Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Lập kế hoạch xác định cầu lao động theo năng suất lao động cho ngành nông nghiệp việt nam và dự báo cho 5 năm tới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.17 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
Phần mở đầu 2
1. Lý do chọn đề tài 2
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
3. Mục tiêu nghiên cứu 3
4. Phương pháp nghiên cứu 3
Phần nội dung …………


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM NHỮNG
NĂM GẦN ĐÂY 4
2.1. Khái quát tình hình nông nghiệp Việt Nam 4
2.2. Những thành tựu cơ bản 4
2.3. Những hạn chế còn tồn tại 7
CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP GIAI
ĐOẠN 2001-2011 12
2.1. Số lượng lao động 12
2.2. Chất lựong lao động 12
2.3. Đánh giá chung 13
CHƯƠNG 2: DỰ BÁO CẦU LAO ĐỘNG THEO NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG CHO
NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2012-2016 VÀ MỘT SỐ
GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT 15
3.1. Dự báo cầu lao động theo năng suất cho ngành nông nghiệp Việt Nam giai đoạn
2012- 2016 15
3.2. Một số giải pháp đề xuất 19
Kết luận 22
Danh mục tài liệu tham khảo
Page 1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nông nghiệp là ngành sản xuất truyền thống của nước ta từ ngàn đời nay và là lĩnh


vực luôn được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt coi trọng, là nền tảng có tính chiến lược
trong thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Với vai trò vô cùng quan trọng trong
cung cấp lương thực thực phẩm, là nguồn nguyên liệu đầu vào cho nhiều ngành sản
xuất, việc xuất khẩu những sản phẩm từ Nông nghiệp đã đem lại nguồn thu ngoại tệ
lớn cho đất nước, Từ đó, góp phần thực hiện quá trình công nghiệp hoá - hiện đại
hoá . Với vai trò quan trọng đó, nông nghiệp phải được chú trọng đầu tư, cải tạo để từ
đó làm nền tảng cho sự phát triển của các ngành kinh tế khác.
Lao động hay yếu tố con người là yếu tố có vai trò quan trọng trong sự phát triển
của nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Do đó, để phát triển ngành Nông
Nghiệp thì vấn đề giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng lao động trong khu vực
này phải được đặt lên hàng đầu.
Nhìn từ thực tế cho thấy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động còn chậm,
trong khi gia tăng dân số tự nhiên vẫn tiếp tục gia tăng, cùng với đó là những thách
thức, rủi ro của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa đã và đang tạo ra
những thách thức đối với vấn đề việc làm của khu vực này. Tỷ lệ thiếu việc làm của
khu vực nông thôn cao đang là một trong những thách thức lớn trong việc giải quyết
bài toán lao động - việc làm. Bên cạnh đó, năng suất và chất lượng lao động thấp đã
trở thành lực cản đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, ảnh hưởng trực tiếp
tới năng suất lao động xã hội, đồng thời tạo ra những rào cản đối với việc thu hút đầu
tư của khu vực Nông nghiệp, cũng như giải quyết vấn đề việc làm cho người lao
động.
Page 2
Trên cơ sở những kiến thức đã học và nghiên cứu từ thực tế thị trường lao động
Việt Nam, nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề giải quyết việc làm cũng như
nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng hoạt động trong lĩnh vực Nông nghiệp, nhóm
chúng em đã lựa chọn đề tài:” Lập kế hoạch xác định cầu lao động theo năng suất
lao động cho ngành nông nghiệp Việt Nam và dự báo cho 5 năm tới” để nghiên
cứu. Nội dung đề tài đưa ra thực trạng, nguyên nhân, dự báo và giải pháp cho các chỉ
tiêu kế hoạch.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Cầu lao động theo năng suất lao động của
ngành nông nghiệp Việt Nam.
Đề tài tập trung vào nội dung: Lập kế hoạch xác định cầu lao động theo năng suất
lao động cho ngành nông nghiệp Việt Nam và dự báo cho 5 năm tới( giai đoạn 2012-
2016).
3. Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích thực trạng về lao động - việc làm trong nông nghiệp cũng như sự phát
triển của ngành để tìm ra nguyên nhân, đặc điểm phát triển, những thành tựu và hạn
chế. Từ đó đề ra giải pháp nhằm khắc phục hạn chế, phát huy điểm mạnh của cả về
lao động lẫn sự phát triển kinh tế nông nghiệp.
Trang bị thêm cho bản thân những kiến thức về lực lượng lao động và sự phát
triển của ngành nông nghiệp cũng như cái nhìn về cầu lao động theo năng suất lao
động của ngành trong thời gian sắp tới.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài dựa trên cơ sở lý thuyết của môn Kế hoạch hóa phát triển
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là Thống kê, tổng hợp và phân tích dựa
trên những nguồn thông tin và số liệu thu thập được từ sách, báo, Niên giám thống
kê và một số trang web điện tử.
Page 3
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH NÔNG NGHIỆP NHỮNG NĂM GẦN
ĐÂY
1.1 Khái quát nông nghiệp Việt Nam
Sau hơn 25 năm đổi mới, nông nghiệp Việt Nam đã đóng vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực, tạo việc làm và thu nh ập cho 70% dân
cư, là nhân tố quyết định xóa đói giảm nghèo, góp phần phát triển kinh tế đất nước
và ổn định chính trị - xã hội. Nông nghiệp Việt Nam đã có những bước phát triển
vượt bậc: giá trị sản xuất và giá trị gia tăng đã tăng liên tục trong một thời gian dài,
sản lượng hàng hóa ngày càng tăng, xuất khẩu tăng trưởng với tốc độ cao, thu nhập và
đời sống của dân cư nông thôn ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, tăng trưởng nông

