Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

xảo thuật kế toán và slide thuyết trình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.66 KB, 13 trang )

I. Định nghĩa
Sử dụng xảo thuật trên Báo cáo tài chính: Là trường hợp Doanh nghiệp lợi dụng
các lỗ hổng của quy định và chuẩn mực kế toán hoặc cố tình vi phạm (gian lận)
nhằm bóp méo hoặc làm đẹp các thông tin trên Báo cáo tài chính như tăng doanh
thu, giảm chi phí hoặc thổi phồng lợi nhuận.
Kết quả nghiên cứu của Hiệp hội các nhà điều tra gian lận Mỹ (The
Association of Certified Fraud Examiners-ACFE) cho thấy, trong các trường hợp
khảo sát, gian lận liên quan đến tài sản tuy chiếm khoảng 90% trường hợp nhưng
mức thiệt hại cho nền kinh tế là thấp nhất. Trong khi đó, các gian lận trên Báo cáo
tài chính, tuy chiếm tỷ lệ thấp nhất nhưng hậu quả gây ra cho nền kinh tế là lớn nhất.
Một trong những con số thống kê đưa ra rất ấn tượng là: Gian lận trên Báo cáo Tài
chính gây ra thiệt hại cho nền kinh tế Mỹ là khoảng 6% trên tổng thu nhập quốc nội
vào năm 2004 (tương đương với 10,000 tỷ USD), tức là mỗi năm nền kinh tế bị thiệt
hại trên 600 tỷ USD do gian lận BCTC. Đây là con số rất lớn vì nó gần gấp đôi số
ngân sách mà Chính phủ Mỹ dành cho các hoạt động quân sự trong năm 2003. Và
tất nhiên là nhiều hơn cả nguồn tiền Chính phủ đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng và
giáo dục, vượt quá 28 lần số ngân sách Chính phủ ưu tiên dùng để phòng chống tội
phạm năm 2003.
Cũng theo thống kê của Tổ chức trên: gian lận BCTC bao gồm: Che dấu công
nợ, ghi nhận doanh thu không có thật, định giá sai tài sản, ghi nhận sai niên độ và
không công bố đầy đủ thông tin.
II. Tại sao các Doanh nghiệp phải phù phép BCTC?
2 giáo sư Ilia Dichev và Shiva Rajgopal đã tiến hành khảo sát 169 CFO tại các
công ty niêm yết trên thị trường Mỹ và tiết lộ rằng ít nhất 20% công ty có phù phép
lợi nhuận trong báo cáo tài chính hàng quý. Và mức tiêu biểu họ thường bóp méo là
khoản 10% so với lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu- EPS của báo cáo.
Chưa có cuộc khảo sát ở Việt Nam, nhưng con số 10% thì quá ít so với các
công ty ở VN, có lẽ các CFO Hoa Kỳ cần qua VN 1 thời gian học các tuyệt chiêu lãi
giả lỗ thật hay cách dấu lãi chuyển lỗ khá kín đáo và hợp pháp của nhiều công ty.
Trở lại với cuộc khảo sát, lí do quan trọng nhất khiến các công ty bùa chú lợi
nhuận là vì muốn thao túng giá cổ phiếu, được 93.48% bầu chọn. Lí do tiếp theo là


bị các áp lực từ bên ngoài khiến cho công ty buộc phải bóp méo lợi nhuận. Áp lực từ
bên ngoài có thể là từ ngân hàng đòi hỏi phải duy trì 1 mức lợi nhuận nào đó mới
cho vay vốn kinh doanh, từ nhà cung cấp, hoặc vì lí do IPO phải làm báo cáo đẹp lên
đôi chút. Áp lực từ bên trong công ty, cũng như những khoản tiền thưởng béo bở cho
giám đốc nếu công ty có lợi nhuận tốt cũng là 1 động lực của việc phù phép lợi
nhuận. Dưới đây là bảng tổng hợp chi tiết các lí do còn lại.
Đặc biệt đối với các ngân hàng: Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc các ngân
hàng sử dụng các xảo thuật để phù phép BCTC, trong đó có các nguyên nhân từ bên
ngoài và từ nội tại ngân hàng. Bản thân hoạt động ngân hàng là một hoạt động chứa
đựng nhiều rủi ro và có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế, vì vậy các ngân hàng thương
mại luôn phải chịu sự quản lý gắt gao của ngân hàng nhà nước. Chỉ 1 biến động nhỏ
trong ngành ngân hàng cũng sẽ ảnh hưởng đến các doanh nghiệp, các dự án của
Chính phủ và nhìn rộng ra là cả nền kinh tế và xã hội nên khi phát hiện ra dấu hiệu
rủi ro của ngân hàng, Chính phủ ngay lập tức sẽ có các biện pháp kiểm soát chặt chẽ.
Để tránh khỏi việc bị Ngân hàng Nhà nước để mắt đến, NHTM buộc phải có BCTC
minh bạch với tỉ lệ nợ xấu thấp. Ngoài ra, BCTC đẹp cũng dễ dàng lấy được sự tín
nhiệm từ các nhà đầu tư, làm tăng giá cổ phiếu, đồng thời thu hút được niềm tin của
Khách hàng, giúp duy trì hoạt động ngân hàng. Bên cạnh những yếu tố bên ngoài
còn có những nguyên nhân thuộc về nội tại ngân hàng như áp lực doanh số buộc
nhân viên và những người đứng đầu chi nhánh phải dung những xảo thuật phù phép
để làm hài lòng cấp trên
III. Dấu hiệu nhận biết BCTC bị phù phép
1. Lợi nhuận đánh bại thị trường. Nếu một doanh nghiệp bình thường hoạt động ở
lĩnh vực có lợi suất thấp, mà duy trì được lợi nhuận khả quan, thậm chí vượt trội
trong môi trường kinh doanh khó khăn, thì các con số ấn tượng cần được đem ra mổ
xẻ.
2. Lợi nhuận ấn tượng nhưng không được đối thủ cùng ngành vị nể. Đây là trường
hợp của Công ty cổ phần Dược phẩm Viễn Đông (mã DVD).Khi cổ phiếu này mới
lên niêm yết, ít nhất 3 công ty chứng khoán (CTCK) lớn có báo cáo đánh giá hoạt
động của DVD rất khả quan.Dựa trên thông tin DVD công bố, các công ty chứng

