Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Tiểu luận Giải pháp cho các khu công nghiệp để giảm thiểu ô nhiễm môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (727.12 KB, 36 trang )

TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP.HỒ CHÍ MINH
VIỆN MÔI TRƯỜNG

BỘ MÔN: MÔI TRƯỜNG HỌC CƠ BẢN
TIỂU LUẬN
SVTH : Nguyễn Thị Hồng Nhung
MSSV : 07734741
Lớp : ĐHMT3B
GVHD : GS.TSKH Lê Huy Bá
Tp.Hồ Chí Minh
Ngày 18 tháng 07 năm 2009
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP.HỒ CHÍ MINH
VIỆN MÔI TRƯỜNG

BỘ MÔN: MÔI TRƯỜNG HỌC CƠ BẢN
TIỂU LUẬN
SVTH : Nguyễn Thị Hồng Nhung
MSSV : 07734741
Lớp : ĐHMT3B
GVHD : GS.TSKH Lê Huy Bá
Tp.Hồ Chí Minh
Ngày 18 tháng 07 năm 2009
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 0
I. Hiện trạng khu công nghiệp 1
II. Giải pháp 4
1. Hệ thống pháp lý 4
2. Tăng cường công cụ kinh tế 7
3. Tổ chức quản lý môi trường khu công nghiệp 10
4. Nâng cao nhận thức của doanh nghiệp 12


5. Hỗ trợ đầu tư xử lý môi trường 14
6. Công tác giáo dục và tuyên truyền 15
7. Kỹ thuật và công nghệ xử lý 17
8. Khu công nghiệp sinh thái 26
Lời kết 29
Tài liệu tham khảo 30

LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với con người và sinh vật.
Cùng với tiến trình phát triển của đất nước trong sự nghiệp CNH, HĐH, nhất là
khi Việt Nam đã bước bào thời kỳ hội nhập kinh tế- quốc tế, khắp nơi trong cả
nước, từ thành thị đến nông thôn và hiện nay đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư
trong nước vào lĩnh vực sản xuất ngày càng tăng. Các nhà máy, xí nghiệp đã, đang
và sẽ tiếp tục được đầu tư mạnh mẽ, đặc biệt trong các KCN, KCX sẽ xây dựng
nhiều nhà máy, xí nghiệp có qui mô lớn. Đây chính là cơ hội để Việt Nam có thể
phát triển một nền kinh tế toàn diện và hội nhập được với khu vực và thế giới. Tuy
nhiên, bên cạnh sự chuyển biến tích cực về mặt kinh tế là những tác động tiêu cực
đến môi trường sinh thái do KCN gây ra. Quy hoạch phát triển và vận hành các
KCN mà không có sự quan tâm đặc biệt đến môi trường đã và đang gây nên
những hậu quả nghiêm trọng đến nhiều khu vực. Trong khi đó hiện nay hầu hết
các công nghệ, phương pháp xử lý chất thải nguy hại tại các KCN, KCX trong cả
nước đang áp dụng còn chưa thật an toàn, hoạt động giám sát và cưỡng chế áp
dụng các tiêu chuẩn môi trường đối với các cơ sở công nghiệp, các cơ sở vận
chuyển và xử lý chất thải hiện tại còn rất yếu kém
Để bảo vệ môi trường đô thị và môi trường công nghiệp, Việt Nam đã thực hiện
nhiều chính sách, chương trình thể hiện bằng các văn bản, nghị định, thông tư của
Chính phủ và các bộ ngành. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về bảo
vệ môi trường (hoàn thiện Luật Bảo vệ môi trường, ban hành các văn bản dưới
luật, nghiên cứu đổi mới cơ chế kế hoạch công tác bảo vệ môi trường ). Mặt
khác, phải thường xuyên kiểm soát, thanh tra môi trường công nghiệp, khuyến

khích và bắt buộc áp dụng các biện pháp xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường.
Khuyến khích đổi mới thiết bị công nghệ, thay đổi sản phẩm, đóng cửa và di dời
các đơn vị cũ gây ô nhiễm môi trường…








I.Thực trạng môi trường tại các khu công nghiệp
Thu gom và xử lý chất thải rắn: đối với chất thải nguy hại hiện nay chỉ có
một số doanh nghiệp đã thực hiện theo quy định của Quy chế quản lý chất thải
nguy hại, có hợp đồng thuê các đơn vị có chức năng và năng lực để xử lý. Phần
lớn các doanh nghiệp thực hiện chưa tốt, tình trạng rác thải nguy hại thu gom và
xử lý chung với rác thải công nghiệp thông thường và sinh hoạt là rất phổ biến.
Thu gom và xử lý nước thải : rất ít khu công nghiệp có nhà máy xử lý nước
thải tập trung, hầu hết các khu công nghiệp đều chưa có hệ thống lưu trữ và xử lý
chất thải rắn an toàn về mặt môi trường, đặc biệt là chất thải nguy hại. Chúng ta
chưa thống kê, đo được khối lượng chất thải độc hại, kim loại nặng (chì, thuỷ
ngân, crôm ) trong các doanh nghiệp sản xuất ắc quy, cơ khí, điện tử Hiện nay
phần lớn các đơn vị đầu tư kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp thường
không có đủ vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng như đường sá, sân bãi, cấp điện, cấp
nước, giao thông, thông tin liên lạc cơ sở hạ tầng về môi trường. Dẫn đến tình
trạng chung là hệ thống cơ sở hạ tầng chưa hoàn chỉnh nhưng đã có một số các
nhà máy, xí nghiệp công nghiệp hoạt động. Vì vậy ô nhiễm môi trường khu công
nghiệp là điều khó tránh khỏi. Vùng trọng điểm phía Nam, ngoài 7 khu công
nghiệp đã xây dựng trạm xử lý nước thải tập trung còn phần lớn các nhà máy nằm
trong và ngoài khu công nghiệp đều không có hệ thống xử lý nước thải cục bộ

