Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Đề tài nghiên cứu: Thương mại điện tử và cơ hội để phân phối sản phẩm bảo hiểm trực tuyến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (741.97 KB, 88 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
QUỐC DÂN
CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM
HÀNG KHÔNG
§Ò tµi NGHI£N CøU
Th¬ng m¹i ®iÖn tö vµ c¬ héi ®Ó ph©n phèi
s¶n phÈm b¶o hiÓm trùc tuyÕn
HÀ NỘI - 2012
2
MỤC LỤC
MỤC LỤC 3
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ 5
LỜI MỞ ĐẦU 7
CHƯƠNG I 8
THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ KÊNH PHÂN PHỐI 8
SẢN PHẨM BẢO HIỂM 8
CHƯƠNG II 34
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ 34
2.1 Sơ lược về thị trường bảo hiểm Việt Nam 35
Thực trạng các kênh phân phối bảo hiểm phi nhân thọ: 38
CHƯƠNG III 44
MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ PHÂN PHỐI SẢN PHẨM BẢO
HIỂM PHI NHÂN THỌ HIỆN NAY 44
3.1 Sự phát triển của internet tại Việt Nam 44
3.1.1 Khái niệm 44
3.2 Sự cần thiết phải phát triển kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm qua mạng
internet 46
3.3 Đánh giá tiềm năng phát triển kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm qua Internet. 50
3.3.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc phát triển kênh phân phối sản phẩm bảo
hiểm qua internet 50
3.3.2 Đánh giá tiềm năng phát triển kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm qua


mạng internet 55
3.4. Xu hướng phát triển của các kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm trên thế giới. 69
3.5. Các điều kiện để phát triển kênhphân phối trực tuyến 73
3.5.1 Các điều kiện từ phía doanh nghiệp bảo hiểm 73
3.4.2 Điều kiện khách quan bên ngoài doanh nghiệp bảo hiểm 76
3.6. Giải pháp phát triển kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm qua mạng Internet tại
Việt Nam 82
3.6.1. Đối với cơ quan quản lý Nhà nước 82
3.6.2 Đối với DNBH 83
3.6.3 Đối với khách hàng 87
4
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
MỤC LỤC 3
MỤC LỤC 3 3
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ 5 3
LỜI MỞ ĐẦU 7 3
CHƯƠNG I 8 3
THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ KÊNH PHÂN PHỐI 8 3
SẢN PHẨM BẢO HIỂM 8 3
CHƯƠNG II 34 3
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ 34 3
2.1 Sơ lược về thị trường bảo hiểm Việt Nam 35 3
CHƯƠNG III 44 3
MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ PHÂN PHỐI SẢN PHẨM BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ
HIỆN NAY 44 3
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ 5
LỜI MỞ ĐẦU 7
CHƯƠNG I 8
THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ KÊNH PHÂN PHỐI 8
SẢN PHẨM BẢO HIỂM 8

CHƯƠNG II 34
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ 34
2.1 Sơ lược về thị trường bảo hiểm Việt Nam 35
Thực trạng các kênh phân phối bảo hiểm phi nhân thọ: 38
CHƯƠNG III 44
MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ PHÂN PHỐI SẢN PHẨM BẢO
HIỂM PHI NHÂN THỌ HIỆN NAY 44
3.1 Sự phát triển của internet tại Việt Nam 44
3.1.1 Khái niệm 44
3.2 Sự cần thiết phải phát triển kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm qua mạng
internet 46
3.3 Đánh giá tiềm năng phát triển kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm qua Internet. 50
3.3.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc phát triển kênh phân phối sản phẩm bảo
hiểm qua internet 50
3.3.2 Đánh giá tiềm năng phát triển kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm qua
mạng internet 55
3.4. Xu hướng phát triển của các kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm trên thế giới. 69
3.5. Các điều kiện để phát triển kênhphân phối trực tuyến 73
3.5.1 Các điều kiện từ phía doanh nghiệp bảo hiểm 73
3.4.2 Điều kiện khách quan bên ngoài doanh nghiệp bảo hiểm 76
3.6. Giải pháp phát triển kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm qua mạng Internet tại
Việt Nam 82
3.6.1. Đối với cơ quan quản lý Nhà nước 82
3.6.2 Đối với DNBH 83
3.6.3 Đối với khách hàng 87
6
LỜI MỞ ĐẦU
Để có thể tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp bảo hiểm luôn cố gắng
tìm tòi, phát hiện và khai thác các nhu cầu tiềm ẩn của khách hàng, để đưa ra
những sản phẩm mới đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng.

