Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

thu hút vốn đầu tư để phát triển du lịch kiên giang đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 117 trang )


1
PHẦN MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong cơ cấu các ngành kinh tế tỉnh Kiên Giang phương hướng đến năm
2020, ngành du lịch sẽ là ngành kinh tế mũi nhọn, có đóng góp quan trọng vào sự
phát triển kinh tế của tỉnh.
Kiên Giang là tỉnh có tiềm năng du lịch rất lớn, vì tạo hoá đã ban tặng cho
Kiên Giang- vùng đất cuối trời Tây Nam Tổ quốc Việt Nam - nhiều danh lam thắng
cảnh đã được du khách trong và ngoài nước biết đến. Đó là thập cảnh Hà Tiên, đảo
ngọc Phú Quốc, Vườn quốc gia U Minh Thượng…Không những thế Kiên Giang còn
có hơn 20 di tích lịch sử cấp quốc gia và nhiều thánh thất đền đài cổ kính. Đặc biệt là
nơi xuất xứ nhiều truyền thuyết như Tao Đàn Chiêu Anh Các ở Hà Tiên, hai cha con
hoá đá tạo nên Hòn Phụ Tử ở Kiên Lương…những anh hùng dân tộc đi vào huyền
thoại như Nguyễn Trung Trực, đi vào thơ ca như Chị Sứ, được nhà văn Anh Đức viết
trong tiểu thuyết “Hòn Đất”…là điều kiện rất tốt để ngành du lịch phát triển du lịch,
đặt biệt những năm gần đây Chính phủ có chủ trương tập trung đầu tư đảo Phú Quốc
thành trung tâm du lịch sinh thái chất lượng cao của khu vực Đông Nam Á. Mặc
khác, do có nhiều điều kiện tự nhiên thuận lợi Kiên Giang có cả đồng bằng, rừng núi
và hải đảo, khí hậu ôn hoà… là những điều kiện thuận lợi cho sự đầu tư các dự án về
du lịch.
Thời gian qua, ngành du lịch tỉnh Kiên Giang đã phát triển bước đầu về thị
trường, sản phẩm du lịch, quảng cáo và xúc tiến để thu hút khách du lịch; tiến hành
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển du lịch Nhờ có sự quan tâm đặc biệt của
Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh đối với phát triển du lịch, cộng với sự nỗ lực của cán
bộ công nhân viên ngành du lịch, du lịch Kiên Giang đã bước đầu phát triển cả về
quy mô, chất lượng và hiệu quả kinh doanh. Ngành du lịch đã đóng góp đáng kể tài
chính vào nguồn thu ngân sách cho địa phương, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
- xã hội; giúp cải thiện cuộc sống cho cộng đồng và đang mang lại diện mạo mới, ấn
tượng mới khang trang, sạch, đẹp cho nhiều khu, tuyến, điểm du lịch; du lịch cũng đã


góp phần quan trọng nhiệm vụ bảo vệ an ninh, chính trị và bảo vệ biên giới hải đảo
trên địa bàn. Việc thu hút vốn đầu tư bước đầu đạt được một số kết quả nhất định,