trước khi xả vào nguồn, hoặc nếu có thì hoạt động không hiệu quả. Nhiều trạm xử
lý vận hành không đúng quy cách. Hầu hết các khu công nghiệp trên cả nước đều
không có hệ thống thu gom và thoát nước thải riêng với nước mưa. Nên nước thải
từ các khu công nghiệp hiện nay khi thải ra môi trường không đạt tiêu chuẩn cho
phép và theo kết quả quan trắc định kỳ do Trung tâm quan trắc và phân tích môi
trường thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện mức độ vượt tiêu chuẩn từ
02 đến 10 lần.Khoảng 25% các dự án đầu tư trong các khu công nghiệp có hệ
thống xử lý nước thải cục bộ. Nước thải từ các nhà máy được xử lý sơ bộ trước khi
thải vào hệ thống thoát nước chung của khu công nghiệp. 75% các dự án còn lại
đều không có hệ thống xử lý cục bộ, nước thải từ các cơ sở sản xuất được thải
thẳng vào các hệ thống thu gom nước thải của các khu công nghiệp có mức độ ô
nhiễm vượt tiêu chuẩn môi trường theo quy định khoảng từ 2 đến 41 lần.
Thu gom và xử lý khí thải: nhiều nhà máy hoạt động gây ra tiếng ồn ở mức
độ khá cao, nhà xưởng chưa thông thoáng, nhiều nơi khí độc và nhiệt thừa tích tụ
trong không gian làm ảnh hưởng đến sức khoẻ công nhân. Theo các chuyên gia về
môi trường tập trung hàng trăm nhà máy lớn nhỏ, vào một khu công nghiệp, tạo
nên ảnh hưởng tích tụ từ nhiều nguồn ô nhiễm đến nước, không khí và đất. Nếu
nhiều nhà máy sử dụng hoá chất nằm gần nhau có thể thải ra các loại hoá chất
tương tác hoặc trộn lẫn gây ảnh hưởng tích luỹ hoặc cộng sinh đến môi trường khu
vực và cộng đồng dân cư lân cận.Việc tổ chức thu gom và xử lý khí thải là thuộc
trách nhiệm của từng dự án đầu tư trong khu công nghiệp. Ô nhiễm khí thải từ các
nhà máy trong khu công nghiệp chủ yếu tập trung tại các nhà máy sản xuất phân
bón, sản xuất thép và sản xuất vật liệu xây dựng. Theo kết quả quan trắc định kỳ
do Trung tâm quan trắc và phân tích môi trường thực hiện, chất lượng môi trường
không khí tại các khu công nghiệp hiện nay còn ở trạng thái sạch, ngoại trừ thông
số bụi tại một số vị trí vượt tiêu chuẩn cho phép do quá trình xây dựng hạ tầng.
Diện tích cây xanh trong khu công nghiệp : theo nội dung báo cáo đánh giá
tác động môi trường các khu công nghiệp phải quan tâm đến diện tích cây xanh
trong khu công nghiệp để đảm bảo cân bằng yếu tố vi khí hậu trong khu công
nghiệp, diện tích cây xanh phải đảm bảo đạt tối thiểu 15% diện tích đất của khu

công nghiệp. Qua các đợt thanh tra về môi trường do Sở Tài nguyên và Môi
trường chủ trì thực hiện, diện tích cây xanh trong hầu hết các khu công nghiệp
chưa đảm bảo.
Thực hiện chương trình giám sát môi trường : tất cả các chủ đầu tư hạ tầng
các khu công nghiệp đều không thực hiện chương trình giám sát môi trường hằng
năm theo quy định. Do đó, không xác định được diễn biến chất lượng môi trường
xung quanh và không có cơ sở để hạn chế mức độ ô nhiễm môi trường cho cả khu
công nghiệp khi đã được lấp đầy. Khoảng 30% các doanh nghiệp đầu tư trong khu
công nghiệp thực hiện chương trình giám sát môi trường hằng năm và tập trung
chủ yếu vào các doanh nghiệp thực hiện tốt các nội dung cam kết trong bản đăng
ký đạt tiêu chuẩn môi trường đã được phê duyệt.
Luật bảo vệ môi trường còn bất cập. Hiện còn thiếu nhiều hệ thống thống
nhất quản lý về môi trường, do vậy mỗi khu công nghiệp tổ chức quản lý môi
trường theo một cách khác nhau. Việc phân cấp quản lý chưa rõ ràng dẫn đến việc
né tránh và đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý. Các cán bộ của cơ quan
quản lý môi trường địa phương (các sở khoa học, công nghệ và môi trường và ban
quản lý khu công nghiệp) không thể có mặt hường xuyên tại từng nhà máy để
giám sát việc thực thi các cam kết trong đánh giá tác động môi trường hoặc kiểm
soát từng nguồn ô nhiễm. Họ không có đủ phương tiện và trang thiết bị để thực
hiện việc giám sát ở tất cả các nhà máy trong khu công nghiệp, thiếu cán bộ quản
lý môi trường trong khu công nghiệp. Các cán bộ Sở Khoa học, Công nghệ và Môi
trường chỉ có thể đáp ứng phần nào việc quản lý các vấn đề môi trường bên ngoài
hàng rào khu công nghiệp. Các vấn đề môi trường bên trong chỉ có thể được quản
lý tốt bởi chính các bộ phần chức năng quản lý môi trường của từng khu công
nghiệp. Việc xử phạt các trường hợp vi phạm luật bảo vệ môi trường còn lỏng lẻo,
mức phạt còn quá thấp chưa đủ sức để buộc các đối tượng vi phạm nỗ lực thực
hiện các giải pháp bảo vệ môi trường hoặc thay đổi hành vi gây ô nhiễm.Bản thân
hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung (như Luật bảo vệ môi trường
và các văn bản pháp quy về quản lý môi trường khu công nghiệp) đã bộc lộ nhiều
hạn chế khi áp dụng.Một số văn bản quy phạm đã được ban hành trước đây có