Nhưng nếu sản phẩm đó không được thị trường (người tiêu dùng) chấp nhận
thì không những công dụng của sản phẩm không được thể hiện, mà mọi sự cải
tiến thay đổi đều trở nên vô nghĩa. Việc bán các sản phẩm là sự thể hiện khả
năng đáp ứng được các nhu cầu của khách hàng. Cũng tương tự các ngành sản
xuất dịch vụ khác, muốn sản phẩm của mình được bán rộng rãi, được tiêu thụ
nhiều thì đòi hỏi phải có một mạng lưới phân phối bán hàng rộng lớn và vững
vàng đủ năng lực, kinh nghiệm để chào bán các sản phẩm bảo hiểm đến tận
tay người tiêu dùng. Các kênh phân phối trở thành một phần không thể thiếu
trong mọi hoạt động thương mại. Trong xu thế phát triển như hiện nay, nhất là
lĩnh vực công nghệ thông tin thì việc lựa chọn kênh phân phối sản phẩm bảo
hiểm trực tuyến mang lại tính tiện dụng cao cho khách hàng, đáp ứng mọi nhu
cầu cũng như mong muốn của khách hàng là một vấn đề hoàn toàn cấp thiết.
Từ lý do trên việc nghiên cứu đề tài “Thương mại điện tử và cơ hội để
phân phối sản phẩm bảo hiểm trực tuyến” là rất có ý nghĩa.
Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu một số vấn đề về thương mại điện tử và khung pháp lý cho
hoạt động thương mại điện tử.
- Phân tích cơ sở hạ tầng của một đơn vị kinh doanh theo hình thức
thương mại điện tử.
- Đưa ra giải pháp về mô hình thương mại điện tử để phân phối sản
phẩm bảo hiểm phi nhân thọ hiện nay.
7
CHƯƠNG I
THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ KÊNH PHÂN PHỐI
SẢN PHẨM BẢO HIỂM
1.1. Thương mại điện tử
1.1.1. Khái quát về thương mại điện tử
Thương mại điện tử, hay còn gọi là e-commerce, e-comm và EC, là sự
mua bán sản phẩm hay dịch vụ trên các hệ thống điện tử như Internet và các
mạng máy tính. Thương mại điện tử dựa trên một số công nghệ như chuyển

tiền điện tử, quản lý chuỗi dây chuyền cung ứng, tiếp thị Internet, quá trình
giao dịch trực tuyến, trao đổi dữ liệu điện tử (EDI), các hệ thống quản lý hàng
tồn kho, và các hệ thống tự động thu thập dữ liệu. Thương mại điện tử hiện
đại thường sử dụng mạng World Wide Web là một điểm ít nhất phải có trong
chu trình giao dịch, mặc dù nó có thể bao gồm một phạm vi lớn hơn về mặt
công nghệ như email, các thiết bị di động cũng như điện thoại.
Thương mại điện tử thông thường được xem ở các khía cạnh của kinh
doanh điện tử (e-business). Nó cũng bao gồm việc trao đổi dữ liệu tạo điều
kiện thuận lợi cho các nguồn tài chính và các khía cạnh thanh toán của việc
giao dịch kinh doanh.
E-commerce có thể được phân chia thành:
• E-tailing (bán lẻ trực tuyến) hoặc "cửa hàng ảo" trên trang web với các
danh mục trực tuyến, đôi khi được gom thành các "trung tâm mua sắm ảo".
• Việc thu thập và sử dụng dữ liệu cá nhân thông qua các địa chỉ liên lạc web
• Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI), trao đổi dữ liệu giữa Doanh nghiệp với
Doanh nghiệp
• Email và fax và các sử dụng chúng như là phương tiện cho việc tiếp
cận và thiếp lập mối quan hệ với khách hàng (ví dụ như bản tin - newsletters)
8
• Việc mua và bán giữa Doanh nghiệp với Doanh nghiệp
• Bảo mật các giao dịch kinh doanh
Sự hình thành thương mại điện tử
Về nguồn gốc, thương mại điện tử được xem như là điều kiện thuận lợi
của các giao dịch thương mại điện tử, sử dụng công nghệ như EDI và EFT.
Cả hai công nghệ này đều được giới thiệu thập niên 70, cho phép các doanh
nghiệp gửi các hợp đồng điện tử như đơn đặt hàng hay hóa đơn điện tử. Sự
phát triển và chấp nhận của thẻ tín dụng, máy rút tiền tự động (ATM) và ngân
hàng điện thoại vào thập niên 80 cũng đã hình thành nên thương mại điện tử.
Một dạng thương mại điện tử khác là hệ thống đặt vé máy bay bởi Sabre ở
Mỹ và Travicom ở Anh.

Vào thập niên 90, thương mại điện tử bao gồm các hệ thống hoạch định
tài nguyên doanh nghiệp (ERP), khai thác dữ liệu và kho dữ liệu.
Năm 1990, Tim Berners-Lee phát minh ra WorldWideWeb trình duyệt
web và chuyển mạng thông tin liên lạc giáo dục thành mạng toàn cầu được
gọi là Internet (www). Các công ty thương mại trên Internet bị cấm bởi NSF
cho đến năm 1995. Mặc dù Internet trở nên phổ biến khắp thế giới vào
khoảng năm 1994 với sự đề nghị của trình duyệt web Mosaic, nhưng phải mất
tới 5 năm để giới thiệu các giao thức bảo mật (mã hóa SSL trên trình duyệt
Netscape vào cuối năm 1994) và DSL cho phép kết nối Internet liên tục. Vào
cuối năm 2000, nhiều công ty kinh doanh ở Mỹ và Châu Âu đã thiết lập các
dịch vụ thông qua World Wide Web. Từ đó con người bắt đầu có mối liên hệ
với từ "ecommerce" với quyền trao đổi các loại hàng hóa khác nhau thông
qua Internet dùng các giao thức bảo mật và dịch vụ thanh toán điện tử.
9
Mốc thời gian
Trụ sở công ty Ebay ở San Jose, một công ty kinh doanh chuyên về lĩnh
vực thương mại điện tử với cổng thanh toán Paypal nổi tiếng.
Các mốc thời gian về sự phát triển của thương mại điện tử như sau:
• 1979: Michael Aldrich phát minh mua sắm trực tuyến.
• 1982: Minitel được giới thiệu tại Pháp thông qua France Telecom và sử
dụng để đặt hàng trực tuyến.
• 1984: Gateshead SIS/Tescolà trang mua bán trực tuyến dạng B2C đầu
tiên và bà Snowball, 72 tuổi, là khách hàng mua hàng trực tuyến đầu tiên.
• 1984: Tháng 4 năm 1984, CompuServe ra mắt Trung tâm Mua sắm Điện
tử ở Mỹ và Canada. Đây là dịch vụ thương mại điện tử đầu tiên toàn diện.
• 1990: Tim Berners-Lee xây dựng trình duyệt đầu tiên, WorldWideWeb,
sử máy máy NeXT.
• 1992: Terry Brownell ra mắt hệ thống bảng Bulletin cửa hàng trực
tuyến dùng RoboBOARD/FX.
• 1994: Netscape tung trình duyệt Navigator vào tháng 10 với tên là

