BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
PHẠM TIẾN LÂM
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYẾT ĐỊNH THAM GIA
XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ
KHÁNH HÒA - 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
PHẠM TIẾN LÂM
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUYẾT ĐỊNH THAM GIA
XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN VIỆT NAM
Ngành đào tạo: Quản trị kinh doanh
Mã số: 60340102
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ KIM LONG
KHÁNH HÒA - 2013
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả
Phạm Tiến Lâm
ii
LỜI CẢM
ƠN
Trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và viết luận văn này, tôi luôn nhận được
sự hướng dẫn tận tình, những lời động viên, khích lệ, sự thấu hiểu và sự giúp đỡ to lớn từ
quý Thầy Cô giáo, Gia đình và Bạn bè của tôi. Nhân đây, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc đến những người đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành luận văn này.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy Lê Kim Long, giảng viên
hướng dẫn nghiên cứu chính của tôi. Nếu không có những lời nhận xét, góp ý quý giá để
xây dựng đề cương luận văn và sự hướng dẫn nhiệt tình, tận tâm của Thầy trong suốt
quá trình nghiên cứu thì luận văn này đã không hoàn thành. Tôi cũng học được rất nhiều
từ Thầy về kiến thức chuyên môn, tác phong làm việc và những điều bổ ích khác. Tôi
cũng xin chân thành cảm ơn Thầy Phạm Thế Anh và Cô Nguyễn Thị Hồng Đào đã tận
tình hướng dẫn thêm tôi trong suốt thời gian nghiên cứu và viết luận văn này.
Tôi cũng xin gởi lời cảm ơn chân thành đến quý Thầy, Cô giáo ở Khoa Kinh tế-
Trường Đại học Nha Trang nơi tôi được học tập và nghiên cứu đã giảng dạy, giúp đỡ tôi
trong suốt khóa học này. Quý Thầy, Cô đã đem đến cho tôi những kiến thức và kinh
nghiệm vô giá cho cuộc đời của tôi.
Sau cùng, lời cảm ơn đặc biệt nhất dành cho bố mẹ, anh chị em, bạn bè. Những
cố gắng của tôi để hoàn thành luận văn này là dành cho họ. Xin cảm ơn những giúp đỡ,
chia sẻ, động viên và khuyến khích của họ giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Nha Trang, tháng 5 năm 2013
iii
MỤC LỤC
Trang bìa i
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM
ƠN
ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ vi
MỞ ĐẦU 1
1. Đặt vấn đề 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
4. Phương pháp nghiên cứu 4
5. Kết cấu của luận văn 4
CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT VỀ HÀNH VI XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP
VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ NGHỊ 5
1.1 Lý thuyết về xuất khẩu 5
1.1.1 Các khái niệm 5
1.1.2 Các lý thuyết về hoạt động xuất khẩu 5
1.1.2.1 Lý thuyết của trường phái trọng thương 5
1.1.2.2 Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith 6
1.1.2.3 Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo 8
1.1.3 Các hình thức của hoạt động xuất khẩu 8
1.1.3.1. Xuất khẩu trực tiếp 8
1.1.3.2 Xuất khẩu gia công uỷ thác 9
1.1.3.3 Xuất khẩu uỷ thác 9
1.1.3.4 Buôn bán đối lưu 10
1.1.3.5 Xuất khẩu theo nghị định thư 11
1.1.3.6 Xuất khẩu tại chỗ 11
1.1.3.7 Gia công quốc tế 11
1.1.3.8 Tạm nhập tái xuất 11
1.1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu 12
1.1.4.1 Yếu tố chính trị 12
1.1.4.2 Yếu tố kinh tế 12
iv
1.1.4.3 Yếu tố luật pháp 12
1.1.4.4 Yếu tố cạnh tranh 13
1.1.4.5 Yếu tố văn hoá 14
1.2 Lý thuyết về hành vi xuất khẩu của các doanh nghiệp 14
1.3 Khung phân tích lý thuyết về quyết định xuất khẩu của doanh nghiệp 16
1.4 Lược khảo các nghiên cứu liên quan
17
Chương II: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM 21
2.1 Tình hình xuất khẩu chung của Việt Nam 21
2.2 Thị trường và các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay 26
2.3 Giá trị gia tăng trong xuất khẩu sản phẩm Việt Nam 28
2.4 Chương trình khuyến khích xuất khẩu 29
Chương III: PHÂN TÍCH DỮ LIỆU, THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ
KIỂM ĐỊNH MÔ HÌNH 32
3.1 Mô tả dữ liệu nghiên cứu 32
3.2 Mô hình quyết định tham gia xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam 39
3.2.1 Mô hình nghiên cứu đề nghị và định nghĩa các biến 39
3.2.2 Đo lường các biến và các giả thuyết nghiên cứu 401
3.3 Kết quả nghiên cứu và thảo luận 434
3.3.2 Kết quả nghiên cứu 467
3.3.3 Thảo luận kết quả nghiên cứu 489
3.3.3.1 Đặc trưng doanh nghiệp đối với quyết định tham gia xuất khẩu 489
3.3.3.2 Môi trường bên ngoài đối với quyết định tham gia xuất khẩu 501
Chương IV: KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH 523
4.1 Kết luận 523
4.2 Các hàm ý chính sách về quyết định xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam 534
4.2.1 Về phía doanh nghiệp 545
4.2.2 Về phía chính phủ 567
4.3 Hạn chế và hướng mở rộng cho các nghiên cứu tiếp theo 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO 61
PHỤ LỤC BẢNG CÂU HỎI ĐIỀU TRA CỦA WORLD BANK 65
v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu Ý nghĩa
AFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
APEC Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương
ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam Á
EU Liên minh Châu Âu
DN Doanh nghiệp
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GNP Tổng sản phẩm quốc dân
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế
NHNN Ngân hàng nhà nước
NK Nhập khẩu
SX Sản xuất
XHCN Xã hội chủ nghĩa
XNK Xuất nhập khẩu
XK Xuất khẩu
WB World Bank
WTO Tổ chức thương mại quốc tế
vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1 Phân bố mẫu loại hình các doanh nghiệp 32