nhiều nội dung lỗi thời, không phù hợp hoặc không đáp ứng nhu cầu thực tiễn, đòi
hỏi phải sửa đổi, bổ sung.
Mặt khác, ý thức bảo vệ môi trường của một số chủ đầu tư xây dựng hạ
tầng KCN và nhà đầu tư vào các KCN còn rất hạn chế. Sự mâu thuẫn lợi ích – chi
phí khi xây dựng hệ thống xử lý chất thải cùng với việc chưa có cơ chế hỗ trợ thỏa
đáng từ phía Nhà nước đã khiến cho các nhà đầu tư chậm triển khai việc xây dựng
hệ thống xử lý chất thải tập trung cho KCN. Hệ thống pháp luật về bảo vệ môi
trường trong KCN cũng chưa hoàn chỉnh.
II. Giải pháp cho các khu công nghiệp
1. Hệ thống pháp lý
Một trong những công cụ quan trọng nhất để đảm bảo chất lượng môi
trường tại các khu công nghiệp đạt tiêu chuẩn môi trường cho phép là tăng cường
công cụ pháp lý. Do đó, theo quy định của Luật bảo vệ môi trường năm 2005
trong thời gian tới Sở Tài nguyên và Môi trường sẽ tăng cường phối hợp với Ban
quản lý các khu công nghiệp, huyện Tân Thành và thành phố Vũng Tàu thực hiện
các nhiệm vụ sau:
Yêu cầu tất cả các chủ đầu tư các khu công nghiệp phải xây dựng hệ thống
xử lý nước thải tập trung, xây dựng khu vực lưu giữ tạm thời chất thải nguy hại
theo đúng quy định của Luật trong khoảng thời gian nhất định.
Yêu cầu tất cả các dự án đầu tư trong khu công nghiệp có nước thải phải xử
lý cục bộ đạt tiêu chuẩn đầu vào của hệ thống xử lý nước thải tập trung trước khi
thải vào hệ thống thu gom nước thải của khu công nghiệp. Các doanh nghiệp có
khí thải vượt tiêu chuẩn cho phép phải có hệ thống xử lý đảm bảo đạt tiêu chuẩn
môi trường Việt Nam trước khi thải. Tất cả các doanh nghiệp có chất thải nguy hại
phải có hợp đồng thuê các đơn vị có chức năng và đủ năng lực để xử lý.
Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra để xử lý các doanh nghiệp không
thực hiện theo đúng các cam kết về bảo vệ môi trường trong báo cáo đánh giá tác
động môi trường hoặc bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường đã được cấp có thẩm
quyền phê duyệt. Cương quyết tạm đình chỉ hoạt động nếu doanh nghiệp để tình
trạng ô nhiễm kéo dài.

Cần thiết nên có quy định pháp lý về kiểm soát môi trường KCN để làm
căn cứ đánh giá hiệu quả của việc thực hiện các yêu cầu về bảo vệ môi trường.
Việc thành lập mới các KCN phải mang tính chất chọn lọc, phải đầu tư
đồng bộ, hoàn thiện các công trình kết cấu hạ tầng hiện có và đảm bảo 100% các
KCN đi vào hoạt động có các công trình xử lý nước thải và diện tích cây xanh hợp
lý.
Việc phân cấp quản lý môi trường KCN phải được thực hiện hợp lý. Đối
với các địa phương, cần phát triển năng lực quản lý môi trường KCN trong các
vùng kinh tế trọng điểm.
Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật nhằm cụ thể
hoá và hướng dẫn đầy đủ Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đa dạng sinh học; sửa đổi,
bổ sung các quy định về tội phạm môi trường trong Bộ Luật Hình sự. Quy định
các chế tài xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; xây dựng và
ban hành quy định bồi thường thiệt hại về môi trường. Kiện toàn hệ thống quản lý
nhà nước về môi trường từ Trung ương đến cơ sở ; bảo đảm ở cấp huyện có bộ
phận quản lý môi trường, cấp xã có cán bộ phụ trách công tác bảo vệ môi trường.
Làm rõ chức năng, nhiệm vụ, phân công, phân cấp trách nhiệm quản lý nhà nước
về bảo vệ môi trường giữa các cấp, các ngành. Không phê duyệt chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư tiềm ẩn nguy cơ cao đối với môi
trường. Không đưa vào vận hành, sử dụng các khu công nghiệp, khu công nghệ
cao, khu đô thị, công trình, cơ sở y tế, cơ sở sản xuất mới không đáp ứng các yêu
cầu về bảo vệ môi trường. Xử lý dứt điểm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường đặc
biệt nghiêm trọng. Giải quyết cơ bản tình trạng ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm môi
trường ở các khu dân cư do chất thải của các khu công nghiệp, cụm công nghiệp,
các làng nghề, các khu vực bị nhiễm độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến
tranh. Kiên quyết đình chỉ hoạt động hoặc buộc di dời những cơ sở gây ô nhiễm
nghiêm trọng trong khu dân cư nhưng không có biện pháp khắc phục có hiệu quả.
Thực hiện kế hoạch phục hồi và cải thiện môi trường tại các khu vực đã bị ô
nhiễm, suy thoái nặng. Thực hiện việc đánh giá công nghệ sản xuất của các dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài, bảo đảm không đưa vào nước ta công nghệ cũ, lạc hậu

gây ô nhiễm môi trường. Xử lý nghiêm các trường hợp lợi dụng nhập khẩu phế
liệu, máy móc, thiết bị đã qua sử dụng để đưa chất thải vào nước ta. Kiểm soát
chặt chẽ việc sản xuất, nhập khẩu và sử dụng hoá chất, thuốc bảo vệ thực vật trong
sản xuất, bảo quản sản phẩm nông nghiệp, thức ăn và thuốc phòng trừ dịch bệnh
trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra,
giám sát, xử lý nghiêm mọi sai phạm, nhất là những sai phạm gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng. Để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường (trong các khu
công nghiệp, khu chế xuất), thì trên cơ sở luật bảo vệ môi trường, cần sớm ban
hành đồng bộ khung pháp ký về bảo vệ môi trường khu công nghiệp. Thể chế hoá
các chủ trương, chính sách, chế độ, quy định rõ các đầu mối trách nhiệm và mối
quan hệ phối hợp giải quyết các vấn đề phát sinh về phát triển kinh tế - xã hội với
bảo vệ môi trường.
Sở KHCN&MT chịu trách nhiệm trước UBND tỉnh/thành phố trực thuộc
Trung ương về công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường KCN, đồng thời
chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ KHCN&MT về chuyên môn, nghiệp vụ, chính
sách vĩ mô thực hiện nội dung công tác quản lý về bảo vệ môi trường KCN; Tổ
chức việc xem xét cấp Phiếu xác nhận Bảng đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường và
thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư vào
KCN theo phân cấp thẩm định tại Nghị định 175 CP của Chính phủ và những quy
định tại thông tư 490/1998/TT-BKHCNMT của Bộ KHCN&MT; Giám sát việc
thực thi các biện pháp bảo vệ môi trường của Công ty phát triển hạ tầng KCN và
các doanh nghiệp KCN trong giai đoạn xây dựng cơ sở hạ tầng KCN và trong suốt
giai đoạn hoạt động của KCN; Tiếp nhận và giải quyết các tranh chấp, khiếu nại,
tố cáo về bảo vệ môi trường KCN trong phạm vi quyền hạn được giao hoặc
chuyển đến các cơ quan có thẩm quyền xử lý
Quy chế cũng đã khẳng định nếu Công ty phát triển hạ tầng KCN và các
doanh nghiệp KCN vi phạm quy chế bảo vệ môi trường KCN sẽ bị xử phạt hành
chính về bảo vệ môi trường theo Nghị định 26/CP ngày 26/4/1996 của Chính phủ
và các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành của Nhà nước Việt Nam. Công ty
phát triển hạ tầng KCN, các doanh nghiệp KCN cố tình gây cản trở công tác giám