khoán này tính toán EPS dự phóng của cổ phiếu DVD cao nhất nhì trong ngành.
Khi cổ phiếu DVD nhận được nhiều lời tán dương từ các chuyên viên phân tích, thì
không ít doanh nghiệp cùng ngành dược lại không mấy xem trọng hoạt động kinh
doanh của DVD.Thực tế cho thấy, DVD đã sụp đổ.

3. Lợi nhuận nhảy vọt so với cùng kỳ. Hai năm trước khi niêm yết, DVD chỉ đạt
lợi nhuận lần lượt 18,5 tỷ đồng và 25,5 tỷ đồng, nhưng vào năm 2009, khi vừa niêm
yết, lợi nhuận bất ngờ đạt 109 tỷ đồng. Đáng chú ý, lợi nhuận của DVD xuất phát từ
hoạt động sản xuất - kinh doanh chính, chứ không phải từ các thu nhập bất thường
như thanh lý tài sản, chuyển nhượng vốn. “Hiện tượng” DVD sau này được giải mã
bằng hình thức ghi nhận “doanh thu ảo”.
4. Lợi nhuận ấn tượng công bố trước các đợt phát hành tham vọng. Trong quý
III/2010, mặc dù thị trường chứng khoán suy giảm, đa phần CTCK thua lỗ, nhưng
CTCK VNDirect (mã VND) công bố lãi 53 tỷ đồng. Thế nhưng, vào quý IV/2010,
khi TTCK phục hồi, đa phần CTCK có lãi, thì VND lại công bố lỗ 117 tỷ đồng.
Lãnh đạo VND giải thích, thua lỗ có nguyên nhân khách quan là thị trường biến
động, nhưng giới phân tích nhìn nhận, con số lợi nhuận khả quan trước đó của VND
có thể được công bố để hỗ trợ cho đợt phát hành tăng vốn từ 500 tỷ đồng lên 1.000
tỷ đồng vào cuối năm 2010.
5. Lợi nhuận được tạo ra từ các giao dịch đáng ngờ. Tháng 7/2010, một doanh
nghiệp ngành khí đốt đã triệu tập Đại hội cổ đông (ĐHCĐ) bất thường điều chỉnh kế
hoạch lợi nhuận tăng 2,5 lần so với con số được thông qua vài tháng trước đó tại
ĐHCĐ thường niên. Khoản lợi nhuận tăng thêm này được tạo ra từ kinh doanh bất
động sản, nhằm phục vụ cho mục đích tăng vốn. Thực chất, khoản lợi nhuận này
được tạo ra bằng một giao dịch chuyển nhượng khá đáng ngờ trong liên minh 3 bên
đều liên quan đến chủ tịch Hội đồng quản trị.
6. Các con số lợi nhuận thay đổi chóng mặt. Vào đầu quý II năm nay, Công ty cổ
phần Tập đoàn Dabaco (mã DBC) gây chú ý khi ĐHCĐ vừa thông qua kế hoạch lợi
nhuận 167 tỷ đồng năm 2012, thì hai ngày sau đó, Công ty công bố báo cáo tài chính
hợp nhất quý I/2012 với 204 tỷ đồng lợi nhuận, gấp 4 lần con số lãnh đạo DBC công

bố tại ĐHCĐ. Giải thích với báo giới và giải trình với cơ quan quản lý thị trường, ý
kiến của lãnh đạo DBC tỏ ra không thống nhất về cách ghi nhận lợi nhuận từ việc
chuyển nhượng dự án bất động sản.

