Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

ảnh hưởng của mật độ nuôi, vật trú ẩn, việc phân kích cơ và chế độ cho ăn đến tốc độ sinh trưởng, tỷ lệ sống và hiệu quả sử dụng thức ăn của tôm hùm bông (panilirus ornatus fabricius, 1789) nuôi trong ao đất phủ bạt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1018.74 KB, 58 trang )

i

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này cũng như toàn bộ khóa học cao học Nuôi trồng
Thủy sản 2009 – 2011, tôi đã nhận được sự giúp đỡ từ nhiều tổ chức và cá nhân,
qua đây, tôi xin gửi lời cảm ơn đến:
Ban Giám hiệu Trường Đại học Nha Trang, Ban Chủ nhiệm Khoa Nuôi
trồng Thủy sản và các thầy cô giáo đã quan tâm, giúp đỡ và dạy bảo tôi những kiến
thức quý báu trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu tại trường.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến thầy hướng dẫn TS. Lê
Anh Tuấn người đã tận tình giúp đỡ, động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này.
Đồng thời, qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn đến tập thể cán bộ của Viện
Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản – Trường Đại học Nha Trang đã giúp đỡ và tạo
mọi điều kiện thuận lợi để tôi thực hiện đề tài.
Nhân đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Dự án ACIAR và công
ty TNHH Lucky Star đã hỗ trợ kinh phí và kỹ thuật để tôi thực hiện tốt đề tài.
Cuối cùng, tôi xin được cảm ơn những người thân trong gia đình, những
người đã luôn bên cạnh tôi, giúp đỡ và động viên tôi cả về vật chất và tinh thần qua
đó tôi có thể hoàn thành tốt luận văn cũng như khóa học này.













ii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các kết quả, số liệu
nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất
kỳ công trình nào.


Tác giả luận văn


Ngô Văn Lực



















iii

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN i
LỜI CAM ĐOAN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC TỪ VÀ THUẬT NGỮ VIẾT TẮT v
DANH MỤC BẢNG vi
DANH MỤC HÌNH vii
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN 3
1.1. Đặc điểm sinh học của tôm hùm 3
1.1.1. Đặc điểm phân loại và hình thái 3
1.1.2. Đặc điểm sinh thái và phân bố 4
1.1.3. Đặc điểm sinh trưởng và vòng đời 4
1.1.4. Đặc điểm dinh dưỡng 6
1.2. Sự thích ứng của tôm hùm với một số yếu tố môi trường 7
1.2.1. Nhiệt độ 7
1.2.2. Độ mặn 8
1.2.3. Nền đáy 8
1.2.4. Độ sâu 8
1.2.5. Nguồn thức ăn tự nhiên 9
1.3. Tình hình nghiên cứu về kỹ thuật nuôi tôm hùm trên thế giới và Việt Nam 9
1.3.1. Tình hình nghiên cứu kỹ thuật nuôi tôm hùm trên thế giới 9
1.3.2. Tình hình nghiên cứu kỹ thuật nuôi tôm hùm ở Việt Nam 11
1.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả nuôi tôm hùm thương phẩm 12

1.4.1. Mật độ nuôi 12
1.4.2. Kích cỡ và phân cỡ 14
1.4.3. Vật trú ẩn 14
1.4.4. Chế độ cho ăn 15
CHƯƠNG II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 18
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu 18
2.2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu 18
2.2.1. Sơ đồ khối nghiên cứu 18
iv

2.2.2. Vật liệu nghiên cứu 19
2.2.3. Phương pháp bố trí thí nghiệm 20
2.2.3.1. Ảnh hưởng của mật độ nuôi và vật trú ẩn 20
2.2.3.2. Ảnh hưởng của chế độ cho ăn và việc phân kích cỡ 20
2.2.3.3. Chăm sóc và quản lý 21
2.2.4. Phương pháp xác định các thông số đánh giá 22
2.2.5. Phân tích số liệu 22
CHƯƠNG III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 23
3.1. Ảnh hưởng của mật độ nuôi và vật trú ẩn lên sinh trưởng, tỷ lệ sống và hiệu
quả sử dụng thức ăn của tôm hùm bông 23
3.1.1. Diễn biến một số yếu tố môi trường trong thí nghiệm 23
3.1.2. Ảnh hưởng của mật độ nuôi lên sinh trưởng, tỷ lệ sống và hiệu quả sử dụng
thức ăn của tôm hùm bông 24
3.1.3. Ảnh hưởng của vật trú ẩn lên sinh trưởng, tỷ lệ sống và hiệu quả sử dụng
thức ăn của tôm hùm bông 26
3.1.4. Tác động tương hỗ của mật độ nuôi và vật trú ẩn lên sinh trưởng, tỷ lệ sống
và hiệu quả sử dụng thức ăn của tôm hùm bông 28
3.2. Ảnh hưởng của việc phân kích cỡ và chế độ cho ăn lên sinh trưởng, tỷ lệ sống
và hiệu quả sử dụng thức ăn của tôm hùm 29
3.2.1. Diễn biến một số yếu tố môi trường trong thí nghiệm 29

3.2.2. Ảnh hưởng của số lần cho ăn lên sinh trưởng, tỷ lệ sống và hiệu quả sử
dụng thức ăn của tôm hùm bông 30
3.2.3. Ảnh hưởng của việc phân kích cỡ lên sinh trưởng, tỷ lệ sống và hiệu quả sử
dụng thức ăn của tôm hùm bông 33
3.2.4. Tác động tương hỗ của số lần cho ăn và việc phân kích cỡ lên sinh trưởng,
tỷ lệ sống và hiệu quả sử dụng thức ăn của tôm hùm bông 35
CHƯƠNG IV: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN 38
4.1. Kết luận 38
4.1. Đề xuất ý kiến 38





v

DANH MỤC TỪ VÀ THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
CL: Carapace length – Chiều dài giáp đầu ngực
BW: Body weight – Khối lượng cơ thể
We: End weight - Khối lượng sau khi kết thúc thí nghiệm
Ws: Start weight - Khối lượng ban đầu
Ctv: Cộng tác viên
























vi

DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1: Diễn biến một số yếu tố môi trường trong thí nghiệm 23
Bảng 3.2: Ảnh hưởng của mật độ nuôi lên sinh trưởng, tỷ lệ sống và hiệu quả sử
dụng thức ăn của tôm hùm 24
Bảng 3.3: Ảnh hưởng của vật trú ẩn lên sinh trưởng, tỷ lệ sống và hiệu quả sử
dụng thức ăn của tôm hùm 26
Bảng 3.4: Tác động tương hỗ của mật độ nuôi và vật trú ẩn lên sinh trưởng, tỷ
lệ sống và hiệu quả sử dụng thức ăn của tôm hùm 28
Bảng 3.5: Diễn biến một số yếu tố môi trường trong thí nghiệm 29
Bảng 3.6: Ảnh hưởng của số lần cho ăn lên sinh trưởng, tỷ lệ sống và hiệu quả
sử dụng thức ăn của tôm hùm 30
Bảng 3.7: Ảnh hưởng của việc phân kích cỡ lên sinh trưởng, tỷ lệ sống và hiệu

quả sử dụng thức ăn của tôm hùm 33
Bảng 3.8: Tác động tương hỗ của số lần cho ăn và việc phân kích cỡ lên sinh
trưởng, tỷ lệ sống và hiệu quả sử dụng thức ăn của tôm hùm 36





vii

DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1: Vòng đời tôm hùm 5
Hình 2.1: Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu 18
Hình 2.2: Tôm hùm bông giống trước khi thí nghiệm 19
Hình 2.3: Vật trú ẩn sử dụng trong thí nghiệm 20
Hình 2.4: Vệ sinh lồng nuôi trước khi cho ăn 21
Hình 3.1: Ảnh hưởng của mật độ nuôi lên tốc độ sinh trưởng của tôm hùm 24
Hình 3.2: Ảnh hưởng của mật độ nuôi lên tỷ lệ sống và hệ số FCR 25
Hình 3.3: Ảnh hưởng của vật trú ẩn lên tốc độ sinh trưởng của tôm hùm 26
Hình 3.4: Ảnh hưởng của vật trú ẩn lên tỷ lệ sống và hệ số FCR 27
Hình 3.5: Vỏ tôm hùm bị sun bám 29
Hình 3.6: Ảnh hưởng của số lần cho ăn lên khối lượng sau 30
Hình 3.7: Ảnh hưởng của số lần cho ăn lên tốc độ sinh trưởng đặc trưng 31
Hình 3.8: Ảnh hưởng của số lần cho ăn lên hệ số FCR 31
Hình 3.9: Ảnh hưởng của số lần cho ăn lên tỷ lệ sống 32
Hình 3.10: Ảnh hưởng của việc phân kích cỡ lên sinh trưởng của tôm hùm 34
Hình 3.11: Ảnh hưởng của việc phân kích cỡ lên tỷ lệ sống và hệ số FCR 34
Hình 3.12: Tác động tương hỗ của việc phân kích cỡ và số lần cho ăn lên tốc độ
sinh trưởng đặc trưng của tôm hùm 37