Bảng 3.2 Hoạt động xuất khẩu theo ngành 33
Bảng 3.3 Nhóm tuổi của doanh nghiệp xuất khẩu và không xuất khẩu 34
Bảng 3.4 So sánh một số chỉ tiêu giữa doanh nghiệp xuất khẩu và không xuất khẩu 35
Bảng 3.5 Quy mô doanh nghiệp xuất khẩu và không xuất khẩu 35
Bảng 3.6 Trình độ học vấn của người đứng đầu doanh nghiệp 36
Bảng 3.7 Kinh nghiệm của người đứng đầu doanh nghiệp trước khi điều hành 37
Bảng 3.8 Thống kê mô tả số năm làm việc của người đứng đầu doanh nghiệp với doanh
nghiệp nước ngoài 38
Bảng 3.9 Phân bố mẫu số năm làm việc của người đứng đầu doanh nghiệp với doanh
nghiệp nước ngoài 39
Bảng 3.10 Định nghĩa các biến độc lập trong mô hình 40
Bảng 3.11 Kỳ vọng dấu của các biến độc lập trong mô hình 43
Bảng 3.12 Thống kê mô tả các biến đặc trưng doanh nghiệp 44
Bảng 3.13 Phân bố mẫu Loại hình sở hữu 45
Bảng 3.14 Phân bố mẫu biến Yếu tố nước ngoài FDI 46
Bảng 3.15 Thống kê mô tả các biến Môi trường bên ngoài 46
Bảng 3.16 Kết quả ước lượng mô hình hồi quy Probit 48
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Biểu đồ kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá và cán cân thương mại
của Việt Nam giai đoạn 2005-2012 24
Biểu đồ 2.2: Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam trong năm 2012 27
Biểu đồ 2.3: Xuất khẩu dệt may của Việt Nam 2011-2012 28
Biểu đồ 2.4: Xuất khẩu điện thoại và các linh kiện điện tử của Việt Nam trong năm 2011-
2012 28
Biểu đồ 3.1: Trình độ lao động trong doanh nghiệp 37
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ mô hình nghiên cứu đề nghị 21
1
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Quan điểm “phi thương bất phú” đã có từ xa xưa, nó có nghĩa là ở bất kì nơi nào
nếu không có hàng hóa dịch vụ buôn bán thì không thể giàu có được. Quan điểm trên
ngày nay không chỉ dừng lại ở phạm vi quốc gia mà mang tính chất quốc tế. Thương mại
quốc tế là hoạt động mang tính chất sống còn đối với một quốc gia, thể hiện mức tiêu
dùng của một quốc gia, phát huy được lợi thế so sánh của một quốc gia so với các quốc
gia khác. Thương mại quốc tế còn tạo tiền đề cho quá trình phân công lao động xã hội, tạo
cơ hội cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mở rộng quan hệ hợp tác kinh doanh với
nhiều nước trên thế giới.
Việt Nam đang tiến hành công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Ngay
từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 nền kinh tế Việt Nam chuyển đổi từ
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) Đảng và Nhà nước đã chỉ rõ nhiệm vụ trọng
tâm của chương trình kinh tế bao gồm: chương trình lương thực, thực phẩm; chương trình
hàng tiêu dùng; chương trình hàng xuất khẩu. Từ chỗ chỉ sản xuất và trao đổi với các
quốc gia trong hệ thống XHCN như Liên Xô, Đông Âu. Việt Nam đã mở cửa quan hệ với
các quốc gia khác trên thế giới. Đặc biệt là sau giai đoạn 1994 khi chính phủ Hoa Kỳ dỡ
bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, chúng ta đã có cơ hội quan hệ hợp tác với hơn 220
quốc gia và các tổ chức trên thế giới về nhiều mặt như: kinh tế, chính trị, văn hóa, y tế,
giáo dục, và tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế khu vực và thế giới như: Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), Diễn đàn Hợp tác
Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC). Việc trở thành thành viên chính thức của Tổ
chức thương mại thế giới (WTO) cũng như việc tham gia ký kết 7 Hiệp định thương mại
tự do trong khu vực ASEAN (ATIGA; ASEAN - Trung Quốc; ASEAN - Hàn Quốc;
ASEAN - Ấn Độ; ASEAN – Úc – Niu Dilân; ASEAN - Nhật Bản và Việt Nam - Nhật
Bản) càng tạo ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng thị trường ra bên
ngoài, tham gia sâu hơn vào quá trình hội nhập kinh tế thế giới, từ đó thúc đẩy ngoại
thương của đất nước ngày càng phát triển.
2
Việt Nam là một trong những nước có tỉ lệ nhập khẩu hàng năm rất lớn, cán cân
thương mại luôn trong tình trạng thâm hụt một thời gian dài. Chỉ đến 2012, lần đầu tiên
sau hơn 20 năm đổi mới chúng ta mới có được thặng dư thương mại (0.3 tỷ USD), một tín
hiệu đáng mừng trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế kéo dài. Chính sách thương mại
thường có liên quan đến chính sách đầu tư kinh tế và thu hút đầu tư nước ngoài. Vì vậy,
Việt Nam cần có chính sách thương mại hợp lý để góp phần vào tăng trưởng kinh tế. Xuất
khẩu là một bộ phận của hoạt động ngoại thương, đóng góp một tỷ trọng vô cùng lớn vào
cán cân thương mại nói riêng và tổng sản phẩm quốc dân (GNP) của đất nước nói chung.
Xuất khẩu không chỉ tạo nguồn vốn vô cùng quan trọng để đất nước đang phát triển như
nước ta hiện nay có thể thu được ngoại tệ để nhập khẩu máy móc, trang thiết bị hiện đại
vào sản xuất, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước mà còn góp
phần không nhỏ vào việc giải quyết và tạo công ăn việc làm cho người lao động, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và mở rộng mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với nhiều quốc gia
trên thế giới. Nhận thức được vai trò quan trọng của xuất khẩu đối với sự phát triển đất
nước là con đường để Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, hội nhập
sâu hơn vào nền kinh tế thế giới nên việc thúc đẩy phát triển xuất khẩu là một trong
những chủ trưởng lớn, quan trọng của Đảng và Nhà nước ta nhằm thực hiện đẩy mạnh
quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, từng bước đưa đất nước ta từ một nước
có nền nông nghiệp lạc hậu thành đất nước công nghiệp phát triển tầm nhìn 2020.