Mozilla. Pizza Hut đặt hàng trên trang web này. Ngân hàng trực tuyến đầu
tiên được mở. Một số nỗ lực nhằm cung cấp giao hoa tươi và đăng ký tạp chí
trực tuyến. Các dụng cụ "người lớn" cũng có sẵn như xe hơi và xe đạp.
Netscape 1.0 được giới thiệu vào cuối năm 1994, giao thức mã hóa SSL làm
cho các giao dịch bảo mật hơn.
10
• 1995: Thứ năm, ngày 27 tháng 4 năm 1995, việc mua sách của ông
Paul Stanfield, Giám đốc sản xuất của công ty CompuServe tại Anh, từ cửa
hàng W H Smith trong trung tâm mua sắm CompuServe là dịch vụ mua hàng
trực tuyến đầu tiên ở Anh mang tính bảo mật. Dịch vu mua sắm trực tuyến bắt
đầu từ WH Smith, Tesco, Virgin/Our Price, Great Universal Stores/GUS,
Interflora, Dixons Retail, Past Times, PC World (retailer) và Innovations.
• 1995: Jeff Bezos ra mắt Amazon.com và thương mại miễn phí 24h, đài
phát thanh trên Internet, Radio HK và chương trình phát sóng ngôi sao
NetRadio. Dell và Cisco bắt đầu tích cực sử dụng Internet cho các giao dịch
thương mại. eBay được thành lập bởi máy tính lập trình viên Pierre Omidyar
như là dạng AuctionWeb .
• 1998: Tem điện tử được mua bán và tải trực tuyến từ Web.
• 1998: Alibaba Group được hình thành ở Trung Quốc.
• 1999: Business.com bán khoảng 7.5 triệu USD cho eCompanies, được
mua vào năm 1997 với giá 149,000 USD. Phần mềm chia sẻ tập tin ngang hàng
Napster ra mắt. ATG Stores ra mắt các sản phẩm trang trí tại nhà trực tuyến.
• 2000: bùng nổ dot-com.
• 2001: Alibaba.com đạt lợi nhuận trong tháng 12 năm 2001.
• 2002: eBay mua lại PayPal với 1.5 tỉ USD.
• 2003: Amazon.com đăng tải bài viết lợi nhuận hàng năm.
• 2004: DHgate.com, công ty B2C giao dịch trực tuyến đầu tiên ở Trung
Quốc được thành lập, buộc các trang web khác B2B bỏ mô hình "trang vàng".
• 2005: Yuval Tal sáng lập giải pháp phân phối thanh toán trực tuyến bảo mật.
• 2007: Business.com mua lại bởi R.H. Donnelley với 345 triệu USD.

• 2009: Zappos.com mua lại bởi Amazon.com với 928 triệu USD.
[11]
• 2010: Groupon ra báo cáo từ chối một lời đề nghị mua lại trị giá 6 tỷ
USD từ Google. Thay vào đó, Groupon có kế hoạch đi trước với IPO vào giữa
năm 2011.
11
• 2011: Quidsi.com, công ty cha của Diapers.com, được mua lại bởi
Amazon.com với 500 triệu USD tiền mặt cộng với 45 triệu nợ và các nghĩa vụ
khác. />%87n_t%E1%BB%AD - cite_note-13 GSI Commerce, công ty chuyên tạo ra, phát triển
và thực thi trang web mua sắm trực tuyến cho dịch vụ gạch và vữa trong kinh
doanh, được mua lại bởi eBay với 2.4 tỉ USD.
• 2012: Thương mại điện tử và Doanh số bán lẻ trực tuyến của Mỹ dự
kiến đạt 226 tỷ USD, tăng 12%so với năm 2011.
Khái niệm thương mại điện tử
Mua hàng trực tuyến thông qua phương tiện điện tử là điện thoại thông
minh loại SONY ERRICSON SO-02C tại Nhật.
Khi nói về khái niệm thương mại điện tử (E-Commerce), nhiều người
nhầm lẫn với khái niệm của Kinh doanh điện tử (E-Business). Tuy nhiên,
thương mại điện tử đôi khi được xem là tập con của kinh doanh điện tử.
Thương mại điện tử chú trọng đến việc mua bán trực tuyến (tập trung bên
ngoài), trong khi đó kinh doanh điện tử là việc sử dụng Internet và các công
nghệ trực tuyến tạo ra quá trình hoạt động kinh doanh hiệu quả dù có hay
12
không có lợi nhuận, vì vậy tăng lợi ích với khách hàng (tập trung bên trong).
Một số khái niệm thương mại điện tử được định nghĩa bởi các tổ chức
uy tín thế giới như sau:
• Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), "Thương mại điện tử bao
gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua
bán và thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu
hình, cả các sản phẩm giao nhận cũng như những thông tin số hoá thông qua