nghiệp thời gian qua chủ yếu theo chiều rộng chứ chưa theo chiều sâu. Sản xuất đang
có dấu hiệu tác động tiêu cự đến mội trường như suy thoái tài nguyên, ô nhiễm nguồn
nước, giảm đa dạng sinh học,…đe dọa đến tính bền vững của tăng trưởng. Vì vậy,
chất lượng và sự bền vững của tăng trưởng nông nghiệp Việt Nam là vấn đề cần được
quan tâm trong giao đoan tới.
Trong tương lai, nguồn lực cho tăng trưởng nông nghiệp sẽ không còn được dồi dào,
chi phí sản xuất cao cũng bắt đầu giảm khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam
trên trường quốc tế. Nông nghiệp sẽ phải nâng cao vị thế cạnh tranh trên cơ sở nâng
cao chất lượng, giá trị và vệ sinh an toàn thực phẩm. Để làm được điều đó, cần có
những thay đổi thiết thực và tích cực góp phần xây dựng nông nghiệp tiên tiến, tạo
nền tảng cho một nền kinh tế công nghiệp hiện đại, góp phần bảo tồn văn hóa truyền
thống, ổn định xã hội, xây dựng nông thôn Việt Nam ngày càng phồn thịnh, văn
minh.
Page 4
1.2 Những thành tựu cơ bản
Xuất phát điểm của nước ta là một nước nông nghiệp. Do đó, nông nghiệp đóng
một vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế nước ta. Trong thời
gian qua, ngành nông nghiệp nói chung đã có nhiều thành tựu về tăng trưởng nhanh
theo hướng đa dạng hóa và dịch chuyển cơ cấu cây trồng vật nuôi, đảm bảo an ninh
lương thực, xuất khẩu tăng nhanh và góp phần tích cực phát triển nông thôn và xóa
đói giảm nghèo.
(1). Nông nghiệp đã đạt được tăng trưởng nhanh, ổn định trong một thời gian dài, đa
dạng hóa và chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực:
Từ năm 2000, các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp đã đạt được tốc
độ tăng trưởng hàng năm tương đối cao, mức tăng trưởng bình quân toàn ngành về
giá trị sản xuất là 5,4% và giá trị gia tăng (GDP) là 3,7%. Riêng năm 2011, giá trị sản
xuất toàn ngành (theo giá cố định năm 1994) là 779288,8 tỷ đồng, tăng 5,2% so với
năm trước đó, tốc độ tăng trưởng toàn ngành đạt khoảng 3%.
Sản xuất ngày càng đa dạng cả về cơ cấu sản phẩm và loại hình tổ chức. Tuy sản
xuất nông hộ nhỏ vẫn chiếm tỷ trọng lớn, nhưng hệ thống sản xuất quy mô vừa và lớn

đang hình thành, đặc biệt trong chăn nuôi, trồng lúa, nuôi trồng thủy sản và trồng cây
lâu năm. Tổng số trang trại đăng ký năm 2010 đã tăng 2,5 lần so với năm 2000. Đến
cuối năm 2011, tổng số trang trại đăng ký là khoảng 20078. Xu thế đa dạng hóa tổ
chức sản xuất cũng phát triển. Những năm gần đây hình thức hợp đồng tiêu thụ nông
sản đang phát triển, gắn kết nông dân sản xuất nguyên liệu với nhà máy chế biến và
thương mại (ngành mía đường, nuôi trồng thủy sản, thuốc lá, rau, hoa, quả, ).
(2). Đảm bảo an ninh lương thực:
Từ năm 2000, Việt Nam liên tục mở rộng sản xuất lúa gạo, song song với đa dạng
hóa cây trồng, vật nuôi và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sản lượng lúa
tăng từ 33 triệu tấn lên 40 triệu tấn năm 2010, bình quân lương thực đầu người tăng
từ 445 lên 513 kg/năm 2010 (từ 2500 calo/ngày lên 2800 calo/ngày), đưa Việt Nam
Page 5
vào nhóm sáu nước hàng đầu về chỉ số này. Tỷ lệ dân số chưa đạt được an ninh lương
thực cả năm giảm chỉ còn dưới 10%. Năm 2011, sản lượng lúa cả năm đạt 42,3 triệu
tấn, tăng 2,3 triệu tấn so với năm 2010, đây là mức tăng lớn nhất trong 10 năm trở lại
đây. Việt Nam trở thành quốc gia bền vững an ninh lương thực hơn phần lớn các
quốc gia đang phát triển ở châu Á. Vai trò của Việt Nam trong hỗ trợ an ninh lương
thực cho các quốc gia khác ngày càng tăng, cả trong và ngoài khu vực.
(3). Xuất khẩu tăng nhanh, nhiều mặt hàng nông sản đã có vị thế cao trên thị trường
thế giới:
Trong một thập kỷ qua cán cân thương mại của Việt Nam bị sụt giảm liên tục,
riêng ngành nông nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản vẫn đạt thặng dư cao và
ngày càng tăng. Thành tích này đạt được nhờ tăng khối lượng xuất khẩu và tăng giá
bán trên thị trường thế giới. Từ 2001 đến 2010, tổng giá trị xuất khẩu nông sản đạt
106,2 tỷ USD, bình quân tăng 16,4%/năm và đạt mức cao nhất 25 tỷ USD năm
2011(tăng 29% so với năm 2010). Một số nông sản của Việt Nam đã có vị thế cao
trên thị trường quốc tế: hạt điều, hạt tiêu đứng thứ nhất; gạo, cà phê đứng thứ hai, cao
su đứng thứ tư, thủy sản, chè đứng thứ 6, đồ gỗ nội, ngoại thất cũng đem lại nguồn
thu ngoại tệ lớn cho đất nước Một số mặt hàng khác cũng đang có tiềm năng tăng
trưởng xuất khẩu trong tương lai như sắn, rau, hoa, quả.