Xuất phát từ thực tiễn trên về tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu đối với nền
kinh tế Việt Nam, tác giả chọn đề tài “Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia
xuất khẩu của doanh nghiệp chế biến Việt Nam” cho luận văn Thạc sỹ. Đề tài sử dụng
dữ liệu “Điều tra doanh nghiệp về năng suất lao động và môi trường đầu tư ở Việt
Nam” do Ngân hàng thế giới (World Bank–WB, 2005) thực hiện qua việc phỏng vấn trực
tiếp với chủ đầu tư và giám đốc của 1.150 doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đang
đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến ở Việt Nam. Điều tra cung cấp số liệu cấp vi mô
về môi trường đầu tư ở Việt Nam và các chỉ tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Dựa trên số
liệu mà WB điều tra, chúng ta có thể tiến hành nghiên cứu các yếu tố nào có thể ảnh
hưởng đến quyết định xuất khẩu của doanh nghiệp, sự khác biệt nào giữa các doanh
nghiệp trong cùng ngành ảnh hưởng đến quyết định xuất khẩu, vai trò của môi trường bên
3
ngoài đến quyết định tham gia thị trường xuất khẩu. Thông qua nghiên cứu, tác giả đề
xuất các kiến nghị giúp cho doanh nghiệp có các chính sách phù hợp để điều chỉnh và
phát triển hoạt động xuất khẩu. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu từ đề tài cũng giúp cho
chính phủ có được cái nhìn tổng quát và có được chính sách thiết thực nhằm xúc tiến, hỗ
trợ cho hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp trong thời gian tới.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa lý thuyết về xuất khẩu và hành vi xuất khẩu của doanh nghiệp;
- Lược khảo các nghiên cứu về quyết định tham gia xuất khẩu của doanh nghiệp;
- Tổng hợp và phân tích tình hình xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay, trong đó bao gồm đánh giá vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế Việt
Nam;
- Xây dựng mô hình nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia
xuất khẩu của các doanh nghiệp chế biến tại Việt Nam;
- Xác định vai trò của các đặc trưng doanh nghiệp trong quyết định tham gia xuất
khẩu;
- Xác định vai trò của các yếu tố môi trường bên ngoài trong quyết định tham gia
xuất khẩu của doanh nghiệp;
- Đề xuất giải pháp nhằm giúp cho doanh nghiệp cải thiện và mở rộng hoạt động
xuất khẩu trong thời gian tới;
- Đưa ra các kiến nghị cho Chính phủ nhằm xây dựng được những chính sách phù
hợp và thiết thực nhằm hỗ trợ hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia xuất
khẩu của doanh nghiệp chế biến tại Việt Nam;
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu 1.150 doanh nghiệp trong nước
và doanh nghiệp nước ngoài đang đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến tại Việt Nam;
mẫu nghiên cứu do Ngân hàng thế giới (WB) thực hiện điều tra năm 2005.
4
4. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu trên được tiến hành dựa trên hai phương pháp:
- Nghiên cứu định tính: Nghiên cứu lược khảo lý thuyết trong và ngoài nước về
xuất khẩu và hành vi xuất khẩu của doanh nghiệp; tổng hợp và phân tích hoạt động xuất
khẩu của doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay; vai trò của xuất khẩu đối với
việc tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt Nam.
- Nghiên cứu định lượng: Nghiên cứu xây dựng khung phân tích và mô hình các
nhân tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia xuất khẩu của doanh nghiệp; thực hiện ước
lượng dựa trên dữ liệu từ Điều tra doanh nghiệp của Ngân hàng thế giới để từ đó xác định
chiều hướng và mức độ tác động của các nhân tố bên trong về đặc trưng doanh nghiệp và
các nhân tố môi trường bên ngoài đến quyết định tham gia xuất khẩu của doanh nghiệp.
Nghiên cứu sử dụng phần mềm STATA 11.0 cho các phân tích định lượng.
5. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm có 4 chương sau đây:
CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT VỀ HÀNH VI XUẤT KHẨU CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ NGHỊ
CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
CHƯƠNG III: PHÂN TÍCH DỮ LIỆU, THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
VÀ KIỂM ĐỊNH MÔ HÌNH
CHƯƠNG IV: KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH
5
CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT VỀ HÀNH VI XUẤT KHẨU CỦA
DOANH NGHIỆP VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ NGHỊ
1.1 Lý thuyết về xuất khẩu
1.1.1 Các khái niệm
Xuất khẩu hay xuất cảng, trong lý luận thương mại quốc tế là việc bán hàng
hóa và dịch vụ cho nước ngoài, trong cách tính toán cán cân thanh toán quốc
tế theo IMF là việc bán hàng hóa cho nước ngoài (Wikipedia, 2012).
Xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa
vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo
quy định của pháp luật (Luật thương mại Việt Nam, 2005).
Như vậy, xuất khẩu là việc bán hàng hoá hoặc dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở
dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là hoạt động mua
bán trao đổi hàng hoá (bao gồm cả hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình) trong nước.
Khi sản xuất phát triển và trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia có lợi, hoạt động này mở
rộng phạm vi ra ngoài biên giới của quốc gia hoặc thị trường nội địa và khu chế xuất ở
trong nước.
Xuất khẩu là một hoạt động cơ bản của hoạt động ngoại thương.Nó đã xuất hiện từ
lâu đời và ngày càng phát triển. Từ hình thức cơ bản đầu tiên là trao đổi hàng hoá giữa
các nước, đến nay nó đã phát triển mạnh mẽ và được thể hiện thông qua nhiều hình thức.
Hoạt động xuất khẩu ngày nay diễn ra trên phạm vi toàn cầu, trong hầu hết các ngành, các
lĩnh vực của nền kinh tế, không chỉ là hàng hoá hữu hình mà cả hàng hoá vô hình với tỷ
trọng ngày càng lớn.
1.1.2 Các lý thuyết về hoạt động xuất khẩu
1.1.2.1 Lý thuyết của trường phái trọng thương
Lý thuyết trọng thương là nền tảng cho các tư duy kinh tế từ năm 1500 đến năm
1800. Lý thuyết này cho rằng sự phồn vinh của một quốc gia được đo bằng lượng tài sản
mà quốc gia đó cất giữ và thường được tính bằng vàng. Theo lý thuyết này chính phủ nên
6
xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu và nếu thành công chính phủ sẽ nhận được giá trị thặng
dư mậu dịch được tính theo vàng từ các nước khác. Để một nước có thể thặng dư mậu
dịch thì:
- Thặng dư (mậu dịch) thương mại được thực hiện bởi các công ty buôn bán độc
quyền của Nhà nước, hoạt động nhập khẩu bị hạn chế và hoạt động xuất khẩu được trợ
cấp.