mạng Internet".
• Theo Ủy ban Thương mại điện tử của Tổ chức Hợp tác kinh tế châu Á -
Thái Bình Dương (APEC) định nghĩa: "Thương mại điện tử liên quan đến các
giao dịch thương mại trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các nhóm (cá nhân)
mang tính điện tử chủ yếu thông qua các hệ thống có nền tảng dựa trên
Internet." Các kỹ thuật thông tin liên lạc có thể là email, EDI, Internet và
Extranet có thể được dùng để hỗ trợ thương mại điện tử.
• Theo Ủy ban châu Âu: "Thương mại điện tử có thể định nghĩa chung là
sự mua bán, trao đổi hàng hóa hay dịch vụ giữa các doanh nghiệp, gia đình,
cá nhân, tổ chức tư nhân bằng các giao dịch điện tử thông qua mạng Internet
hay các mạng máy tính trung gian (thông tin liên lạc trực tuyến). Thật ngữ
bao gồm việc đặt hàng và dịch thông qua mạng máy tính, nhưng thanh toán
và quá trình vận chuyển hàng hay dịch vụ cuối cùng có thể thực hiện trực
tuyến hoặc bằng phương pháp thủ công."
Tóm lại, thương mại điện tử chỉ xảy ra trong môi trường kinh doanh
mạng Internet và các phương tiện điện tử giữa các nhóm (cá nhân) với nhau
thông qua các công cụ, kỹ thuật và công nghệ điện tử. Ngoài ra, theo nghiên
cứu tại đại học Texas, các học giả cho rằng thương mại điện tử và kinh doanh
điện tử đều bị bao hàm bởi Nền kinh tế Internet (Internet economy)
1.1.2. Các loại hình thương mại điện tử
13
Dựa vào chủ thể của thương mại điện tử, có thể phân chia thương mại
điện tử ra các loại hình phổ biến như sau:
- Giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp - B2B (business to business);
- Giao dịch giữa doanh nghiệp với khách hàng - B2C (business to consumer);
- Giao dịch giữa doanh nghiệp với cơ quan nhà nước - B2G (business to
government);
- Giao dịch trực tiếp giữa các cá nhân với nhau - C2C (consumer to
consumer);
- Giao dịch giữa cơ quan nhà nước với cá nhân - G2C (government to

consumer).
B2B là loại hình giao dịch qua các phương tiện điện tử giữa doanh
nghiệp với doanh nghiệp. Theo Tổ chức Liên hợp quốc về Hợp tác và Phát
triển kinh tế (UNCTAD), TMĐT B2B chiếm tỷ trọng lớn trong TMĐT
(khoảng 90%). Các giao dịch B2B chủ yếu được thực hiện trên các hệ thống
ứng dụng TMĐT như mạng giá trị gia tăng (VAN); dây chuyền cung ứng
hàng hoá, dịch vụ (SCM), các sàn giao dịch TMĐT… Các doanh nghiệp có
thể chào hàng, tìm kiếm bạn hàng, đặt hàng, ký kết hợp đồng, thanh toán qua
các hệ thống này. Ở một mức độ cao, các giao dịch này có thể diễn ra một
cách tự động. TMĐT B2B đem lại nhiều lợi ích thực tế cho doanh nghiệp, đặc
biệt giúp giảm các chi phí về thu thập thông tin tìm hiểu thị trường, quảng
cáo, tiếp thị, đàm phán, tăng các cơ hội kinh doanh,…
B2C là loại hình giao dịch giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng qua các
phương tiện điện tử. Doanh nghiệp sử dụng các phương tiện điện tử để bán
hàng hóa, dịch vụ tới người tiêu dùng. Người tiêu dùng thông qua các phương
tiện điện tử để lựa chọn, mặc cả, đặt hàng, thanh toán, nhận hàng. Giao dịch
B2C tuy chiếm tỷ trọng ít (khoảng 10%) trong TMĐT nhưng có sự phạm vi
ảnh hưởng rộng. Để tham gia hình thức kinh doanh này, thông thường doanh
nghiệp sẽ thiết lập website, hình thành cơ sở dữ liệu về hàng hoá, dịch vụ; tiến
14
hành các quy trình tiếp thị, quảng cáo, phân phối trực tiếp tới người tiêu dùng.
TMĐT B2C đem lại lợi ích cho cả doanh nghiệp lẫn người tiêu dùng. Doanh
nghiệp tiết kiệm nhiều chi phí bán hàng do không cần phòng trưng bày hay
thuê người giới thiệu bán hàng, chi phí quản lý cũng giảm hơn. Người tiêu
dùng sẽ cảm thấy thuận tiện vì không phải tới tận cửa hàng, có khả năng lựa
chọn và so sánh nhiều mặt hàng cùng một lúc.
B2G là loại hình giao dịch giữa doanh nghiệp với cơ quan nhà nước,
trong đó cơ quan nhà nước đóng vai trò khách hàng. Quá trình trao đổi thông
tin giữa doanh nghiệp với cơ quan nhà nước được tiến hành qua các phương
tiện điện tử. Cơ quan nhà nước cũng có thể thiết lập những website tại đó