sát, kiểm tra, thanh tra môi trường sẽ bị lập biên bản trình lên UBND tỉnh/thành
phố trực thuộc trung ương hoặc/và Bộ KHCN&MT để có quyết định xử lý.
2. Tăng cường công cụ kinh tế
Trong những năm gần đây, nhiều nước trên thế giới đã sử dụng những công
cụ kinh tế khác nhau(các loại phí, giấy phép có thể bán được, hệ thống kỹ quỹ và
hoàn trả, khuyến khích thực thi, các chính sách thuế môi trường và tài nguyên, quy
định đền bù thiệt hại do ô nhiễm môi trường…)nhằm đem lại sự mềm dẻo, hiệu
quả, chi phí – hiệu quả cho các biện pháp kiểm soát ô nhiễm. Phần lớn các công cụ
này đã kích thích những người gây ô nhiễm có khả năng hoàn thành các mục tiêu
môi trường bằng những phương tiện có hiệu quả, chi phí – hiệu quả nhất. Với
những mức độ khác nhau, chúng sử dụng những nguyên tắc “người gây ô nhiễm
phải trả” và “người hưởng lợi phải trả”. Theo nguyên tắc người gây ô nhiễm phải
trả, thì ở mức ô nhiễm cao sẽ chịu phạt về tài chính cao hơn, còn ở mức ô nhiễm
thấp hơn thì chịu phạt thấp hơn, hoặc thậm chí còn được thưởng nữa. Theo nguyên
tắc người hưởng lợi phải trả thì người sử dụng phải trả toàn bộ chi phí xã hội cho
sự cung cấp nguồn lực đó. Trong khi một số công cụ kinh tế ứng dụng các chi phí
trực tiếp(ví dụ: phạt dựa trên khối lượng chất độc thải ra, hệ thống trả phí theo
từng thứ chất thải rắn, phí cho phép thải khí tính theo khối lượng khí thải ra, tiền
kí quĩ có thể được hoàn trả cho các bao bì), các công cụ khác lại sử dụng các chi
phí gián tiếp như thuế đánh vào đầu ra(ví dụ: thuế nhiên liệu).
Phương pháp kinh tế có một số ưu điểm sau:
• Khuyến khích sử dụng các biện pháp chi phí – hiệu quả để đạt được
các mức độ ô nhiễm có thể chấp nhận được.
• Kích thích sự phát triển công nghệ và tri thức chuyên sâu về kiểm
soát ô nhiễm, trong khu vực tư nhân.
• Cung cấp cho Chính phủ một nguồn thu nhập để hỗ trợ cho các
chương trình kiểm soát ô nhiễm.
• Cung cấp tính linh động trong các công nghệ kiểm soát ô nhiễm.
• Loại bỏ được yêu cầu của Chính phủ về một lượng lớn thông tin chi
tiết cần thiết để xác định mức độ kiểm soát khả thi và thích hợp đối với mỗi

nhà máy và sản phẩm.
Xác định mức mức phí môi trường tương ứng với lượng chất thải của các
khu công nghiệp. Biện pháp này rất hiệu quả, nó sẽ khuyến khích các cơ sở sản
xuất giảm ô nhiễm với chi phí thấp hơn, kích thích các cơ sở sản xuất đầu tư vào
công nghệ kiểm soát ô nhiễm mới. Tuy nhiên một trong những trở ngại lớn nhất là
phản ứng của các doanh nghiệp.
Áp dụng biện pháp kỹ quỹ - hoàn trả đối với những sản phẩm có nhiều khả
năng gây ô nhiễm. Khi các doanh nghiệp sử dụng những sản phẩm ấy, trả bao bì
và các phế thải của chúng cho một Trung tâm được phép để tái chế hoặc để thải
bỏ, thì khoản tiền ký quỹ của họ sẽ được hoàn trả lại  biện pháp này tăng cường
việc thu gom các chất thải nguy hại nhằm hạn chế khả năng gây ô nhiễm môi
trường.
Các khoản trợ cấp bao gồm các khoản tiền trợ cấp, các khoản vay với lãi
suất thấp, khuyến khích về thuế, để khuyến khích những doanh nghiệp thay đổi
hành vi, hoặc giảm bớt chi phí trong việc giảm ô nhiễm mà những người gây ô
nhiễm phải chịu. Ví dụ: chính phủ trợ cấp cho công nghiệp chủ yếu để giúp tài trợ
cho việc mua các thiết bị làm giảm ô nhiễm, hoặc để trợ cấp cho việc đào tạo cán
bộ. Trong một số nước, người ta trợ cấp cho chính quyền địa phương tiến hành các
chương trình nghiên cứu và triển khai công nghệ, hoặc để trợ giúp cho việc áp
dụng những kỹ thuật mới mà luật pháp và các quy định yêu cầu. Trợ cấp cũng
được áp dụng để kiểm soát ô nhiễm, tái chế để sử dụng lại và để khôi phục nguồn
lực.
Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải là công cụ kinh tế hiệu quả nhằm
ngăn ngừa, kiểm soát ô nhiễm môi trường tại các khu công nghiệp. Vì vậy, trong
thời gian tới Sở Tài nguyên và Môi trường sẽ tăng cường phối hợp với các ngành,
đặc biệt là: Sở Tài Chính, Ban quản lý các khu công nghiệp và Cục thuế tỉnh tổ
chức giám định toàn bộ nước thải của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp
ngay sau khi Bộ Tài nguyên và Môi trường có thông tư hướng dẫn xác định lưu
lượng nước thải công nghiệp và công bố các đơn vị có năng lực giám định mẫu
nước thải phục vụ công tác thu phí để tăng nguồn thu cho ngân sách đầu tư xử lý

