Mục lục
Mục lục 1
mở đầu 6
Chơng 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp 10
1.1.Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành 10
1.1.1.Khái niệm và đặc trng của cơ cấu kinh tế 10
1.1.2.Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và những nhân tố ảnh hởng tới
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành 12
1.2.Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
nông nghiệp 17
1.2.1.Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp 17
1.2.2.Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp 19
1.2.3.Xu hớng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp 24
1.3.Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở một số nớc.
26
1.3.1.Kinh nghiệm Thái Lan 26
1.3.2.Kinh nghiệm Malaysia 29
1.3.3.Kinh nghiệm Indonesia 32
Chơng 2. thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành nông nghiệp việt nam 1986 - 2002 36
2.1.Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở Việt Nam giai
đoạn 1986 - 2002 36
2.1.1.Cơ cấu kinh tế công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ 37
2.1.2.Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp theo nghĩa rộng: nông nghiệp -
lâm nghiệp - thuỷ sản 42
2.1.3.Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp: trồng trọt- chăn
nuôi - dịch vụ nông nghiệp. 50
1
2.1.4.Cơ cấu nội bộ ngành trồng trọt 56
2.1.5.Cơ cấu nội bộ ngành chăn nuôi 72
2.2.Khái quát những thành tựu và hạn chế trong quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam từ sau đổi mới 77
2.2.1.Những thành tựu nổi bật 77
2.2.2.Những hạn chế trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thời
gian qua 80
Chơng 3. Định hớng và những giải pháp chủ yếu nhằm
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành nông nghiệp ở Việt Nam 84
3.1.Định hớng giải pháp cho vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở
Việt Nam trong thời gian tới. 84
3.2.Những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam. 89
3.2.1.Xây dựng các quy hoạch tổng quan phát triển các ngành sản xuất
chủ yếu của ngành nông nghiệp. 89
3.2.2.Củng cố và mở rộng thị trờng cho hàng nông sản, đặc biệt quan
tâm đến thị trờng xuất khẩu 92
3.2.3.Tăng cờng hoạt động chuyển giao công nghệ, đẩy nhanh ứng dụng
những thành tựu của khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. 94
3.2.4.Phát triển công nghiệp chế biến giải quyết đầu ra cho hàng nông
sản và nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp. 97
3.2.5.Khuyến khích các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp theo h-
ớng phát triển kinh tế nhiều thành phần. 99
3.2.6.Tổng kết và nhân rộng các mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp có hiệu quả. 102
3.2.7.Đổi mới chính sâch và tăng cờng hiệu lực quản lý của Nhà nớc đối
với nông nghiệp nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông
nghiệp nói riêng. 104
Kết luận 106
2
Tµi liÖu tham kh¶o 109
3
Danh mục bảng
Bảng : Cơ cấu nông nghiệp - lâm nghiệp - thuỷ sản Việt
Nam 1986-2002 44
Bảng : Cơ cấu lao động nông nghiệp, lâm nghiệp và
thủy sản, 1995-2000 (%) 45
Bảng : Chi ngân sách Nhà nớc cho nông nghiệp, nông
thôn 1996-2001 45
Bảng : Cơ cấu giá trị sản xuất trồng trọt - chăn nuôi -
dịch vụ nông nghiệp 51
Bảng : Tốc độ tăng trởng trồng trọt, chăn nuôi và
dịch vụ nông nghiệp, 1986-2002 53
Bảng : Giá trị sản xuất ngành trồng trọt 1986-2002
(theo giá so sánh 1994) 56
Bảng : Cơ cấu giá trị sản xuất ngành trồng trọt, 1986-
2002 (%) 58
Bảng : Cơ cấu diện tích lơng thực, 1990-1999 59
Bảng : Cơ cấu diện tích gieo trồng một số cây công
nghiệp lâu năm 65
Bảng : Diện tích trồng cây công nghiệp hàng năm
(nghìn ha) 68
4
Bảng : Diện tích và giá trị sản xuất cây ăn quả, 1990-
2002 70
Bảng : Giá trị sản xuất ngành trồng trọt/ha đất
(theo giá so sánh 1994) 71
Bảng : Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi, 1990-2002 (giá
so sánh 1994) 72
Bảng : Tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi
(%) 73
Bảng : Tỷ trọng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi, 1990-
2002 (%) 74
Danh mục biểu đồ
5
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, thực hiện đờng lối Đổi mới của Đảng, sản xuất
nông nghiệp của Việt Nam đã có bớc phát triển đáng kể. Trong một thời gian
không dài, từ một nền nông nghiệp tự túc, lạc hậu Việt Nam đã bớc đầu xây
dựng đợc một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa; từ chỗ phải nhập khẩu lơng
thực, Việt Nam không những đảm bảo đợc an toàn lơng thực quốc gia mà còn
có xuất khẩu. Hơn thế nữa, một số mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu còn có vị
thế và thị phần cao trên thị trờng quốc tế.
Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan, hiện nay, sự phát triển của
nông nghiệp Việt Nam vẫn cha tơng xứng với tiềm năng của đất nớc. Các
nguồn lực nông nghiệp của Việt Nam vẫn đang bị sử dụng một cách lãng phí và
hiệu quả thấp. Với điều kiện khí hậu thuận lợi, đất đai màu mỡ... và với hơn
75% lực lợng lao động nhng nông nghiệp chỉ đóng góp 23% vào tổng sản phẩm
quốc dân.
Để nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, Nghị quyết hội nghị TW 5
khoá VII đã xác định: chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của quá trình tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế
nông thôn. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đợc coi là nội
hàm của sự phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp Việt Nam, từ đó đa ra các gợi ý về giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả phát triển của ngành nói riêng và phát triển kinh tế đất nớc nói chung
là rất cần thiết và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
6
Chuyển dịch cơ cấu là nội hàm của sự phát triển kinh tế. Nông nghiệp lại
là một ngành sản xuất vật chất quan trọng trong nền kinh tế vì vậy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp để thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển theo h-
ớng sản xuất hàng hoá đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, kinh tế
và quản lý. Điển hình là các công trình nh:
- Tác động của cơ chế quản lý kinh tế với việc thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, Luận án PTS của Nguyễn Hữu Đức, 1996.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, TS. Lê Đình
Thắng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1998.