(4) Góp phần phát triển nông thôn và xóa đói giảm nghèo:
Trong thập kỷ qua, điều kiện cơ sở hạ tầng nông thôn được cải thiện đáng kể. Đến
cuối năm 2010 đã có hơn 90% hộ dân nông thôn được sử dụng điện lưới quốc gia;
98,5% xã có đường ô tô đến trung tâm, trong đó 42,6% xã có đường liên thôn được
nhựa hóa, trên 50% được bê tông hoá; 76% người dân được tiếp cận nước sạch, và
gần 60% hộ gia đình có nhà tiêu hợp vệ sinh. Đầu tư thuỷ lợi chuyển dần theo hướng
đa mục tiêu, vừa phục vụ sản xuất vừa tăng khả năng cung cấp nước sinh hoạt nông
thôn và đô thị, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về cấp thoát nước phục vụ sản xuất
công nghiệp và phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao. Các cơ sở nghiên cứu và
sản xuất giống cây trồng, vật nuôi, giống cây lâm nghiệp và giống thủy sản tiếp tục
được đầu tư hiện đại hóa trang thiết bị và cơ sở vật chất.
Page 6
Cơ sở hạ tầng được nâng cấp gắn với nâng cao chất lượng dịch vụ công và tăng
năng suất sản xuất nông nghiệp cùng với các hỗ trợ đặc biệt đã góp phần giảm đáng
kể tỷ lệ nghèo đói nông thôn. Theo Tổng cục Thống kê (TCTK), tỷ lệ nghèo của khu
vực nông thôn giảm từ 45,5% vào năm 1998 xuống còn 27% (theo chuẩn mới) vào
năm 2010. Kết quả thực hiện các chương trình giảm nghèo trong giai đoạn 2006-2011
đã góp phần ổn định xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững, nhất
là trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, an sinh xã hội
vẫn được đảm bảo, năm 2011 tỷ lệ hộ nghèo nông thôn còn 9,45%, giảm 12% so với
2006.
Thay đổi tích cực trong quan hệ sản xuất cũng góp phần quan trọng vào kết quả
của ngành. Việc giao đất cho các hộ gia đình nông thôn đã tạo động lực khuyến khích
nông dân yên tâm đầu tư dài hạn vào thâm canh, nâng cao hiệu quả sản xuất.
Công nhận quyền sử dụng đất cùng với sự phát triển của tín dụng nông nghiệp cho
phép nông dân tiếp cận đến các nguồn vốn vay ưu đãi, tiếp tục mở rộng đầu tư sản
xuất. Hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập
WTO đã đem đến cơ hội mở rộng thị trường cho nông sản. Xu hướng tiêu dùng của
người dân Việt Nam cũng bắt đầu đa dạng và quan tâm đến chất lượng hơn, chi tiêu
nhiều tiền hơn cho thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao hơn.

Lực lượng lao động nông nghiệp dồi dào, năm 2010 số lao động trong ngành nông
nghiệp khoảng 23896,3 nghìn người, tốc độ tăng năng suất lao động của khu vực
nông nghiệp bình quân trong giai đoạn 2001 – 2010 là 4,52%. Nông dân Việt Nam
khá chăm chỉ và khá nhạy bén nắm bắt các cơ hội thị trường cùng với sự phong phú
về tài nguyên thiên nhiên là những lợi thế cho phát triển sản xuất nông nghiệp trong
tương lai.
Đầu tư công vào cơ sở hạ tầng, thương mại hóa chuyển giao công nghệ và sự phát
triển của khu vực tư nhân ngày càng tích cực tham gia cung cấp dịch vụ nông nghiệp
và thương mại nông sản đã giúp hỗ trợ và thúc đẩy quá trình tăng trưởng.
Page 7
Khung chính sách và pháp lý cho nông nghiệp ngày càng được cải thiện. Cam kết
chính trị cho phát triển nông nghiệp và nông thôn vẫn tiếp tục được duy trì mạnh mẽ,
kể cả khi quốc gia chuyển trọng tâm sang công nghiệp hóa và phát triển đô thị.
1.3 Một số hạn chế và tồn tại
Bên cạnh những thành tựu đạt được, nông nghiệp Việt Nam vẫn còn một số tồn
tại, đang hạn chế quá trình phát triển bền vững gắn với tăng giá trị gia tăng của ngành
như chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh thấp; quá trình đổi mới và gia tăng
giá trị đang chậm lại; suy thoái môi trường; và chênh lệch giàu nghèo ngày càng tăng
giữa các nhóm dân cư và vẫn tồn tại các cộng đồng tách biệt.
(1) Chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh thấp:
Mặc dù Việt Nam đã trở thành quốc gia xuất khẩu nông sản, nhưng chất lượng và
vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn còn gây nhiều bức xúc trong xã hội và cản trở nông
sản Việt Nam thâm nhập thị trường các quốc gia phát triển. Tỷ lệ nông sản xuất khẩu
bị từ chối và bị liệt vào danh sách phải kiểm soát chặt chẽ khá cao, do dư lượng thuốc
BVTV, thú y và sai nhãn hiệu… Yếu kém trong quản lý chất lượng, cùng với sự
manh mún của nhiều chuỗi cung ứng, khiến cho thu nhập cho người nông dân vẫn
thấp trong khi giá cả và khối lượng hàng hóa thương mại ngày càng cao.
Năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của nhiều sản phẩm nông nghiệp còn
thấp, kết cấu hạ tầng phục vụ bảo quản, chế biến như kho tàng, sân phơi, bến bãi,
còn kém phát triển. Phần lớn nông sản xuất khẩu ở dạng sơ chế, giá trị gia tăng rất