Hình 3.13: Tác động tương hỗ của việc phân kích cỡ và số lần cho ăn lên hệ số
chuyển đổi thức ăn của tôm hùm 37





1

MỞ ĐẦU

Tôm hùm gai (Palinuridae) là một trong những đối tượng quan trọng của
nghề nuôi biển trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Họ Palinuridae có
49 loài nhưng chỉ có 33 loài có giá trị kinh tế, trong đó loài tôm hùm bông
(Panulirus ornatus) là một trong những loài được quan tâm nhiều nhất, vì chúng là
một trong những loài có giá trị kinh tế cao trên nhiều thị trường.
Ở Việt Nam, nghề nuôi tôm hùm bắt đầu từ năm 1992 tại tỉnh Khánh Hòa và
hiện nay đây là một nghề chủ lực của ngành Thủy sản do giá trị kinh tế cao mà nó
mang lại. Nghề nuôi tôm hùm ở Việt Nam phát triển tập trung ở các tỉnh ven biển
Nam Trung bộ: Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, đã mang lại nhiều
lợi nhuận cho người nuôi. Trong 7 loài tôm hùm gai phân bố ở Việt Nam, tôm hùm
bông được nuôi phổ biến nhất.
Sự phát triển mạnh mẽ của nghề nuôi tôm hùm trong những năm gần đây đã
cho thấy, đây là một nghề có hiệu quả kinh tế cao nhưng còn nhiều rủi ro. Thiệt hại
do dịch bệnh trên tôm hùm nuôi những năm gần đây là vấn đề đáng được quan tâm.
Một trong những nguyên nhân của vấn đề này là do việc sử dụng nguồn thức ăn
tươi (cá tạp, giáp xác và động vật thân mềm) với hệ số thức ăn cao và nguy cơ gây ô
nhiễm môi trường nuôi. Trong khi đó, hiện nay, nguồn thức ăn cho tôm hùm vẫn
hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn khai thác từ tự nhiên. Việc nghiên cứu và sử dụng
các loại thức ăn công nghiệp mặc dù đã được đề cập trong một số nghiên cứu nhưng

vẫn chưa được áp dụng phổ biến. Do đó, cần có các nghiên cứu rộng rãi hơn về việc
sử dụng các loại thức ăn công nghiệp cũng như hiệu quả sử dụng các loại thức ăn
này trong quá trình nuôi. Bên cạnh đó, tỷ lệ hao hụt cao do ăn nhau trong ương nuôi
tôm hùm cũng là một trong những khó khăn của nghề hiện nay, nhất là vào giai
đoạn tôm lột xác. Nghiên cứu các biện pháp hạn chế hiện tượng ăn nhau là hết sức
cần thiết. Điều này có thể thực hiện bằng cách phân cỡ, lựa chọn mật độ nuôi thích
hợp và cung cấp vật trú ẩn trong hệ thống nuôi.
Hiện nay, tôm hùm hoàn toàn chỉ được nuôi bằng hình thức nuôi lồng ngoài
biển ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới. Hệ thống này gần với điều kiện
tự nhiên của tôm hùm, khả năng trao đổi nước tốt nhưng lại tiềm ẩn nguy cơ lây
nhiễm dịch bệnh từ môi trường xung quanh cũng như ảnh hưởng của gió bão. Ương
2

nuôi tôm hùm trong bể cũng đã được nghiên cứu với ưu điểm là kiểm soát tốt các
yếu tố môi trường và nguy cơ nhiễm bệnh, tuy nhiên, nuôi trong hệ thống này tôm
hùm thường sinh trưởng chậm. Nuôi trong ao khắc phục được nhược điểm về không
gian nuôi, kiểm soát tốt các yếu tố môi trường và dịch bệnh bằng việc lót bạt cho
thấy có tiềm năng lớn có thể ứng dụng để ương nuôi tôm hùm.
Từ những lý do trên, được sự đồng ý của Trường Đại học Nha Trang và
Khoa Nuôi trồng Thủy sản, tôi thực hiện đề tài: “Ảnh hưởng của mật độ nuôi, vật
trú ẩn, việc phân kích cỡ và chế độ cho ăn đến tốc độ sinh trưởng, tỷ lệ sống và
hiệu quả sử dụng thức ăn của tôm hùm bông (Panulirus ornatus Fabricius,
1798) nuôi trong ao đất phủ bạt”.
Mục tiêu của đề tài là đưa ra mật độ nuôi, vật trú ẩn, kích cỡ tôm và chế độ
cho ăn thích hợp trong nuôi tôm hùm trong ao đất phủ bạt.
Để đạt được mục tiêu trên, đề tài được thực hiện với 2 nội dung sau:
(1) – Nghiên cứu: Ảnh hưởng của mật độ nuôi và vật trú ẩn đến sinh trưởng,
tỷ lệ sống và hiệu quả sử dụng thức ăn của tôm hùm bông nuôi trong ao đất phủ bạt.
(2) – Nghiên cứu: Ảnh hưởng của việc phân kích cỡ và chế độ cho ăn lên
sinh trưởng, tỷ lệ sống và hiệu quả sử dụng thức ăn của tôm hùm bông nuôi trong

ao đất phủ bạt.
Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn: Đề tài cung cấp những thông tin khoa
học về ảnh hưởng của các yếu tố: mật độ nuôi, vật trú ẩn, việc phân kích cỡ và chế
độ cho ăn lên kết quả nuôi tôm hùm. Đồng thời, đề tài cũng cung cấp những thông
tin đầu tiên về khả năng nuôi tôm hùm thương phẩm trong ao đất phủ bạt tại Việt
Nam bằng thức ăn công nghiệp. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở để đánh
giá khả năng nuôi và xây dựng mô hình nuôi tôm hùm trong ao đất phủ bạt tại điều
kiện vùng Nam Trung Bộ nước ta.
3

CHƯƠNG I
TỔNG QUAN

1.1. Đặc điểm sinh học của tôm hùm
1.1.1. Đặc điểm phân loại và hình thái
Đặc điểm phân loại
Tôm hùm có rất nhiều loài, ở vùng biển Ấn Độ - Tây Thái Bình Dương có tất
cả 11 loài, trong đó vùng biển Phú Yên đến Bình Thuận có 7 loài: tôm hùm bông
(hùm sao), tôm hùm đá (hùm xanh), tôm hùm đỏ, tôm hùm ma, tôm hùm vằn, tôm
hùm mốc và tôm hùm sỏi. Ở Việt Nam có 3 loài chiếm số lượng đáng kể là: tôm
hùm bông, tôm hùm đá và tôm hùm đỏ. Trong đó, tôm hùm bông là loài có kích
thước và số lượng tương đối lớn.
Theo George & Hothuis (1965)[29], vị trí phân loại của loài tôm hùm bông
như sau:
Ngành: Arthropoda
Lớp: Crustacea
Bộ: Decapoda
Họ: Palinuridae
Giống: Panulirus
Loài tôm hùm bông: P. ornatus (Fabricius 1798).