- Chuyển dịch cơ cấu và xu hớng phát triển của kinh tế nông nghiệp
Việt nam theo hớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ thế kỷ XX đến thế kỷ XXI
trong thời đại kinh tế tri thức, Chủ biên Lê Quốc Sử, NXB Thống Kê, Hà Nội
2001.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Yên Bái trong quá trình
CNH, HĐH, Luận án PTS của Vũ Ngọc Kỳ, 1996.
Tuy nhiên, do mục tiêu và yêu cầu nghiên cứu khác nhau, phần lớn các
công trình nghiên cứu trên chỉ tập trung nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trên diện rộng là cơ cấu kinh tế nông thôn hoặc nếu có nghiên cứu
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thì chỉ nghiên cứu ở phạm vi hẹp trong
một tỉnh. Một vài nghiên cứu có đề cập đến xu hớng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp hay tác động của việc quản lý Nhà nớc đến quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhng việc khái quát và luận giải quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Việt Nam một cách rõ ràng, khoa học d-
ờng nh cha đợc đề cập đến. Đề tài này sẽ cố gắng lấp những chỗ trống kể trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
Mục đích nghiên cứu:
7
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp và kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở một
số nớc, luận văn phân tích và làm rõ thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất những giải pháp chủ
yếu nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Việt Nam theo h-
ớng hợp lý hơn, hiệu quả hơn.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa và phân tích một số luận điểm cơ bản về chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành nông nghiệp và kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp của một số nớc;
- Phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Việt Nam
từ 1986 đến nay và chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế của quá trình đó;
- Đề xuất quan điểm định hớng và những giải pháp chủ yếu nhằm thúc
đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp Việt Nam
hiệu quả hơn.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tợng nghiên cứu: Cơ cấu kinh tế nông nghiệp có thể xem xét trên
nhiều góc độ khác nhau, song vì Luận văn nghiên cứu cơ cấu kinh tế nông
nghiệp trên phạm vi rộng của cả nớc nên chỉ giới hạn nghiên cứu về cơ cấu
kinh tế nông nghiệp phân theo ngành (gọi tắt là cơ cấu kinh tế ngành nông
nghiệp) và sự chuyển dịch cơ cấu ấy. Đồng thời, ngành nông nghiệp đợc
hiểu theo nghĩa hẹp bao gồm ba nhóm ngành là: trồng trọt, chăn nuôi và
dịch vụ nông nghiệp.
- Phạm vi nghiên cứu: sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp
Việt Nam trên phạm vi cả nớc, có tham khảo kinh nghiệm chuyển dịch cơ
8
cấu kinh tế nông nghiệp của các nớc có nền nông nghiệp tiên tiến trong
khu vực.
- Thời gian nghiên cứu: từ 1986 đến 2002
5. Phơng pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
làm phơng pháp nghiên cứu cơ bản, đồng thời kết hợp với các phơng pháp
phân tích, thống kê, so sánh, tổng hợp... để làm rõ vấn đề nghiên cứu.
6. Những đóng góp mới về khoa học của Luận văn
- Hệ thống hóa những lý luận cơ bản về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
nông nghiệp
- Phân tích và đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông
nghiệp ở Việt Nam
- Đề xuất một số giải pháp thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành nông nghiệp của Việt Nam
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 ch-
ơng.
Chơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành nông nghiệp
Chơng 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở
Việt Nam 1986-2002
Chơng 3: Định hớng và những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở Việt
Nam
9
Chơng 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành nông nghiệp
1.1. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
1.1.1. Khái niệm và đặc trng của cơ cấu kinh tế
Khái niệm cơ cấu thờng đợc sử dụng để biểu thị cấu trúc bên trong, tỷ lệ
và mối liên hệ giữa các bộ phận hợp thành của một hệ thống. Sau một thời gian
biến đổi, các quan hệ giữa các bộ phận sẽ làm cho cơ cấu của hệ thống thay
đổi, nó chuyển sang một trạng thái khác về chất hay trở thành một cơ cấu khác.
Nếu hiểu biết cơ cấu của toàn bộ hệ thống thì sẽ nghiên cứu đợc quy luật để
xác định các vấn đề có tính định lợng của hệ thống đó. Vì vậy, nghiên cứu về
cơ cấu có vai trò cực kỳ quan trọng trong nghiên cứu hệ thống và khi nghiên
cứu cơ cấu, cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
- Không chỉ nghiên cứu về những yếu tố cấu thành hệ thống mà còn phải
nghiên cứu về mối quan hệ, liên kết hữu cơ giữa các yếu tố đó (cả về tỷ
trọng số lợng, chất lợng các yếu tố) và sự vận động, biến đổi cơ cấu của hệ
thống. Điều này đòi hỏi phải nghiên cứu theo chuỗi thời gian.
- Phải đứng trên quan điểm hệ thống để nghiên cứu cơ cấu.
Để nghiên cứu hệ thống kinh tế quốc dân, cần phải nghiên cứu về cơ cấu
cấu thành hệ thống đó. Trên quan điểm hệ thống nh vậy, có thể hiểu cơ cấu
kinh tế của một nớc là tập hợp các yếu tố cấu thành nền kinh tế của nớc đó và
mối quan hệ, những tác động qua lại giữa tất cả các yếu tố cấu thành nền kinh
tế quốc dân.
Trong cơ cấu kinh tế có sự thống nhất giữa lực lợng sản xuất và quan hệ
sản xuất. Theo Mác, cơ cấu kinh tế của xã hội là toàn bộ những quan hệ phù
10
hợp với một quá trình phát triển nhất định của các lực lợng sản xuất vật chất.