đăng tải thông tin về nhu cầu mua hàng của các cơ quan nhà nước, tiến hành
việc đấu thầu hàng hoá, dịch vụ và lựa chọn nhà cung cấp trên website. Điều
này một mặt giúp tiết kiệm các chi phí tìm nhà cung cấp, đồng thời giúp tăng
cường tính minh bạch trong hoạt động mua sắm công.
C2C là loại hình giao dịch giữa các cá nhân với nhau. Sự phát triển của
các phương tiện điện tử làm cho nhiều cá nhân có thể tham gia hoạt động
thương mại với tư cách là người bán, người cung cấp dịch vụ. Một cá nhân có
thể tự thiết lập website để kinh doanh những mặt hàng do mình làm ra hoặc
sử dụng một website có sẵn để đấu giá một số món hàng mình có. C2C góp
phần tạo nên sự đa dạng của thị trường.
G2C là loại hình giao dịch giữa cơ quan nhà nước với cá nhân. Đây chủ
yếu là các giao dịch mang tính hành chính, nhưng có thể mang những yếu tố
của TMĐT. Ví dụ khi người dân đóng tiền thuế qua mạng, trả phí khi đăng ký
hồ sơ trực tuyến, v.v
1.1.3. Khung pháp lý cho thương mại điện tử
Năm 2006 là năm đầu tiên triển khai Kế hoạch tổng thể phát triển
thương mại điện tử giai đoạn 2006-2010 theo Quyết định của Thủ tướng
Chính phủ. Năm 2006 cũng là năm mà khung pháp lý cho thương mại điện tử
bắt đầu đi vào cuộc sống: Luật Giao dịch điện tử, Luật Thương mại (sửa
15
đổi), Bộ luật Dân sự (sửa đổi) được Quốc hội thông qua năm 2005 và có hiệu
lực từ đầu năm 2006.
Nhiều sự kiện thương mại điện tử đã diễn ra trong 6 tháng đầu năm nay,
điển hình là việc Chính phủ ban hành Nghị định thương mại điện tử ngày
9/6/2006 hướng dẫn thi hành Luật Giao dịch điện tử và Luật Thương mại.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử ở mọi hình thức giao
dịch, các vấn đề an ninh, tội phạm liên quan đến thương mại điện tử có dấu
hiệu gia tăng.
Nghị định về Thương mại điện tử đánh dấu một bước tiến lớn trong việc
tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý để các doanh nghiệp yên tâm tiến hành giao

dịch thương mại điện tử, khuyến khích thương mại điện tử phát triển, bảo vệ
quyền và lợi ích của các bên tham gia, đồng thời cũng là căn cứ pháp lý để xét
xử khi có tranh chấp liên quan đến hoạt động thương mại điện tử.
Một số vấn đề mới phát sinh liên quan đến thương mại điện tử như mua
bán tài sản ảo, tranh chấp về tên miền cho thấy các cơ quan quản lý nhà nước
đã tích cực xử lý những vấn đề đặt ra. Bộ Thương mại đang tích cực nghiên
cứu để tiến tới ban hành quy định pháp lý về hoạt động thương mại liên quan
đến tài sản ảo.
Trong 6 tháng qua, công nghiệp nội dung số đã có nhiều phát triển mạnh
mẽ. Khái niệm "công nghiệp nội dung số" tuy còn khá mới mẻ ở Việt Nam,
nhưng các hoạt động trong lĩnh vực này đã được triển khai rộng khắp, trong
đó có nội dung cho thiết bị di động, đào tạo trực tuyến, báo điện tử, cơ sở dữ
liệu trực tuyến, trò chơi trực tuyến, trò chơi tương tác qua truyền hình, bình
chọn kết quả thể thao, xem phim, nghe nhạc trực tuyến, Sự phát triển nhanh
của công nghiệp nội dung số là mảnh đất thuận lợi cho các hoạt động thương
mại điện tử liên quan.
Vấn đề an ninh, tội phạm liên quan đến thương mại điện tử cũng là một
vấn đề đáng chú ý trong thời gian qua. Sự phát triển của công nghệ cũng kéo
16
theo nhiều hành động lợi dụng công nghệ để phạm tội, điển hình là vụ tấn
công website thương mại điện tử. Bên cạnh đó, tình trạng đột nhập tài khoản,
trộm thông tin thẻ thanh toán cũng đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến các hoạt
động thương mại điện tử lành mạnh.
Như vậy, trong 6 tháng đầu năm 2006, các hoạt động thương mại điện tử
đã có bước tiến đều khắp trên tất cả mọi khía cạnh từ luật pháp, chính sách
cho đến hoạt động của doanh nghiệp.
Ngày 1/3/2006, Luật Giao dịch điện tử Việt Nam chính thức có hiệu lực.
Đến cuối năm 2007, bốn trong số năm nghị định hướng dẫn Luật Giao dịch
điện tử đã được ban hành, về cơ bản hoàn thành khung pháp lý cho việc triển
khai ứng dụng giao dịch điện tử trong các lĩnh vực lớn của đời sống xã hội.

Ngày 9/6/2006, Chính phủ ban hành Nghị định về Thương mại điện tử
với việc thừa nhận chứng từ điện tử có giá trị pháp lý tương đương chứng từ
truyền thống trong mọi hoạt động thương mại từ chào hàng, chấp nhận chào
hàng, giao kết hợp đồng cho đến thực hiện hợp đồng.
Ngày 15/2/2007, Nghị định số 26/2007/NĐ-CP quy định chi tiết về Chữ
ký số và Dịch vụ chứng thực chữ ký số được ban hành. Nghị định này quy
định về chữ ký số và các nội dung cần thiết liên quan đến sử dụng chữ ký số,
bao gồm chứng thư số và việc quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ chứng
thực chữ ký số. Đây là những quy định nền tảng để thiết lập một cơ chế đảm
bảo an ninh an toàn cũng như độ tin cậy của các giao dịch điện tử, là điều kiện
tiên quyết về mặt kỹ thuật để thúc đẩy ứng dụng thương mại điện tử rộng rãi
trong xã hội.
Ngày 23/2/2007,Chính phủ ban hành Nghị định số 27/2007/NĐ-CP quy
định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính. Nghị
định này ra đời nhằm đảm bảo các điều kiện cần thiết để hình thành và phát
triển một môi trường giao dịch điện tử an toàn, hiệu quả; giúp Chính phủ
quản lý được giao dịch điện tử trong hoạt động nghiệp vụ tài chính, giảm
17
thiểu hậu quả xấu phát sinh trong giao dịch điện tử như trốn thuế, gian lận khi
lập hóa đơn chứng từ.
Ngày 8/3/2007, Nghị định số 35/2007/NĐ-CP về Giao dịch điện tử trong
hoạt động ngân hàng được ban hành tập trung hướng dẫn việc áp dụng Luật
Giao dịch điện tử cho các hoạt động ngân hàng cụ thể, bảo đảm những điều
kiện cần thiết về môi trường pháp lý để củng cố, phát triển các giao dịch điện
tử an toàn và hiệu quả đối với hệ thống ngân hàng.
1.2. Thị trường hàng không và xu hướng thương mại điện tử
1.2.3. Thị trường hàng không
Năm 2010, tổng số hành khách của toàn thị trường hàng không Việt
Nam được ghi nhận là 21 triệu, tăng 20% so với năm 2009, trong số này,
khách quốc tế được ghi nhận là 10,7 triệu lượt người, tăng trên 20% so với