Đặc điểm hình thái
Các nghiên cứu về đặc điểm phân loại tôm hùm bông ở vùng biển Việt Nam
cho thấy: Hình dạng bên ngoài của tôm hùm bông là cơ bản giống nhau, song do sự
khác biệt về vùng biển phân bố nên vỏ ngoài của chúng đôi khi khác nhau [2, 4].
Vỏ đầu ngực và mặt lưng của các đốt bụng có màu xanh dương pha xanh lá
cây, đồng thời có từ 1 - 2 chấm màu kem nghiêng về hai bên. Trên phần vỏ giáp đầu
ngực có các gai phân bố, trong đó, đôi gai ở hốc mắt dài và nhọn. Năm đôi chân bò
nhọn, có những vòng ngang màu tím đậm không đều nhau. Các đốt chân có màu
xanh nhạt nhưng ở đốt cuối cùng gần móng vuốt có màu xanh đậm. Đôi râu số một
có hai cặp gai, cặp sau bé hơn cặp trước. Ba cặp gai gần trước rãnh cổ rẽ ra hai bên,
tiếp theo 5 cặp gai nhọn song song nhau. Đôi râu 1 rất dài có gai, phần gốc to với
đôi gai nhọn, dài gấp 2,2 - 2,8 lần cơ thể, gấp 2,0 - 2,4 lần đôi râu thứ 2. Đôi râu thứ
2 chia làm hai nhánh, có từ 5 - 7 màu đen và màu trắng hơi vàng đan xen lẫn nhau.
4

Tôm hùm có 1 đôi mắt kép có cuống mắt. Vỏ lưng các đốt bụng bóng láng,
không có rãnh ngang. Đốt bụng 1 không có phần phụ, mỗi đốt bụng sau có 1 phần
phụ ở con đực và 2 - 3 phần phụ ở con cái. Các đôi chân ngực không có cấu tạo
dạng kìm. Ở tôm đực, cơ quan sinh dục nằm ở chân ngực 5, tôm cái nằm ở chân
ngực 3. Chân ngực 5 ở con đực có 1 móng vuốt, trong khi ở con cái có 2 - 3 móng
vuốt [2, 10].
1.1.2. Đặc điểm sinh thái và phân bố
Phân bố theo vùng vĩ độ: Trên thế giới tôm hùm bông phân bố khắp các
vùng biển nhiệt đới đến á nhiệt đới như: Úc, Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản,
Indonesia,…. Ở Việt Nam, tôm hùm phân bố rải rác từ vịnh Bắc Bộ đến vịnh Thái
Lan, nhưng chủ yếu tập trung tại ở các vùng ven biển các tỉnh từ Quảng Bình đến
Bình Thuận, đặc biệt là các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận [10].
Phân bố theo độ sâu: Tùy thuộc vào giai đoạn phát triển và tùy thuộc vào
từng loài mà chúng phân bố theo độ sâu khác nhau. Ở giai đoạn trưởng thành, tôm
hùm có xu hướng di chuyển ra khỏi đầm, vũng, vịnh để đến những rạn sâu hơn với

những điều kiện sinh thái thuận lợi cho sự sinh sản và phát triển của loài. Do đó,
chúng thường phân bố ở độ sâu 20 m trở lên. Tuy nhiên, ở giai đoạn ấu trùng và con
non chúng thường phân bố ở các bãi rạn đá san hô ở độ sâu từ 2 – 10 m nước.
Tôm hùm thường sống ở các bãi rạn đá, rạn san hô nơi có nhiều hang hốc,
khe rãnh ven biển. Chúng có tập tính sống quần tụ chủ yếu ở tầng đáy với chất đáy
sạch, không bùn. Ban ngày chúng trú ẩn trong các hang đá ít hoạt động, ban đêm
chúng hoạt động tích cực để kiếm mồi. Tôm hùm sống thích hợp ở các vùng biển
có độ mặn từ 30 - 36‰, nhiệt độ từ 25 - 32
0
C [10, 28, 36].
1.1.3. Đặc điểm sinh trưởng và vòng đời
Tôm hùm cũng như nhiều loài giáp xác khác, sinh trưởng thông qua quá
trình lột xác. Ngoài yếu tố thức ăn, tốc độ sinh trưởng của tôm hùm bông còn chịu
ảnh hưởng bởi một số yếu tố sinh thái như: nhiệt độ, ánh sáng, pH, độ mặn,… Ở
giai đoạn còn nhỏ, tôm có chu kỳ lột xác ngắn, tôm càng lớn chu kỳ lột xác càng
dài. Sau mỗi lần lột xác, kích thước và khối lượng của tôm tăng lên rất nhiều. Tôm
hùm có chu kỳ lột xác dài hơn so với các loài giáp xác khác, do vậy tốc độ tăng
trưởng của chúng tương đối chậm [10, 36]. Tôm hùm bông đạt kích thước 8 – 13
5

mm chiều dài giáp đầu ngực (CL) có chu kỳ lột xác là 8 - 10 ngày; nhóm kích thước
63 - 58 mm CL thì chu kỳ lột xác là 40 ngày [11]
Mỗi giai đoạn sống của tôm hùm gắn với một điều kiện sinh thái khác nhau
tạo thành những quần thể riêng biệt. Trong tất cả các loài thuộc giống Panulirus chỉ
có tôm hùm bông có tập tính di cư sinh sản. Trong thời kỳ thành thục sinh dục, tôm
hùm bông có tập tính di cư ra những vùng biển sâu hơn để sinh sản. Quá trình di cư
là điều kiện thuận lợi cho hoạt động giao vĩ, phát triển tuyến sinh dục, đẻ trứng và
thụ tinh [10]. Ấu trùng tôm sau khi nở sống trôi nổi ở tầng mặt nhờ sóng gió, dòng
chảy và di chuyển gần vào bờ.












Hình 1.1. Vòng đời của tôm hùm
Giai đoạn ấu trùng Phyllosoma sống trôi nổi như những sinh vật phù du trên
biển và đại dương, vì thế khả năng phát tán của chúng rất lớn do tác động của sóng,
gió, dòng chảy, thủy triều,…[10, 36, 82] Toàn thân tôm trong suốt, có chiều dài
khoảng 1,5 – 2,0 mm. Trong suốt thời kỳ này, chúng luôn di chuyển và hoàn toàn
phụ thuộc vào các điều kiện môi trường biển khơi [7].
Giai đoạn ấu trùng Puerulus: Qua 12 - 15 lần lột xác và biến thái, ấu trùng
Phyllosoma chuyển sang giai đoạn ấu trùng Puerulus, bắt đầu sống đáy. Toàn thân
tôm trong suốt, có khả năng bơi tự do, chúng có xu hướng di chuyển vào vùng biển
nông như vịnh, vũng, đầm,… nơi có điều kiện sinh thái thuận lợi. Chúng thường
sống bám trên các giá thể như đá, rong,… ở các vùng biển ít sóng gió, nguồn thức
GIAI ĐOẠN GIỮA
PHYLLOSOMA
6