Khi quá trình tổ chức lao động phát triển mạnh mẽ sẽ làm thay đổi cơ cấu kinh
tế của xã hội. Vì thế có thể hiểu cơ cấu kinh tế là tổng thể các mối quan hệ chủ
yếu về chất lợng và số lợng tơng đối ổn định của các yếu tố kinh tế hoặc các bộ
phận của lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất trong một hệ thống tái sản xuất
xã hội với những điều kiện kinh tế- xã hội và thời gian nhất định. Điều đó có
nghĩa là khi xem xét cơ cấu kinh tế phải xem xét cấu trúc bên trong của nền
kinh tế qua các mối quan hệ khác nhau. Các quan hệ này không chỉ là quan hệ
tỷ lệ mang tính số lợng mà còn mang tính chất lợng thể hiện sự ràng buộc giữa
quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất. Hơn thế nữa, hệ thống kinh tế có có đặc
điểm: là hệ thống mở, phức tạp, động, đa cấu trúc, phân cấp, tự điều chỉnh và
bị điều khiển bởi nhà nớc, vì thế cơ cấu kinh tế có thể vận động theo những
mục tiêu nhất định của nền kinh tế.
Dới dạng tổng quát, cơ cấu kinh tế (của một nớc) có thể đợc hiểu là tập
hợp các yếu tố kinh tế cấu thành nền kinh tế quốc dân, phản ánh mối quan hệ
hữu cơ, những tác động qua lại giữa các yếu tố kinh tế đó, đợc thể hiện ra cả
về số lợng và chất lợng, trong những không gian, điều kiện kinh tế- xã hội cụ
thể và vận động hớng vào các mục tiêu nhất định của nền kinh tế.
Đặc trng của cơ cấu kinh tế
Trớc hết, cơ cấu kinh tế có tính khách quan và mang tính lịch sử, xã hội
nhất định, đợc hình thành do trình độ phát triển sản xuất và phân công lao động
xã hội. Khi sản xuất và phân công lao động càng phát triển thì cơ cấu kinh tế
ngày càng chi tiết.
Cơ cấu kinh tế đợc hình thành, tồn tại và phát triển theo quy luật khách
quan nên có tính khách quan. Vì vậy, con ngời chỉ có thể vận hành nó trên cơ
sở tuân theo quy luật khách quan của nó. Con ngời cũng không thể áp đặt cơ
cấu kinh tế một cách giáo điều cho mọi nơi, mọi lúc vì nó có tính lịch sử, xã
11
hội nhất định. Nền kinh tế chỉ phát triển khi các bộ phận của quá trình tái sản
xuất xã hội giữ đợc mối liên hệ cân đối. Mỗi phơng thức sản xuất có những yêu
cầu về số lợng và tỷ lệ cân đối khác nhau do các quy luật kinh tế đặc thù mà tr-
ớc hết là các quy luật kinh tế cơ bản của phơng thức sản xuất đó quy định.
Ngay trong cùng một hình thái kinh tế- xã hội nhng ở những nớc khác nhau thì
cơ cấu kinh tế cũng khác nhau do có điều kiện kinh tế- xã hội khác nhau. Cơ
cấu kinh tế thờng biến động gắn với sự phát triển không ngừng của bản thân
các yếu tố, bộ phận trong nền kinh tế và các mối quan hệ của chúng.
Thứ hai, trong cơ cấu kinh tế, các yếu tố, các bộ phận kinh tế không tách
rời một cách độc lập mà liên hệ với nhau hết sức chặt chẽ theo những quy luật
đặc thù riêng.
Thứ ba, một cơ cấu kinh tế có thể bao gồm nhiều bộ phận kinh tế khác
nhau, có bộ phận kinh tế chủ yếu, có bộ phận kinh tế thứ yếu. Bộ phận kinh tế
chủ yếu có thể đợc gọi là bộ phận then chốt, mũi nhọn quyết định chiều hớng,
quy mô, nhịp độ phát triển của tổng thể nền kinh tế.
Thứ t, cơ cấu kinh tế không cố định, nó không ngừng vận động, biến đổi
và phát triển theo xu hớng ngày càng hoàn thiện hơn, mở rộng hơn và hiệu quả
hơn trong quá trình phân công và hợp tác lao động giữa các ngành, các vùng,
các đơn vị kinh tế trong nớc và trên phạm vi quốc tế.
1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và những nhân tố ảnh hởng tới
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
Hệ thống kinh tế quốc dân có thể đợc xem xét trên nhiều khía cạnh và t-
ơng ứng sẽ có những cơ cấu kinh tế khác nhau. Trong nghiên cứu kinh tế, ba
loại cơ cấu kinh tế thờng đợc đề cập là: cơ cấu kinh tế ngành (xét theo sự phân
công lao động trong quá trình sản xuất xã hội), cơ cấu kinh tế thành phần (xét
trên góc độ sở hữu và hình thức tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh) và cơ cấu
12
kinh tế vùng (xét theo các đặc điểm sinh thái tự nhiên, phân bố theo không
gian). Ba loại cơ cấu kinh tế này có sự ràng buộc lẫn nhau, có mối quan hệ tác
động qua lại lẫn nhau, đan xen nhau, trong đó cơ cấu kinh tế ngành là cơ cấu
cơ bản nhất, phản ánh rõ nhất trình độ phát triển của phân công lao động xã
hội, trình độ phát triển của lực lợng sản xuất, trình độ khoa học công nghệ của
hệ thống kinh tế, Do đó, cơ cấu kinh tế ngành có vai trò quan trọng nhất trong
việc phân tích, đánh giá, dự báo sự phát triển của nền kinh tế. Cũng chính vì
vậy, luận văn cũng chủ yếu đề cập tới cơ cấu kinh tế ngành và sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp trong nghiên cứu.
Một cách đơn giản, có thể hiểu cơ cấu ngành của nền kinh tế là kết cấu
hữu cơ theo ngành của nền kinh tế, nó phản ánh các mối quan hệ tơng đối ổn
định giữa các ngành hình thành nên nền kinh tế quốc dân. Sự thay đổi cơ cấu
kinh tế ngành theo thời gian đợc gọi là chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
(chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành).
Theo Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA), nền kinh tế đợc phân thành 3
nhóm ngành lớn là nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Trong mỗi nhóm
ngành lại bao gồm nhiều ngành và phân ngành nhỏ hơn.