7. Lợi nhuận gắn với các đợt thanh lý tài sản khả nghi. Các đợt thanh lý tài sản lớn
có thể là biện pháp cứu vãn kết quả kinh doanh yếu kém của doanh nghiệp. Đặc biệt,
nếu việc thanh lý diễn ra sát thời điểm kết thúc chu kỳ kế toán, thì gần như chắc
chắn là doanh nghiệp có ý đồ.
Ví dụ, năm 2010, Công ty cổ phần Nước giải khát Sài Gòn (Tribeco, mã TRI)
chuyển nhượng cổ phần tại Tribeco Bình Dương cho một cổ đông lớn là Uni-
President vào đúng ngày 30/6. Động thái này giúp Tribeco lãi 44 tỷ đồng trong quý
II/2010 và khiến cổ phiếu tăng giá mạnh. Tuy nhiên, đây là quý lãi duy nhất của
Tribeco trong 13 quý liên tiếp.
8. Lợi nhuận cao đột biến rơi vào quý I và quý III. BCTC quý I và quý III không
yêu cầu phải soát xét, nên các tiểu xảo kế toán nhiều khả năng được doanh nghiệp
đem ra áp dụng nhiều nhất.
9. Thay đổi kế toán trưởng liên tục. Chưa kể những lần thay đổi người đại diện
pháp luật và tổng giám đốc, trước khi kết thúc năm tài chính 2011, Công ty cổ phần
Nhựa Tân Hóa (mã VKP) liên tục thay kế toán trưởng. Hai vị trí tổng giám đốc và
kế toán trưởng có vai trò quan trọng đối với chất lượng BCTC của doanh nghiệp. Sự
thay đổi đột ngột cả hai vị trí này trước thời điểm năm tài chính kết thúc có thể là
một dấu hiệu không tốt, báo hiệu BCTC có thể bị can thiệp.
IV. Các xảo thuật kế toán sử dụng để phù phép BCTC và ví dụ
1. Che dấu công nợ và chi phí
Che dấu công nợ đưa đến giảm chi phí là một trong những xảo thuật phổ biến
trên BCTC nhằm mục đích khai khống lợi nhuận.Khi đó, lợi nhuận trước thuế sẽ
tăng tương ứng với số chi phí hay công nợ bị che dấu.Đây là phương pháp dễ thực
hiện và khó bị phát hiện vì thường không để lại dấu vết.
Công ty cổ phần Tập đoàn Thép Tiến Lên (TLH) mở màn cho hoang mang của
nhiều nhà đầu tư với việc công bố lợi nhuận ròng sau kiểm toán giảm gần 30%. So

với kết quả trước kiểm toán, chi phí tài chính của TLH tăng thêm 30,3 tỷ đồng do
phải trích thêm dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán dẫn đến lợi nhuận trước thuế
giảm một lượng tương ứng. Dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán ban đầu là
27,74 tỷ đồng đã tăng lên thành hơn 58 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế của cổ đông
công ty mẹ đạt 55,97 tỷ đồng, giảm 22,8 tỷ (-29%) so với kết quả ban đầu là 78,8 tỷ
đồng.
Công ty Cổ phần Vận tải Xăng dầu Đường thủy Petrolimex (PJT) thông báo
báo cáo tài chính năm 2010 đã kiểm toán với lợi nhuận sau thuế của công ty mẹ PJT
đạt 10,58 tỷ đồng, giảm 22,74% so với con số 13,7 tỷ đồng đã công bố trước đó.
Nguyên nhân điều chỉnh giảm lợi nhuận là do phải trích lập thêm 4,15 tỷ đồng dự
phòng đầu tư bị lỗ ở công ty con năm 2010.
Báo cáo tài chính năm 2010 của Công ty cổ phần Basa có mã chứng khoán
BAS, công ty đã vốn hóa chi phí đi vay số tiền 1,04 tỷ đồng vào giá trị công trình
xây dựng cơ bản, trong khi công trình này đã ngừng xây dựng trong năm 2010. Nếu
áp dụng đúng như VSA 16, thì chi phí đi vay này phải tạm ngừng vốn hóa và tính
vào chi phí kinh doanh trong kỳ. Nếu thực hiện đúng như VSA 16, công ty sẽ gia
tăng thêm khoản lỗ với số tiền tương ứng 1,04 tỷ đồng.
2. Ghi nhận doanh thu không có thật hay khai cao doanh thu
Công ty Cổ phần Kinh doanh Khí hóa lỏng Miền Bắc (PVG) công bố Báo cáo
tài chính hợp nhất đã kiểm toán năm 2010. Lợi nhuận ròng trên báo cáo hợp nhất sau
kiểm toán của PVG đạt 35,83 tỷ đồng, giảm 1,2 tỷ đồng so với báo cáo trước kiểm
toán. Đáng chú ý là đơn vị kiểm toán có ý kiến ngoại trừ việc ghi nhận cổ tức từ lợi
nhuận năm 2010 của Công ty cổ phần Phân phối khí thấp áp (PGD), PVG tạm ghi
nhận khoản cổ tức 9,28 tỷ đồng của PGD vào doanh thu hoạt động tài chính năm
2010. Tại ngày 31/12/2010, việc phân phối cổ tức nói trên chưa được đại hội cổ
đông của PGD phê duyệt. Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 14 (VAS 14)-
Doanh thu và thu nhập khác, cổ tức và lợi nhuận được chia được ghi nhận khi cổ
đông có quyền nhận cổ tức. Nếu công ty áp dụng VAS 14, doanh thu từ hoạt động
tài chính và lợi nhuận trước thuế cho năm 2010 sẽ giảm một khoản tương ứng là
9,28 tỷ đồng.