- Các cường quốc thực dân luôn cố tìm cách đạt được thặng dư mậu dịch với các
thuộc địa của họ. Họ coi đây như là một phương tiện khác để có thêm thu nhập. Họ thực
hiện điều này không chỉ bằng cách giữ độc quyền thương mại thực dân mà còn ngăn cản
các nước thuộc địa sản xuất. Do đó, các nước thuộc địa phải xuất khẩu nguyên liệu thô,
kém gía trị hơn và nhập khẩu những sản phẩm có giá trị cao hơn.
Lý thuyết trọng thương mang lại lợi ích cho các cường quốc thực dân, vì thế chính
sách ngoại thương của trường phái này theo hướng:
- Giá trị xuất khẩu càng nhiều càng tốt, nghĩa là không những số lượng hàng hoá
xuất khẩu phải nhiều mà còn phải ưu tiên xuất khẩu những hàng hoá có giá trị cao hơn
hàng hoá có giá trị. Người ta đánh giá thấp việc xuất khẩu nguyên liệu và cố sử dụng
nguyên liệu để sản xuất trong nưóc rồi đem xuất khẩu thành phẩm.
- Giữ nhập khẩu ở mức độ tối thiểu, giành ưu tiên cho nhập khẩu nguyên liệu, hạn
chế hoặc cấm nhập khẩu thành phẩm nhất là hàng xa xỉ.
- Khuyến khích chở hàng hoá bằng tàu của nước mình vì như vậy vừa bán được
hàng hóa mà còn tận dụng được cả những món lợi nhuận khác như: cước vận tải, phí bảo
hiểm,
Ảnh hưởng của lý thuyết trọng thương đã bị mờ nhạt đi sau năm 1800. Các cường
quốc thực dân không hạn chế sự phát triển công nghiệp của các nước thuộc địa của họ,
nhưng các thủ đoạn hợp pháp vẫn buộc chặt quan hệ thương mại của các nước thuộc địa
với chính quốc.
1.1.2.2 Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith
Không như trường phái trọng thương, Adam Smith cho rằng: “sự giàu có của mỗi
quốc gia phụ thuộc vào số hàng hoá và dịch vụ có sẵn hơn là phụ thuộc vào vàng”. Theo
7
Adam Smith, nếu thương mại không bị hạn chế theo nguyên tắc phân công thì các quốc
gia có lợi ích từ thương mại quốc tế nghĩa là mỗi quốc gia có lợi thế về mặt điều kiện tự
nhiên hay do trình độ sản xuất phát triển cao sẽ sản xuất ra những sản phẩm nhất định mà
mình có lợi thế với chi phí thấp hơn so với các nước khác. Ông phê phán sự phi lý của lý
thuyết trọng thương và chứng minh rằng: mậu dịch sẽ giúp cả hai bên đều gia tăng tài sản.
Theo ông, nếu mỗi quốc gia đều chuyên môn hoá vào những ngành sản xuất mà họ có lợi
thế tuyệt đối, thì họ có thể sản xuất được những sản phẩm có chi phí thấp hơn so với nước
khác để xuất khẩu, đồng thời lại nhập khẩu về những hàng hoá mà nước này không sản
xuất được hoặc sản xuất được nhưng chi phí sản xuất cao hơn giá nhập khẩu.
Nhờ sự chuyên môn hoá các nước có thể gia tăng hiệu quả của họ do người lao
động sẽ lành nghề cao hơn do công việc của họ được lặp lại nhiều lần, người lao động
không phải mất thời gian trong việc chuyển sản xuất sản phẩm này sang sản phẩm khác,
do làm một công việc lâu dài, người lao động sẽ có nhiều kinh nghiệm và có các sáng
kiến, các phương pháp làm việc tốt hơn.
Mặc dù Adam Smith cho rằng, thị trường chính là nơi quyết định nhưng ông vẫn
nghĩ lợi thế của một nước có thể là do lợi thế tự nhiên hay do nỗ lực cả nước đó. Lợi thế
tự nhiên liên quan đến các điều kiện tự nhiên và khí hậu. Lợi thế do nỗ lực là lợi thế có
thể có được do sự phát triển của kỹ thuật và sự lành nghề.
Ngày nay người ta thường buôn bán, trao đổi các loại hàng hoá đã được sản xuất
công phu hơn là các nông phẩm hay tài nguyên thiên nhiên nguyên khai thác hoặc sản
phẩm thô. Quá trình sản xuất ra loại hàng hoá này phần lớn phụ thuộc vào lợi thế do nỗ
lực, thường là kỹ thuật chế biến và khả năng sản xuất các loại sản phẩm khác biệt với
những sản phẩm khác. Lợi thế tuyệt đối so sánh số lượng của một loại sản phẩm có thể
được sản xuất ra ở hai nước khác nhau với cùng một điều kiện sản xuất. Giả sử Việt Nam
có lợi thế tuyệt đối so với Hàn Quốc về sản xuất gạo trong khi đó Hàn Quốc có lợi thế
tuyệt đối về sản xuất vải. Đó là lợi thế tuyệt đối tương hỗ, trong trường hợp nếu mỗi nước
chuyên môn hoá loại sản phẩm mà mà nước đó có lợi thế tuyệt đối thì tổng sản phẩm của
cả hai nước có thể tăng lên.
8
1.1.2.3 Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo
Theo lý thuyết này, mỗi quốc gia có nhiều hiệu quả thấp hơn so với các nước khác
trong việc sản xuất các loại sản phẩm vẫn cần phải tham gia vào hoạt động xuất khẩu vì
nó có thể tạo ra lợi ích không nhỏ mà nếu bỏ qua quốc gia đó sẽ mất đi cơ hội để phát
triển. Nói cách khác, trong điểm bất lợi vẫn có những điểm thuận lợi để khai thác khi
tham gia vào hoạt động xuất khẩu, những quốc gia có hiệu quả thấp trong việc sản xuất ra
các loại hàng hoá sẽ có thể chuyên môn hoá sản xuất hàng hoá ít bất lợi nhất để trao đổi
với các quốc gia khác và nhập về những hàng hoá mà việc sản xuất ra đã gặp rất nhiều
khó khăn và bất lợi. Từ đó, nền kinh tế tham gia vào thương mại quốc tế có thể tiết kiệm
được nguồn lực của mình và thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển.