Cũng giống nh các cơ cấu kinh tế khác, cơ cấu kinh tế ngành không cố
định. Sự thay đổi cơ cấu ngành hay sự chuyển dịch cơ cấu ngành là kết quả của
quá trình:
- Xuất hiện thêm những ngành mới hay mất đi một số ngành đã có, tức là đã
có sự thay đổi về số lợng cũng nh loại ngành trong nền kinh tế.
- Tăng trởng về quy mô với nhịp độ khác nhau của các ngành dẫn tới thay đổi
cơ cấu hay nói cách khác, sự phát triển không đều của các ngành sau mỗi
giai đoạn đã làm thay đổi cơ cấu kinh tế ngành.
13
- Thay đổi trong mối quan hệ tác động qua lại giữa các ngành. Mối quan hệ
của một ngành với các ngành khác thể hiện qua quy mô đầu vào mà nó cung
cấp cho các ngành khác hay nhận đợc từ các ngành đó. Khi công nghệ sản
xuất thay đổi sẽ làm cho mối quan hệ này thay đổi, kéo theo những tác động
hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của các ngành có liên quan và vì
thế dẫn tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành.
Tóm lại, sự tăng trởng của các ngành dẫn đến sự thay đổi cơ cấu ngành
trong một nền kinh tế, làm cho cơ cấu kinh tế ngành không ngừng vận động,
biến đổi và phát triển. Quá trình vận động, biến đổi đó chính là quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sự chuyển dịch đó luôn luôn gắn bó chặt chẽ với
quá trình phát triển của lực lợng sản xuất và phân công lao động xã hội. Lực l-
ợng sản xuất càng phát triển cao, càng hiện đại thì phân công lao động xã hội
cũng phát triển cao hơn, tỉ mỉ hơn, theo quy luật quan hệ sản xuất luôn phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất. Và, nh vậy, cơ cấu
kinh tế dần đợc hoàn thiện hơn, hiệu quả hơn và mở rộng hơn. Cho nên chuyển
dịch cơ cấu ngành xảy ra nh là kết quả của quá trình phát triển. Đây là quy luật
tất yếu dù xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế hay trên phạm vi phân ngành
hẹp hơn.
Sự hình thành và tăng trởng của các ngành kinh tế lại phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, cả chủ quan và khách quan. Có thể tổng hợp các nhân tố tác động
tới quá trình hình thành, tăng trởng của các ngành kinh tế, và do đó kéo theo sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là:
- Các nhân tố địa lý - tự nhiên (nh tài nguyên khoáng sản, nguồn nớc, nguồn
năng lợng, đất đai, khí hậu). Những yếu tố này tác động trực tiếp và mang
tính khách quan đến sự hình thành cơ cấu kinh tế ngành. Những nớc, những
vùng khác nhau có u thế địa lý và khí hậu khác nhau sẽ có cơ cấu ngành
khác nhau, tơng ứng phù hợp với các điều kiện đó. Đồng thời, việc có tài
14
nguyên khoáng sản hay không, nhiều hay ít cũng ảnh hởng tới việc tạo ra cơ
cấu kinh tế ngành và tốc độ tăng trởng của mỗi ngành kinh tế.
- Các nhân tố kinh tế - xã hội (khoa học kỹ thuật và công nghệ, phong tục,
tập quán, truyền thống dân tộc, thị trờng, sức mua...). Những nhân tố này
không chỉ có ảnh hởng tới quá trình hình thành cơ cấu kinh tế ngành mà còn
có tác động lớn đến năng suất, tốc độ tăng trởng của mỗi ngành và do đó, sẽ
dẫn tới sự thay đổi cơ cấu kinh tế ngành.
- Các nhân tố kinh tế đối ngoại và phân công lao động quốc tế. Trong môi
trờng toàn cầu hoá hiện nay, một nền kinh tế mở sẽ chịu nhiều tác động hơn
của các yếu tố ngoài nớc: sự biến động của giá cả thị trờng thế giới, sự thay
đổi nhu cầu, yếu tố luật pháp, các rào cản thơng mại,... và vì vậy sự thay đổi
của những yếu tố này cũng sẽ tác động tới việc tiêu thụ sản phẩm do đó ảnh
hởng trực tiếp đến quy mô sản xuất, ảnh hởng trực tiếp đến sự phát triển của
các ngành kinh tế dẫn tới thay đổi cơ cấu kinh tế ngành.
- Các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nớc: Trong nền kinh tế thị trờng
hiện đại ngày nay, Nhà nớc thờng trực tiếp tham gia vào điều tiết nền kinh
tế đảm bảo cho nền kinh tế tăng trởng cao và phát triển bền vững. Sự quản
lý, điều tiết của Nhà nớc đợc thực hiện thông qua việc ban hành các chính
sách kinh tế vĩ mô. Các chính sách kinh tế vĩ mô sẽ ảnh hởng tới các yếu tố
đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất (huy động vốn, công nghệ, nguồn
nhân lực, thị trờng), do vậy sẽ tác động ngay đến tốc độ, khả năng phát triển
của các ngành, sẽ làm cho cơ cấu kinh tế ngành thay đổi.
Tóm lại, sự thay đổi cơ cấu hay sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế có thể do
những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trong quá trình phát triển, nếu
nh không có những tác động chủ quan của con ngời, của Nhà nớc thì cơ cấu
kinh tế vẫn chuyển dịch. Tuy nhiên, nhà nớc có thể chủ động tác động vào cơ
cấu kinh tế, làm thay đổi nó phù hợp với những mục tiêu nhất định. Sự tác động
15
của nhà nớc nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hớng là để đạt đợc một
mô hình cơ cấu có lợi thế so sánh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn
lực.