3. Định giá sai tài sản
Công ty Cổ phần Thủy điện Nậm Mu (HJS) thông báo Báo cáo tài chính đã
kiểm toán năm 2010. Theo báo cáo sau kiểm toán, lợi nhuận sau thuế của HJS đạt
4,78 tỷ đồng trong đó lợi nhuận ròng thuộc cổ đông công ty mẹ đạt 4,54 tỷ đồng. So
với mức 6,48 tỷ đồng trước kiểm toán, lợi nhuận ròng sau kiểm toán giảm 30%.
Điều đáng lưu ý trong Báo cáo kiểm toán đó là nguyên giá tài sản cố định và
chi phí khấu hao của nhà máy Thủy điện Nậm Ngần có thể thay đổi khi quyết toán
vốn đầu tư xây dựng cơ bản được duyệt. Trong bảng thuyết minh Báo cáo tài chính
hợp nhất: Dự án công trình Thủy điện Nậm Ngần được đầu tư theo Quyết định số
28ACT/HĐQT ngày 01/12/2004 của Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Thủy điện
Nậm Mu đã hoàn thành, bàn giao đưa vào sử dụng nhưng chưa được duyệt quyết
toán vốn đầu tư. Công ty căn cứ vào chi phí đầu tư xây dựng cơ bản thực tế, tạm tính
nguyên giá để hạch toán tăng tài sản cố định.
4. Ghi nhận sai niên độ
Trong mùa kiểm toán năm 2010, Đơn vị kiểm toán có ý kiến ngoại trừ việc
Công ty Cổ phần Địa ốc Đà Lạt (DLR) ghi nhận 31,15 tỷ đồng doanh thu với giá
vốn 27,98 tỷ đồng từ Dự án xây dựng Cụm dân cư - Khu chung cư Yersin thành phố
Đà Lạt. Theo ký kết, công ty sẽ bàn giao từng phần hạng mục công ty của dự án sau
khi hoàn thành và đủ điều kiện để bố trí tái định cư. UBND sẽ thanh toán cho công
ty khi quyết toán dự án và đã được cơ quan độc lập kiểm toán. Tuy nhiên, tại Báo
cáo tài chính năm 2010, công ty đã ước tính và ghi nhận doanh thu, giá vốn như trên
theo số liệu hoàn thành giữa công ty và đội thi công của công ty trong khi UBND
tỉnh Lâm Đồng chưa có văn bản chỉ định UBND thành phố Đà Lạt nghiệm thu. Đơn
vị kiểm toán cho biết, ngày 22/2/2011, UBND tỉnh Lâm Đồng đã có công văn thống
nhất giao cho UBND thành phố Đà Lạt là đơn vị tiếp nhận từng hạng mục công trình
theo từng giai đoạn giá trị công trình hoàn thành để DLR ghi nhận doanh thu.
Qua đây cho thấy DRL đã ghi nhận doanh thu và giá vốn Dự án xây dựng Cụm
dân cư - Khu chung cư Yersin thành phố Đà Lạt sai niên độ, doanh thu và giá vốn
này phải được ghi nhận ở niên độ năm 2011, nhưng đã được doanh nghiệp ghi nhận
vào năm 2010.

5. Không khai báo đầy đủ thông tin
Trong báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính năm 2010 của Công ty Cổ phần
Container Phía Nam (VSG), kiểm toán viên lưu ý người sử dụng đến khoản lỗ chênh
lệch tỷ giá chưa thực hiện do đánh giá lại số dư có gốc ngoại tệ cuối năm của khoản
vay dài hạn với số tiền 33,16 tỷ đồng đang được ghi nhận trên chỉ tiêu “chênh lệch tỷ
giá hối đoái”. Điều này giúp cho người sử dụng hiểu được, việc áp dụng TT
201/2009 giúp cho công ty giảm lỗ 33,16 tỷ đồng. Nếu áp dụng VSA 10 thì chỉ tiêu
lợi nhuận sau thuế trên báo cáo tài chính của công ty năm 2010 không phải con số lỗ
40,66 tỷ đồng mà là con số lỗ 73,82 tỷ đồng. Qua đó cho người sử dụng thấy một
phần lợi nhuận được tạo ra (hoặc một phần giảm lỗ) là do sự thay đổi cách hạch toán
mà có chứ không phải do bản thân hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty tạo ra.
Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính năm 2010 của Công ty cổ phần nhựa tân
Hoá có mã chứng khoán VKP, kiểm toán viên phát hành ý kiến kiểm toán ngoại trừ,
đồng thời kiểm toán viên chỉ ra rằng một khoản hàng tồn kho thiếu với giá trị 5,36 tỷ
đồng xảy ra ở năm 2009, công ty trình bày số tiền này trên khoản mục phải thu khác
của báo cáo tài chính năm 2010 và đang nhờ cơ quan pháp luật làm rõ. Nếu công ty
không thể tìm ra nguyên nhân cho số hàng mất này (vì hơn 1 năm), thì điều này sẽ
làm cho khoản lỗ trên khoản mục lợi nhuận chưa phân phối cột đầu năm và cuối
năm sẽ gia tăng tương ứng.
V. Các xảo thuật được sử dụng trong ngân hàng
1. Phân loại nợ vào các nhóm tài sản khác
Trong những năm trước, để có thể đẩy mạnh được hoạt động tăng trưởng tín
dụng và lách các quy định của NHNN, nhiều ngân hàng thương mại đã đẩy mạnh
hoạt động cho vay nhưng lại không hạch toán vào mục Cho vay với khách hàng.
Thay vào đó, nhiều khoản mục khác trên bảng cân đối kế toán lại "phình to ra" do
các ngân hàng thương mại (NHTM) có thể đã lách các hoạt động cho vay vào các
khoản mục này như mục Các tài sản có khác (trong đó có khoản phải thu, tài sản có
khác), Chứng khoán đầu tư (trong đó có chứng khoán nợ do các tổ chức kinh tế phát
hành), Uỷ thác đầu tư Nhiều tài sản trong nhóm này có tính chất tương tự như tín
dụng nhưng không được các NHTM trích dự phòng hay phân loại nhóm nợ do

