luận sự chênh lệch điểm số trung bình của hai nhóm thực
nghiệm và đối chứng là không có ý nghĩa, hai nhóm này được coi là tương đương.
Sử dụng thiết kế 2: Kiểm tra trước và sau tác động đối với nhóm tương đương (được mô
tả ở bảng 1.)
Bảng 2. Thiết kế nghiên cứu
Nhóm
Kiểm tra trước tác
động
Tác động
Kiểm tra sau tác
động
Thực nghiệm O1
Dạy học có sử dụng
trực quan.
O3
Đối chứng O2
Dạy học không sử
dụng trực quan.
O4
Ở phép kiểm chứng này tôi dùng phép kiểm chứng T-Test độc lập.
c.Quy trình nghiên cứu:
Thứ 3 dạy lớp thực nghiệm: Thiết kế kế hoạch bài học có sử dụng đồ dùng trực
quan: tranh, ảnh, dạy bằng máy chiếu. Tranh ảnh sưu tầm trên website violet.com ,
tham khảo các bài giảng của đồng nghiệp các trường như đồng chí Hải(THCS Hòa
Bình),đồng chí Tình(THCS Cao Minh)
Thứ 5 dạy lớp đối chứng: Soạn giảng, thiết kế kế hoạch giảng dạy như thường.
Tranh , ảnh chủ yếu trong SGK.
* Tiến hành dạy thực nghiệm:
Thời gian tiến hành vẫn theo PPCT, và kế hoạch giảng dạy của trường cũng như thời
khóa biểu.

Bảng 3. Thời gian thực nghiệm
Thứ/Ngày Môn/ Lớp Tiết theo PPCT Tên bài dạy
Thứ 3
Ngày
Mỹ Thuật
Lớp 8B
Tiết
Thứ 5
Ngày
Mỹ Thuật
Lớp 8A
Tiết
d. Đo lường:
Để thấy rõ hơn thực trạng của việc sử dụng giáo cụ trực quan trong dạy học môn Mỹ
thuật ở trường THCS Vĩnh Tiến tôi đã tiến hành tìm hiểu qua học sinh bằng phiếu điều
tra và kết quả như sau:
Tổng số phiếu phát ra : 124 phiếu cho các lớp
Trong đó: - Lớp 6 : 34 phiếu ; Lớp 7

: 31 phiếu;
Lớp 8A: 30 phiếu ;Lớp 8B

: 29 phiếu;
+ Câu hỏi 1: “ Các em thấy giáo cụ trực quan có cần thiết đối với quá trình học
tập môn Mỹ thuật hay không ? ”
Kết quả thu được:
Mức độ Rất cần thiết Cần thiết Không cần thiết Hoàn toàn không
Số
lượng
80 44 0 0

% 64.5 35.5 0 0
Như vậy chúng ta nhận thấy,64.5% học sinh nhận thấy được tầm quan trọng của
giáo cụ trực quan do giáo viên chuẩn bị đối với tiết học của mình. Chứng tỏ các em thấy
bản thân học tập thích thú hơn, hiệu quả hơn đối với những tiết có giáo cụ trực quan.
+ Câu hỏi 2: “ Các em thấy giáo viên sử dụng giáo cụ trực quan có liên tục trong
các tiết dạy không ?”
Tiết nào cũng đầy đủ
Thỉnh thoảng
X
Rất ít
Không sử dụng
Qua câu trả lời của các em chúng ta có thể thấy là : giáo viên chưa sử dụng giáo
cụ trực quan đầy đủ, chỉ sử dụng ở một só tiết trong một lớp.
+ Câu hỏi 3: “ Các em thấy giáo viên sử dụng giáo cụ trực quan bài nào hấp dẫn
nhất ? ”.
Hầu hết các em đều cho rằng giáo viên đã sử dụng giáo cụ trực quan trong các bài
thuộc phân môn thường thức Mỹ thuật là hấp dẫn, đầy đủ và lôi cuốn các em học tập. Ví
dụ như : bài “ Giới thiệu một số tranh dân gian Việt Nam ”, “ Tranh dân gian Việt Nam