1.1.3 Các hình thức của hoạt động xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu về cơ bản là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia
khác. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động xuất khẩu được các doanh nghiệp vận dụng dưới
nhiều hình thức khác nhau, thể hiện ở một số hình thức chủ yếu sau:
1.1.3.1. Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là việc xuất khẩu các hàng hoá và dịch vụ mà doanh nghiệp sản
xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước, sau đó xuất khẩu những sản phẩm
đó ra nước ngoài thông qua các tổ chức của mình.
Các bước tiến hành một thương vụ xuất khẩu trực tiếp trong trường hợp doanh
nghiệp không tự sản xuất ra sản phẩm:
- Ký hợp đồng nội, mua hàng và trả tiền hàng cho các đơn vị sản xuất trong nước.
- Ký hợp đồng ngoại, giao hàng và thanh toán tiền hàng với bên nước ngoài.
Hình thức này có ưu điểm là lợi nhuận thu được của các đơn vị kinh doanh thường
cao hơn các hình thức khác. Với vai trò là người bán hàng trực tiếp, doanh nghiệp có thể
nâng cao uy tín của mình thông qua quy cách và phẩm chất hàng hoá, tiếp cận thị trường
và nắm bắt được nhu cầu thị hiếu của khách hàng. Tuy nhiên, hình thức này đòi hỏi doanh
nghiệp phải ứng trước một lượng vốn khá lớn để sản xuất, thu mua hoặc có thể gặp rất
9
nhiều khó khăn, rủi ro như: không xuất được hàng, không thu mua được hàng, bị thanh
toán chậm hay do thay đổi tỷ giá, lạm phát…
1.1.3.2 Xuất khẩu gia công uỷ thác
Theo hình thức này, các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu đứng ra nhập
nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho các doanh nghiệp gia công, sau đó thu hồi thành
phẩm để xuất lại cho bên nước ngoài. Doanh nghiệp sẽ được hưởng phí uỷ thác theo thoả
thuận với các doanh nghiệp trực tiếp chế biến. Các bước tiến hành của hình thức này:
- Ký kết hợp đồng gia công uỷ thác với các đơn vị trong nước.
- Ký kết hợp đồng gia công với nước ngoài và nhập nguyên liệu.
- Giao nguyên liệu gia công (theo định mức đã thoó thuận gián tiếp giữa đơn vị chế
biến trong nước với bên nước ngoài).
- Xuất lại thành phẩm cho bên nước ngoài.
- Thanh toán phí gia công cho đơn vị chế biến (do bên nước ngoài trả và được
hưởng phí uỷ thác gia công.
Hình thức này có ưu điểm là không cần bỏ vốn vào kinh doanh nhưng vẫn thu
được lợi nhuận, ít rủi ro, việc thanh toán được bảo đảm vì đầu ra chắc chắn. Song còn đòi
hỏi rất nhiều thủ tục xuất và nhập khẩu, do đó để thực hiện tốt hình thức này các doanh
nghiệp cần phải có những cán bộ kinh doanh có kinh nghiệm về nghiệp vụ xuất nhập
khẩu.
Hình thức xuất khẩu theo đơn đặt hàng của nước ngoài cũng tương tự như hình
thức này, chỉ khác là đơn vị sản xuất phải tự tìm lấy nguồn nguyên liệu để sản xuất ra các
sản phẩm theo đúng yêu cầu theo đơn đặt hàng.
1.1.3.3 Xuất khẩu uỷ thác
Trong hình thức này, các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu đứng ra đóng
vai trò là trung gian xuất khẩu, làm thay cho các đơn vị sản xuất (bên có hàng) những thủ
tục cần thiết để xuất khẩu hàng và hưởng phần trăm theo giá trị hàng xuất khẩu đã được
thoả thuận. Các bước tiến hành của hình thức này:
- Ký hợp đồng nhận uỷ thác xuất khẩu cho các đơn vị sản xuất trong nước.
10
- Ký hợp đồng với bên nước ngoài, giao hàng và thanh toán tiền hàng .
- Nhận uỷ thác xuất khẩu cho các đơn vị trong nước.
Hình thức này có ưu điểm là mức độ rủi ro thấp, ít trách nhiệm, người đứng ra xuất
khẩu không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng, đặc biệt là không cần vốn để mua
hàng, nhận tiền nhanh ít thủ tục và tương đối tin cậy.
1.1.3.4 Buôn bán đối lưu
Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ
với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi có giá trị tương
đương với giá trị lô hàng đã xuất. Mục đích xuất khẩu không phải là nhằm thu ngoại tệ
mà nhằm thu về một lượng hàng hoá giá trị xấp xỉ giá trị của lô hàng đã xuất.
Có rất nhiều loại hình buôn bán đối lưu như: hàng đổi hàng, trao đổi bù trừ, chuyển
giao nghĩa vụ, mua lại sản phẩm.
- Hình thức hàng đổi hàng là việc một bên dùng hàng hóa để đổi lấy một lượng
hàng tương đương và không có thanh toán trong hình thức này.
- Hình thức trao đổi bù trừ là hình thức trong đó hai bên sẽ tiến hành trao đổi hàng
hóa trong một thời gian dài và sẽ dùng một tài khoản chung để theo dõi nghiệp vụ giao
nhận hàng của cả hai bên. Đến cuối kỳ hai bên sẽ thanh toán tiền chênh lệch theo tính
toán. Hàng hóa có thể là một loại hàng hóa nhất định hoặc nhiều mặt hàng khác nhau
trong một thời gian nhất định.
- Mua đối lưu là hình thức một bên sẽ ký kết hợp đồng mua hàng có thanh toán và
cam kết, sau đó một khoảng thời gian nhất định sẽ bán cho bên kia một lượng hàng hoá
khác và cũng được nhận tiền thanh toán. Giá trị của hai hợp đồng này không nhất thiết
phải bằng nhau, thời gian thông thường từ 1 - 5 năm với danh mục hàng hoá được mở
rộng rãi.
- Chuyển giao nghĩa vụ là hình thức mua bán đối lưu trong đó một bên có quyền
chuyển nghĩa vụ thanh toán cho bên thứ ba.