2
đến nay trên bàn tỉnh Kiên Giang đã có 245 dự án đầu tư vào các khu du lịch với
tổng số vốn là 64,507 ngàn tỷ đồng và diện tích đầu tư 8,407 ngàn ha; trong các vùng
du lịch được quy hoạch thì đảo Phú Quốc thu hút nhiều dự án đầu tư nhất với 171 dự
án, tổng vốn đầu tư là 36,56 ngàn tỷ đồng và quy mô là 3,91 ngàn ha; vùng Hà Tiên
và phụ cận có 36 dự án, Kiên Lương có 19 dự án.
Tuy nhiên, do chưa có giải pháp đúng nên việc thu hút vốn đầu tư trên địa
bàn chưa tốt, dẫn đến số dự án, vốn đầu tư thu hút không nhiều, chưa có các dự án
đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước về cơ sở hạ tầng du lịch. Vốn đầu tư
của nhà nước phân bổ không đều giữa các khu vực du lịch. Thực tế hiện nay hệ
thống giao thông đến các điểm tài nguyên du lịch, đặc biệt trên các đảo còn hạn chế.
Hệ thống giao thông cấp xã còn rất xấu, gặp khó khăn đi lại trong mùa mưa. Cơ sở
hạ tầng một số khu vực chưa hoàn thiện, chưa đáp ứng được nhu cầu phục vụ phát
triển du lịch. Về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, Sản phẩm du lịch tại các vùng du lịch
phát triển không đều, nói chung chất lượng sản phẩm thấp nên mức độ thu hút khách
du lịch chưa cao. Về sản phẩm ăn uống, dịch vụ vui chơi giải trí tại các vùng du lịch
còn thiếu hầu hết trên các vùng du lịch nên không thể kéo dài ngày lưu trú của khách
tại các vùng du lịch. Phát triển các khu du lịch trong quy hoạch đã xác định xây
dựng, nhưng cho đến nay còn thiếu vốn để đầu tư thực hiện…
Theo Quyết định Số: 1255/QĐ-TTg, ngày 26 tháng 7 năm 2010 của Thủ
tướng Chính Phủ phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Kiên
Giang đến năm 2020”. UBND tỉnh Kiên Giang ban hành Quyết định số 441/QĐ-
UBND ngày 29/02/2011 về phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Kiên
Giang đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. Nội dung các Quyết định là đến
năm 2020, phát triển du lịch Kiên Giang trở thành một trong những trung tâm du lịch
khu vực có cơ sở vật chất, kỹ thuật du lịch đạt tiêu chuẩn cao, sản phẩm du lịch độc
đáo, phát triển du lịch gắng liền với công tác bảo vệ môi trường, truyền thống văn

hóa; giải quyết công ăn việc làm. Đến năm 2020 sẽ đạt 648.000 lượt khách quốc tế
và 4.705.000 lượt khách nội địa. 3.812.000 lượt khách tham quan các khu du lịch; đạt
tổng doanh thu 290,1 triệu USD. Tỉnh Kiên Giang được xây dựng thành 4 cụm du
lịch: Cụm du lịch sinh thái biển, đảo Phú Quốc: là trung tâm du lịch nghỉ dưỡng,

3
giao thương quốc tế, hiện đại, chất lượng cao trong khu vực và thế giới; Cụm du lịch
Hà Tiên – Kiên Lương: là cụm du lịch biển, đảo danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử
gắn với khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Hà Tiên; Cụm du lịch Rạch Giá – Kiên Hải và
phụ cận: là cụm du lịch sinh thái biển, đảo, di tích lịch sử, lễ hội…Cụm du lịch U
Minh Thượng và phụ cận: là cụm du lịch sinh thái gắn với di tích lịch sử U Minh
Thượng. Nhu cầu vốn đầu tư cho ngành du lịch : Dự báo về nhu cầu đầu tư cho du
lịch đến năm 2015 là khoảng 4.152 tỷ đồng, đến năm 2020 là 10.382 tỷ đồng.
Để đạt được mục tiêu và phương hướng đã đề ra đòi hỏi cần có một nguồn
lực tài chính nhất định, bằng hoặc lớn hơn nhu cầu vốn đầu tư cho ngành du lịch đã
dự báo trên. Thực tế tại tỉnh Kiên giang hiện nay nhu cầu các nguồn lực tài chính
cho đầu tư phát triển kinh tế ngày càng gia tăng, trong khi khả năng đáp ứng nguồn
từ NSNN lại có giới hạn; do vậy, nếu chỉ chú trọng đến nguồn vốn đầu tư từ NSNN
mà không có cơ chế, chính sách, giải pháp để huy động các nguồn lực tài chính khác
từ các khu vực doanh nghiệp, tư nhân, các định chế tài chính trung gian, các nhà đầu
tư nước ngoài thì không thể đáp ứng được vốn cho đầu tư phát triển kinh tế nói
chung và ngành du lịch nói riêng. Để phát triển ngành du lịch Kiên Giang là cấp
thiết, đòi cần giải quyết hàng loạt vấn đề, trong đó vấn đề tìm kiếm các nguồn lực tài
chính để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư nhằm khai thác một cách có hiệu quả tiềm
năng mà thiên nhiên ưu đãi cho tỉnh Kiên Giang là vấn đề quan trọng có tính chiến
lược. Với những lý do trên cùng với sự ham thích và mong muốn đóng góp vào công
tác quy hoạch cho đầu tư vào ngành du lịch tỉnh Kiên Giang - ngành kinh tế mũi
nhọn - tôi chọn đề tài “Thu hút vốn đầu tư để phát triển du lịch Kiên Giang đến
năm 2020” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu của đề tài