môi trường và khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng các công trình xử lý nước
thải, nếu không phải bị nộp mức phí cao hơn rất nhiều.
Hiện tượng trốn nộp phí bảo vệ môi trường (BVMT) đang rất phổ biến, dù
đây là nguồn kinh phí chủ yếu dùng vào tái tạo, giữ gìn và BVMT.
Các kiểu trốn phí, chưa tôn trọng BVMT vẫn còn bất cập
Tuy việc thu phí BVMT tại Việt Nam còn phải chỉnh sửa, nhưng nếu thực
hiện nghiêm các quy định hiện có cũng góp phần tích cực tái tạo, BVMT. Việc thu
phí BVMT đang đạt rất thấp, nghiêm trọng nhất là việc thu phí đối với nước thải
công nghiệp hiện chỉ đạt khoảng 20% tổng số phí phải thu, dù loại nước này đang
là nguyên nhân chính làm chết các dòng sông Việt Nam.
Thanh tra môi trường là một biện pháp thiết yếu trong quản lý môi trường
theo phương cách pháp lý. Thanh tra môi trường là biện pháp cưỡng chế sự tuân
thủ pháp luật, các quy định, hướng dẫn, tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường đối với
các khu công nghiệp nói riêng và các tổ chức, cơ quan, tập thể, cá nhân trong xã
hội nói chung; đồng thời cũng là biện pháp bảo đảm quyền tự do, dân chủ cho mọi
người khiếu nại, khiếu tố về mặt môi trường.
3. Tổ chức quản lý môi trường khu công nghiệp
Hình thành một hệ thống tổ chức quản lý môi trường khu công nghiệp
thống nhất, đồng bộ, phù hợp với hoạt động của khu công nghiệp, tăng cường
công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường từ trung ương đến địa phương.
Nếu có hệ thống tổ chức quản lý môi trường phù hợp, khu công nghiệp sẽ giảm
thiểu các nguy cơ gây ô nhiễm và tạo ra những lợi thế trong việc sử dụng những
sản phẩm phụ hoặc chất thải, kết hợp các ngành nghề với nhau tạo thành hệ sinh
thái công nghiệp.
Bố trí cán bộ chuyên trách chăm lo bảo vệ môi trường trong các khu công
nghiệp, trong từng doanh nghiệp khu công nghiệp. Có một hệ thống quản lý theo
ngành dọc thống nhất để có thể quản lý chặt chẽ hơn công tác bảo vệ môi trường ở
từng cơ sở, trong và ngoài khu công nghiệp.
Phân bố lại địa bàn sản xuất công nghiệp theo hướng tập trung hoá và quy
hoạch hợp lý hơn. Đối với các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội,

Hải Phòng, Biên Hoà, Cần Thơ việc hình thành các khu công nghiệp ngoài động
lực phát triển sản xuất còn mang một ý nghĩa lớn trong công cuộc chỉnh trang đô
thị thông qua việc di dời các cơ sở sản xuất công nghiệp ra khỏi các khu dân cư để
làm sạch môi trường sống, bảo vệ sức khoẻ cộng đồng và hạn chế những thiệt hại
do sự cố công nghiệp đã từng xảy ra nhiều nơi trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh.
Bảo vệ môi trường KCN là các hoạt động nhằm giữ cho môi trường bên
trong và xung quanh KCN được trong sạch, cải thiện môi trường, ngăn chặn, khắc
phục các hậu quả xấu do các hoạt động của KCN gây ra cho môi trường. Việc tổ
chức quản lý và hoạt động bảo vệ môi trường KCN phải tuân thủ pháp luật về bảo
vệ môi trường của Việt Nam bao gồm từ lúc xét duyệt dự án đến giai đoạn thi
công xây dựng và trong suốt quá trình hoạt của KCN.
Tuân theo các quy chế như KCN chỉ chính thức đi vào hoạt động khi có đủ
các điều kiện đảm bảo môi trường như: Có quy hoạch chi tiết phân khu cụm công
nghiệp; Có hệ thống cấp điện, nước đảm bảo cho nhu cầu sử dụng theo từng giai
đoạn phát triển; Xây dựng hoàn chỉnh hệ thống thoát nước mưa và thoát nước thải
riêng biệt; Có trạm xử lý nước thải tập trung đảm bảo đạt tiêu chuẩn xử lý xả thải
vào nguồn tiếp nhận tương ứng; Có địa điểm và phương tiện cần thiết sẵn sàng
cho việc trung chuyển và/hoặc lưu trữ tạm thời chất thải rắn công nghiệp, chất thải
nguy hại với điều kiện đảm bảo hợp vệ sinh và an toàn cho môi trường
Bộ KHCN&MT có trách nhiệm thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ môi
trường đối với các KCN trên lãnh thổ Việt Nam; tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra việc
thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường của các KCN. Bộ KHCN&MT giao
cho Cục Môi trường trực tiếp quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường KCN với
các nội dung như: Tổ chức thẩm định báo cáo ĐTM của các dự án đầu tư xây
dựng KCN; Thẩm định các dự án xây dựng nhà máy xử lý nước thải tập trung,
trạm trung chuyển, lưu giữ và bãi chôn lấp chất thải nguy hại của KCN; Đề xuất
việc điều chỉnh tiêu chuẩn thải cho phép với các KCN; Tổ chức chỉ đạo xây dựng
báo cáo thường niên về hiện trạng môi trường KCN Việt Nam; Chỉ đạo, tổ chức
các hoạt động kiểm tra, kiểm soát, thanh tra môi trường KCN, giải quyết các khiếu