không có quy định cụ thể. Điều này đã làm giảm bớt các khoản nợ quá hạn và nợ
xấu của các NHTM do các NHTM chỉ thực hiện phân loại nợ với các khoản cho vay
trên mục Cho vay khách hàng.
Ngoài ra, để không phải điều chỉnh nhóm nợ với các khoản cho vay, nhiều
NHTM có thể đã chuyển từ việc cho vay sang mua trái phiếu do các tổ chức kinh tế
phát hành. Theo TBKTSG, Hoàng Anh Gia Lai (HAG) đã phát hành thành công 850
tỉ đồng trái phiếu vào ngày 17.8.2012. Số trái phiếu phát hành lần này để cơ cấu lại
các khoản nợ ở các ngân hàng. Trong thương vụ này, BIDV và công ty chứng khoán
BIDV thu xếp phát hành, còn đối tượng mua là các NHTM nơi HAG có các khoản
nợ.
Theo điều 6, điểm 3 của quyết định 493 được sửa đổi trong quyết định 18, nếu
khách hàng có từ hai khoản nợ trở lên tại NHTM mà trong đó có một khoản nợ được
phân loại vào nhóm có rủi ro cao hơn thì tất cả dư nợ của khách hàng phải phân loại
vào cùng một nhóm nợ có rủi ro cao hơn. Đồng thời, NHTM cũng được NHNN cho
phép phải chủ động phân loại nợ vào nhóm rủi ro cao hơn theo đánh giá của NHTM
khi có những diễn biến bất lợi tác động đến hoạt động kinh doanh của khách hàng,
các chỉ tiêu tài chính của khách hàng bị suy giảm
Tuy nhiên, việc phân loại nhóm nợ như thế nào, đánh giá ra sao là các diễn biến
bất lợi, các chỉ tiêu tài chính suy giảm lại hoàn toàn phụ thuộc vào các NHTM chứ
không có quy định rõ ràng. Không chỉ có các NHTM và các khách hàng tìm cách
làm giảm tỷ lệ nợ xấu cho mình, ngay chính các văn bản của NHNN cũng đã tạo
điều kiện hỗ trợ cho việc trên. Đối với dư nợ cho vay Vinashin, nhiều NHTM đã
không trích dự phòng các khoản cho vay này theo một cơ chế riêng. Sự đổ vỡ của
Habubank khiến cho ngân hàng này buộc phải sáp nhập trong khi tỷ lệ nợ xấu ở mức
rất thấp là một sự báo động lớn.
Không chỉ có Habubank mà nhiều NHTM khác cũng không trích lập dự phòng
với các khoản cho vay Vinashin. Theo ý kiến kiểm toán của công ty kiểm toán
Deloitte trong báo cáo tài chính năm 2011 của Oceanbank: "Ngày 31.12.2011, ngân
hàng (tức Oceanbank) nắm giữ các khoản tiền gửi, dư nợ tín dụng và đầu tư trái
phiếu của ngân hàng với tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin) và một

số công ty thuộc tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam đã quá hạn thanh toán.
Tuy nhiên, trong năm 2011, căn cứ vào văn bản chỉ đạo của cơ quan quản lý nhà
nước về xem xét khoản nợ, cơ cấu lại các khoản nợ của tập đoàn Công nghiệp tàu
thuỷ Việt Nam, ngân hàng đã thực hiện ý kiến chỉ đạo, giữ nguyên trạng thái nợ hiện
tại và không trích lập dự phòng với các khoản nợ và phải thu trên. Hiện tại, ngân
hàng đang tiếp tục làm việc với Vinashin và các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền về phương án xử lý và thu hồi các khoản nợ và phải thu này".
2. Cơ cấu nợ - Giải ngân khoản vay mới
Một trong những biện pháp phổ biến nhất chính là việc các NHTM có thể hỗ trợ
giải ngân các khoản vay mới cho các khách hàng để trả nợ cũ hoặc giải ngân cho các
dự án đã được hoàn thành để khách hàng trả nợ cũ. Khi đó, khách hàng không bị
chuyển nhóm nợ.
Các NHTM cũng có thể tìm cách hỗ trợ cho khách hàng được cơ cấu lại
nợ.Việc cơ cấu lại nợ là điều hoàn toàn hợp lý nhằm giúp khách hàng vượt qua giai
đoạn khó khăn, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ một cách hợp lý. Nhưng nếu như trong quá
trình cơ cấu lại nợ, các NHTM thực hiện mà không đánh giá kỹ khả năng trả nợ đầy
đủ gốc và lãi đúng hạn của khách hàng, chỉ thực hiện giải quyết vấn đề khó khăn trả
nợ trước mắt cho khách hàng thì điều này sẽ làm gia tăng thêm rủi ro hệ thống
NHTM. Tỷ lệ nợ xấu thấp nhưng thực tế đã ở một mức cao hơn rất nhiều do khách
hàng được cơ cấu nợ. Khi cơ cấu nợ cho khách hàng như vậy, nợ lãi có thể được
nhập vào nợ gốc và điều này sẽ làm tăng thêm dư nợ vay của NHTM nhưng thực tế,
dòng tiền lại chưa hề quay về với NHTM.
Việc giải ngân lòng vòng giữa các khách hàng có mối quan hệ liên minh với
nhau cũng là một cách để giúp các khách hàng này có dòng tiền để trả nợ. Nếu một
khách hàng trong "liên minh" có nguy cơ bị nợ quá hạn hoặc nghiêm trọng hơn là bị
nợ xấu, để giúp khách hàng này tránh phải chuyển nhóm nợ, nhiều NHTM có thể
cho một doanh nghiệp khác hoặc cá nhân khác trong "liên minh" vay để giúp khách
hàng này dùng tiền vay trên trả nợ. Bằng cách này, tuy dư nợ của NHTM với "liên
minh" khách hàng trên thực tế không thay đổi, nhưng nợ vẫn được đảm bảo đủ tiêu
chuẩn, và không phải trích dự phòng.