+ Câu hỏi 4: “ Khi giáo viên sử dụng giáo cụ trực quan các em thấy lớp tham gia
như thế nào ? ”
Thu hút cả lớp 79 63.7%
Chỉ vài bạn hăng say theo dõi 28 22.5%
Bình thường 17 13.8%
Hầu hết các bạn không thích 0 0
Qua bảng tổng kết này chúng ta thấy các em khá hăng say với những tiết học có
sử dụng giáo cụ trực quan. Nhưng có 22.5 % cho rằng chỉ vài bạn hăng say theo dõi như
vậy là do học sinh không thích thú với môn học cũng có thể giáo viên sử dụng trực quan
chưa làm các em theo dõi.
+ Câu hỏi 5: “ Giáo viên có thường phân công các em về nhà tìm kiếm tranh ảnh

để lên trình bày trong tiết học hay không ?”
Qua câu trả lời của các em, tôi thấy trong một số tiết thường thức Mỹ thuật giáo
viên đã yêu cầu mỗi tổ sưu tầm tranh ảnh và sau đó lên giới thiệu với lớp ( kể các khối
6, 7 hay 8.
+ Câu hỏi 6: “ Giáo viên có thường hay sử dụng các dụng cụ, mô hình, tranh ảnh
để tổ chức cho cả lớp thảo luận hay chơi trò chơi không ?”
Các em cho biết giáo viên rất ít khi sử dụng các dụng cụ hay đồ dùng dạy học để
tổ chức cho cả lớp thi theo nhóm hoặc chơi trò chơi.
+ Câu hỏi 7: “ Trong những tiết học môn Mỹ thuật bằng máy, các em thấy có
hiệu quả hơn không ? ”
Phần lớn các em đều cho rằng : học bằng cách dạy trên máy thì có nhiều tranh
ảnh để xem, được giáo viên giới thiệu qua các trang web để học sinh tự tìm hiểu. Tuy
nhiên, những hình ảnh đó các em không chứng kiến được trực tiếp hoặc không được
xem thầy vẽ hình trực tiếp lên bảng.
+ Câu hỏi 8 :“ Trong quá trình vẽ bài các em có thường hay vẽ theo những bức
tranh của giáo viên đưa ra không ?
Không 99 79.9%
Thỉnh thoảng có. 25 20.1%
Thường xuyên 0 0
Ý kiến khác:……………………………
Qua thống kê này chúng ta nhận thấy, giáo cụ trực quan mà giáo viên sử dụng có
hiệu quả, không làm cho học sinh bắt chước vẽ theo. Chỉ một phần nhỏ ( 20.1 % ) thỉnh
thoảng có vẽ theo một vài bài, nhưng bên cạnh một số ý kiến khác đã cho rằng các em
đã biết cách dựa vào các bài vẽ, tranh ảnh của giáo viên cho xem để từ đó làm cơ sở cho
bài vẽ của mình.
Bên cạnh đó qua tìm hiểu một số bài của học sinh ( bài vẽ theo mẫu )tôi thấy, một số
em vẫn vẽ hình theo sách giáo khoa. Sau khi trực tiếp hỏi các em thì các em trả
lời:những khóa trước giáo viên yêu cầu hoặc các em về nhà vẽ, cũng có thể là giáo viên
chưa hướng dẫn rõ các em cách quan sát mẫu hay các em có thói quen . Như vậy đồ
dùng dạy học của giáo viên chưa thật sự có hiệu quả cao.