- Mục tiêu chung:
Luận văn khái quát cơ sở lý luận và thực tiễn của việc huy động và sử dụng
vốn đầu tư để phát triển du lịch, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường
thu hút vốn đầu tư của mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước có chất lượng và
hiệu quả, để đầu tư phát triển du lịch tỉnh Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay.
- Mục tiêu cụ thể:

4
+ Khái quát cơ sở lý luận, lý thuyết về vốn đầu tư, về du lịch, những nhân tố
ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư vào ngành du lịch, các chỉ tiêu đánh hiệu quả
thu hút vốn đầu tư.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng huy động thu hút vốn đầu tư vào ngành du
lịch tỉnh Kiên Giang trong giai đoạn 2005-2011.
+ Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường thu hút các nguồn vốn
để đáp ứng nhu cầu vốn cho ngành du lịch tỉnh Kiên Giang đến 2020 và những giải
pháp hỗ trợ để phát triển ngành du lịch Kiên Giang .
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Các vấn đề liên quan đến nguồn vốn thuộc tất cả các thành phần kinh tế
trong nước, kể cả nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài để đầu tư phát triển ngành du lịch
tại tỉnh Kiên Giang.
- Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến
thu hút vốn đầu tư, các nguồn vốn đã được sử dụng để đầu tư vào ngành du lịch
tỉnh Kiên Giang trong giai đoạn 2005-2011, và định hướng sử dụng các nguồn vốn
đầu tư vào ngành du lịch tỉnh Kiên Giang đến năm 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Vận dụng các phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích nguồn số liệu được
thu thập từ niên giám thống kê, các báo cáo của Ủy ban nhân dân tỉnh, các Sở, Ban
ngành trong tỉnh và từ nguồn khác. Đồng thời tham khảo ý kiến các nhà quản lý; kế

thừa các công trình khoa học đã có về lý thuyết về kinh tế và thực tiễn, để mô tả thực
trạng thu hút các nguồn vốn đầu tư và phương pháp định tính được áp dụng trong việc
nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư vào ngành du lịch Kiên
Giang.
5. Tình hình nghiên cứu:
Hiện nay đã có nhiều tác giả và nhiều công trình khoa học, luận văn thạc sĩ
nghiên cứu về đầu tư phát triển du lịch ở các tỉnh, thu hút vốn đầu tư để phát triển
kinh tế xã hội của địa phương nói chung, cũng như phát triển du lịch nói riêng;

5
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn, trong đó có một
số công trình khoa học tiêu biểu như:
- Trần Tiến Dũng, "Phát triển du lịch bền vững ở Phong Nha - Kẻ Bàng",
Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2005.
- Ngô Vũ Hải, "Các giải pháp huy động nguồn lực tài chính cho đầu tư phát
triển tỉnh an giang đến năm 2010", Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, 2006, Trường Đại học
Kinh tế TP HCM.
- Nguyễn Thanh Vĩnh, "Phát triển du lịch Lâm Đồng đến năm 2020", Luận
văn Thạc sĩ Kinh tế, 2007, Trường Đại học Kinh tế TP HCM.
- Huỳnh Thanh Trung, "Một số giải pháp nhằm phát triển du lịch thành phố
Hội An", Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, 2011, Trường Đại học Đà Nẵng.
- Mai Thị Ánh Tuyết, "Phát triển du lịch tỉnh An Giang đến năm 2020", Luận
văn Thạc sĩ Kinh tế, 2007, Trường Đại học Kinh tế TP HCM.
- Trần Thị Thu Vân" Một số giải pháp huy động vốn đầu tư nhằm phát triển
ngành Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2005- 2010", 2004, Luận
văn thạc sĩ, Trường Đại Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh.
- Hồ Đức Phước , Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với cơ sở hạ tầng đô thị du
lịch ở Việt Nam , 2009, Luận văn Tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM.
- Châu Thiên Trúc Quỳnh, "Tìm hiểu hoạt động các Quỹ đầu tư tại Việt Nam –
Thực trạng và giải pháp", Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, 2006, Trường Đại học Kinh tế