năm 2009. Ba hãng hàng không đang hoạt động là VNA, Jetstar Pacific và
Mekong Air, cùng những hãng hàng không khác đang có kế hoạch cất cánh
trong thời gian tới.
Hàng không Việt Nam đã báo cáo vận chuyển 13,3 triệu lượt hành khách
và 166.300 tấn hàng trong năm 2010, tăng 33,7% và 43,9% so với năm 2009.
VNA đang khai thác 44 đường bay quốc tế với 26 điểm đến trên 15 quốc gia,
bằng đội bay 70 chiếc của hãng.
Dự kiến dến năm 2014, Việt Nam sẽ là thị trường phát triển nhanh thứ
ba trên thế giới về số lượng hành khách & hàng hoá quốc tế và đứng thứ nhì
về số hành khách nội địa sau Trung Quốc. Tỷ lệ tăng trưởng thi tốc độ tăng
trưởng hàng năm của thị trường hàng không Việt Nam sẽ đạt hơn 10%. VNA
dự tính khai thác 163 máy bay bao gồm các nhãn hiệu chính là B787, A350,
mở rộng mạng lưới trên thành 120 đường bay với 65 điểm đến trên khắp thế
giới. Số lượng hành khách hàng năm dự kiến sẽ là 35 triệu, chiếm khoảng
45% thị trường Việt Nam, và doanh thu dự kiến đạt 7 tỉ USD mỗi năm.
1.2.4. Xu hướng thương mại điện tử toàn cầu và Việt Nam
18
Trong xu thế phát triển của công nghệ thông tin trên thế giới, 40% người
Mỹ đặt chỗ trực tuyến khi đi du lịch.
Tương tự ở Châu Âu có khoảng 30% và Châu Á – Thái Bình Dương có
20% va giảm đí một số quốc gia trong khu vực này.
Đặt chỗ trực tuyến ở các quốc gia trong khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương sẽ tăng từ 30% - 40% trong vài năm tới trong khi đó Mỹ và các thị
trường lớn tỷ lệ tăng trưởng chỉ khoảng 5%. ( Nguồn Phocuc Wright)
Các nghiên cứu từ “Google Ad Planner” cho thấy, có 24 triệu người Việt
Nam đang sử dụng internet và giới kinh doanh cần đảm bảo chuẩn bị sẵn sàng
năng lực đáp ứng để thành công trong lĩnh vực này.
Mua bảo hiểm trực tuyến cùng với vé điện tử.
Dựa vào dữ liệu của Abacus, số lượng khách hàng đặt chỗ đến cuối năm
2010 ở mức cao kỷ lục. Số lượng tăng là 11% hàng năm kể từ năm 2009.

Điều này trùng hợp với lượng khách quốc tế đến Châu Á tăng 13%.
Với 62 dân số thế giới (4tỉ) và 27% GDP của thế giới, năm 2010 đạt
được 2,3 tỉ lượt hành khách, 43 triệu tấn hàng hoá, tổng doanh thu là 545 tỉ
US$ và lãi 7,7 tỉ US$, lớn nhất trên toàn thế giới.
Châu Á cũng đã ghi nhận có 43% của người sử dụng mạng trực tuyến,
3,1 dịch vụ thuê bao di động, 56% của thuê bao 3G trên thế giới và hơn 450
triệu người sử dụng internet trên điện thoại di động.
Từ sự phát triển nhanh chóng trong sử dụng dịch vụ trực tuyến, dịch vụ phụ
trợ, đặt chỗ từ xa và sự hồi phục nhu cầu đi lại phục vụ kinh doanh, Châu Á đã
sẵn sàng tiếp nối sự phát triển mạnh mẽ của 2010 để tiếp tục trong năm 2011.
“CƠ HỘI: mô hình hàng không giá rẻ của AirAsia gặt hái thành quả tài
chính
Trích dẫn từ báo “The Melbourne Age newsaper”, ngày 10/03/2011, tác
giả Clive Dorman
19
Tony Fernandes, người sáng lập Air Asia, thừa nhận “ông thật sự không
là người của hàng không”. Trong ngành hàng không, tỷ lệ lợi nhuận là rất
nhỏ, nhưng tháng trước Fernandes gây ấn tượng mạnh khi ông cho thấy một
hãng hàng không có thể kiếm được tiền ( thông qua việc nâng thu nhập phụ).
Những con số ngoạn mục: 500 triệu US$ lợi nhuận ròng trên 18,83 tỉ
US$ doanh thu trong năm 2010; trong khi năm 2009 2010 tập đoàn Qantas,
bao gồm cả Jetstar, chỉ đật được 112 triệu US$ trên 13.8 tỷ US$ doanh thu.
Nhưng đây chẳng phải là một bí quyết kỳ diệu nào cả. Khoảng 2/3 lợi
nhuận của hãng Air Asia đều từ “thu nhập phụ” - doanh thu gia tăng chủ yếu
từ “hàng hoá dịch vụ không chi phí”. Biệt ngữ kỹ thuật này nhằm chỉ dịch vụ
không tốn hay tốn rất ít chi phí sản xuất.
“ Hãy nhớ rằng, chúng tôi thêm những thứ như bảo hiểm. Vì thế chúng
tôi nói, nếu bạn đi du lịch, thì đây tất cả những thứ mà bạn có thể chi trả -
hàng miễn thuế, khách sạn, thức ăn, bảo hiểm…v…v… và chúg tôi nhấn
mạnh rằng, thay vì mua từ một ai khác, hãy mua tất cả từ chúng tôi”.