* Tiến hành kiểm tra và chấm bài:
Sau khi dạy xong bài học trên ,tôi tiến hành thu bài vẽ chấm.
(nội dung kiểm tra trình bày ở phụ lục )
2. Đánh giá chung:
Như vậy qua quá trình tìm hiểu, tôi rút ra một số đánh giá chung về thực trạng sử
dụng giáo cụ trực quan trong dạy học môn Mỹ thuật ở trường Vĩnh Tiến như sau:
- Về nhận thức, từ Ban giám hiệu đến giáo viên giảng dạy và cả học sinh đều thấy
rằng giáo cụ trực quan rất cần thiết trong quá trình dạy học môn Mỹ thuật. Cả cô và trò
trường THCS Vĩnh Tiến đã nỗ lực dạy và học môn Mỹ thuật trong khi còn gặp nhiều
khó khăn về trực quan.
- Bản thân giảng dạy môn Mỹ thuật ,tôi đã tiến hành thiết kế thêm nhiều đồ dùng
dạy học để tiết học đạt hiệu quả cao tuy nhiên vẫn hạn chế. Bên cạnh đó tôi đã tiến hành
giảng dạy bằng công nghệ thông tin thu hút học sinh tham gia và phát huy khả năng sử
dụng máy tính của bản thân nhưng vẫn còn ít. Với những yêu cầu của giáo viên, học
sinh đã sưu tầm nhiều tranh ảnh, tư liệu cho bài học trên cơ sơ đó giáo viên đã cho học
sinh tự giới thiếu trực quan của bài học.
- Nhưng vấn đề sử dụng trực quan trong dạy học môn Mỹ thuật của trường vẫn
còn nhiều khố khăn: hầu hết các đồ dùng dạy học ( trực quan ) đều do bộ cung cấp, giáo
viên không có thời gian, kinh phí để làm thêm nhiều trực quan khác. Mỗi giáo viên lại
có nhiều cách dạy khác nhau do đó họ thiết kế ra những đồ dùng khác nhau và vấn đề
bảo quản những đồ dùng trực quan đó trong thời gian dài là rất khó.
- Cách sử dụng giáo cụ trực quan của giáo viên còn nhiều bất cập: hiệu quả sử
dụng chưa cao, vẫn còn nhiều học sinh không sáng tạo bài vẽ mà dựa vào trực quan của
giáo viên để vẽ. Cách khai thác trực quan của giáo viên chưa hợp lý, chưa triệt để, cách
treo trực quan chưa khoa học…Chưa sử dụng nhiều giáo cụ trực quan cho việc tổ chức
học theo nhóm hay tổ chức trò chơi.
Nhìn chung đối với trường THCS Vĩnh Tiến, vấn đề sử dụng giáo cụ trực
quan trong dạy học môn Mỹ thuật chưa đạt được hiệu quả đặt biệt là việc sử dụng công
nghệ thông tin trong dạy học ,cần quan tâm hơn nữa hiệu quả của việc sử dụng trực
quan trong dạy học môn Mỹ thuật bởi việc sử dụng đồ dùng trực quan chưa đầy đủ, giáo

viên chưa đủ kinh phí để thiết kế thêm.
IV. PHÂN TÍCH DỮ LIỆU VÀ BÀN LUẬN KẾT QUẢ:
Thực trạng sử dụng giáo cụ trực quan môn Mỹ thuật ở trường THCS Vĩnh Tiến:
Đề tài này chỉ giới hạn tìm hiểu việc sử dụng đồ dùng dạy học trong môn Mỹ
thuật ở trường THCS Vĩnh Tiến. Để đánh giá thực trạng này tôi đã tiến hành thực dạy,
điều tra, tìm hiểu công tác giảng dạy,qua học sinh và sản phẩm của các em.
1. Thực trạng:
1.1 Đánh giá thực trạng ,tìm hiểu ở Ban giám hiệu nhà trường và công tác giảng
dạy môn Mỹ thuật:
Qua trao đổi với BGH nhà trường và công tác giảng dạy môn Mỹ thuật cho thấy
giáo cụ trực quan là rất cần thiết đối với quá trình dạy học đặc biệt là môn Mỹ thuật.
Giáo cụ trực quan môn Mỹ thuật của trường hiện nay chưa đầy đủ, giáo viên giảng dạy
bằng những giáo cụ trực quan do bộ cấp và thỉnh thoảng có làm thêm ở một số tiết.
Với cuơng vị là một giáo viên mỹ thuật tôi nhận định : hiệu quả của giáo cụ trực quan
là rất cao, học sinh thấy đam mê, thích thú hơn…và nắm bài tốt hơn, kiến thức vững
chắc hơn.
Hiện nay phòng học của nhà trường đang còn thiếu do vậy môn Mỹ thuật vẫn
chưa có phòng học riêng . Vẫn sử dụng phòng học các môn chung; dụng cụ, tủ để bảo
quản đồ dùng dạy học môn Mỹ thuật chưa có.
Một số vật mẫu vẫn chưa đầy đủ giáo viên tự tìm kiếm hoặc phải chuẩn bị để dạy
học. Phần lớn giáo viên đều cho rằng: giáo cụ trực quan của môn Mỹ thuật hiện nay là
chưa đầy đủ, phần lớn đều do giáo viên tự thiết kế thêm,…
Bên cạnh đó giáo viên đã ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Mỹ
thuật và mang lại hiệu quả cao, gây hứng thú cho học sinh đặc biệt là trong các tiết học
phân môn thường thức Mỹ thuật. Với cách dạy này giáo viên có thể sử dụng nhiều trò
chơi để tổng kết bài học và củng cố kiến thức; giới thiệu nhiều trang web để học sinh tự
tìm hiểu thêm .
Tuy nhiên do chưa có phòng chức năng nên việc sử dụng máy chiếu trong giảng dạy
là còn rất hạn chế, chủ yếu dạy “chay”.
Như vậy khó khăn lớn nhất của giáo viên giảng dạy môn Mỹ thuật ở trường Vĩnh