thấp, chưa có thương hiệu, mẫu mã bao bì chưa hấp dẫn.
An ninh dinh dưỡng chưa được đảm bảo. Trong khi Việt Nam không còn là quốc
gia với nạn đói lan tràn, thặng dư sản xuất lúa gạo quốc gia ngày càng tăng thì an ninh
dinh dưỡng vẫn chưa đạt được. Việt Nam vẫn đang tiếp tục đối mặt với “nạn đói tiềm
ẩn”, người dân vẫn hàng ngày đối mặt với tình trạng thiếu vitamin, mất cân bằng dinh
dưỡng. Gần một phần ba trẻ em ở khu vực nông thôn còi cọc, có chiều cao rất thấp so
với độ tuổi, suy dinh dưỡng kinh niên sẽ hạn chế phát triển con người. (2) Quá trình
(2) Đổi mới và gia tăng giá trị có dấu hiệu chậm lại:
Page 8
Đối với những loại cây trồng quan trọng, tốc độ tăng năng suất đã chậm lại. Trong
lĩnh vực chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản, dịch bệnh tràn lan đang dẫn tới bất ổn về
năng suất và thu nhập. Hệ thống đổi mới nông nghiệp trì trệ, thiếu sự phối hợp với các
tổ chức xã hội nghề nghiệp và doanh nghiệp. Không chỉ hệ thống đổi mới bị chậm
phát triển, quá trình gia tăng giá trị cũng có tình trạng tương tự. Tốc độ tăng GDP
nông nghiệp giai đoạn 1995 - 2000 đạt 4%/năm, giảm xuống còn 3,83%/năm trong
giai đoạn 2001 - 2005 và 3,3%/năm trong giai đoạn 2006-2010. Tỷ lệ giá trị gia tăng
so với tổng giá trị sản xuất nông nghiệp cũng có xu hướng giảm, từ 66,35% năm 2000
xuống 58,8% năm 2010 (theo giá thực tế) và 45,6% năm 2000 xuống 38,8% năm
2010 (theo giá so sánh).
Công nghiệp chế biến nông sản vẫn còn kém phát triển. Việt Nam chủ yếu xuất
khẩu nguyên liệu thô trong khi hàng hóa thành phẩm được sản xuất ở nước khác. Điều
này phản ánh nông dân, doanh nghiệp Việt Nam đang tự làm thất thoát giá trị hàng
nông sản trên thị trường quốc tế. Cho tới nay, chỉ có rất ít thương hiệu và chỉ dẫn địa
lý nổi tiếng gắn với nông sản Việt Nam.
Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn thời gian qua thấp hơn nhiều so với vị trí, tiềm
năng và nhu cầu phát triển. Đầu tư phát triển của toàn xã hội vào lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn giảm từ 13,8% năm 2000 xuống còn 6,2% năm 2010 và khoảng 6%
năm 2011. Đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ cho nông nghiệp
cũng giảm, từ 21,5% năm 2006 xuống 21,3% năm 2010 trong tổng số. Đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) luôn ở mức thấp và có xu hướng giảm dần, tỷ trọng FDI nông

nghiệp trong tổng FDI chung của cả nước giảm từ 8% năm 2001 xuống còn chỉ xấp xỉ
1% năm 2010 và năm 2011. Trong giai đoạn 1999-2010, cả nước chỉ thu hút được
738 dự án đầu tư vào lĩnh vực này với tổng vốn đăng ký là 4,3 tỷ USD, chiếm khoảng
2,3% so với tổng số vốn FDI đăng ký tại Việt Nam. Lý do lĩnh vực nông nghiệp
không được các doanh nghiệp đầu tư là vì rủi ro cao, lợi nhuận thấp.
Việc phân bổ vốn đầu tư công trong nội bộ ngành chưa hợp lý, tập trung chủ yếu
cho hạ tầng cơ bản có tính chất phi sản xuất hoặc chậm sinh lời chiếm tỷ trọng lớn,
nhiều nhất là lĩnh vực thủy lợi và thủy lợi phí. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và
Page 9
TPCP cho lĩnh vực thủy lợi năm 2005 chiếm 30% tổng số NSNN đầu tư cho nông
nghiệp, tăng lên 32% năm 2008 và 42% trong năm 2010. Tính chung, giai đoạn từ
2005 đến 2010, trong khi vốn đầu tư cho thủy lợi tăng tới 7 lần, thì vốn đầu tư trực
tiếp cho sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và các chương trình mục tiêu quốc gia mang
tính chất sản xuất và sinh lợi chỉ tăng có 2 lần. Tuy vậy, nhiều hệ thống thủy lợi vẫn
chưa được hoàn thành và chỉ vận hành ở mức 40 đến 75% công suất tưới tiêu. Một số
cơ sở hạ tầng thủy lợi vẫn chưa được bảo dưỡng hợp lý, dẫn đến thất thoát về hiệu
quả đầu tư công. Phân bổ vốn cho các lĩnh vực đầu tư công khác có tiềm năng hỗ trợ
nông nghiệp nâng cao chất lượng và phát triển bền vững như hệ thống quản lý chất
lượng, giám sát dịch bệnh, thông tin thị trường, nghiên cứu & phát triển, v.v vẫn còn
thấp và chưa được quan tâm đúng mức.
Cải cách thể chế vẫn còn chậm, phối hợp giữa các bộ về những vấn đề đa ngành
quan trọng còn yếu, thiếu hiệu quả, ví dụ như cải cách cơ chế quản lý nghiên cứu
khoa học, đổi mới lâm trường quốc doanh, chuyển giao quản lý thủy lợi cho cộng
đồng và các tổ nhóm ở địa phương. Về những vấn đề liên ngành như bảo vệ rừng, an
toàn vệ sinh thực phẩm, an ninh dinh dưỡng, quản lý tài nguyên ven biển, quản lý tài
nguyên nước, kiểm soát bệnh dịch, phối hợp liên bộ, liên ngành, và liên tỉnh vẫn còn
hạn chế.
(3) Suy thoái môi trường:
Tăng trưởng nông nghiệp của Việt Nam thời gian qua chủ yếu dựa trên thâm dụng
tài nguyên thiên nhiên, lạm dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y. Mục