3. Mua bán nợ với công ty con.
Ngoài ra, để giảm tỉ lệ nợ xấu, mặc dù pháp luật không cho phép nhưng ngân
hang đã thực hiện mua bán nợ với các công ty con trực thuộc. Tức là: công ty quản
lý nợ và khai thác tài sản (AMC) trực thuộc ngân hàng sẽ nhận uỷ thác thu hồi nợ
thay cho ngân hàng dưới hình thức hợp đồng uỷ thác, nhưng sau đó công ty AMC
này sẽ thực hiện trả nợ thay cho khách hàng rồi sau đó tiến hành thủ tục thu hồi nợ
theo uỷ thác sau (một biến tướng của việc mua bán nợ giữa ngân hàng và công ty
con). Nhưng đồng thời việc hạch toán này khách hàng sẽ không biết và vì thế khách
hàng vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng.
Về mặt nghiệp vụ hạch toán, phía ngân hàng nhận được tiền trả của AMC và
hạch toán bù trừ vào khoản dự thu, trong khi AMC thì chi số tiền này ở khoản mục
tạm ứng cho việc thực hiện hợp đồng uỷ thác và treo vào khoản phải thu. Như vậy,
trong nhất thời thì ngân hàng có thể thoát khỏi khoản nợ xấu này, còn AMC thì có
một hợp đồng uỷ thác đang thực hiện với một khoản tạm ứng tương ứng với giá trị
uỷ thác của ngân hàng mẹ.
4. Giao dịch Repo
Lehman Brothers đã từng là một trong những định chế tài chính lớn nhất tại
Mỹ. Việc tập đoàn này chính thức tuyến bố phá sản vào ngày 15 tháng 9 năm 2008
với khoản nợ 618 tỷ đô la Mỹ được coi là vụ phá sản ngân hàng lớn nhất trong lịch
xử Hoa Kỳ, mở màn cho thời kỳ khủng hoảng kinh tế tại quốc gia này. Một trong
những phát hiện quan trọng nhất liên quan đến việc Lehman đã sử dụng “thủ thuật”
kế toán có tên gọi trong nội bộ của ngân hàng là Repo 105 và Repo 108 để tạm thời
che dấu hệ số nợ quá cao cuối mỗi quý kể từ năm 2001 cho đến thời điểm phá sản.

Theo báo cáo này, các giao dịch Repo 105 được sử dụng rất nhiều trong giai
đoạn cuối năm tài chính 2007 và 2008 nhằm cố tình tạo ra sự sai lệch trọng yếu
trong bức tranh tổng thể về tình hình tài chính của Lehman. Trong giai đoạn này,
Lehman, với sự “trợ giúp” của Repo 105, đã “hô biến” tạm thời gần 50 tỷ đô la giá
trị tài sản tại thời điểm cuối quý I và quý II năm 2008, thời điểm mà thị trường tài
chính đang lo lắng trước tình trạng sử dụng đòn bẩy tài chính quá cao của các ngân

hàng.

Giao dịch Repo

Repo 105 thực chất là nghiệp vụ thoả thuận bán tái mua tài sản (Repurchase
Agreement) của Lehman. Trong một thoả thuận bán tái mua, một bên chuyển giao
tài sản hoặc chứng khoán cho bên còn lại trong thoả thuận như một khoản ký quỹ để
vay tiền ngắn hạn, đồng thời cam kết trả lại tiền và nhận lại tài sản hoặc chứng
khoán ký quỹ tại một thời điểm cụ thể trong tương lai. Khi giao dịch Repo đến hạn,
bên vay thanh toán tiền gốc cộng với một khoản lãi và nhận lại tài sản hoặc chứng
khoán ký quỹ. Repo 105 được thực hiện tương tự như giao dịch Repo truyền thống,
một dạng nghiệp vụ tài trợ nhằm giải quyết nhu cầu thanh khoản trong ngắn hạn, và
kỳ hạn của Repo 105 trung bình khoảng từ 7 đến 10 ngày.