ăn phong phú. Đáy cát - bùn, trầm tích ưu thế là hạt mịn với hàm lượng các chất
hữu cơ cao [24].
Giai đoạn tôm con (Juvenile): Sau khoảng 4 lần lột xác và biến thái, ấu trùng
Puerulus trở thành tôm hùm con với hình thái và màu sắc rất giống tôm trưởng
thành. Chúng thường sống trong các bãi rong biển rậm rạp hay thực vật bậc cao

hoặc trong các hang hốc của các rạn đá gần bờ. Khi đạt chiều dài giáp đầu ngực 15
– 20 mm, chúng chuyển sang cư trú trong các hang của rạn đá ghềnh, các cụm, rạn
san hô và các hang đá vôi, các bờ đá gồ ghề có thảm cỏ biển. Đây là nơi thích hợp
cho chúng kiếm mồi cũng như lẩn tránh kẻ thù.
Giai đoạn tôm trưởng thành: Giai đoạn này tôm có tập tính sống thành bầy
đàn, di chuyển có định hướng từ vùng rạn nông ven bờ đến những vụng rạn sâu xa
bờ, độ sâu 5 – 100 m tùy loài. Trong thời kỳ này, các yếu tố môi trường như nhiệt
độ, độ mặn, nền đáy, ánh sáng, thủy triều,… có ảnh hưởng đến quá trình phân bố,
sinh trưởng và sinh sản của tôm [2, 10, 36].
1.1.4. Đặc điểm dinh dưỡng
Tôm hùm là loài động vật ăn tạp, trong tự nhiên chúng ăn chủ yếu các loại
động vật như: cá, tôm, cua, ghẹ, cầu gai, giáp xác nhỏ, động vật thân mềm,… Ngoài
ra còn ăn các loài thực vật như: rong, rêu. Chúng thường có tập tính ăn mồi tích cực
vào ban đêm và rạng sáng. Tùy vào giai đoạn phát triển mà nhu cầu dinh dưỡng
khác nhau, tôm càng nhỏ thì nhu cầu dinh dưỡng càng cao. Ở giai đoạn trước lột
xác 2 – 4 ngày, tôm ăn rất mạnh, còn ở giai đoạn lột xác tôm ăn chậm lại.
Nhìn chung, đặc điểm dinh dưỡng của ấu trùng tôm hùm vẫn chưa được hiểu
biết đầy đủ. Một số nghiên cứu cho rằng ấu trùng tôm hùm loài Jasus edwardsii và
Sagmariasus verreauxi có khả năng sử dụng nhiều loại thức ăn [20, 45, 46, 47, 65].
Hậu ấu trùng của loài H. americanus có khả năng sử dụng các mảnh vụn hữu cơ và
động vật không xương sống kích thước nhỏ như cầu gai, động vật thân mềm, cua
đá, các loại giun nhiều tơ và các mảnh vỡ của sao biển [18], copepoda, ấu trùng
giáp xác mười chân, trứng cá và các loài côn trùng [56]. Trong khi đó, loài P.
cygnus có thể ăn được động vật thân mềm và đôi khi là các loài tảo bám trên san hô
[48]. Thức ăn của loài P. elephas bao gồm nhiều loài động vật thân mềm, giáp xác
và cầu gai [31], trong khi đó, loài J. lalandii chủ yếu ăn cầu gai, vẹm, bào ngư và ốc
[63, 87].
7

Nhìn chung, các nghiên cứu này cho thấy tôm hùm là loài ăn tạp nhưng thiên

về động vật, chủ yếu là các loài động vật không xương sống ở đáy di chuyển chậm
như động vật hai mảnh vỏ, giun nhiều tơ, cầu gai, động vật chân bụng, cũng như là
tảo và các vật chất hữu cơ trên nền đáy. Sự khác nhau về thành phần thức ăn của
một số loài tôm hùm là do khác nhau về các loại thức ăn sẵn có trong môi trường
mà chúng phân bố. Sự khác nhau về tập tính dinh dưỡng cũng thể hiện trong cùng
một loài ở kích thước khác nhau, trong đó, kích thước lớn hơn có thể sử dụng được
các loại thức ăn có khả năng vận động nhanh hơn và kích thước lớn hơn.
Trong nuôi thương phẩm, tôm hùm được cho ăn các loại thức ăn như vẹm
tươi sống, cua và cá tạp [5, 21, 22, 24, 27, 30, 34, 35, 42, 45, 46, 47, 58, 69, 71, 81,
82, 85]. Ở điều kiện nước ta, tôm hùm nuôi thương phẩm thường được cho ăn các
loại thức ăn như tôm, cua, ghẹ, cá, sò, ngao, sao biển,… [5, 10, 11, 12, 81, 82, 85].
Tuy nhiên, thức ăn là giáp xác đóng vai trò quyết định đến khả năng sinh trưởng, lột
xác của tôm hùm [7], trên thực tế, người ta thường phối trộn thức ăn giáp xác và
thân mềm theo tỷ lệ 3 : 1 thường cho kết quả cao về sinh trưởng, tỷ lệ sống, màu sắc
đẹp và hệ số thức ăn thấp [6].
1.2. Sự thích ứng của tôm hùm với một số yếu tố môi trường
Hầu hết các giống có thành phần loài phong phú thuộc họ tôm hùm gai đều
tập trung ở vùng biển nhiệt đới. Chúng sống từ vùng trung triều đến vùng biển sâu
tới 300m [6], chúng sống thành bầy đàn trong hang hốc để bảo vệ nhau và trốn
tránh kẻ thù. Sự hiểu biết về môi trường sống của tôm hùm ngoài tự nhiên là cơ sở
quan trọng để để khai thác, lựa chọn vùng nuôi, đồng thời điều chỉnh các thông số
môi trường trong phạm vi thích hợp cho sự sinh trưởng của tôm hùm.
1.2.1. Nhiệt độ
Nhiệt độ nước là một trong số những yếu tố sinh thái quan trọng, chi phối
bởi độ sâu và vĩ độ, quyết định sự phân bố của các giống tôm hùm trong họ
Palinuridae. Hầu hết các loài thuộc giống Panulirus sống ở vùng nước ấm, nhiệt độ
dao động 20 – 30
o
C, trung bình khoảng 25
o

C, đó là những vùng thềm lục địa, vĩ độ
thấp khoảng 35 – 10
o
C vĩ độ Bắc. Ở vùng biển miền Trung, kết quả điều tra cho
thấy, nhiệt độ vùng phân bố của tôm hùm bông ngoài tự nhiên dao động khoảng 24
– 31
o
C. Ở giai đoạn trưởng thành, vùng phân bố có mức nhiệt độ trong khoảng 26 –
29
o
C vào mùa hè và khoảng 22 – 27
o
C vào mùa đông. Hơn nữa, khi nhiệt độ nước
8

thay đổi đột ngột, ví dụ tăng 3 – 5
o
C thì hầu hết tôm hùm con bị chết, khi giảm nhiệt
độ nước xuống 5
o
C làm kéo dài thời gian lột xác, thậm chí là quá trình lột xác
không diễn ra [7, 10, 11].
1.2.2. Độ mặn
Độ mặn là một trong những yếu tố gây ảnh hưởng mạnh đến hoạt động sống
của tôm hùm, đặc biệt là tôm hùm con. Những số liệu điều tra cho thấy vùng phân
bố của tôm hùm con ngoài tự nhiên có độ mặn dao động trong khoảng 33 – 34‰.
Sự thay đổi đột ngột của độ mặn (5 - 15‰) sẽ làm hoạt động bắt mồi của tôm con
giảm từ 30 – 90%. Khi nguồn nước có độ mặn thấp 20 – 25‰ kéo dài 3 – 5 ngày sẽ
gây nên tình trạng chết từ từ ở tôm con. Độ mặn của môi trường nuôi có tác động
đến hoạt động bắt mồi, khả năng điều hòa áp suất thẩm thấu,… ở tôm hùm con, từ