Tiến hiện nay là thiếu giáo cụ trực quan, nhưng nếu tự làm thêm thì không đủ kinh phí.
Bên cạnh đó chưa có phòng học đặc thù cho môn Mỹ thuật cũng gây không ít khó khăn
cho việc học phân môn Vẽ theo mẫu.
Một số đề nghị: Bộ cần cung cấp thêm nhiều giáo cụ trực quan cho các trường
THCS, không chỉ là tranh ảnh mà còn các vật dụng khác. Nhà trường và các ban nghành
cần đầu tư kinh phí hơn để giáo viên có thể làm trực quan cho tiết dạy bởi một số trực
quan do giáo viên sáng tạo ra cũng tốn nhiều kinh phí so với mức lương
V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ :
1. Kết luận:
Ngày nay, cuộc sống của con người ngày càng phát triển và Mỹ thuật cũng đã và
đang đi vào từng góc cạnh của đời sống con người. Không những thế chinh vì thế mà
môn Mỹ thuật đã được đưa vào chương trình Tiểu học và THCS nhằm định hướng thị
hiếu thẩm mỹ cho các em, giúp các em biết được cái dẹp trong cuộc sống và vận dụng
những gì học được để sáng tạo ra cái đẹp phục vụ cho bản thân và xã hội.
Hiện nay, giáo dục đang được đặt lên hàng đầu, chăm lo phát triển giáo dục là
phát triển tương lai cho đất nước. Trong công cuộc cải cách giáo dục thì môn Mỹ thuật
ở trường THCS cũng đang được quan tâm. Từ khi ra đời đến nay đã đạt được một số
thành tích nhưng bên cạnh đó còn nhiều khó khăn về đội ngũ giáo viên, kinh phí cho
dạy học và đồ dùng dạy học môn Mỹ thuật.
Trường THCS Vĩnh tiến luôn quan tâm tới đào tạo chất lượng giáo dục, tuy nhiên
cơ sở vật chất hiện nay vẫn còn thiếu, chưa đáp ứng đủ nhu cầu cho dạy và học. Trong
dạy học môn Mỹ thuật vấn đề trực quan đạng là vấn đề được Nhà trường và các em
quan tâm. Giáo cụ trực quan của trường hiện nay chỉ do Bộ cấp, giáo viên không đủ
kinh phí để thiết kế thêm và việc sử dụng, bảo quản nó còn nhiều bất cập.
Đánh giá được thực trạng đó, là một giáo viên Mỹ thuật tôi đã đưa ra một số giải
pháp và đã thực hiện qua một số tiết dạy trong thời gian giảng dạy với hy vọng phần nào
khắc phục được khó khăn về sử dụng giáo cụ trực quan trong dạy học Mỹ thuật của
trường THCS Vĩnh Tiến. Với sự quan tâm của các ban ngành, nhà trường và sự nổ lực
của thầy và trò trường THCS Vĩnh Tiến chắc chắn rằng chất lượng dạy và học môn Mỹ
thuật ngày càng phát triển, đạt được những mục tiên của môn học.