nại, tố cáo liên quan đến công tác bảo vệ môi trường KCN và ra quyết định xử
phạt các trường hợp vi phạm quy chế bảo vệ môi trường trong phạm vi thẩm
quyền; Làm đầu mối quản lý, cung cấp thông tin hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ xử lý
và quản lý môi trường KCN; Phối hợp với các cơ quan chức năng xây dựng quy
hoạch tổng thể phát triển KCN trong phạm vi cả nước phù hợp với chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường
4. Nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp
Để giải quyết vấn đề môi trường của các khu công nghiệp, điều quan trọng
là đòi hỏi các doanh nghiệp phải hiểu được các quy định của pháp luật về môi
trường, quyền và trách nhiệm của doanh nghiệp trong công tác bảo vệ môi trường.
Do đó, trong thời gian tới Sở Tài nguyên và Môi trường thường xuyên phối hợp
với Ban quản lý các khu công nghiệp và các ngành, các đơn vị có liên quan tổ
chức các lớp tập huấn phổ biến các quy định của pháp luật về môi trường, đặc biệt
là các văn bản dưới luật để thi hành Luật Bảo vệ môi trường năm 2005. Đồng thời,
sẽ phối hợp với các cơ quan khoa học tổ chức nghiên cứu và chuyển giao các công
nghệ xử lý chất thải cho các doanh nghiệp.
Vấn đề môi trường sẽ không được giải quyết nghiêm túc nếu chỉ kêu gọi
tinh thần trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và các hình thức xử phạt (dĩ nhiên
là phải có, và phải rất nghiêm ngặt). Doanh nghiệp phải tự họ tìm ra cách bảo vệ
môi trường mà vẫn có lợi; và xã hội cũng phải tạo điều kiện cho họ có lợi trong
việc bảo vệ môi trường
Trước hết, phải nói đến ý thức của nhiều chủ doanh nghiệp và chủ đầu tư phát
triển hạ tầng KCN. Các chủ doanh nghiệp khi đầu tư vào KCN thì chỉ chú trọng
các hạng mục đầu tư cho sản xuất, còn hạng mục xử lý chất thải nói chung và xử
lý nước thải riêng thì thường bị gác lại. Thậm chí không ít nhà máy đã xây dựng
hệ thống xử lý nước thải nhưng lại không vận hành hoặc vận hành rất hạn chế để
giảm chi phí sản xuất. Còn các chủ đầu tư phát triển hạ tầng KCN thì chỉ bắt đầu
xây dựng nhà máy xử lý nước thải trung tâm khi đã lấp đầy 50 – 70% diện tích đất
công nghiệp, mà lẽ ra phải thực hiện ngày từ đầu cùng với các công trình giao
thông, cấp nước, thoát nước…

Nhưng nguyên nhân chính phải kể đến là do ngại tốn kém trong đầu tư. Để
có một nhà máy xử lý nước thải công suất 3.000 m
3
/ngày như KCN Tân Thuận
phải tốn tới 5 triệu USD. Đã vậy, ở các KCN chậm thu hút đầu tư, nước thải từ các
nhà máy trong khu còn quá thấp so với công suất thiết kế của nhà máy xử lý nước
thải, dẫn đến vận hành tốn kém mà chậm thu hồi vốn
Để khắc phục được tình trạng bức xúc này vừa qua, một cuộc toạ đàm được
tổ chức tại TP Hồ Chí Minh với sự tham gia của các nhà khoa học, địa diện các cơ
quan quản ý nước và một số doanh nghiệp, đã nêu nhiều giải pháp khắc phục.
Theo đó, phải chú trọng gắn quy hoạch công nghiệp với quy hoạch môi trường và
phải tính cho cả vùng chứ không chỉ nhìn riêng rẽ từng tỉnh, thành phố. Phải xác
định những ngành công nghiệp có thể đặt ở thượng lưu nguồn nước và những
ngành công nghiệp nào phải đặt ở hạ lưu, những ngành công nghiệp nào phải dứt
khoát bố trí xa nguồn nước. Khi quy hoạch các KCN cần mới các nhà khoa học,
chuyên gia tham gia ngay từ đầu và nhất thiết phải đưa ra được phương án tối ưu
xử lý chất thải, nước thải. Chậm nhất là khi trong KCN có 30% các nhà máy đi
vào hoạt động thì phải có nhà máy xử lý nước thải trung tâm của khu. Sau khi nhà
máy được cấp phép, các cơ quan chức năng cần giám sát, đôn đốc việc triển khai
xây dựng hệ thống xử lý chất thải, nước thải nội bộ nhằm hoàn thành đồng bộ với
các hạng mục khác. Các tỉnh và thành phố sẽ hỗ trợ kỹ thuật và tài chính cho các
doanh nghiệp và các chủ đầu tư phát triển hạ tầng KCN thông qua các lớp huấn
luyện về môi trường, cử các chuyên gia tư vấn, đặc biệt là Quỹ giảm thiểu ô nhiễm
môi trường của địa phương sẵn sàng cho vay không lãi với điều kiện vay đơn giản.
Cần hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước về môi trường, tăng cường cả về số lượng
lẫn chất lượng của cán bộ, chức năng, quyền hạn của bộ máy, tăng cường sự phối
hợp đồng bộ giữa các ngành chức năng với chính quyền các địa phương, sao cho
hoạt động bảo vệ môi trường có hiệu quả thiết thực.
Trên thực tế, nhiều chủ đầu tư KCN, doanh nghiệp đang có xu hướng coi nhẹ
công tác bảo vệ môi trường, đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của toàn xã hội.

Do vậy, nếu chỉ kêu gọi chủ đầu tư KCN và doanh nghiệp phải xây dựng hệ thống
xử lý nước thải một cách chung chung mà không có chế tài buộc phải tuân theo
các chuẩn mực tối thiểu trong việc bảo vệ môi trường thì họ sẽ tìm cách trì hoãn
hoặc làm ăn gian dối như tình trạng đã diễn ra tại công ty Vedan hay công ty Giấy
Mỹ xuân Sài gòn
5. Hỗ trợ đầu tư xử lý môi trường
ình trạng ô nhiễm môi trường tại một số khu công nghiệp đến nay chưa
được giải quyết do tồn tại nhiều nguyên nhân, trong đó có khó khăn về vốn để đầu
tư các công trình xử lý. Do đó, để hỗ trợ một phần vốn cho các doanh nghiệp xử lý
chất thải, trong thời gian tới Sở Tài nguyên và Môi trường sẽ phối hợp với Ban
quản lý các khu công nghiệp xác định nguyên nhân gây ô nhiễm tại một số doanh
nghiệp, nếu doanh nghiệp có nhận thức về trách nhiệm trong xử lý chất thải nhưng
khó khăn về vốn, Sở Tài nguyên và Môi trường sẽ kiến nghị Quỹ bảo vệ môi
trường Quốc gia cho vay ưu đãi hoặc đề nghị Quỹ bảo vệ môi trường của tỉnh hỗ
trợ hoặc vay ưu đãi, tuy nhiên nguồn vốn Quỹ bảo vệ môi trường của tỉnh còn hạn
chế nên chỉ ưu tiên một số doanh nghiệp cho vay ưu đãi theo điều lệ của Quỹ.
Tăng đầu tư và sử dụng đúng mục đích, hiệu quả nguồn chi thường xuyên
từ ngân sách cho sự nghiệp môi trường, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong
nước và ngoài nước đầu tư bảo vệ môi trường; tăng tỉ lệ đầu tư cho môi trường
trong nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Từng bước thực hiện việc
thu phí, ký quỹ bảo vệ môi trường, buộc bồi thường thiệt hại về môi trường. Có cơ
chế, chính sách hỗ trợ về vốn, khuyến khích về thuế, trợ giá đối với hoạt động môi
trường. Xây dựng và triển khai thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về khắc
phục ô nhiễm và cải thiện môi trường; chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với
biến đổi khí hậu trong thời gian tới, dự báo kịp thời các diễn biến của biến đổi khí
hậu, lồng ghép các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu trong chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, dự án phát triển theo hướng thích ứng với biến đổi khí hậu; tăng
cường đào tạo nguồn nhân lực về môi trường
6. Công tác giáo dục và tuyên truyền
Nâng cao nhận thức cộng đồng là một đòi hỏi khách quan từ thực tế để có