đó hoặc kéo dài thời gian lột xác hoặc gây chết đối với tôm hùm con. Theo số liệu
điều tra ở khu vực miền Trung nước ta, tôm hùm trưởng thành sống ở ngoài khơi ở
độ sâu trên 10 m nước, độ mặn dao động 30 – 35‰ [7, 10, 11].
1.2.3. Nền đáy
Cấu tạo nền đáy là một trong những yếu tố quan trọng, quyết định sự phân
bố của tôm hùm, đặc biệt là ở giai đoạn trưởng thành. Tôm hùm thường tập trung
chủ yếu trong các hang hốc có nền đáy là đá, san hô, đá tảng, cát hoặc thảm thực
vật. Riêng tôm hùm bông (P. ornatus), tôm hùm đá (P. homarus), tôm hùm đỏ (P.
longgipes) và tôm hùm sen (P. versicolor) thường sinh sống ở những hang đá tảng
và hang đá nhỏ có ánh sáng rọi tới. Tôm hùm tre (P. polyphagus) thích vùi mình
dưới cát vì thế hay gặp loài này phân bố ở những vùng đáy cát, đá cuội có rong phát
triển [7, 10, 11].
1.2.4. Độ sâu
Độ sâu có ảnh hưởng đến sự phân bố của các loài tôm hùm trong tự nhiên.
Ở giai đoạn tôm con, chúng sống ở độ sâu 1 – 5 m nước, nhưng đến giai đoạn
trưởng thành hầu hết các loài tôm hùm sống ở độ sâu dao động trong khoảng 5 –
100 m nước, cá biệt có thể tới 180 – 400 m như loài P. delagoae. Ở vùng biển miền
Trung nước ta, các nghiên cứu cho thấy độ sâu tôm hùm con phân bố thường 0,5 –
5 m nước. Tuy nhiên, trong cùng một vùng, các loài khác nhau lại sống ở độ sâu
khác nhau, theo mức độ tăng dần như sau: tôm hùm sỏi (P. stimpsoni), tôm hùm
bông, tôm hùm đá nhỏ, và tôm hùm đỏ, khoảng 4 – 6 m. Do vậy, khi ương nuôi tôm
9

hùm, độ sâu khi đặt lồng thường từ 2 – 3 m. Giai đoạn trưởng thành, tôm hùm phân
bố ở độ sâu trên 10 m cho tới 30 – 50 m nước, thường ở các rạn san hô, ven bờ và
hải đảo [7, 10, 11],.
1.2.5. Nguồn thức ăn tự nhiên
Tôm hùm được coi là động vật ăn mồi sống chủ yếu trong hệ sinh vật đáy ở
biển. Chúng bắt mồi vào ban đêm trên những vùng rạn có nguồn thức ăn phong phú
gồm các loài liên quan với rạn và có ảnh hưởng trực tiếp đến cấu trúc chung của hệ

sinh thái hoặc một vùng sinh thái kể cả thành phần loài và độ phong phú của các hệ
sinh vật là mồi của chúng. Ở nước ta, các nghiên cứu cho thấy thành phần động
thực vật thường gặp ở vùng tôm hùm phân bố bao gồm: các loài giáp xác nhỏ (tôm,
cua), động vật thân mềm (sò, vẹm, ốc), cầu gai, sao biển, một số loài cá (cá đáy, cá
rạn san hô), huệ biển, hải sâm và các loài rong biển [5, 7, 31, 33, 46, 48, 81, 82].
1.3. Tình hình nghiên cứu về kỹ thuật nuôi tôm hùm trên thế giới và Việt Nam
1.3.1. Tình hình nghiên cứu kỹ thuật nuôi tôm hùm trên thế giới
Là một trong số những loài giáp xác có giá trị kinh tế cao và là mặt hàng xuất
khẩu quan trọng của một số quốc gia, các nghiên cứu về tôm hùm đã thu hút được
sự quan tâm của các nhà khoa học, người nuôi trồng và khai thác thủy sản. Hiện
nay, nguồn cung cấp tôm hùm thương phẩm cho thị trường được khai thác từ tự
nhiên hoặc được nuôi ở một số quốc gia Đông Nam Á, Úc,… Khó khăn lớn nhất
của nghề nuôi tôm hùm hiện nay là việc phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn con giống
tự nhiên. Các nghiên cứu sinh sản nhân tạo và ương nuôi ấu trùng tôm hùm đã được
triển khai tại nhiều quốc gia trên thế giới nổi bật là Úc, Mỹ và Nhật. Tuy nhiên, cho
đến nay thành công trong sản xuất giống mới chỉ đạt được ở một số loài tôm hùm
càng (tôm hùm càng Homarus spp., thời gian phát triển ấu trùng ngắn) trong khi các
loài tôm hùm gai (với thời gian phát triển ấu trùng dài) còn rất hạn chế [53, 78].
Mặc dù dựa hoàn toàn vào nguồn giống khai thác từ tự nhiên, nghề nuôi tôm
hùm gai ở một số nước Đông Nam Á rất phát triển, đặc biệt là Việt Nam và
Indonesia. Do hậu ấu trùng của tôm hùm gai có đặc điểm sống đáy, bám và chui rúc
trong các đám rong, các lồng bè, hang hốc tự nhiên,… nên nhiều người dân đã sử
dụng các loại bẫy (lưới, mành, san hô đục lỗ,…) để khai thác tôm hùm giống [23,
67]. Sau khi khai thác, nguồn tôm trắng (hậu ấu trùng Puerulus) được ương nâng
cấp lên cỡ lớn hơn trước khi sử dụng cho nuôi thương phẩm [55, 70]. Sự xuất hiện
10

nguồn tôm trắng tự nhiên tại một số vùng của một số quốc gia là cơ sở quan trọng
để khai khác giống và phát triển nghề nuôi tôm hùm thương phẩm, đặc biệt là ở
vùng Đông Nam Á.

Khi nghề nuôi tôm hùm thương phẩm phát triển, việc cung cấp thức ăn cho
chúng là vấn đề rất được quan tâm. Các nghiên cứu về tập tính dinh dưỡng của tôm
hùm ngoài tự nhiên, đặc biệt là giai đoạn hậu ấu trùng, cho thấy các thành phần thức
ăn chiếm ưu thế bao gồm động vật thân mềm, giáp xác, giun nhiều tơ, ruột khoang
[5, 14, 31, 49, 62]. Điều này cho thấy, thức ăn chủ yếu của tôm hùm là động vật
không xương sống ở đáy và nhu cầu thức ăn của chúng thiên về các loại có hàm
lượng protein cao, hàm lượng lipid thấp và hàm lượng tinh bột ở mức trung bình
[25]. Các nghiên cứu về sản xuất thức ăn công nghiệp cho nuôi tôm hùm đã được
thực hiện trên nhiều loài [89]. Cơ sở của việc sản xuất thức ăn công nghiệp dựa vào
tập tính dinh dưỡng và thành phần thức ăn của tôm hùm ở ngoài tự nhiên. Tôm hùm
là nhóm động vật ăn thịt, hung dữ với cấu tạo các đôi chân ngực và đôi hàm thích
ứng với việc ăn các động vật vỏ cứng, cầu gai, hay cua ghẹ,…[5, 14, 17, 26, 49].
Nhiều nghiên cứu sản xuất thức ăn viên cho tôm hùm bông với các đặc điểm về
kích thước, kết cấu, mùi vị và dinh dưỡng phù hợp với nhu cầu của tôm hùm
thương phẩm. Tôm hùm có khả năng tiếp nhận các tín hiệu hóa học liên quan đến
nguồn thức ăn, thường là các a xít amin hay chất hữu cơ có khối lượng phân tử
thấp, có trong môi trường thông qua hệ thống cơ quan nhận cảm phát triển [33, 59].
Các nghiên cứu sử dụng thức ăn công nghiệp cho tôm hùm, thậm chí sử dụng thức
ăn của tôm he cho tôm hùm đã được đề cập [22, 30, 75] tuy nhiên kết quả sinh
trưởng và sự kích thích ăn mồi của các loại thức ăn này với tôm hùm vẫn kém các
loại thức ăn tự nhiên. Điều này được giải thích là do thức ăn tự nhiên như thịt vẹm
hay thịt tôm có tính hấp dẫn tôm hùm hơn so với thức ăn nhân tạo [30, 79, 89].
Nhiều nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng của tôm hùm bông đã được đề cập.
Smith và ctv (2003) nhận thấy tôm hùm bông sinh trưởng rất nhanh khi nuôi bằng
thức ăn viên có hàm lượng protein và lipid cao [75]. Do đó, những nghiên cứu về
thức ăn tổng hợp để ương nuôi tôm hùm là một trong những hướng nghiên cứu cần
được ưu tiên hàng đầu. Nghiên cứu về nhu cầu protein (32 – 60%) và lipid (6 –
10%) trên tôm hùm bông giai đoạn giống (1,8 g/con), Smith và ctv (2003) cho thấy,
tôm đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất ở hàm lượng lipid và protein lần lượt là 6% và
11