Theo cuộc khảo sát mới, các khách hàng truy cập Website du lịch trực
tuyến từ Châu Á trẻ hơn các khách hàng từ Châu Âu và Bắc Mỹ. Số lượng
khách hàng trực tuyến từ khu vực Châu Á Thai Bình Dương chỉ chiếm 26%
trong naă 2010, so với 27% từ Bắc Mỹ và 36% từ Chấu Âu, trong đó hơn một
nửa là du khách châu Á ở độ tuổi dưới 34. So sánh với việc châu Á thị trường
thống lĩnh về loại hình du lịch trực tuyến.
Điều này chỉ là một trong những phát hiện từ một nghiên cứu thực Hiệp
hội du lịch Châu Á Thái Bình Dương (PATA) và Comscore Inc - một thông
tin tiếp thị kỹ thuật số. Nghiên cứu này cũng cho thấy rằng, mặc dù du khách
đến từ châu Âu và Bắc Mỹ chiếm tỷ lệ cao nhất trong số khách hàng trực
tuyến của các hãng hàng không, tuy nhiên hai phần ba trong những thị trường
phát triển nhanh nhất ở châu Á; dẫn đầu là Trung Quốc: tăng 6,8 triệu lượt
(+147%) xem trang điện tử (+86%), Hồng Kông (+66%), Indonesia (+55%)
20
và Ấn Độ (+52%).
Trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương, các hãng hàng không giá rẻ
(LCCs) đã thông báo tỷ lệ tăng trưởng đáng kể trong năm qua. AirAsia thêm
1,2 triệu lượt (+15%) truy cập trang điện tử của mình, tiếp đó, Tiger Aiways
tăng gấp ba lần lưu lượng truy cập trực tuyến của mình để đạt 1,8 triệu lượt
(+226), Firefly Malaysia và IndiGo Ấn Độ thông báo mức tăng trưởng tương
ứng là 89% và 70%.
Các hãng hàng không có triển khai mô hình vé bảo hiểm du lịch trực tuyến
a)Thị trường Việt Nam
Hãng hàng
không
Áp dụng mô hình trực tuyến Phạm vi hoạt động
Jetstar Pacific Có Quốc tế và quốc nội
b) Thị trường khu vực và quốc tế
Hãng hàng không Áp dụng môn hình trực tuyến Phạm vi hoạt động
Qantas Có Quốc tế và quốc nội

Air NZ Có Quốc tế và quốc nội
Malaysian
Airlines
Có Quốc tế và quốc nội
Cathay Paccific Có Quốc tế
Air india Có Quốc nội
Air Asia (3 nước) Có Quốc tế và quốc nội
Bangkok Airways Có Quốc tế và quốc nội
Jetstar Có Quốc tế và quốc nội
Lion Air Có Quốc tế và quốc nội
Vigin Có Quốc tế và quốc nội
Mandala Airlines Có Quốc tế và quốc nội
Nok Air Có Quốc nội
Theo nghiên cứu của Hiệp hội vận chuyển hàng không quốc tế ( IATA),
theo đó:
21
Các hãng hàng không giá rẻ: Tỷ lệ khách hàng mua bảo hiểm du lịch
trực tuyến trong khoảng 35% - 45%
Những hãng hàng không truyền thống: Tỷ lệ khách hàng mua bảo hiểm
du lịch trực tuyến trong khoảng 25% - 40%
VNI là một công ty thành viên thuộc VNA có đội ngũ cán bộ có kinh
nghiệm và khả năng trong việc phối hợp, xây dựng các chương trình bảo hiểm
và quản lý rủi ro cho VNA, và khách hàng của VNA. Chương trình bảo hiểm
du lịch này là một phần trong một kế hoạch tổng thể quan hệ hợp tác chiến
lược của VNA và VNI, tạo thêm những giá trị gia tăng cho các hoạt động liên
quan đến sản phẩm, dịch vụ bảo hiểm, quản lý rủi ro cũng như nâng cao uy
tín của VNA.
Để đảm bảo thành công, VNI đã tác hợp với các đối tác có năng lực và
kinh nghiệm hàng đầu trên thế giới. Đây là sự kết hợp giữa kinh nghiệm thị
trường nội địa cùng với các chuẩn mực quốc tế và khả năng áp dụng công