Khi sử dụng các giao dịch Repo, theo đúng bản chất, Lehman sẽ nhận được một
khoản tiền mặt tương ứng với khoản nợ ngắn hạn tăng lên. Sau đó, khi Lehman sử
dụng toàn bộ khoản tiền này để thanh toán cho các khoản nợ ngắn hạn khác, hệ số
nợ của Lehman sẽ không thay đổi so với trước khi thực hiện giao dịch Repo.

Repo 105 hoạt động như thế nào?

Báo cáo của Valukas chỉ ra rằng Lehman đã lợi dụng kẽ hở trong quy định
chuẩn mực kế toán số 140 (“SFAS 140”) để thực hiện hành vi gian lận kế toán nhằm
giảm bớt hệ số nợ của mình. SFAS 140 cho phép ghi nhận giao dịch bán tái mua là
một nghiệp vụ tài trợ hoặc, trong trường hợp thoả mãn một số tiêu thức nhất định,
giao dịch bán tái mua được ghi nhận như một khoản doanh thu.

Cho dù trong báo cáo tài chính phát hành ra công chúng của Lehman nêu rằng
giao dịch bán tái mua được ghi nhận như một nghiệp vụ tài trợ, nhưng thực tế
Lehman đã ghi nhận giao dịch Repo 105 là một khoản doanh thu của ngân hàng.

Tuy nhiên, kết quả điều tra cho thấy các giao dịch Repo 105 lên đến gần 50 tỷ đô la
Mỹ đã không thoả mãn các điều kiện của SFAS 140 để được ghi nhận như một
khoản doanh thu.

Minh hoạ dưới đây, được trích từ bản báo cáo điều tra của Valukas, sẽ giúp
chúng ta hiểu rõ hơn làm thế nào Repo 105 có thể giúp Lehman giảm được hệ số nợ.
Tài sản ( triệu USD) Nguồn vốn (triệu USD)
(1) (2) (3) (1) (2) (3)
Tiền 7500 57500 7500 Vay
ngắn
hạn
200000 200000 200000
Công cụ
tài chính
350000 300000 300000 Vay
ngắn
hạn ký
quỹ
325000 325000 275000
Hợp 350000 350000 350000 Vay 150000 150000 150000
đồng ký
quỹ
dài hạn
Phải thu 20000 20000 20000 Phải
trả
98000 98000 98000
Tài sản
khác
72500 72500 72500 Vốn
chủ

27000 27000 27000
Tổng
cộng
800000 800000 750000 Tổng
cộng
800000 800000 750000
Hệ số
đòn bẩy
TC gộp
30 30 28
Hệ số
đòn bẩy
TC thuần
17 17 15
1. Trước khi thực hiện Repo
2. Sau khi thực hiên Repo
3. Dùng tiền thu được từ Repo để thanh toán các khoản vay ngắn hạn ký
quỹ
Như vậy, khi Lehman thực hiện 50 tỷ USD giao dịch Repo 105 bán tái
mua tài sản là công cụ tài chính, và thay vì ghi nhận như một nghiệp
vụ tài trợ ngắn hạn Lehman đã ghi nhận như một khoản doanh thu, số
dư tiền sẽ tăng lên 50 tỷ USD đồng thời số dư công cụ tài chính giảm
đi cùng một con số. Lúc này, tổng tài sản và các hệ số đòn bẩy tài
chính của Lehman không đổi.Ngay sau đó, Lehman sử dụng tiền thu
được từ Repo 105 để thanh toán cho các khoản vay ngắn hạn ký quỹ
khiến cho tổng tài sản và hệ số đòn bẩy tài chính giảm xuống.

Ngoài ra, theo báo cáo điều tra, một trong những nguyên nhân chính
Lehman sử dụng Repo 105 để giảm hệ số nợ là nhắm tới phương pháp
đánh giá của Hãng đánh giá định mức tín nhiệm S&P nhằm duy trì hệ

số tín nhiệm. Lehman cho rằng phương pháp của S&P tập trung vào
đánh giá ảnh hưởng của hệ số nợ của các ngân hàng.
VI/ Các khuyến nghị
1. Đối với Doanh nghiệp
Để hạn chế và phát hiện các xảo thuật kế toán, trước hết cần xây dựng Hệ thống
kiểm soát nội bộ hữu hiệu.Các doanh nghiệp Việt Nam cần có nhận thức đúng đắn
và đầy đủ về tầm quan trọng và lợi ích của việc xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ
vững mạnh. Ngoài ra, để phát hiện xảo thuật nhằm che giấu sai phạm của các cá
nhân trong tổ chức, doanh nghiệp cần sử dụng các biện pháp khác như là: thành lập
bộ phận kiểm toán nội bộ, hay thiết lập đường dây nóng để thu nhận các thông tin
nhanh chóng nhất.
2. Đối với Kiểm toán viên
Cần tăng cường trách nhiệm của kiểm toán trong việc phát hiện các xảo thuật
trong kiểm toán Báo cáo tài chính và đây cũng là xu hướng chung của các quốc gia
trên thế giới. Bởi lẽ xét cho đến cùng, một trong những mục tiêu quan trọng của kết
quả kiểm toán Báo cáo tài chính là phải nhằm góp phần ổn định thị trường chứng
khoán, thông qua việc xác nhận là các Báo cáo tài chính có trung thực và hợp lý hay
không.Nếu mục tiêu này không đạt, sự tồn tại của nghề nghiệp kiểm toán sẽ không
còn cần thiết.
Để giúp kiểm toán phát hiện các xảo thuật kế toán, cần có các hướng dẫn chi
tiết cho kiểm toán viên về các nhân tố và các phương pháp thực hiện xảo thuật.Muốn
vậy, cần hiệu đính chuẩn mực kiểm toán VSA 240.Có thể dựa trên các công trình
nghiên cứu để hiệu đính chuẩn mực kiểm toán VAS 240. Ba nhân tố chính cần được
nêu ra trong chuẩn mực VSA 240 là: áp lực, cơ hội và thái độ.
3. Đối với nhà đầu tư
Để giảm thiểu rủi ro, nhà đầu tư nào cũng cần có thêm hiểu biết về kinh tế, tài
chính và cả kế toán. Báo cáo của doanh nghiệp cũng cần được theo dõi trong nhiều
thời kỳ và xâu chuỗi, thì mới nhìn thấy được sức khoẻ thực sự của doanh nghiệp.
Nhà đầu tư Trần Tiến Dũng tại Công ty Cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Sài
Gòn Thương Tín (SBS) cho biết, sau nhiều năm đầu tư, ông đã quen với việc thường