47% trong khi ở mức lipid 10%, tốc độ tăng trưởng cao nhất của tôm đạt được khi
hàm lượng protein là 53% [75]. Huynh và Fortedar (2010) đã nghiên cứu ảnh hưởng
của Mannan oligosacharide (MOS) - sản phẩm BIO-MOS, Altech, USA - lên sinh
trưởng và tỷ lệ sống của tôm hùm bông [38].
Johnston và ctv (2008) đã đánh giá khả năng thay thế thức ăn tươi bằng thức
ăn viên trong nuôi tôm hùm bông [43]. William và ctv (2005) cũng đã xác định khả
năng sử dụng thức ăn của tôm hùm bông bằng cách luyện ăn thức viên, kết quả thu
được tỷ lệ sống khá cao (56%) [89]. Jones và Shanks (2008) đã tổng hợp các nghiên
cứu về nhu cầu tôm hùm bông cho nuôi trồng thủy sản ở Úc. Tác giả cũng báo cáo
các kết quả nuôi thương phẩm tôm hùm bông trong lồng nổi trong ao nuôi tôm hùm
ở Cairns, Úc [50].
1.3.2. Tình hình nghiên cứu kỹ thuật nuôi tôm hùm ở Việt Nam
Việt Nam có điều kiện tự nhiên rất thuận lợi để khai thác và nuôi thương
phẩm tôm hùm gai, với 7 loài có giá trị kinh tế cao, đặc biệt là tôm hùm bông. Nghề
khai thác tôm hùm gai ở nước ta bắt đầu từ những năm 1990, nhưng thực sự phát
triển mạnh từ năm 2000 với các tỉnh Nam Trung Bộ từ Phú Yên đến Ninh Thuận.
Tuy nhiên, do áp lực khai thác và thiếu quản lý, quy hoạch dẫn đến năng suất, sản
lượng và kích thước tôm hùm khai thác giảm mạnh (tôm hùm bông, từ cỡ 5kg
xuống còn gần 1 kg) và điều này cũng ảnh hưởng lớn đến giá trị xuất khẩu do tôm
hùm có kích thước lớn được ưa chuộng hơn và giá trị cao hơn [77]. Hiện nay, hai
loài tôm hùm được nuôi phổ biến ở các tỉnh Nam Trung Bộ là tôm hùm bông và
tôm hùm xanh và nghề nuôi tôm hùm đã và đang trở thành nghề kinh tế quan trọng
của ngư dân ven biển mang lại lợi nhuận rất lớn [68]. Một trong những lợi thế lớn
nhất của nghề nuôi tôm hùm của nước ta là nguồn giống cung cấp từ tự nhiên phong
phú và tương đối ổn định với sản lượng khai thác hàng năm từ 1,5 đến 3 triệu tôm
trắng mỗi năm [55, 61]. Sản lượng tôm hùm nuôi tăng mạnh trong giai đoạn 1995 –
2006 từ 301 tấn lên 1.900 tấn. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của bệnh tôm sữa xuất hiện
vào cuối năm 2006, sản lượng tôm hùm giảm mạnh còn lại 1.400 tấn năm 2009, đặc
biệt năm 2008 xuống mức dưới 1000 tấn [7, 77, 85].

Hệ thống nuôi tôm hùm cũng có nhiều thay đổi kể từ khi nghề nuôi bắt đầu
đến nay. Từ những năm 1990, tôm hùm được nuôi trong các loại lồng găm cố định
trên nền đáy ở các vùng nước cạn, cách bờ khoảng 100-500 m [77]. Tuy nhiên, hệ
12

thống nuôi này thường gặp phải các vấn đề như đóng rong, hà bám và tích tụ thức
ăn thừa, chất thải. Để giải quyết vấn đề này, các hộ nuôi bắt đầu chuyển lồng ra
vùng nước sâu hơn và cách đáy một khoảng nhất định nhằm cải thiện sự trao đổi
nước. Những vùng nước như thế thường chịu ảnh hưởng của sóng và gió nhiều hơn
và vật liệu làm khung lồng cũng như lồng vì thế phải vững chắc hơn. Từ năm 2000
trở đi, hệ thống lồng bè nổi nuôi tôm hùm trở nên phổ biến thay thế cho hệ thống
lồng cố định có nhiều nhược điểm [36].
Nghề nuôi tôm hùm thật sự mang lại nhiều lợi ích cho các cộng đồng dân cư
ven biển, đặc biệt là các tỉnh Nam Trung Bộ. Tuy nhiên, tính bền vững của nghề
nuôi tôm hùmlà một vấn đề đáng quan tâm khi mà việc quy hoạch và quản lý vùng
nuôi, kỹ thuật nunôi còn nhiều bất cập và vấn đề suy thoái môi trường vùng nuôi
[81, 82, 88]. Việc cho tôm hùm ăn hoàn toàn thức ăn tươi, giá trị thấp với hệ số thức
ăn cao thường vượt quá 20 là nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường nuôi. Hậu
quả là, rủi ro trong nuôi tôm hùm ngày càng lớn khi nhiều bệnh lạ xuất hiện ảnh
hưởng lớn đến tỷ lệ sống (chỉ khoảng 40%), sản lượng và chất lượng sản phẩm [34,
84], trong khi những giải pháp chữa trị hiện nay vẫn chưa thật sự phát huy hiệu quả
như mong đợi. Để phát triển bền vững nghề nuôi tôm hùm hiện nay, các nỗ lực
nghiên cứu nên tập trung vào việc giải quyết vấn đề thức ăn, đặc biệt và việc sản
xuất thức ăn nhân tạo thay thế cho thức ăn tươi. Tuy nhiên, để đạt được thành công,
cần có các nghiên cứu toàn diện hơn về các thành phần và tính chất của thức ăn phù
hợp với nhu cầu của tôm hùm [35, 37, 80].
1.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả nuôi tôm hùm thương phẩm
Như trên đã nói, với tiềm năng phát triển lớn, tôm hùm đã thu hút được sự
quan tâm nhiên cứu nhằm khép kín vòng đời cũng như thúc đẩy nghề nuôi tôm hùm
thương phẩm phát triển. Ngoài dinh dưỡng đã được đề cập trong nhiều nghiên cứu,

các yếu tố khác có ảnh hưởng lớn đến kết quả nuôi thương phẩm đã và đang được
quan tâm nghiên cứu như: ảnh hưởng của mật độ nuôi, hình thức nuôi, kích cỡ tôm,
vật trú ẩn, chế độ cho ăn, …
1.4.1. Mật độ nuôi
Trong nuôi trồng thủy sản thương phẩm, mật độ nuôi là yếu tố có ảnh hưởng
lớn đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của các đối tượng nuôi và điều này liên quan đến
khả năng cung cấp của hệ thống, loài, khả năng chăm sóc quản lý và hiệu quả kinh
13