thể quản lý tốt hơn hoạt động bảo vệ môi trường tại các KCN ( cũng như ở nhiều
lĩnh vực khác về bảo vệ môi trường). Biện pháp này giúp huy động nguồn lực to
lớn trong cộng đồng cùng góp phần quản lý bảo vệ môi trường KCN, nhất là các
khu vực dân cư xung quan các KCN-đối tượng chịu tác động môi trường từ các
KCN. Do vậy, cần tăng cường nhiều hơn nữa việc hỗ trợ, chia sẻ công khai thông
tin bảo vệ môi trường các KCN tạo điều kiện thông tin cho việc giám sát, phản
biện xã hội ở lĩnh vực này.
Giáo dục, từ “thuở lên ba”, để con người xã hội từ trong xương tủy đã có
khái niệm biết quý và tôn trọng môi trường;
Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư bảo vệ môi trường qua những chính
sách thuế, tín dụng ưu đãi…, để doanh nghiệp có thể sống “đàng hoàng” với xã
hội mà không phải quá so đo về mặt lợi nhuận;
Tích cực hỗ trợ, quảng bá những kỹ thuật, công nghệ có thể giúp doanh
nghiệp sinh lời trong đầu tư bảo vệ môi trường. Tăng cường và đổi mới công tác
tuyên truyền, giáo dục, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động
trong các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể, cán bộ, đảng
viên, các tầng lớp nhân dân về trách nhiệm, ý thức bảo vệ môi trường. Phát huy
vai trò của các cơ quan thông tin đại chúng trong tuyên truyền về bảo vệ môi
trường; đa dạng hóa nội dung, hình thức tuyên truyền, làm cho nhân dân hiểu rõ
hậu quả trước mắt cũng như lâu dài của ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu
đối với sức khỏe con người, đời sống xã hội và sự phát triển bền vững của đất
nước; những bài học và kinh nghiệm về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến
đổi khí hậu của các nước trong khu vực và trên thế giới; công bố công khai những
tổ chức, doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và hình thức xử lý.
Đưa nội dung giáo dục môi trường vào chương trình, sách giáo khoa của hệ thống
giáo dục quốc dân. Coi trọng việc phát động phong trào bảo vệ môi trường trong
các tầng lớp nhân dân. Xây dựng tiêu chí về môi trường vào đánh giá hoạt động
của từng doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị, gia đình, làng, bản, khu phố, tập thể, cá
nhân, đảng viên, đoàn viên, hội viên. Phát hiện, nhân rộng và tuyên truyền các mô
hình, điển hình tiên tiến về bảo vệ môi trường. Duy trì và phát triển giải thưởng

môi trường hàng năm.
Cần đẩy mạnh công tác tổ chức tuyên truyền phổ biến pháp luật, chủ
trương, chính sách và kế hoạch bảo vệ môi trường của Nhà nước, đi đôi với việc
giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức bảo vệ môi trường của cán bộ, công nhân,
người lao động tại các đơn vị, DN trong KCN. Phát huy vai trò, trách nhiệm của
các ngành chức năng trong việc bảo vệ môi trường; các đơn vị, DN đăng ký hoạt
động trong KCN cần đáp ứng và thực hiện đầy đủ các yêu cầu bảo vệ môi trường
theo quy định chung của KCN.
Đẩy mạnh xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường, có cơ chế, chính sách
khuyến khích cá nhân, tổ chức, cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường. Xây dựng
và phát triển lực lượng tình nguyện viên bảo vệ môi trường. Tăng cường sự giám
sát của cộng đồng, các đoàn thể nhân dân, các cơ quan thông tin đại chúng đối với
bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân. Phát triển các dịch vụ
thu gom, vận chuyển, tái chế, xử lý chất thải và các dịch vụ khác bảo vệ môi
trường với sự tham gia của mọi thành phần kinh tế. Hình thành các loại hình tổ
chức đánh giá, tư vấn, giám định, chứng nhận về bảo vệ môi trường; thành lập
doanh nghiệp dịch vụ môi trường đủ mạnh để giải quyết các vấn đề môi trường
lớn, phức tạp của đất nước.
Hợp tác chặt chẽ với các nước láng giềng và các nước trong khu vực để giải
quyết các vấn đề môi trường liên quốc gia. Tham gia tích cực vào các hoạt động
quốc tế và khu vực vì môi trường; thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, chương
trình, dự án song phương và đa phương về bảo vệ môi trường phù hợp với lợi ích
quốc gia. Nâng cao vị thế của ước ta trên các diễn đàn khu vực và toàn cầu về môi
trường. Tranh thủ tối đa nguồn hỗ trợ tài chính, kỹ thuật từ các nước, các tổ chức
quốc tế và cá nhân cho công tác bảo vệ môi trường.
Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ, các tỉnh ủy, thành ủy,
ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương quán triệt và tổ chức
thực hiện tốt Chỉ thị theo phạm vi, quyền hạn, trách nhiệm của mình.
Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban cán sự đảng Bộ Tài
nguyên và Môi trường, Văn phòng Trung ương Đảng, cá bộ, ngành có liên quan