Tuy nhiên, trong quá trình can thiệp của nhà nớc nhằm chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo một mục tiêu chủ quan nhất định thì cần phải chú trọng một số
điểm sau:
Trớc hết, do cơ cấu kinh tế là phạm trù khách quan nên không thể áp đặt
một cách chủ quan một cơ cấu kinh tế, cũng không thể nóng vội để xác lập tức
thời cơ cấu kinh tế mới, tiến bộ khi điều kiện khách quan cha cho phép. Sự duy
trì quá lâu hoặc sự thay đổi quá nhanh chóng cơ cấu kinh tế mà không dựa vào
những biến đổi của điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội đều gây nên những thiệt
hại về kinh tế. Việc duy trì hay thay đổi cơ cấu kinh tế không phải là mục tiêu
mà chỉ là phơng tiện của việc tăng trởng và phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, việc xác định bộ phận
kinh tế chủ yếu, then chốt, mũi nhọn có vai trò quan trọng. Việc lựa chọn này
xuất phát từ nguyên tắc lợi thế so sánh để đạt hiệu quả cao nhất trong điều kiện
các nguồn lực hạn chế. Việc phân tán nguồn lực, vốn đầu t cho tất cả các bộ
phận kinh tế sẽ đi ngợc lại nguyên tắc hiệu quả, còn nếu quá tập trung vào một
bộ phận sẽ lại gây ra sự mất cân đối của cơ cấu kinh tế, thậm chí còn dẫn đến
một nền kinh tế què quặt, gây các hậu quả kinh tế, xã hội khác.
Chúng ta cũng cần phân biệt khái niệm chuyển dịch cơ cấu với điều
chỉnh cơ cấu và cải tổ cơ cấu. Trong ba khái niệm này, khái niệm chuyển dịch
cơ cấu mang ý nghĩa khái quát nhất, nó nói đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế qua
thời gian do cả các nhân tố khách quan và chủ quan. Còn điều chỉnh cơ cấu
và cải tổ cơ cấu là sự thay đổi cơ cấu kinh tế một cách chủ động của nhà n-
ớc, đợc thực hiện thông qua việc ban hành các chính sách kinh tế vĩ mô và
chính sách kinh tế ngành để tác động vào quá trình hình thành và phát triển của
16
các ngành khác nhau và do đó sẽ làm cho cơ cấu kinh tế ngành thay đổi theo
mục đích của nhà nớc. Điều chỉnh cơ cấu và cải tổ cơ cấu thờng gắn với
những thay đổi tơng đối lớn của nhà nớc (tơng ứng trong ngắn hạn và dài hạn)
khi việc thay đổi cơ cấu kinh tế trở thành một yêu cầu bức bách hoặc vì sự
chậm trễ trong giai đoạn trớc đó, hoặc vì kết quả đột biến của từng ngành, hoặc
một phân ngành nào đó, đòi hỏi phải xác lập một cơ cấu mới, tạo ra sự đồng bộ
trong toàn bộ nền kinh tế hay trong một ngành nào đó.
1.2. Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành nông nghiệp
1.2.1. Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp
Nông nghiệp là một trong ba khu vực lớn cấu thành nền kinh tế quốc
dân. Ngành nông nghiệp có đặc thù riêng so với hai khu vực còn lại thể hiện ở
đối tợng lao động chủ yếu của ngành là những sinh vật sống (cây trồng, vật
nuôi). Ngành nông nghiệp cũng đợc chia thành nhiều ngành và phân ngành chi
tiết hình thành nên cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp. Cơ cấu kinh tế ngành
nông nghiệp phản ánh sự phát triển của phân công lao động và lực lợng sản
xuất trong lĩnh vực nông nghiệp.
Trên cơ sở khái niệm cơ cấu kinh tế, dới dạng tổng quát, có thể hiểu cơ
cấu kinh tế ngành nông nghiệp (cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo ngành) là tập
hợp các ngành kinh tế cấu thành ngành nông nghiệp, phản ánh mối quan hệ
hữu cơ, những tác động qua lại giữa các ngành kinh tế đó, đợc thể hiện ra cả
về số lợng và chất lợng, trong những không gian, điều kiện kinh tế- xã hội cụ
thể và vận động hớng vào các mục tiêu nhất định của nền kinh tế.
Về việc phân ngành trong lĩnh vực nông nghiệp, theo nghĩa rộng, ngành
nông nghiệp bao gồm ba ngành lớn là: nông nghiệp (theo nghĩa hẹp), lâm
17
nghiệp và thuỷ sản. Ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp gồm trồng trọt, chăn
nuôi và dịch vụ nông nghiệp. Trong lịch sử phát triển ngành nông nghiệp, hai
ngành trồng trọt và chăn nuôi xuất hiện trớc. Khi lực lợng sản xuất phát triển,
phân công lao động phát triển đã làm xuất hiện thêm ngành lâm nghiệp và thuỷ
sản nên cơ cấu ngành nông nghiệp truyền thống đợc mở rộng. Ngành trồng trọt
và chăn nuôi trở thành những ngành bộ phận cấu thành ngành nông nghiệp theo
nghĩa hẹp.
Đối với nớc ta hiện nay, mặc dù đã có sự xuất hiện và đang dần phát
triển của các ngành lâm nghiệp và thuỷ sản, nhng nông nghiệp theo nghĩa hẹp
(chủ yếu bao gồm trồng trọt và chăn nuôi) vẫn đang chiếm tỷ trọng rất lớn
trong tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp nói chung và vì vậy vẫn giữ một vai
trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế nông nghiệp và kinh tế đất nớc. Cũng
chính vì lý do đó, trong luận văn này, tác giả chỉ giới hạn nghiên cứu cơ cấu
ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp.
Trong mỗi ngành bộ phận thuộc ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp lại đ-
ợc chia thành những ngành nhỏ hơn nh ngành trồng trọt đợc chia thành các
nhóm: cây lơng thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, rau đậu và các cây trồng
khác; chăn nuôi đợc chia thành chăn nuôi gia súc, chăn nuôi gia cầm và chăn
nuôi khác. Trong mỗi tiểu ngành ấy lại chia thành các tiểu ngành nhỏ hơn nữa
hoặc thành các ngành sản phẩm cụ thể: trồng lúa, trồng sắn, trồng mía, trồng
cây công nghiệp dài ngày, cây công nghiệp ngắn ngày..., chăn nuôi trâu, bò,
cừu, lợn, gà, vịt, ngan, chim.... Mức độ phân ngành càng chi tiết phản ánh trình
độ chuyên môn hoá và phân công lao động xã hội ngày càng cao.