tế của nghề nuôi. Nghiên cứu về ảnh hưởng của mật độ nuôi lên sinh trưởng và tỷ lệ
sống đã được đề cập ở một số loài tôm hùm. Nghiên cứu về ảnh hưởng của mật độ
nuôi lên sinh trưởng của loài Jasus edwardsii giai đoạn giống cho thấy: mật độ 50
con/m
2
cho tốc độ sinh trưởng tốt hơn nuôi ở mật độ 100, 150 và 200 con/m
2
[40,
41]. Tương tự, nghiên cứu về ảnh hưởng của 2 mật độ nuôi trên 3 nhóm kích cỡ
khác nhau (nhóm 1: 2,14 ± 0,07 g, 13,2 ± 0,1 mm, mật độ 50 và 100 con/m
2
; nhóm
2: 57,1 ± 1,1 g, 38,7 ± 0,28 mm CL mật độ 11 và 23 con/m
2
; nhóm 3: 138,2 ± 2,26
g, 51,9 ± 0,25 mm CL, mật độ 10 và 19 con/m
2
) trên loài Panulirus cygnus,
Johnston và ctv (2006) cho thấy: ở các mật độ nuôi thấp, các nhóm kích cỡ đều cho
tỷ lệ sống cao (90 - 95%) hơn nhiều so với nuôi ở các mật độ cao (nhóm 1: 78%,
nhóm 2: 86% và nhóm 3: 88%). Như vậy, ở loài này, mật độ nuôi thích hợp cho

từng nhóm kích thước là 50, 11 và 10 con/m
2
. Tuy nhiên, không có sự khác biệt về
tốc độ tăng trưởng của tôm nuôi ở các mật độ và nhóm kích thước khác nhau trong
nghiên cứu này [44].
Tuy nhiên, nghiên cứu về ảnh hưởng của mật độ nuôi (14, 29 và 43 con/m
2
)
tôm hùm bông giai đoạn 32,4 g và 13,8 mm CL, Jones và ctv (2001) cho thấy: mật
độ nuôi không ảnh hưởng đến sinh trưởng và tỷ lệ sống sau 272 ngày nuôi. Kích cỡ
tôm thu hoạch được trung bình là 225.3 g (61.8 mm CL), tốc độ tăng trưởng đặc
trưng là 1.56%/ngày và tỷ lệ sống là 52,5% [54].
Ngoài mật độ nuôi, mật độ lưu giữ sau đánh bắt trong quá trình vận chuyển
cũng đã được nghiên cứu, Nguyễn Thị Bích Ngọc và ctv (2009) cho thấy không có
sự khác biệt về tốc độ sinh trưởng và tỷ lệ sống của tôm được lưu giữ sau 30 ngày ở
hai mật 200 và 300 con/m
2
[9, 66]. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu khác, tác giả
đã nhận thấy việc gia tăng mật độ tôm giống từ 300 - 2.000 con/m
2
trong quá trình
vận chuyển đã làm tăng đáng kể khí amonia và giảm oxy hòa tan trong nước với
thời gian vận chuyển hơn 5 giờ. Điều này đã có những ảnh hưởng đáng kể đến quá
trình ương nuôi tôm hùm sau này [12].
Một trong những yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ
sống và năng suất trong nuôi tôm hùm là mật độ thả giống. Mật độ thả giống phụ
thuộc nhiều vào từng giai đoạn phát triển của tôm nuôi và kích cỡ tôm giống thả
ban đầu. Từ thực tiễn nghề nuôi tôm hùm ở Nam Trung Bộ, tác giả đã đưa ra một số
mật độ ương giống tương ứng với từng kích cỡ tôm: Cỡ giống tôm trắng: 30 - 40
14


con/m
2

lồng; cỡ giống 1,5 – 4 g/con: 25 - 30 con/m
2
lồng; cỡ giống 4 – 10 g/con: 15
- 20 con/m
2
lồng; cỡ giống 10 – 50 g/con: 10-15 con/m
2
lồng; cỡ giống 50 – 200
g/con: 7 - 10 con/m
2
lồng; cỡ giống hơn 200 g/con: 3 - 5 con/m
2
lồng [8].
1.4.2. Kích cỡ và phân cỡ
Tại Phillippines những trại thử nghiệm nuôi tôm hùm được hình thành từ
những năm 1970 do cục thủy sản và nguồn lợi (BFAR) xây dựng. Đến cuối những
năm 1980 và đầu những năm 1990 thì nghề nuôi tôm hùm thương phẩm mới được
phát triển ở Basilan, Western Mindanao. Những loài được nuôi chủ yếu là P.
ornatus, P. longipes, P. versicolor đã được nuôi ở bè phao nổi. Khối lượng ban đầu
từ 100 - 300g sau 6 - 15 tháng đạt khối lượng 0,8 – 1,3 kg. Cho ăn chủ yếu là thức
ăn tươi đạt tỷ lệ sống 90%. Nếu nuôi từ khối lượng 30 - 80 g thì tỷ lệ sống là 10%
[64]. Theo Đinh Tấn Thiện, kích cỡ tôm nuôi khác nhau cho tỷ lệ sống khác nhau:
kích cỡ dưới 7 mm CL tỷ lệ sống là 73%; kích cỡ dưới 9,5 mm CL tỷ lệ sống là
88%; kích cỡ là 12 mm CL tỷ lệ sống là đạt trên 98% [13].
Việc san thưa mật độ trong suốt quá trình nuôi là biện pháp kỹ thuật quan
trọng giúp cải thiện tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm nuôi thông qua hạn

chế hiện tượng ăn nhau. Mật độ tôm trắng thả ban đầu nên duy trì 50 – 60 con/m
3

lồng. Định kỳ 15 – 30 ngày ương nuôi, tiến hành kiểm tra xác định khối lượng và
san thưa mật độ một cách thích hợp, tương ứng với các mật độ sau: cỡ giống 1,5 – 2
g, san thưa ở mật độ 20 con/m
3
lồng; cỡ giống 4 – 6 g/con, san thưa còn 15 – 20
con/m
3
lồng; cỡ giống 50 g/con, san thưa 12 – 15 con/m
3
lồng; cỡ giống 200 g/con,
san thưa còn 7 – 10 con/m
3
lồng; sau đó, từ cỡ 400 g/con trở đi, duy trì mật độ 3 – 4
con/m
3
lồng, sau 24 tháng nuôi, có thể tiến hành thu hoạch [7]. Cũng như đa số
các loài giáp xác khác, tôm hùm là nhóm giáp xác ăn tạp, thích bắt các loại mồi
sống, giáp xác đang lột xác. Do vậy việc phân cỡ tôm góp phần đáng kể hạn chế
hiện tượng ăn nhau trong quá trình nuôi [7, 17].
1.4.3. Vật trú ẩn
Trong nuôi thương phẩm tôm hùm, hiện tượng ăn nhau xảy ra phổ biến trong
quá trình nuôi đặc biệt là giai đoạn lột xác. Một trong các biện pháp kỹ thuật quan
trọng là cung cấp vật trú ẩn để tôm ẩn nấp trong quá trình lột xác sẽ góp phần hạn
chế hiện tượng ăn nhau, giúp gia tăng tỷ lệ sống. Nghiên cứu ảnh hưởng của 2 loại
vật trú ẩn (lưới và gạch) đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của loài P. cygnus với 3 kích
15