xuyên đọc và xâu chuỗi báo cáo tài chính của những mã ông quan tâm. "Báo cáo
một quý hoặc 1 năm chưa nói lên nhiều điều, mà chỉ khi liên hệ với những kỳ trước,
mới có thể hình dung về sức khỏe thực sự của doanh nghiệp".
Hãy thận trọng với những giải trình về chênh lệch kết quả kinh doanh trước và
sau soát xét cũng như công bố Báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Điều thú vị là
các doanh nghiệp có rất nhiều cách để lý giải về sự chênh lệch này, đây là những
nguy cơ ẩn chứa gian lận rất cao nên nhà đầu tư hết sức thận trọng, cụ thể những
chênh lệch như: chênh lệch tỷ giá, chênh lệch về trích lập dự phòng, chênh lệch ghi
nhận doanh thu, chênh lệch chi phí trích trước, chi phí trả trước và một số chênh lệch
khác.
Hãy thận trọn với những “chiêu” làm đẹp sổ sách của các công ty mẹ, công ty
con. Đó là hiện tượng chuyển vốn lòng vòng từ các công ty họ hàng, công ty mẹ,
công ty con Những thủ thuật để làm đẹp báo cáo tài chính cuối năm của những
doanh nghiệp này gồm: Đẩy nợ cho “con” và “con” nuôi “mẹ”.
Hãy cẩn thận với những doanh nghiệp công bố Báo cáo tài chính không đúng
thời hạn.Đây là dấu hiệu đầu tiên cho thấy doanh nghiệp thiếu minh bạch, bởi nếu
tình hình kinh doanh diễn ra như thế nào đều được phản ánh vào sổ sách kế toán và
trong báo cáo tài chính, thì việc hoàn thành và công bố sẽ rất nhanh.
4. Đối với quản lý nhà nước
Cần tăng cường xử phạt gian lận Báo cáo tài chính. Bộ Tài chính đã lường
trước tất cả các hành vi vi phạm trong việc lập BCTC có thể xảy ra trong thực tế và
đều quy định mức phạt cụ thể, nhưng tính răn đe không cao. Bộ Tài chính dự kiến
trình Chính phủ nâng mức phạt tối đa đối với vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế
toán lên 30 triệu đồng. “Mức phạt này không thấp, nhưng chưa có tính răn đe nếu
không truy tố trước pháp luật đối với hành vi gian lận nhằm trục lợi, gây thiệt hại
nghiêm trọng đến nhà đầu tư”, Chủ tịch Hội Kế toán - Kiểm toán Việt Nam Đặng
Văn Thanh bình luận.
Bộ tài chính nên tăng cường nhiệm vụ thực hiện kiểm soát chất lượng hoạt
động kiểm toán độc lập cho Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA).
Nâng cao tính hiệu lực của quy chế kiểm soát chất lượng từ bên ngoài đối với hoạt

động kiểm toán độc lập.Nâng cao hiệu lực của các quy định đạo đức nghề nghiệp
cho kiểm toán viên độc lập, đồng thời nâng cao tính thực thi của luật Kiểm toán độc
lập.
5. Kết luận
Trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn và xã hội ngày càng phát triển, các xảo
thuật dùng để phù phép BCTC được thực hiện ngày càng tinh vi, việc xác lập các
biểu hiện gian lận nhằm giúp doanh nghiệp, kiểm toán viên, nhà đầu tư, cổ đông…
tìm được biện pháp hữu hiệu nhất trong việc giảm thiểu gian lận và phát hiện gian
lận trên Báo cáo tài chính trở nên cực kì cần thiết. Hiểu rõ các cách thức thực hiện
gian lận, điều kiện làm phát sinh gian lận… sẽ giúp nhiều nghề nghiệp khác nhau
trong việc thiết lập những biện pháp nhằm ngăn ngừa và phát hiện gian lận nhằm
giảm thiểu các tổn thất cho xã hội, giúp nâng cao chất lượng thông tin trên Báo cáo
tài chính.

×