tiêu kinh tế đạt được nhưng lại gây tác động xấu đến môi trường, làm tăng mức độ ô
nhiễm và suy yếu nguồn tài nguyên thiên nhiên (rừng đước ven biển, tài nguyên nước
ngầm ở Tây nguyên, nguồn lợi hải sản ven bờ, đa dạng sinh học, v v ). Lạm dụng
đầu vào, hạn chế trong quản lý tài nguyên nước và ít tận dụng phụ phẩm nông nghiệp
là nguyên nhân gây ra ô nhiễm cục bộ cũng như tăng phát thải khí nhà kính.
Ô nhiễm nước thải công nghiệp đang ở mức báo động, trực tiếp làm suy thoái môi
trường, gây nguy hiểm cho sinh kế bền vững của người dân và cạn kiệt nguồn lợi thủy
sản. Thói quen sản xuất không tính đến yếu tố môi trường không chỉ gây bất lợi đối
Page 10
với sức khỏe của cộng đồng mà còn đe dọa khả năng tiếp cận phân khúc thị trường
quốc tế có giá trị cao và yêu cầu cao về tiêu chí môi trường.
(4) Chênh lệch giàu nghèo ngày càng tăng và các cộng đồng tách biệt:
Ngày càng có nhiều dấu hiệu về gia tăng chênh lệch giữa mức sống của người dân
ở đô thị và nông thôn Việt Nam, độ chênh ngày càng dãn rộng. Theo kết quả điều tra
mức sống (VHLSS) và dữ liệu khác của Tổng cục thống kê cũng chỉ ra xu hướng về
tình trạng bất bình đẳng ngày càng lớn ngay trong nội bộ khu vực nông thôn, với
chênh lệch tăng dần giữa vùng cao với vùng đồng bằng/châu thổ và giữa người Kinh
với dân tộc thiểu số. Trong khi tỷ lệ nghèo đói nông thôn ở khu vực đồng bằng chỉ ở
mức 10%, thì các tỉnh và huyện miền núi là trên 50%. Nguyên nhân chênh lệch này
không chỉ bắt nguồn từ vấn đề tốc độ phát triển kinh tế vùng mà còn là do sự kết nối
thị trường, tham gia vào chuỗi giá trị hàng hóa của các hộ dân thiểu số còn yếu.
Nghèo đói vẫn là tình trạng phổ biến ở nông thôn Việt Nam. Hơn 90% người nghèo
cả nước sinh sống ở vùng nông thôn. Đến năm 2010, khoảng 27% dân cư nông thôn
bị xếp loại nghèo (theo bộ tiêu chí mới của Bộ LĐTBXH) với tỷ lệ chênh lệch lớn
giữa các vùng. Tỷ lệ nghèo ở vùng Đông Nam Bộ và Châu thổ Sông Hồng lần lượt là
11,9% và 13,6%, trong khi ở vùng Tây Nguyên và Miền Núi phía Bắc lần lượt là
41,6% và 50,4%. Tỷ lệ nghèo đặc biệt rất cao ở một số vùng trong cộng đồng các dân
tộc thiểu số. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do điều kiện cư trú (vùng sâu,
vùng xa), kinh tế chậm phát triển, cơ sở hạ tầng vật chất yếu kém, trình độ giáo dục,
đào tạo thấp, khả năng tiếp cận với dịch vụ công và các dịch vụ hỗ trợ còn hạn chế.

Page 11
CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP
NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
2.1 Về số lượng
Phần lớn dân số Việt Nam chủ yếu sống ở nông thôn (hơn 60 triệu dân), lao động
trong nông nghiệp chiếm 71.1% tổng số lao động cả nước.
Theo kết quả của Tổng cục Thống Kê, năm 1997, lao động trong nông nghiệp chiếm
tới 73%, trong khi công nghiệp và dịch vụ chỉ chiếm 27%; năm 2007, lực lượng lao động
nông thôn của cả nước là 34,8 triệu người, chiếm 74,5% tổng lực lượng lao động, trong
đó số người nằm trong độ tuổi lao động là 32,73 triệu người; năm 2010 lực lượng lao
động từ 15 tuổi trở lên tại khu vực nông thôn là 36,2 triệu người, chiếm 72% tổng lực
lượng lao động. Năm 2011, trong số lực lượng lao động nông thôn là 34,8 triệu người thì
có 21,7 triệu người, chiếm hơn 62% lao động làm việc trong nhóm ngành nông - lâm -
ngư nghiệp, còn lại là lao động phi nông nghiệp.
Những con số trên đã cho ta thấy lực lượng lao động trong nông nghiệp chiếm phần
đông như thế nào, nguyên nhân chính là do ngành nông nghiệp có quy mô sử dụng lao
động khá lớn, áp dụng khoa học kỹ thuật còn nhiều hạn chế nên đây vẫn là một ngành
thâm dụng lao động. Thêm vào đó, người dân vùng nông thôn không đủ trình độ, vốn để
phát triển kinh tế phi nông nghiệp.
2.2 Về chất lượng
Trong 10 năm qua (2001- 2010), đã có 15 triệu lao động có việc làm, trong đó,
khoảng 50% làm trong lĩnh vực nông nghiệp. Tuy nhiên, nhóm đối tượng này có việc
Page 12
nhưng lại không năng suất (năng suất trong ngành nông nghiệp chỉ bằng 1/4 ngành công
nghiệp và bằng 1/3 ngành dịch vụ).
Số lao động trong nông nghiệp chiếm 71.1% tổng số lao động cả nước nhưng phần
lớn sống ờ nông thôn. Lao động nông thôn có tỉ lệ thất nghiệp thấp do đặc thù của
ngành này. Tuy nhiên, tỉ lệ thiếu việc làm lại cao. Đây là một thách thức đặt ra cho bài
toán lao động-việc làm ở nông thôn.
Hơn nữa, thu nhập của người nông dân thấp trong khi điều kiện cải thiện năng suất