cỡ: kích cỡ 1 (2,14 ± 0,07 g, 13,2 ± 0,1 mm CL); kích cỡ 2 (57,1 ± 1,1 g, 38,7 ±
0,28 mm CL); và kích cỡ 3 là (138,2 ± 2,26 g, 51,9 ± 0,25 mm CL). Kết quả cho
thấy, ở kích cỡ 1: tốc độ sinh trưởng của loài P. cygnus nuôi trong bể có vật trú ẩn
bằng lưới cao hơn so với vật trú ẩn bằng gạch (p < 0,05). Tuy nhiên, ở hai nhóm
kích thước còn lại, không có sự khác biệt về tốc độ tăng trưởng của tôm ở hai loại
vật trú ẩn khác nhau [44]. James và ctv (2004) cũng đã nghiên cứu ảnh hưởng của
vật trú ẩn lên con giống của loài J. edwardsii. Tác giả đã kết luận là vật trú ẩn đã
giúp tăng tỷ lệ sống của tôm hùm giống nhưng không có ảnh hưởng đến tốc độ tăng
trưởng của tôm. Từ những nghiên cứu của mình, tác giả đã khuyến cáo nên ương
giống của loài J. edwardsii với mật độ 50 - 100 con/m
2
và có vật trú ẩn sẽ thu được
tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống cao nhất [40].
Ở Việt Nam, Nguyễn Minh Châu và ctv (2009) đã thử nghiệm ảnh hưởng
của các loại vật trú ẩn khác nhau lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của tôm hùm bông
giai đoạn con giống. Thí nghiệm được bố trí ngẫu nhiên hoàn toàn trên 4 loại vật trú
ẩn khác nhau trong 40 ngày ương giống. (1) Vật trú ẩn bằng gỗ, được khoan nhiều
lỗ, (2) Vật trú ẩn là san hô được khoan nhiều lỗ, (3) Vật trú ẩn là lưới, (4) Và
nghiệm thức đối chứng - không đặt vật trú ẩn. Mỗi nghiệm thức có lặp lại 6 lần với
12 con tôm hùm giống/bể. Tôm được cho ăn cá tạp một lần mỗi ngày. Kết quả
nghiên cứu cho thấy: Vật trú ẩn không ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng về chiều
dài và khối lượng. Tuy nhiên, việc cung cấp vật trú ẩn khác nhau ảnh hưởng đáng
kể đến tỷ lệ sống trong đó: tỷ lệ sống cao nhất ở nghiệm thức sử dụng lưới làm vật
trú ẩn (80,6 ± 5,6%), trong khi đó, tỷ lệ sống thấp nhất ở nghiệm thức đối chứng -
không có vật trú ẩn (62,5 ± 4,2%) và nghiệm thức có vật trú ẩn bằng gỗ (54,2 ±
2,4%). Từ nghiên cứu này, tác giả khuyến cáo nên sử dụng vật trú ẩn là lưới để cải
thiện tỷ lệ sống trong quá trình ương [3, 19].
1.4.5. Chế độ cho ăn
Thomas và ctv (2003) đã nghiên cứu ảnh hưởng của tỷ lệ cho ăn (4% và
0,5% BW/ngày) và số lần cho ăn (1, 2 và 4 lần/ngày) đến tỷ lệ sống và sinh trưởng

của loài Jasus edwardsii kích cỡ 5 - 22g. Sau 119 ngày nuôi, kết quả cho thấy, tốc
độ sinh trưởng của tôm ở nghiệm thức cho ăn 4% khối lượng thân/ngày: không có
sự khác nhau về tốc độ sinh trưởng, tỷ lệ sống khi thay đổi số lần cho ăn (SGR: 0,77
– 0,82%; tỷ lệ sống: 75 - 84%). Trong khi đó, cũng 4 lần cho ăn, tỷ lệ sống ở tỷ lệ
16

cho ăn 0,5%/ngày (41%) thấp hơn nhiều so với tỷ lệ cho ăn 4%/ngày (84%). Qua
đó, tác giả thấy rằng, khi tỷ lệ cho ăn thấp và lượng thức ăn bị chia nhỏ sẽ tăng sự
canh tranh thức ăn của tôm, làm giảm tỷ lệ sống và tăng trưởng của tôm [76]. Tuy
nhiên, cũng trên loài này ở giai đoạn 10 – 15 g, Simon và ctv (2008) nhận thấy tốc
độ tăng trưởng của tôm khi cho ăn 1 lần/ngày cao hơn nhiều so với các chế độ cho
ăn 3 lần/tuần, 2 lần/ngày và 5 lần/ngày [72].
Tương tự, khi nghiên cứu ảnh hưởng của số lần cho ăn (1 và 2 lần/ngày) và
tỷ lệ cho ăn (50 và 100% BW/ngày) lên tốc độ tăng trưởng của loài P. Argus giai
đoạn giống (5 – 10 mm CL), ở cùng một tỷ lệ cho ăn, tôm được cho ăn 1 lần/ngày
có tốc độ tăng trưởng về chiều dài giáp đầu ngực và khối lượng cao hơn nhiều so
với tôm ở nghiệm thức cho ăn 2 lần/ngày [21]. Trong khi đó, một nghiên cứu khác
cũng trên loài tôm này cho thấy: các giai đoạn khác nhau thì tỷ lệ cho ăn có ảnh
hưởng khác nhau lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của tôm hùm, cụ thể, ở giai đoạn hậu
ấu trùng Puerulus tôm được cho ăn 3 lần/ngày cho tốc độ tăng trưởng về chiều dài
và khối lượng cao hơn so với nghiệm thức cho ăn 1 lần/ngày. Ngược lại, ở giai đoạn
tôm trưởng thành 1 và 2 năm tuổi, số lần cho ăn không ảnh hưởng đến sinh trưởng
và tỷ lệ sống của tôm [43].
Ở Việt Nam, nghề nuôi tôm hùm vẫn còn sử dụng thức ăn tươi là chính bao
gồm: động vật thân mềm, giáp xác, cá mối, cá sơn, cá liệt…. Ở loài tôm hùm bông
(P.ornatus). Theo Lê Anh Tuấn và ctv (2009), khẩu phần và số lần cho tôm hùm ăn
cần được điều chỉnh theo giai đoạn ương nuôi, cụ thể, ở kích thước nhỏ cho ăn 3 - 4
lần/ngày, cho ăn nhiều vào ban đêm, trong khi đó, ở kích thước lớn hơn 400g/con,
tôm nên được cho ăn 2 ngày/lần [80]. Theo Võ Văn Nha (2009), ở giai đoạn nhỏ,
tôm được cho ăn 2 lần/ngày vào sáng sớm và chiều tối, lượng thức ăn cho tôm ăn

trong hai tháng đầu bằng 30 - 40% khối lượng tôm thả. Sau đó nên kiểm tra định kỳ
và giảm tỷ lệ cho ăn xuống còn 20 - 25%. Đến khi tôm có khối lượng lớn hơn 200
g/con, cho ăn 2 lần/ngày vào sáng sớm và chiều tối, lượng thức ăn cho vào chiều
tối chiếm 70% lượng thức ăn trong ngày. Tùy theo loại thức ăn mà điều chỉnh khẩu
phần cho ăn hàng ngày cho hợp lý [8].
17

Tóm lại, từ các kết quả nghiên cứu về ương nuôi tôm hùm trong và ngoài
nước, có thể nhận thấy rằng số lượng các công trình nghiên cứu để hoàn thiện qui
trình công nghệ ương nuôi tôm hùm bông là rất ít, đặc biệt là các nghiên cứu liên
quan đến khả năng ương nuôi tôm hùm bông trong ao đất. Do đó, việc nghiên cứu
ảnh hưởng của các yếu tố mật độ nuôi, vật trú ẩn, việc phân kích cỡ và chế độ cho
ăn đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của tôm hùm bông là rất cần thiết và nó sẽ là cơ sở
quan trọng góp phần xây dựng qui trình ương nuôi tôm hùm bông (P.ornatus) trong
ao đất.


18

CHƯƠNG II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tôm hùm Bông (Panulirus ornatus, Fabricius 1798))
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 05/2010 đến tháng 06/2011.
Địa điểm nghiên cứu: Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản – Trường Đại
học Nha Trang. Địa chỉ Mỹ Thanh - Cam Thịnh Đông - Cam Ranh - Khánh Hòa.
2.2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Sơ đồ khối nghiên cứu






















Hình 2.1: Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu

Tôm hùm bông (P. ornatus) nuôi trong ao đất phủ bạt
Mật độ nuôi
Kết luận và đề xuất
Các chỉ tiêu đánh giá:
- Các chỉ tiêu môi trường: nhiệt độ, độ mặn, pH, oxy hòa tan
- Tốc độ sinh trưởng: SGRw, We
- Tỷ lệ sống: SR
- Hiệu quả sử dụng thức ăn: FCR
Vật trú ẩn

Chế độ cho ăn
Phân kích cỡ
Thu thập và xử lý số liệu
Không có
Cho ăn 2 lần/ngày
3 con/ m
2
lồng nuôi


6 con/m
2
lồng nuôi
Cho ăn 1 lần/ngày

Đồng đều
Không đồng đều

×