Thực trạng này không chỉ là ở trường THCS Vĩnh Tiến mà còn tồn tại ở các
trường THCS trên địa bàn huyện và toàn quốc. Hy vọng rằng những hạn chế đó dần
được khắc phục, các ban ngành quan tâm hơn nữa môn Mỹ thuật ở THCS để môn học
xứng đáng với tầm quan trọng của nó.
2. Khuyến nghị:
1. Đối với Sở giáo dục và đào tạo:
Cần quan tâm hơn nữa đến môn Mỹ thuật trong chương trình THCS. Thiết kế
nhiều đồ dùng trực quan phục vụ cho các trường THCS trong huyện. Tổ chức nhiều đợt
tập huấn cho các cán bộ chủ chốt môn Mỹ thuật của các huyện về sử dụng đồ dùng trực
quan trong dạy học Mỹ thuật.
2. Đối với trường THCS Vĩnh Tiến .
Quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ giáo viên Mỹ thuật trong dạy học. Tổ chức nhiều
buổi dự giờ để nắp bắt tình hình sử dụng giáo cụ trực quan của giáo viên. Đầu tư kinh
phí xây dựng phòng học môn Mỹ thuật, giúp đỡ kinh phí để giáo viên thiết kế đồ dùng
dạy học và sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học.
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO :
1. Phương pháp giảng dạy Mỹ thuật - Nhà xuất bản Giáo dục, 1995.
2. Sách giáo khoa Mỹ thuật 6, 7, 8, 9 - Nhà xuất bản Giáo dục.
3. Thực hành Mỹ thuật 6, 7, 8, 9 - Nhà xuất bản Giáo dục.
4. Giáo dục thẩm mỹ. Đỗ Xuân Hoà - Nhà xuất bản Giáo dục, 1998.
5. Đổi mới phương pháp dạy học Mỹ thuật ở trường phổ thông. Trịnh Đức Minh -
Sở GD và ĐT Hà Nội.
6. Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn Mỹ Thuật THCS- Nhà xuất
bản GD – 2008/ Đàm Luyện, Bạch Ngọc Diệp, Nguyễn Quốc Toản.
7. Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS môn Mỹ Thuật - Nguyễn Hải
Châu, Nguyễn Quốc Toản …
VII. PHỤ LỤC :
1.PHIẾU KHẢO SÁT
+ Câu hỏi 1: “ Các em thấy giáo cụ trực quan có cần thiết đối với quá trình học tập môn
Mỹ thuật hay không ? ”

Mức độ Rất cần thiết Cần thiết Không cần thiết Hoàn toàn không
Số
lượng
%
+ Câu hỏi 2: “ Các em thấy giáo viên sử dụng giáo cụ trực quan có liên tục trong các
tiết dạy không ?”
Tiết nào cũng đầy đủ
Thỉnh thoảng
Rất ít
Không sử dụng
+ Câu hỏi 3: “ Các em thấy giáo viên sử dụng giáo cụ trực quan bài nào hấp dẫn nhất ?
+ Câu hỏi 4: “ Khi giáo viên sử dụng giáo cụ trực quan các em thấy lớp tham gia như
thế nào ? ”
Thu hút cả lớp
Chỉ vài bạn hăng say theo dõi
Bình thường
Hầu hết các bạn không thích
+ Câu hỏi 5: “ Giáo viên có thường phân công các em về nhà tìm kiếm tranh ảnh để lên
trình bày trong tiết học hay không ?”
+ Câu hỏi 6: “ Giáo viên có thường hay sử dụng các dụng cụ, mô hình, tranh ảnh để tổ
chức cho cả lớp thảo luận hay chơi trò chơi không ?”
+ Câu hỏi 7: “ Trong những tiết học môn Mỹ thuật bằng máy, các em thấy có hiệu quả
hơn không ? ”
+ Câu hỏi 8 :“ Trong quá trình vẽ bài các em có thường hay vẽ theo những bức tranh
của giáo viên đưa ra không ?
Không
Thỉnh thoảng có.
Thường xuyên
Ý kiến khác:……………………………
2. TRANH VẼ CỦA HỌC SINH

* VẼ THEO MẪU

* VẼ TRANG TRÍ
* VẼ TRANH

×