Có thể thấy rằng, cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp là một bộ phận của
cơ cấu kinh tế ngành chung. Nó vừa chịu sự chi phối, ràng buộc bởi cơ cấu kinh
tế chung vừa thể hiện các đặc thù của một ngành sản xuất lấy sinh vật sống làm
đối tợng tác động và sản phẩm của nó lại có tính phổ biến ai ai cũng biết đến.
18
Xã hội càng phát triển thì nhu cầu về các nông sản càng giảm, nhng đặc biệt là
không bao giờ giảm tới 0 nh một số hàng hoá khác.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là nền tảng của cơ cấu kinh tế quốc dân vì
trong quá trình phát triển của loài ngời, vấn đề đầu tiên cần đáp ứng phải là vấn
đề ăn, ở rồi mới đến các nhu cầu khác. Điều đó cũng có nghĩa là cơ cấu kinh tế
nông nghiệp vừa là chỗ dựa, vừa là động lực thúc đẩy và cũng vừa là nơi trì trệ,
lạc hậu nhất trong toàn bộ nền kinh tế. Kinh nghiệm phát triển kinh tế đã chỉ
rõ, không bao giờ các kỹ thuật và công nghệ sản xuất trong nông nghiệp vợt
hơn các ngành khác.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp có đầy đủ các đặc trng chung là có tính
khách quan, tính lịch sử xã hội nhất định, tính ổn định tơng đối và luôn tác
động lẫn nhau vận động biến đổi không ngừng và ngày càng hoàn thiện. Nó
cũng chịu tác động của các nhóm yếu tố nh địa lý, tự nhiên, kinh tế xã hội và
các yếu tố quốc tế.
1.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp
Cũng giống nh các cơ cấu kinh tế khác, quá trình phát triển kinh tế nông
nghiệp tất yếu cũng sẽ dẫn tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông
nghiệp. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp cũng là kết quả của
sự tăng trởng các ngành sản xuất trong nông nghiệp, là kết quả của quá trình
phát triển phân công lao động xã hội và lực lợng sản xuất trong nông nghiệp.
Trong quá trình phát triển, con số tỷ trọng phản ánh mối quan hệ giữa các
ngành sẽ thay đổi, đồng thời sự phát triển có thể làm xuất hiện những ngành
sản phẩm mới, hay mất đi những ngành sản phẩm không còn phù hợp, xã hội
không có nhu cầu hoặc sản xuất không hiệu quả làm cơ cấu kinh tế ngành nông
nghiệp thay đổi, chuyển dịch. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông
19
nghiệp cũng có thể do các nguyên nhân khách quan và vừa có thể do các
nguyên nhân chủ quan từ phía nhà nớc.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất nông nghiệp, nhà nớc có thể
can thiệp, chủ động tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
nông nghiệp nhằm thay đổi cơ cấu kinh tế ngành theo hớng có lợi. Thực tiễn
lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã chỉ ra rằng, trong nền kinh tế thị trờng
không chỉ cần sự tác động của các quy luật thị trờng nh một bàn tay vô hình
để điều tiết nền kinh tế. Để nền kinh tế hoạt động hiệu quả, còn cần đến bàn
tay thứ hai đó là sự điều tiết của nhà nớc.
Trong điều kiện cụ thể của ngành nông nghiệp, sự tác động của Nhà nớc
vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành càng trở nên cần thiết nhằm
nâng cao hiệu quả của sản xuất nông nghiệp. Để tác động vào cơ cấu kinh tế,
trớc hết nhà nớc phải xác định đợc trong cơ cấu kinh tế mới, ngành nào sẽ là
ngành chủ yếu, mũi nhọn, những ngành nào có vai trò quan trọng và những
ngành nào có vai trò thứ yếu. Trong điều kiện vốn ít chúng ta không có điều
kiện đầu t vào nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, vì vậy không cho phép chúng ta
thực hiện phát triển cân đối. Lý thuyết tăng trởng không cân đối đã chỉ ra
rằng: Đối với các nớc nghèo, các nớc đang phát triển, do sự hạn chế về vốn, lao
động kỹ thuật, khoa học - công nghệ, thị trờng... việc phát triển với cơ cấu
ngành không cân đối hay cực tăng trởng là có lợi và cần thiết vì:
- Tạo ra sự kích thích đầu t nhờ bất cân bằng cung cầu, nh động lực khuyến
khích đầu t nâng cao năng lực sản xuất.
- Các cực tăng trởng là các ngành, các lĩnh vực có tác dụng nh đầu tàu lôi
kéo toàn bộ nền kinh tế phát triển. Với ý nghĩa nh vậy, trong mỗi thời điểm
nhất định phải biết chọn lựa những lĩnh vực có lợi thế để tập trung những
nguồn lực còn khan hiếm của mỗi quốc gia nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng nguồn lực.
20
Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ở nớc ta hiện nay, các nguồn lực
phát triển là hạn chế, vì vậy, việc ứng dụng lý thuyết Tăng trởng không cân đối
là phù hợp. Theo lý thuyết này, Nhà nớc cần tham gia vào quá trình điều tiết
nhằm xác định các ngành có vai trò là cực tăng trởng đóng vai trò là ngành
mũi nhọn để tập trung đầu t. Việc xác định cực tăng trởng dựa trên nhiều cơ
sở, trong đó đặc biệt coi trọng sự phân tích lợi thế so sánh của từng ngành. Việc
phân tích lợi thế so sánh trong sản xuất nông nghiệp của từng ngành lại phụ
thuộc vào những điều kiện cụ thể gắn với mỗi vùng địa lý cụ thể. Lý thuyết lợi
thế so sánh đã chỉ ra rằng: Một nớc nếu tập trung vào sản xuất những sản phẩm
có lợi thế so sánh so với nớc ngoài, sau đó thực hiện thơng mại quốc tế, đem
trao đổi lấy các sản phẩm khác của nớc ngoài thì sẽ thu đợc lợi ích, hiệu quả
cao hơn so với việc tự sản xuất tất cả các mặt hàng trong nớc. Trong sản xuất
nông nghiệp, vì sản xuất nông nghiệp chịu nhiều ảnh hởng của tự nhiên, sản
phẩm nông nghiệp mang tính đặc thù gắn với điều kiện thời tiết, khí hậu, đất
đai, do đó, mỗi nớc ở vào các vùng địa lý khác nhau, sẽ có các sản phẩm có lợi
thế so sánh khác nhau. Vì vậy, việc xác định một cách chính xác sản phẩm
mang lợi thế so sánh của quốc gia để tập trung sản xuất và tham gia vào thơng
mại quốc tế sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao cho quốc gia.