- Hình thức mua lại sản phẩm là hình thức một bên tiến hành nhập khẩu máy móc
thiết bị nhưng không thanh toán ngay mà sẽ trả dần bằng sản phẩm do chính máy móc
thiết bị đó sản xuất ra.
11
1.1.3.5 Xuất khẩu theo nghị định thư
Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá (thường là trả nợ) được ký theo nghị định thư
giữa hai chính phủ. Xuất khẩu theo hình thức này có ưu điểm là khả năng thanh toán được
bảo đảm (do Nhà nước trả cho đơn vị sản xuất).
1.1.3.6 Xuất khẩu tại chỗ
Đây là hình thức mới nhưng nó đã thể hiện rõ khá nhiều ưu điểm và đang được phổ
biến rộng rãi. Đặc điểm của hình thức này là hàng hóa không bắt buộc phải vượt qua khỏi
biên giới quốc gia để đến tay khách hàng. Do vậy, không nhất thiết phải có hợp đồng phụ
trợ như: hợp đồng vận tải, bảo hiểm, thủ tục hải quan, và như vậy sẽ giảm được chi phí
vận chuyển cũng như các chi phí khác có liên quan, hơn nữa độ rủi ro thấp vì kinh doanh
trong môi trường hoàn toàn quen thuộc.
1.1.3.7 Gia công quốc tế
Gia công quốc tế là hình thức trong đó bên nhận gia công nhập nguyên liệu hoặc
bán thành phẩm của bên đặt gia công để chế biến ra thành phẩm theo yêu cầu của bên đặt
gia công sau đó giao lại và nhận thù lao gọi là phí gia công.
Ưu điểm của hình thức này là giúp bên nhận gia công tạo công ăn việc làm cho
người lao động, nhận được các thiết bị công nghệ tiên tiến để phát triển sản xuất. Đây là
hình thức được áp dụng phổ biến ở các nước đang phát triển có nguồn nhân lực dồi dào.
Đối với nước đặt gia công cũng được hưởng lợi vì họ tận dụng được nguồn nhân công rất
lớn với giá rẻ, cũng như tận dụng được nguồn nguyên vật liệu sẵn có của bên nước nhận
gia công.
1.1.3.8 Tạm nhập tái xuất
Nội dung của hình thức này là xuất khẩu những hàng hóa đã nhập trước đây và
chưa tiến hành các hoạt động chế biến. Mục đích của hình thức này là thu về một lượng
ngoại tệ lớn hơn số bán ra ban đầu.
12
Hàng hóa có thể đi từ nước xuất khẩu tới nước tái xuất khẩu rồi từ nước tái xuất
khẩu sang nước nhập khẩu. Nước tái xuất khẩu sẽ thu tiền của nước nhập khẩu và trả tiền
cho nước nhập khẩu.
1.1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu
1.1.4.1 Yếu tố chính trị
Yếu tố chính trị là những nhân tố khuyến khích hoặc hạn chế quá trình quốc tế hóa
hoạt động kinh doanh. Chẳng hạn, chính sách của chính phủ có thể làm tăng sự liên kết
các thị trường và thúc đẩy tốc độ tăng trưởng hoạt động xuất khẩu bằng việc dỡ bỏ các
hàng rào thuế quan, phi thuế quan, thiết lập các mối quan hệ trong cơ sở hạ tầng của thị
trường. Khi không ổn định về chính trị sẽ cản trở sự phát triển kinh tế của đất nước và tạo
ra tâm lý không tốt cho các nhà kinh doanh.
1.1.4.2 Yếu tố kinh tế
Yếu tố kinh tế như tỷ giá hối đoái, lãi suất ngân hàng, tác động đến hoạt động
xuất khẩu ở tầm vĩ mô và vi mô. Ở tầm vĩ mô, chúng tác động đến đặc điểm và sự phân
bổ các cơ hội kinh doanh quốc tế cũng như quy mô của thị trường. Ở tầm vi mô, các yếu
tố kinh tế lại ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức và hiệu quả của doanh nghiệp. Các yếu tố giá
cả và sự phân bổ tài nguyên ở các thị trường khác nhau cũng ảnh hưởng tới quá trình sản
xuất, phân bố nguyên vật liệu, vốn, lao động và do đó ảnh hưởng tới giá cả và chất lượng
hàng hoá xuất khẩu.
1.1.4.3 Yếu tố luật pháp
Mỗi quốc gia có hệ thống luật pháp riêng dễ điều chỉnh các hoạt động kinh doanh
quốc tế ràng buộc các hoạt động của doanh nghiệp. Các yếu tố luật pháp ảnh hưởng tới
hoạt động xuất khẩu trên những mặt sau:
- Quy định về giao dịch hợp đồng, bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ.
- Quy định về lao động, tiền lương, thời gian lao động, thời gian nghỉ ngơi, đình
công, bãi công.
- Quy định về cạnh tranh, độc quyền, các loại thuế.
13
- Quy định về vấn đề bảo vệ môi trường, tiêu chuẩn chất lượng, giao hàng, thực
hiện hợp đồng.
- Quy định về quảng cáo, hướng dẫn sử dụng.
1.1.4.4 Yếu tố cạnh tranh
Cạnh tranh, một mặt thúc đẩy cho các doanh nghiệp đầu tư máy móc thiết bị, nâng
cấp chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, Nhưng mặt khác nó cũng dễ dàng đẩy lùi các
doanh nghiệp không có khả năng phản ứng hoặc chậm phản ứng với sự thay đổi của môi
trường kinh doanh.
Qua mô hình các doanh nghiệp có thể thấy được các mối đe dọa hay thách thức với
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành là trung tâm. Xuất phát từ đây doanh
nghiệp có thể đề ra sách lược hợp lý nhằm hạn chế đe dọa và tăng cường khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp mình.
- Sự đe doạ của các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng: các đối thủ này chưa có kinh
nghiệm trong việc thâm nhập vào thị trường quốc tế song nó có tiềm năng lớn về vốn,
công nghệ, lao động và tận dụng được lợi thế của người đi sau, do đó dễ khắc phục được
những điểm yếu của các doanh nghiệp hiện tại để có khả năng chiếm lĩnh thị trường.
Chính vì vậy, một doanh nghiệp phải tăng cường đầu tư vốn, trang bị thêm máy móc thiết
bị hiện đại để tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, nhưng mặt khác phải tăng
cường quảng cáo, áp dụng các biện pháp hỗ trợ và khuyếch trương sản phẩm giữ gìn thị
trường hiện tại, đảm bảo lợi nhuận dự kiến.