nghệ thông tin ở trình độ cao. Điều này sẽ tạo ra bước đột phá trong thị
trường bảo hiểm Việt Nam, góp phần nâng cao hình ảnh thương hiệu của các
bên, mang lại lợi ích kinh tế và giá trị gia tăng cho khách hàng.
Dịch vụ bán hàng và sau bán hàng và sau bán hàng là một yếu tố quan
trọng, đặc biệt là sản phẩm du lịch cung cấp cho khách hàng của VNA trên
phạm vi quốc tế, tại nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ. Dịch vụ hỗ trợ y tế khẩn
cấp được tích hợp, giúp cho việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng trên phạm
vi toàn cầu.
Đây cũng chính là cam kết của chúng tôi, là khả năng thực hiện các cam
kết đó, và cũng là lý do VNA lựa chọn VNI là đối tác cho dự án này.
Trên cơ sở những kinh nghiệm và nghiên cứu chi tiết, VNI tin rằng dự án
này mang lại nhiều giá trị to lớn như sau:
22
Tối đa hoá doanh thu
Với những giải pháp toàn diện, giúp VNA có thể mang lại cho khách
hàng mua vé máy bay những sản phẩm du lịch chất lượng cao với chi phí
cạnh tranh - điều này mang lại nguồn doanh thu cho VNA đồng thời mang lại
các giá trị gia tăng cho khách hàng cảu VNA.
Các sản phẩm bảo hiểm du lịch và diện thương hiệu
VNI sẽ cung cấp các sản phẩm bảo hiểm du lịch được thiết kế chuyên
biệt dành cho khách hàng của VNA nhằm đáp ứng cái yêu cầu của khách
hàng. Các sản phẩm bảo hiểm đáp ứng các quyền lợi bảo hiểm của khách
hàng với chi phí hợp lý nhất. Bằng các giải pháp trực tuyến, chúng tôi tạo ra
cách thức thuận tiện nhất cho khách hàng để có được thêm phương thức bảo
vệ rủi ro khi bay trên các chuyến bay của VNA.
Tạo ra các chiến dịch vụ tiếp thị và nhận diện thương hiệu
Trong quá trình triển khai, chúng tôi sẽ phối hợp với VNA cùng thiết kế
chương trình tiếp thị nhằm nâng cao và quảng bá hình ảnh của dịch vụ và sản
phẩm, đồng thời xây dựng thương hiệu của việc liên kết của các nhà cung cấp
dịch vụ.

Các cơ hội khác
Khi việc triển khai dịch vụ phát triển, chúng tôi phối hợp nghiên cứu và
đề xuất khả năng gia tăng dịch vụ bằng các chương trình bổ sung mà trong
bản giới thiệu này đã đề cập tới, đó là:
Chương trình tiếp thị đối với những khách hàng tiềm năng chưa mua bảo
hiểm thông qua hình thức tiếp cận bằng Email
Chương trình bảo hiểm hàng năm cho khách hàng thường xuyên của
VNA ( khách thẻ vàng, bạch kim).
Các kênh bán hàng trực tuyến khác của chúng tôi sẽ hỗ trợ cho việc tiếp
cận khách hàng nhiều chiều.
23
Sản phẩm và dịch vụ
- Vé một chiều
Bảo hiểm cho các dạng bay một chiều từ Việt Nam.
VNI đề xuất
Quyền lợi bảo
hiểm
Giới hạn
trách
nhiệm
(VND)
Giới hạn
trách
nhiệm
(US$)
Phí bảo
hiểm
VND US$
Huỷ chuyến đi Chi phí thực
tế

Chi phí thực
tế
Quốc nội 68,250 3.50
Hoãn chuyến đi 292,500 mỗi
4 giờ lên
đến
1.500.000
15 mỗi 4
giờ lên đến
75
Quốc tế 87,750 4.50
Mất thiệt hại
hành lý ký gửi
7,800,000 40,000
Hành lý đến
chậm
78,000 mỗi
8 giờ lên
đến
3.120.000
40 mỗi 8 giờ
lên đến 160
Lõ lối chuyến 2,925,000
nếu trên 6
giờ
150 nếu trên
6 giờ
Bảo hiểm trong
trường hợp bị
khủng bố

Bao gồm Bao gồm
24
Jetstar Pacific
Quyền lợi bảo
hiểm
Giới hạn
trách nhiệm
(VND)
Giới hạn
trách nhiệm
(US$)
Phí bảo
hiểm
VND US$
Huỷ chuyến đi Chi phí thực
tế
Chi phí thực
tế
Quốc nội 40,000 2.50
Hoãn chuyến đi 160,000 mỗi
4 giờ lên
đến 800.000
10 mỗi 4
giờ lên đến
50
Quốc tế 60,000 3.50
Mất thiệt hại
hành lý ký gửi
4,800,000 300
Hành lý đến

chậm
480,000 mỗi
8 giờ lên
đến
1,600.000
30 mỗi 8 giờ
lên đến 100
Bảo hiểm trong
trường hợp bị
khủng bố
Bao gồm Bao gồm
Jetstar là hãng hàng không giá rẻ nên các giới hạn cũng như phạm vi
bảo hiểm được cung cấp ở mức hạn chế.
Chúng tôi đưa ra chương trình bảo hiểm của VNI cho khách hàng của
VNA với quyền lợi tốt hơn Jetstar nhưng phí bảo hiểm lệnh không đáng kể.
So sánh về sản phẩm và giá của của các chuyến bay khứ hồi quốc nội
Dưới đây là bảng so sánh sản phẩm bảo hiểm của VNI, VNA với sản
phẩm của các nhà cung cấp khác đang triển khai cới các hãng hàng không để
minh hoạ rõ khả năng cạnh tranh của sản phẩm này.
Quyền lợi bảo hiểm – Gíơi hạn trách
nhiệm US$
CHARTIS MPI VNI, VNA
Hạng vàng AirAsia Chương
25

×