hướng dẫn thực hiện, thường xuyên kiểm tra, định kỳ báo cáo Ban Bí thư kết quả
thực hiện Chỉ thị này
7. Kỹ thuật – công nghệ
Về mặt kỹ thuật-công nghệ, một số vấn đề cần được quan tâm hỗ trợ, đẩy
mạnh ứng dụng để góp phần bảo vệ môi trường các KCN. Trong đó, cần phân
định các nhóm doanh nghiệp trong các KCN nên ưu tiên chọn lựa thực hiện các
giải pháp trọng tâm như: hoặc, (nhóm A) cải tiến công nghệ, thiết bị sản xuất;
hoặc (Nhóm B) xử lý chất thải cuối đường ống; hoặc (nhóm C) kiểm soát mức
phát thải, thu hồi và tái chế chất thải,… hoặc cần áp dụng đồng thời tất cả các giải
pháp nêu trên một cách tổng hợp (nhóm D).
Quan tâm đến vấn đề xử lý nước thải tại các KCN - đây là khâu trọng yếu,
vì nước thải công nghiệp có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao, nhất là gây
nhiễm bẩn nguồn nước, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và sản xuất của nhân
dân khu vực liền kề. Cần xây dựng hệ thống nhà máy xử lý nước thải tập trung,
hiện đại với thiết kế kỹ thuật đạt tiêu chuẩn được cấp thẩm quyền phê duyệt; đảm
bảo xử lý toàn bộ lượng nước thải của KCN ở giai đoạn hoạt động ổn định. Bên
cạnh đó, cần xây dựng mạng lưới thoát nước mưa riêng biệt với nước thải công
nghiệp, nước thải sinh hoạt và nước thải từ các bộ phận dịch vụ khác. Toàn bộ
nước thải trong mạng lưới thoát nước của KCN phải được dẫn vào trạm xử lý
nước thải tập trung của KCN, để được xử lý đạt tiêu chuẩn quy định trước khi thải
vào nguồn tiếp nhận ra bên ngoài KCN. Nghiêm cấm và có biện pháp xử lý thích
đáng đối với mọi hành vi xử lý nước thải bằng biện pháp để thấm vào đất hoặc pha
loãng nước thải để thải ra ngoài KCN.
Đối với vấn đề xử lý chất thải rắn công nghiệp, phải đảm bảo vệ sinh và an
toàn tuyệt đối cho môi trường; nhất thiết phải quy hoạch địa điểm và các phương
tiện cần thiết sẵn sàng cho việc trung chuyển và lưu trữ hoặc lưu trữ tạm thời chất
thải rắn công nghiệp, chất thải nguy hại với những điều kiện đảm bảo tối ưu. Việc
thu gom, vận chuyển và xử lý đối với toàn bộ chất thải rắn thải ra từ các cơ sở
thành viên trong KCN phải đảm bảo an toàn về mặt môi trường cho KCN. Cần
nghiêm cấm và có biện pháp xử lý thích đáng đối với những hành vi chôn, lấp chất

thải rắn trên mặt bằng các đơn vị, DN hoạt động trong KCN hoặc thải ra ngoài
KCN không đúng quy định.
Thực hiện các điều kiện và biện pháp kiểm soát, xử lý cục bộ các chất gây
ô nhiễm không khí, gây tiếng ồn, rung do các đơn vị, DN trong KCN gây ra trong
quá trình hoạt động; đảm bảo đạt tiêu chuẩn theo quy định, không gây ảnh hưởng
đến sinh hoạt, nghỉ ngơi của nhân dân khu vực liền kề bên ngoài KCN.
Cần chú ý đến sự cố môi trường có thể xảy ra bất thường ở KCN. Để sẵn
sàng cho việc ứng cứu kịp thời các sự cố môi trường có thể xảy ra tại KCN, cần
thiết phải trang bị hệ thống ứng cứu sự cố môi trường cả về phương tiện lẫn nhân
sự cho toàn KCN.
Cần đảm bảo diện tích cần thiết cho việc thiết kế hệ thống cây xanh, thảm
cỏ tương ứng với không gian trong KCN, tạo sự hài hòa, gần gũi với môi trường
thiên nhiên. Xây dựng hệ thống cung cấp nước đảm bảo cho nhu cầu sinh hoạt và
sản xuất của toàn KCN trong mỗi giai đoạn phát triển; trường hợp có nhu cầu khai
thác nước ngầm hoặc nguồn nước tại chỗ trong KCN để phục vụ cho sản xuất và
sinh hoạt, cần lập phương án khai thác hợp lý, đảm bảo sự điều tiết của nguồn
nước ngầm và được ngành chức năng đồng ý.
Cần có một mạng lưới quan trắc hiệu quả đối với các KCN cần được các cơ
quan chức năng ở cấp địa phương và trung ương thống nhất tổ chức thực hiện,
khai thác và chia sẻ sử dụng kết quả quan trắc.
• Môt số công nghệ & phương pháp xử lý
 Xử lý nước thải bằng cây sậy (hệ thống Reedbed)
Nước thải được xử lý theo hai cấp. Đối với các doanh nghiệp phải tiến hành xử lý
phần nước thải của mình đạt cấp độ B sau đó mới thải ra hệ thống chung của toàn
KCN và được tập hợp về nhà máy xử lý đạt cấp độ A sau đó mới thải ra kênh tiêu
và ra sông.
Nguồn nước thải có ảnh hưởng rất lớn đối với môi trường xung quanh.Vì vậy
trước khi thải ra ngoài cần có giải pháp xử lý. Giải pháp mà các nước trên thế giới
cũng như Việt Nam ta thường áp dụng là các biện pháp kỹ thuật, đưa các trang
thiết bị vào quá trình xử lý nhằm giữ lại các chất ô nhiễm hoặc chuyển chúng từ

dạng độc sang dạng không độc rồi thải ra môi trường ngoài. Với giải pháp này đòi
hỏi chi phí đầu tư và vận hành lớn mà không phải doanh nghiệp nào cũng có thể
thực hiện được. Một giải pháp xử lý khác cũng không ngoài mục đích trên, đó là
hệ thống xử lý nước thải bằng cây sậy (sau đây gọi là hệ thống Reedbed).
Hệ thống Reedbed thường được sử dụng để xử lý các loại nước thải như: nước thải
sinh hoạt, nước thải công nghiệp (nước thải dệt nhuộm, công nghệ thực phẩm, nhà
máy thép, ), bùn hoạt tính, nước thải chăn nuôi lợn và nước rỉ từ bãi rác).
 Ưu điểm: với hệ thống này có được một số hiệu quả trong xử lý mà
đặc biệt chi phí thực hiện thì lại thấp hơn nhiều so với các dự án xử lý
thông thường. Hệ thống này còn có ưu điểm là chia được thành nhiều bậc
để xử lý và không sản sinh ra bùn, mùi hôi, tiếng ồn.
 Nhược điểm: yêu cầu cần có mặt bằng lớn nên rất khó áp dụng trong
các nhà máy có mặt bằng nhỏ

×