lao động chậm thay đổi, nguyên nhân là do chất lượng lao động thấp. Đại bộ phận nông
dân lao động chủ yếu bằng chân tay, thiếu sự áp dụng khoa học kĩ thuật vào trồng trọt và
chăn nuôi. Trình độ nông trí thấp, ít được tiếp cận với những thành tựu khoa học công
nghệ, chậm thay đổi với những chuyển giao của thị trường. Tính đến thời điểm năm
2010, lao động nông nghiệp chưa qua đào tạo chiếm 97.65% và đa số là không có chứng
chỉ chuyên môn.
Theo TS Papola, Đề án “Đào Tạo Nghề Cho Lao Động Nông Thôn Đến Năm 2020”
đặt mục tiêu đào tạo mỗi năm 1 triệu lao động nông thôn trong đó số lao động nông thôn
được đào tạo nghề nông nghiệp chiếm khoảng 1/3 nhưng do năng suất lao động trong
nông nghiệp thấp nên nông nghiệp đang ngày càng không thu hút được những lao động
trẻ, năm 2011 chúng ta đào tạo được khoảng 450.000 lao động cho khu vực nông thôn.
Năm 2012, Ban chỉ đạo Trung ương đề ra chỉ tiêu đào tạo khoảng 600.000 lao động cho
khu vực nông thôn. Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tiến độ đào tạo nghề 6
tháng đầu năm 2012 chỉ đạt trên 27%, hầu hết các chỉ tiêu, nhiệm vụ đều chưa đạt.
Cơ cấu lao động được đào tạo giữa các ngành, các vùng và giữa các bậc có sự chênh lệch.
Dân số nông thôn chiếm gần 80% dân số cả nước, nhưng chỉ chiếm 47,38% lực lượng lao
động được đào tạo trong cả nước.
2.3 Đánh giá chung
Như đã đề cập ở trên, lao động trong khu vực nông nghiệp, nông thôn đang chiếm tỷ
lệ khá cao trong lực lượng lao động cả nước. Trong đó lực lượng lao động có tỷ lệ các
nhóm tuổi 15 - 29 tuổi chiếm tới 1/3 tổng dân số trong độ tuổi lao động. Vậy nhưng tỷ lệ
việc làm của khu vực nông thôn lại tỷ lệ nghịch với lực lượng lao động.
Page 13
Điều đáng nói là chất lượng việc làm tại khu vực này rất thấp và không được cải thiện
nhiều. Hiện nay, việc làm giản đơn, không cần kỹ năng chiếm gần 40% tổng việc làm
của cả nước, ở khu vực thành thị tỉ lệ này là 18,1% nhưng khu vực nông thôn thì chiếm
gần 50% tổng việc làm.
Trong Báo cáo nghiên cứu việc làm tại nông thôn do Văn phòng Hỗ trợ Tư vấn Phản
biện và Giám định Xã hội (OSEC), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam
(VUSTA) thực hiện phân tích: Phần lớn lao động nông thôn mặc dù có đủ việc làm, thậm

chí làm việc nhiều giờ nhưng vẫn rất khó khăn trong việc cải thiện thu nhập, lực cản
chính là do chất lượng lao động còn thấp Điều này làm ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất
lao động xã hội(năng suất trong ngành nông nghiệp chỉ bằng 1/4 ngành công nghiệp và
bằng 1/3 ngành dịch vụ), quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, đặc biệt là khả năng rút
lao động nông thôn ra khỏi ngành nông nghiệp.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, phần lớn lao động Việt Nam dễ gặp phải rủi ro khi
không được bảo vệ bởi hệ thống bảo trợ xã hội vì họ làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp
hoặc khu vực phi chính thức.
Doanh nghiệp ở các ngành có khả năng có giá trị sản xuất cao như sản xuất công nghiệp
và thương mại sử dụng ít lao động trong khi đó ngành nông nghiệp lại tạo ra 48,7% việc
làm và chỉ đóng góp 22,1% GDP.
Ước tính Việt Nam đang có khoảng 20 chính sách khác nhau liên quan tới vấn đề lao
động, việc làm ở khu vực nông thôn. Mặc dù có một hệ thống chính sách được coi là
tương đối hoàn chỉnh để phát triển một thị trường lao động năng động, hiệu quả nhưng
trên thực tế hệ thống chính sách này vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế đôi khi cản trở
trực tiếp tới việc phát triển thị trường lao động. Theo OSEC và VUSTA, lao động nông
nghiệp và lao động tại các khu vực phi chính thức hiện vẫn chưa nhận được những hỗ trợ
từ phía Bộ Luật Lao động. Thêm vào đó là hệ thống chính sách dạy nghề, tạo việc làm
tuy đa dạng nhưng lại đang bộc lộ sự chồng chéo từ khâu thiết kế, thực hiện, quản lý…
thậm chí là đối tượng thụ hưởng…
Dự báo, 10 năm sau, lao động trong ngành nông nghiệp sẽ giảm xuống cả về tỷ trọng và
số lượng.
Page 14
Ở một nước mà phần lớn lao động làm trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản như Việt
Nam thì đây vẫn là động lực thúc đẩy sự nghiệp chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, do đó, cần được tạo điều kiện về cơ chế chính sách, tiếp
cận vốn, môi trường cạnh tranh lành mạnh, xúc tiến đầu tư mở rộng thị trường
CHƯƠNG 3: DỰ BÁO CẦU LAO ĐỘNG THEO NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG
CHO NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2012- 2016 VÀ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỀ

3.1 Dự báo cầu lao động theo năng suất cho ngành nông nghiệp Việt Nam giai đoạn
2012- 2016
STT Năm GDP Nông nghiệp
( tỷ đồng)
Số lao động – việc làm
( 1000 người)
Năng suất lao động
(tỷ đồng/1000 người)
1 2002 144947.2 24455.8 5.9269
2 2003 153865.6 24443.3 6.2948
3 2004 172387.5 24430.7 7.0562
4 2005 183213.6 23563.2 7.7754
5 2006 197700.7 24349.9 8.1192
6 2007 236750.4 23931.5 9.8928
7 2008 377238.6 24303.4 15.5221
8 2009 430221.6 24605.9 17.4845
9 2010 540162.8 24279 22.2481
10 2011 779288.8 24362.9 31.9867
Bảng 1: Bảng thống kê GDP Nông nghiệp, Số lao động – việc làm, Năng suất lao động từ
năm 2002 – 2011
3.1.1 Dự báo :
Áp dụng phương pháp hồi quy bé nhất, ta có:
Page 15
STT Năm NSLD Ln(NSLD)
Ln(NSLD)*
)
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8)
1 2002 0 5.9269 1.7795 -4.5 -8.0078 20.25
2 2003 1 6.2948 1.8397 -3.5 -6.439 12.25
3 2004 2 7.0562 1.9539 -2.5 -4.8848 6.25