- Sức ép của người cung cấp: nhân tố này có khả năng mở rộng hoặc thu hẹp khối
lượng vật tư đầu vào, thay đổi cơ cấu sản phẩm hoặc sẵn sàng liên kết với nhau để chi
phối thị trường nhằm hạn chế khả năng của doanh nghiệp hoặc làm giảm lợi nhuận dự
kiến, gây ra rủi ro khó lường trước được cho doanh nghiệp. Vì thế hoạt động xuất khẩu có
nguy cơ gián đoạn.
- Sức ép người tiêu dùng: trong cơ chế thị trường, khách hàng thường được coi là
“thượng đế”. Khách hàng có khả năng làm thu hẹp hay mở rộng quy mô chất lượng sản
phẩm mà không được nâng giá bán sản phẩm. Một khi nhu cầu của khách hàng thay đổi
14
thì hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng cũng phải
thay đổi theo cho phù hợp.
- Các yếu tố cạnh tranh trong nội bộ ngành: khi hoạt động trên thị trường quốc tế,
các doanh nghiệp thường hiếm khi có cơ hội dành được vị trí độc tôn trên thị trường mà
thường bị chính những doanh nghiệp sản xuất và cung cấp các loại sản phẩm tương tự
cạnh tranh gay gắt. Các doanh nghiệp này có thể là doanh nghiệp của quốc gia nước sở
tại, quốc gia chủ nhà hoặc một nước thứ ba cùng tham gia xuất khẩu mặt hàng đó. Trong
một số trường hợp các doanh nghiệp sở tại này lại được chính phủ bảo hộ do đó doanh
nghiệp khó có thể cạnh tranh được với họ.
1.1.4.5 Yếu tố văn hoá
Yếu tố văn hoá hình thành nên những loại hình khác nhau của nhu cầu thị trường,
tác động đến thị hiếu của người tiêu dùng. Doanh nghiệp chỉ có thể thành công trên thị
trường quốc tế khi có sự hiểu biết nhất định về phong tục tập quán, lối sống, mà điều
này lại khác biệt ở mỗi quốc gia. Vì vậy, hiểu biết được môi trường văn hoá sẽ giúp cho
doanh nghiệp thích ứng với thị trường để từ đó có chiến lược đúng đắn trong việc mở
rộng thị trường xuất khẩu của mình.
1.2 Lý thuyết về hành vi xuất khẩu của các doanh nghiệp
Lý thuyết về hành vi xuất khẩu của doanh nghiệp đã được nghiên cứu rất nhiều
trong hơn ba thập kỷ qua. Không có mô hình chung được phát triển cho các kết quả thực
nghiệm về hành vi xuất khẩu của doanh nghiệp. Trong khi đó có một loạt các phương
pháp tiếp cận để giải thích hành vi xuất khẩu thì lý thuyết giai đoạn được xem là hàng
đầu. Lý thuyết giai đoạn đề xuất rằng: các doanh nghiệp di chuyển qua các giai đoạn kế
tiếp khi họ quốc tế hóa các hoạt động kinh doanh của họ. Hay nói cách khác, các doanh
nghiệp sẽ tham gia xuất khẩu vào thị trường quốc tế khi trải qua các giai đoạn giai đoạn
độc lập (tìm hiểu thị trường, lợi nhuận mong muốn,…) sau đó là giai đoạn kết hợp với chi
phí tham gia thị trường.
Mô hình được phát triển vào giữa năm 1970 của các học giả Bắc Âu của trường
Uppsala. Hohanson và Wiedersheim (1975) đề xuất một mô hình nhấn mạnh tầm quan
15
trọng của các yếu tố như thông tin, đặc điểm của doanh nghiệp, môi trường của doanh
nghiệp, và việc mở rộng ngoài khu vực của doanh nghiệp. Mô hình này nhấn mạnh vai trò
của việc mua lại thông tin của các doanh nghiệp cùng các giai đoạn của quá trình quốc tế.
Bilkey và Tesar (1997) đề xuất một mô hình xuất khẩu xem như một quá trình học
tập trong đó các doanh nghiệp dần dần trở nên quen thuộc với thị trường và các hoạt động
nước ngoài. Dựa trên giả định rằng doanh nghiệp là một thích ứng, tổ chức học tập,
MacConnell (1979) mở rộng lý thuyết cổ điển của doanh nghiệp bằng cách liên hệ hành
vi xuất khẩu của doanh nghiệp với cơ cấu tổ chức, chức năng của nó.
Mô hình Cavusgil (1982) nghiên cứu hành vi xuất khẩu là một quá trình bao gồm
các quyết định của Ban Giám đốc trong một khoảng thời gian. Mô hình này chỉ ra rằng
doanh nghiệp sẽ khích lệ hoặc hạn chế quá trình quốc tế của doanh nghiệp. Barret và
Wilson (1986) đề xuất một mô hình tập trung vào tác động của các thuộc tính quản lý
hành vi xuất khẩu của doanh nghiệp, chẳng hạn như đặc điểm cá nhân của các nhà quản
lý, thái độ đối với kinh doanh quốc tế và định hướng đến kế hoạch hoạt động nước ngoài.
Denis (1990) khi nghiên cứu về hoạt động xuất khẩu chỉ ra hai cách tiếp cận trong
nghiên cứu hành vi doanh nghiệp xuất khẩu vừa và nhỏ. Thứ nhất, dựa trên lý thuyết về
việc nghiên cứu về hành vi doanh nghiệp nhỏ khi xuất khẩu và xuất phát từ kỳ vọng chủ
sở hữu quản lý và nhận thức, điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp, những trở ngại
và cơ hội, và kết quả của viêc nghiên cứu trước đó. Thứ hai, dựa trên mô hình chiến lược,
chú trọng vào hiệu quả quá trình phát triển xuất khẩu của bản thân doanh nghiệp (yếu tố
quản lý) và các yếu tố môi trường bên ngoài (công nghiệp, điều kiện quốc gia xuất khẩu,
và các điều kiện tiếp cận thị trường nước ngoài, ) (Julien, PA , Joyal, Ramangalahy,
1997).