Trong phạm vi một quốc gia, việc ứng dụng lý thuyết này cũng có thể
đem lại lợi ích cao nhất cho mỗi vùng kinh tế, và vì vậy, đem lại hiệu quả cao
nhất cho ngành sản xuất nông nghiệp cả nớc nói chung. Trong phạm vi hẹp
quốc gia, đặc biệt trong điều kiện địa hình trải dài của Việt Nam, mỗi vùng
lãnh thổ lại có những điều kiện tự nhiên, đất đai, nguồn nớc, thời tiết, khí hậu,
truyền thống... khá khác biệt, do vậy, mỗi vùng sẽ có những sản phẩm lợi thế
khác nhau. Việc xác định đợc chính xác sản phẩm có lợi thế so sánh của từng
vùng và tập trung sản xuất, sau đó thực hiện trao đổi sản phẩm giữa các vùng sẽ
đem lại hiệu quả, lợi ích cao hơn cho mỗi vùng (giống nh lợi ích quốc gia có đ-
ợc khi tham gia vào thơng mại quốc tế), và vì vậy, hiệu quả sản xuất nông
nghiệp quốc gia cũng đợc tăng lên.
21
Tuy nhiên, khi chủ động tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp cần thấy rằng cơ cấu kinh tế nông nghiệp có một số đặc trng
riêng.
Thứ nhất, sản xuất nông nghiệp lấy đối tợng là sinh vật sống nên chúng
có quy luật sinh ra và lớn lên đồng thời lại chịu tác động lớn bởi sự thay đổi
của thời tiết, khí hậu nên kết quả đầu ra với số lợng và chất lợng yếu tố đầu vào
là không đều, hay thay đổi và nhiều khi không tỷ lệ thuận. Do vậy, việc tính
toán hồi quy, sử dụng các mô hình Toán để định lợng xác định một cơ cấu kinh
tế hiệu quả là việc khó khăn cũng nh kết quả có đợc chỉ mang ý nghĩa rất tơng
đối.
Thứ hai, việc hình thành cơ cấu kinh tế nông nghiệp luôn gắn với quan
hệ cung cầu và giá cả trên thị trờng. Theo quy luật cung cầu thì giá tăng, lợng
cung sẽ tăng và lợng cầu sẽ giảm. Khi cung cầu gặp nhau sẽ có điểm cân bằng
và tại đó sẽ xác định đợc lợng hàng hoá sản xuất ra. Và nh vậy sẽ tính toán đợc
giá trị sản phẩm của từng ngành, từ đó dự đoán đợc cơ cấu kinh tế ngành. Đó là
về nguyên tắc, còn đối với nông nghiệp có chu kỳ sản xuất dài, trong nhiều tr-
ờng hợp nguồn lực khó di chuyển từ sản xuất mặt hàng này sang sản xuất mặt
hàng khác nên việc hình thành cơ cấu kinh tế nông nghiệp bị chi phối bởi một
quy luật gọi là hiệu ứng trễ. Có nghĩa là giá cả thời kỳ trớc có ảnh hởng tới
cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp thời kỳ sau, điều đó tạo nên một chu kỳ theo
một số vụ sản xuất nào đó. Trong cơ chế thị trờng, muốn có một cơ cấu kinh tế
nông nghiệp hợp lý và theo chủ đích thì phải tác động bằng nhiều cách nh: qua
các chính sách, dự trữ, hớng dẫn tiêu dùng, dự báo...
Thứ ba, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải coi trọng sự kết
hợp đa dạng hoá và chuyên môn hoá. Sản xuất nông nghiệp là ngành phụ thuộc
nhiều nhất vào nhóm điều kiện địa lý - tự nhiên so với các lĩnh vực khác, lại trải
dài trên khắp cả nớc, qua nhiều vùng địa lý khác nhau, với nhiều kiểu đất khác
nhau, với nhiều trình độ khác nhau, nên phải thực hiện đa dạng hoá. Nếu đồng
22
nhất hoá sản xuất nông nghiệp với các ngành kinh tế khác để vận hành theo
kiểu chuyên môn hoá cao độ sẽ dẫn tới thất bại.
Thứ t, cơ cấu kinh tế nông nghiệp vừa lệ thuộc vào cơ cấu kinh tế nông
thôn vừa có tác dụng thúc đẩy cơ cấu kinh tế nông thôn phát triển. Cơ cấu kinh
tế nông thôn gồm ba bộ phận chủ yếu là nông nghiệp (theo nghĩa rộng), công
nghiệp và dịch vụ. Kinh tế nông thôn bao trùm lên kinh tế nông nghiệp, các ch-
ơng trình phát triển nông thôn sẽ quyết định sự phát triển của nông nghiệp, ng-
ợc lại, sự phát triển của nông nghiệp sẽ kéo theo các ngành công nghiệp nông
thôn, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông sản phát triển, các dịch vụ đầu vào,
đầu ra, dịch vụ giao thông, môi giới phát triển.
Thông thờng, cụm từ kinh tế nông nghiệp nông thôn trở thành quen
thuộc và dễ nhầm tởng nông nghiệp và nông thôn là một. Thực ra, kinh tế nông
thôn và kinh tế nông nghiệp có sự gắn bó hữu cơ, có sự đan xen vào nhau song
không phải là một. Nông thôn là vùng sinh sống, làm việc của một cộng đồng
chủ yếu là nông dân, là vùng chủ yếu sản xuất nông nghiệp, nông nghiệp chiếm
tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu kinh tế nông thôn (điều này đã khiến chúng ta dễ
đồng nhất nông thôn và nông nghiệp). Song, có thể hiểu nông thôn là một khu
vực, cơ cấu kinh tế nông thôn là cơ cấu vùng lãnh thổ của nền kinh tế quốc dân
còn cơ cấu kinh tế nông nghiệp là cơ cấu ngành của kinh tế nông thôn.