4 2005 3 7.7754 2.051 -1.5 -3.0765 2.25
5 2006 4 8.1192 2.0942 -0.5 -1.0471 0.25
6 2007 5 9.8928 2.2918 0.5 1.1459 0.25
7 2008 6 15.5221 2.7423 1.5 4.1135 2.25
8 2009 7 17.4845 2.8613 2.5 7.1533 6.25
9 2010 8 22.2481 3.1023 3.5 10.8581 12.25
10 2011 9 31.9867 2.4653 4.5 15.5939 20.25
Tổng 45 24.1813 0 15.4095 82.5
Cột (2): ghi các năm từ 2002-2011.
Cột (3): lấy các giá trị của cột (2) trừ đi giá trị năm đầu tiên, năm 2002.
Cột (4): ghi các giá trị năng suất lao động tương ứng với các năm.
Cột (5): tính các giá trị Ln(NSLD) tương ứng.
Tổng số các cột (3) là 45 chia cho 10 quan sát ta được giá trị trung bình là 4.5. Cột (6):
ghi các giá trị của cột (3) trừ đi giá trị trung bình là 4.5.
Cột (7): bằng các giá trị của cột (5) nhân với các giá trị của cột (6).
Cột (8): bằng bình phương các giá trị của côt (6).
Như vậy giá trị n được tính bằng tổng cột (7) chia tổng cột (8):
n = 15.4095/82.5= 0.1868
Khi đó ta tính được tốc độ tăng trưởng bình quân của năng suất lao động sẽ là:
Page 16
= -1 = 0.2054 ( tương đương 20.54%)
Ta có:
= *( 1+ ) = 31.9867*(1+20.54%)
 = 38.5568 (tỷ đồng/1000 người)
 = *( 1+ ) = 46.4764 (tỷ đồng/1000 người)
 = *( 1+ ) = 56.0227 (tỷ đồng/1000 người)
 = *( 1+ ) = 67.5298 (tỷ đồng/1000 người)
 = *( 1+ ) = 81.4004 (tỷ đồng/1000 người)
3.1.2 Dự báo :
STT Năm GDP Nông

nghiệp ( tỷ đồng)
Ln(GDP)
Ln(GDP)*
)
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8)
1 2002 0 144947.2 11.8841 -4.5 -53.4785 20.25
2 2003 1 153865.6 11.9438 -3.5 -41.8033 12.25
3 2004 2 172387.5 12.0575 -2.5 -30.1438 6.25
4 2005 3 183213.6 12.1184 -1.5 -18.1776 2.25
5 2006 4 197700.7 12.1945 -0.5 -6.0973 0.25
6 2007 5 236750.4 12.3748 0.5 6.1874 0.25
7 2008 6 377238.6 12.8406 1.5 19.2606 2.25
8 2009 7 430221.6 12.9721 2.5 32.4303 6.25
9 2010 8 540162.8 13.1996 3.5 46.1986 12.25
10 2011 9 779288.8 13.5661 4.5 61.0475 20.25
Tổng 45 111.5854 0 15.4242 82.5
Page 17
Cột (2): ghi các năm từ 2002-2011.
Cột (3): lấy các giá trị của cột (2) trừ đi giá trị năm đầu tiên, năm 2002.
Cột (4): ghi các giá trị lao động - việc làm tương ứng với các năm.
Cột (5): tính các giá trị Ln(VL) tương ứng.
Tổng số các cột (3) là 45 chia cho 10 quan sát ta được giá trị trung bình là 4.5. Cột (6):
ghi các giá trị của cột (3) trừ đi giá trị trung bình là 4.5.
Cột (7): bằng các giá trị của cột (5) nhân với các giá trị của cột (6).
Cột (8): bằng bình phương các giá trị của côt (6).
Như vậy giá trị n được tính bằng tổng cột (7) chia tổng cột (8).
k = 15.4242/82.5 =0.187 (tương đương 18.7%)
Khi đó ta tính được tốc độ tăng trưởng bình quân của GDP nông nghiệp sẽ là:
= -1 = 0.2056 tương đương 20.56%.
Ta có:

= * (1+ ) = 779288.8 * (1+ 20.56%)
 = 939510.5773 ( tỷ đồng)
 = * (1+ ) = 1132673.952 ( tỷ đồng)
 = * (1+ ) = 1365551.171 ( tỷ đồng)
 = * (1+ ) = 1646309.149 ( tỷ đồng)
 = * (1 + ) = 1984790.311 ( tỷ đồng)
Page 18
3.1.3 Dự báo :
Ta có:
= = 24366.923 ( 1000 người)
= = 24370.9485 ( 1000 người)
= = 24374.9715 ( 1000 người)
= = 24379.0023 ( 1000 người)
= = 24383.0535 ( 1000 người)
3.2 Một số giải pháp đề xuất:
Nhằm góp phần nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp cũng như giả quyết
vấn đề việc làm cho người lao động nông thôn, nhóm nghiên cứu đề xuất một số giải
pháp sau:
Một là: Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Xác định chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn và xây dựng nền nông nghiệp hàng hoá lớn. Vì thế cần một là: Phát triển mạnh công
nghiệp và dịch vụ ở khu vực nông thôn. Tiếp theo là phát triển mạnh lâm nghiệp và thuỷ
sản nhằm thay đổi cơ cấu giữa nông- lâm- thuỷ sản. Trong nội bộ ngành nông nghiệp cần
tiếp tục đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, và tất nhiên là thay đổi cơ cấu cây trồng giảm tỷ
trọng cây lương thực, tăng tỷ trọng cây màu cây công nghiệp. Hai là: Củng cố thị trường
Page 19
đã có, mở rộng thị trường mới để tiêu thụ nông sản phẩm và dịch vụ phi nông nghiệp ở
nông thôn. Ba là: Hoàn chỉnh quy hoạch sản xuất nông lâm thuỷ sản và ngành nghề dịch
vụ ở nông thôn theo hướng hàng hoá gắn với thị trường. Bốn là: Phát triển kinh tế nhiều
thành phần.