Bernard và Jensen (2001) nghiên cứu về vấn đề: tại sao một doanh nghiệp lại xuất
khẩu, các yếu tố nào ảnh hưởng đến quyết định xuất khẩu của doanh nghiệp. Hai tác giả
đã nghiên cứu hành vi xuất khẩu của doanh nghiệp, tìm ra hai yếu tố đặc điểm doanh
nghiệp (kinh nghiệm, chi phí tham gia xuất khẩu) và các yếu tố môi trường bên ngoài
doanh nghiệp (ngoại tác, trợ cấp của chính phủ, tỷ giá) ảnh hưởng đến quyết định tham
gia xuất khẩu của các doanh nghiệp. Luận văn này tác giả kế thừa khung lý thuyết và phát
triển nghiên cứu trên phù hợp với môi trường Việt Nam.
16
1.3 Khung phân tích lý thuyết về quyết định xuất khẩu của doanh nghiệp
Bernard và Jensen (2001) đã đề cập đến việc doanh nghiệp quyết định xuất khẩu
dựa trên sự hợp lý tối đa hóa lợi nhuận, việc này cũng như quyết định thị trường cho một
sản phẩm mới. Các doanh nghiệp cân nhắc lợi nhuận mong muốn của hiện tại và trong
tương lai từ quyết định tham gia vào thị trường nước ngoài dựa trên bất kì chi phí cố định
nào. Bernard và Jensen (2001) đã thực hiện việc đo lường qua một vài giai đoạn, đầu tiên
là việc phác thảo quyết định của các doanh nghiệp trong giai đoạn độc lập sau đó là nhiều
giai đoạn kết hợp với chi phí tham gia thị trường.
Giai đoạn độc lập: giả định của Bernard và Jensen là các doanh nghiệp luôn có khả
năng sản xuất tại mức tối đa hóa lợi nhuận xuất khẩu q
it
*
nếu như doanh nghiệp tham gia
vào thị trường nước ngoài. Và trong giai đoạn đầu này sẽ không có chi phí tham gia vào
thị trường và doanh nghiệp nhận được lợi nhuận
Π
it
.
Π
it
(X
it
, Z
it
) = p
t
·
q
it
∗
−
c
it
(X
it
,
Z
it
|
q
it
∗
) (1.1)
Trong đó: P
t
là giá của hàng hóa bán ra tại nước ngoài
C
it
là chi phí biến đổi của lượng hàng hóa q
it
*
Nhân tố bên ngoài là các nhân tố có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp
(các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài như tỷ giá hối đoái, trợ cấp của chính phủ, môi
trường ngành, các yếu tố tác động từ chính phủ…), được kí hiệu là X
it
. Các yếu tố đặc
trưng của doanh nghiệp (các yếu tố bên trong đặc trưng cho từng doanh nghiệp như kinh
nghiệm xuất khẩu, loại hình doanh nghiệp, nguốn vốn…) được kí hiệu là Z
it
. Loại hình
doanh nghiệp là yếu tố quan trọng tác động đến khả năng tham gia xuất khẩu của doanh
nghiệp bao gồm độ tuổi, quy mô doanh nghiệp, số lượng lao động, năng lực sản xuất, loại
hình sở hữu doanh nghiệp. Bên cạnh những cú sốc về nhu cầu sản phẩm, Bernard và
Jensen tập trung vào việc nghiên cứu tìm thêm các nhân tố ngoại tác khác gây ảnh hưởng
đến khả năng tham gia xuất khẩu của doanh nghiệp bao gồm cả việc trợ cấp trực tiếp và
17
gián tiếp đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp làm giảm hoặc tăng chi phí đầu vào
cần thiết như là lao động có kỹ năng cao hoặc vốn chuyên dùng.
Nếu lợi nhuận dự kiến (
Π
it
) lớn hơn 0, theo đó doanh nghiệp sẽ xuất khẩu. Hoạt
động xuất khẩu của doanh nghiệp trong thời kỳ t được đo bởi biến Y
it
Y
it
=1 doanh nghiệp sẽ xuất khẩu nếu
Π
it
≥ 0
Y
it
=0 doanh nghiệp sẽ không xuất khẩu nếu
Π
it
< 0
1.4 Lược khảo các nghiên cứu liên quan
Nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm về hành vi xuất khẩu của doanh nghiệp đã
được thực hiện từ khá lâu trên thế giới. Tuy nhiên, đây còn là một lĩnh vực nghiên cứu
còn khá mới mẻ với đối tượng là các doanh nghiệp tại Việt Nam. Phần lớn các nghiên cứu
thực nghiệm trên thế giới tập trung phân tích các nhân tố đặc trưng bên trong của doanh
nghiệp có ảnh hưởng thế nào đến quyết định xuất khẩu của doanh nghiệp (Aiken, 1997),
và tại sao một doanh nghiệp lại tiến hành hoạt động xuất khẩu (Bernard và Jensen, 2001).
Trong thời gian gần đây, một hướng nghiên cứu mới đã tập trung phân tích quyết định
xuất khẩu của doanh nghiệp, trong đó chú trọng tác động lan tỏa của dòng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment – FDI) đến hoạt động xuất khẩu của doanh
nghiệp trong nước.
Do tính chất đề tài còn khá mới mẻ với các doanh nghiệp Việt Nam nên theo tìm
hiểu của tác giả hiện tại có rất ít nghiên cứu chuyên sâu về các nhân tố ảnh hưởng đến
quyết định tham gia xuất khẩu của các doanh nghiệp chế biến Việt Nam, mặc dù trên thế
giới đã có rất nhiều nghiên cứu về hành vi xuất khẩu của doanh nghiệp nói chung và
quyết định xuất khẩu của doanh nghiệp nói riêng. Trong luận văn này, tác giả sẽ tập trung
tiếp cận lý thuyết hành vi xuất khẩu của các doanh nghiệp và nghiên cứu về các nhân tố
ảnh hưởng đến quyết định tham gia xuất khẩu của doanh nghiệp tại Việt Nam.
Arnold và Hussinger (2005) kế thừa phát triển nghiên cứu của Bernard và Jensen
(2001) cũng đã tìm hiểu tại sao một doanh nghiệp lại bắt đầu tham gia xuất khẩu, xem xét
các mối quan hệ nhân quả giữa năng suất và xuất khẩu trong sản xuất của các doanh
nghiệp Đức. Tác giả đã tìm thấy một liên hệ nhân quả từ năng suất cao với sự hiện diện
trong thị trường nước ngoài, sự khác nhau giữa doanh nghiệp xuất khẩu và không xuất