Thứ năm, cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nằm trong mối quan hệ hữu
cơ với các cơ cấu kinh tế khác, đặc biệt có mối quan hệ chặt chẽ với cơ cấu
kinh tế vùng. Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp chịu nhiều ảnh hởng của
yếu tố địa lý - tự nhiên, mà mỗi vùng kinh tế lại có những yếu tố địa lý - tự
nhiên khác nhau nên trực tiếp sẽ ảnh hởng tới việc hình thành cơ cấu kinh tế
ngành trong nông nghiệp. Sự phân công lao động sản xuất nông nghiệp theo
các vùng sẽ tạo nên cơ cấu vùng nông nghiệp. Cơ cấu vùng biểu hiện quan hệ
của từng vùng so với tổng thể kinh tế nông nghiệp cả nớc. Trong mỗi vùng lại
có các cơ cấu ngành khác nhau, trong đó việc hình thành cơ cấu ngành sản xuất
23
nông nghiệp gắn liền với điều kiện cụ thể của từng vùng. Vì vậy, trong quá
trình tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp, sẽ
không có một cơ cấu kinh tế thống nhất cho mọi vùng kinh tế, mỗi vùng cần
phải có những chính sách riêng, cơ cấu kinh tế ngành riêng phù hợp.
Tóm lại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình, chịu sự tác động
của nhiều yếu tố, cả chủ quan và khách quan. Một cơ cấu kinh tế mới ra đời đ-
ợc bắt nguồn, đợc chuyển dịch từ một cơ cấu trớc đó, từ sự tích luỹ về lợng, đủ
mức dẫn tới sự biến đổi về chất, nó kế thừa những tinh hoa của cơ cấu cũ và
thay thế những mặt lỗi thời, lạc hậu của cơ cấu kinh tế cũ. Quá trình này sẽ đợc
thúc đẩy nhanh thông qua sự tác động thông minh của con ngời bằng một hệ
thống những chính sách và biện pháp đồng bộ tác động liên tục hợp quy luật.
Đơng nhiên, mọi sự chần chừ, bảo thủ đều là những trở lực làm hạn chế sự loại
bỏ những cái cũ, lạc hậu, thúc đẩy nhanh chóng cơ cấu mới ra đời; song thái độ
nóng vội, chủ quan không nhận thức đợc đầy đủ quy luật phát triển và chuyển
dịch cơ cấu sẽ gây phơng hại đến hiệu quả của cơ cấu kinh tế mới.
1.2.3. Xu hớng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện ra ở quan hệ tỷ lệ giữa các
ngành qua các mốc thời gian và chính quan hệ tỷ lệ này sẽ phản ánh cơ cấu
kinh tế ngành có tiến bộ hay không, có đem lại hiệu quả cao hay không.
Từ các giai đoạn phát triển nông nghiệp của thế giới và Việt Nam có thể
tổng kết quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp diễn ra theo xu hớng
mang tính quy luật nh sau:
- Giá trị sản lợng nông nghiệp tăng lên song tỷ trọng giá trị sản lợng nông
nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân ngày càng giảm.
24
- Từ nông nghiệp mở ra lâm nghiệp và thuỷ sản - những ngành có giá trị kinh
tế cao song việc sản xuất khó khăn hơn, đòi hỏi một trình độ cơ sở vật chất
nhất định và vốn đầu t cao. Trong quá trình phát triển, tỷ trọng của lâm
nghiệp và thuỷ sản sẽ tăng dần lên, còn tỷ trọng nông nghiệp sẽ giảm đi
mặc dù ngành này vẫn phát triển.
- Trong nông nghiệp theo nghĩa hẹp, chăn nuôi ngày càng phát triển và dần
chiếm tỷ trọng cao hơn trồng trọt. Sự phát triển trong trồng trọt trớc hết sẽ
thúc đẩy sản xuất thức ăn gia súc, chăn nuôi phát triển nhằm đáp ứng nhu
cầu ăn ngon, đủ dinh dỡng cho con ngời. Ngành chăn nuôi vì vậy ngày càng
phát triển và ở các nền kinh tế phát triển tỷ trọng của nó còn lớn hơn cả tỷ
trọng ngành trồng trọt.
- Trong trồng trọt, trên cơ sở phát triển lơng thực, khi đã đạt đợc ngỡng về
nhu cầu lơng thực, các ngành sản phẩm sản xuất các loại rau đậu cao cấp,
cây ăn quả, cây công nghiệp phát triển nhanh và trở thành các ngành nông
nghiệp hàng hóa lớn, thậm chí trở thành những ngành xuất khẩu quan trọng.
Khi nền kinh tế phát triển, thu nhập và đời sống của nhân dân tăng lên thì
nhu cầu ăn, ở, vui chơi giải trí, du lịch, nghỉ ngơi của con ngời tăng lên, do
đó các ngành sản xuất các cây con đặc sản, hoa cây cảnh, chim thú, cá cảnh
cũng đợc phát triển nhanh chóng trong giai đoạn này.
Những xu hớng chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp nh trên thể hiện
ngành nông nghiệp phát triển ngày càng hợp lý, tiến bộ và văn minh. Tuy
nhiên, cũng cần phải hiểu rằng, ngành nông nghiệp và cơ cấu các ngành là cụ
thể với từng cơ sở sản xuất nông nghiệp, từng vùng nông nghiệp và mỗi quốc
gia. Phát triển nông nghiệp hay lâm nghiệp và ng nghiệp, sản xuất cây con gì,
quy mô ra sao, sự kết hợp nh thế nào, quan hệ tỷ lệ bao nhiêu là phụ thuộc vào
nhiều nhân tố nh điều kiện tự nhiên sinh thái, số lợng các nguồn lực, thị trờng
và nhu cầu thị trờng, điều kiện cơ sở hạ tầng... của mỗi đơn vị kinh tế, mỗi
vùng kinh tế và mỗi quốc gia. Mục tiêu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
25