Hai là: Cải tiến và đổi mới cơ chế huy động vốn, sử dụng và quản lý vốn đầu tư.
Một mặt tăng tỷ lệ đầu tư từ ngân sách nhưng chủ yếu cho kết cấu hạ tầng cho nông
nghiệp nông thôn. Có cơ chế và chính sách phù hợp như chính sách miễn giảm thuế,
chính sách tín dụng , để kêu gọi khuyến khích đầu tư từ nhiều nguồn vốn khác nhau vào
nông nghiệp nông thôn, đặc biệt là nguồn vốn FDI vẫn là nguồn vốn quan trọng để thúc
đẩy sự phát triển và chuyển giao công nghệ trong ngành nông -lâm- thuỷ sản.
Cần thúc đẩy sự hoạt động của hệ thống tài chính ngân hàng vào khu vực thị trường
nông thôn, nơi tỷ lệ rủi ro cao. Tạo ra những thuận lợi nhất để nông dân có thể tiếp cận
với các nguồn tài chính. Đẩy nhanh việc cổ phần hoá, hình thành thị trường vốn và vận
hành tốt loại thị trường này nhằm nhanh chóng huy động vốn và di chuyển vốn dễ dàng
giữa các khu vực, các ngành kinh tế từ đó tạo vốn cho khu vực nông thôn.
Tăng nguồn vốn trung hạn và dài hạn hỗ trợ cho nhân dân, đặc biệt với nông dân trong
quá trình tạo việc làm và chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở nông thôn.
Ba là: Thúc đẩy quá trình đô thị hoá nông thôn cùng với việc xây dựng các khu công nghiệp
nhỏ ở nông thôn
Quá trình này được thực hiện bằng việc hình thành các thị trấn thị tứ, các khu công
nghiệp nhỏ và vừa, gia tăng các hoạt động dịch vụ ở nông thôn. Đây là cơ sở cho việc
đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phân công lao động ở nông thôn. Nhà
nước kích thích quá trình này bằng cách hỗ trợ xây dựng các công trình cấu trúc hạ tầng
như cấp điện, giao thông, thông tin liên lạc, các trung tâm thương mại dịch vụ. Khuyến
khích dân cư nông thôn tự tạo việc làm ngay tại quê hương mình theo phương châm "Li
nông bất li hương”. Khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống. Chẳng hạn trước
đây số lao động trẻ của tỉnh Quảng Nam di chuyển đến các đô thị tìm việc làm rất lớn thì
Page 20
hiện tại với chương trình khôi phục làng nghề truyền thống của tỉnh đã thu hút rất nhiều
lao động trẻ.
Bốn là: Nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực ở nông thôn
Cần thực hiện cơ chế nhà nước và nhân dân cùng làm để tăng cường đầu tư cho giáo
dục nâng cao trình độ văn hoá cho các vùng nông thôn, đặc biệt là vùng Tây Nguyên,
Tây Bắc và đồng bằng sông Cửu Long sớm phổ cập giáo dục cơ sở.

Điều chỉnh mạng lưới cơ sở đào tạo cho phù hợp với yêu cầu quy hoạch phát triển
kinh tế xã hội của từng vùng nông thôn. Xây dựng một số cơ sở sản xuất nông nghiệp có
trình độ kỹ thuật công nghệ cao trong các vùng nông nghiệp trọng điểm nhằm kết hợp
khuyến nông, đẩy mạnh hoạt động phổ biến chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nông dân.
Trong việc đào tạo nghề nông nghiệp cho nông dân cần chú ý cả phương tiện kỹ thuật và
kỹ năng quản lý, không chỉ chú trọng các loại hình chính quy trên cơ sở phát triển hệ cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp, mà đặc biệt quan tâm tới mô hình đào tạo cộng đồng.
Tăng cường đào tạo ngành nghề phi nông nghiệp cho nông dân.
Có chính sách khuyến khích và sử dụng tốt sinh viên học sinh tốt nghiệp các trường
đại học, cao đẳng, trung cấp về phục vụ ở nông thôn.
Phối hợp đẩy mạnh các hoạt động tư vấn, dịch vụ và dạy nghề cho nông dân, phát triển
nền nông nghiệp theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh, bảo đảm an ninh
lương thực quốc gia, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia, phấn đấu tỷ lệ nhân
lực qua đào tạo ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng tương ứng từ 15,5% năm 2010 lên 50%
vào năm 2020.
Page 21
KẾT LUẬN
Qua những gì đã nghiên cứu, phân tích và dự báo, đề tài cho thấy không những năng
suất lao động mà lượng cầu về lao động theo năng suất lao động trong nông nghiệp trong
5 năm tới sẽ tăng. Tuy nhiên cơ cấu lao động Việt Nam tiếp tục chuyển dịch theo hướng
giảm tỉ trọng lao động trong ngành nông nghiệp. Đây là kết quả tất yếu của quá trình
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nhằm tiến tới hoàn thành mục tiêu đến năm 2020 nước
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại.
Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng và Nhà Nước ta phải có chính sách hợp lý nhằm quyết
bài toán mất cân đối về cung - cầu lao động trong nông nghiệp. Nếu có thể tận dụng tối đa
số lượng lao động một cách hiệu quả; không ngừng nâng cao năng suất lao động cũng
như sử dụng lao động gắn liền với quá trình phát triển nguồn nhân lực, phát triển kinh tế-
xã hội. Bên cạnh đó, đẩy nhanh quá trình Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa ở nông thôn thì
không những giải quyết được vấn đề việc làm, cải thiện đời sống người dân, nâng cao thu
nhập và năng suất xã hội mà còn góp phần tạo nên sự phát triển ổn định trong nông

nghiệp.
Page 22
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Bài viết “Lao động nông nghiệp: Số lượng lớn chất lượng thấp”, Báo Dân Trí
2. Bài viết “Phát triển nông nghiệp, nông thôn: Những thách thức từ thực tế’’, Báo
Thesaigontimes
3. Bài viết “Nghiên cứu, phân tích tình hình kinh tế Việt Nam: Phát triển nông nghiệp ở
Việt Nam: Thành tựu và thách thức”, trang web www.moit.gov.vn
4. www.isgmard.org.vn/ /2012_-_July_-Restructuring_VN_-_BT_app
5. Số liệu từ Tổng cục Thống kê
6. Số liệu từ Niên giám thống kê
Page 23

×