TP HCM.
- TS. Phạm Văn Năng, TS. Trần Hoàng Ngân, TS. Sử Đình Thành (2002), Sử
dụng các công cụ tài chánh để huy động vốn cho chiến lực phát triển kinh tế xã hội
của Việt Nam đến năm 2020, Nxb Tài chánh.
Nhìn chung các công trình khoa học nêu trên đã đề cập đến một số vấn đề về
tình hình đầu tư phát triển kinh tế xã hội, tình hình du lịch ở các tỉnh, những giải pháp
huy động, sử dụng vốn trong việc phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương, cũng
như phát triển du lịch. Tuy nhiên, những đề tài này đã nghiên cứu quá lâu, mặc khác
tại tỉnh Kiên Giang, cho đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên
cứu về vấn đề thu hút vốn đầu tư để phát triển du lịch Kiên Giang.

6
6. Ý nghĩa thực tế của đề tài:
- Về mặt lý luận:
Hệ thống hoá và phân tích những cơ sở khoa học, những vấn đề lý luận về đầu
tư, du lịch và huy động vốn đầu tư để phát triển kinh tế xã hội nói chung và du lịch
nói riêng.
- Về mặt thực tiễn:
+ Đề xuất các giải pháp về huy động vốn và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư
để phát triển trong giai đoạn hiện nay và định hướng đến năm 2020. Những vấn đề
nghiên cứu trong Luận văn nầy sẽ là một trong những cơ sở để các cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền và cơ quan chuyên môn ngành du lịch của tỉnh tham khảo để
tham mưu cho lãnh đạo tỉnh cơ chế chính sách huy động vốn đầu tư vào ngành du lịch
Kiên Giang thời gian tới. Đồng thời nâng cao năng lực quản lý và sử dụng có hiệu quả
các nguồn vốn của tỉnh.
+ Luận văn có ý nghĩa đối với bản thân vì nó củng cố, hệ thống hoá tất cả các
kiến thức đã học. Đồng thời qua nghiên cứu thực tế, tổng hợp về thực trạng và một số
giải pháp thu hút vốn đầu tư để phát triển du lịch Kiên Giang đến năm 2020. Qua thực
hiện đề tài sẽ giúp nhà trường đánh giá kết quả học tập của bản thân sau thời gian tiếp
thu kiến thức đã học và vận dụng thực tiễn.

7. Kết cấu luận văn: Ngoài lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận
văn chia làm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về đầu tư và thu hút vốn đầu tư để phát triển du lịch.
Chương 2: Thực trạng thu hút vốn đầu tư vào ngành du lịch tỉnh Kiên Giang
giai đoạn 2005-2011.
Chương 3: Những giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư cho phát
triển du lịch tỉnh Kiên Giang đến năm 2020.





7
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ VÀ THU HÚT VỐN
ĐẦU TƯ ĐỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
1.1. Đầu tư và vốn đầu tư
1.1.1 Đầu tư
1.1.1.1 Khái niệm về đầu tư
Hiện nay có nhiều khái niệm về đầu tư. Tuỳ theo cách tiếp cận và đứng trên
các góc độ nghiên cứu khác nhau mà các nhà kinh tế học trong và ngoài nước đã đưa
ra các khái niệm về đầu tư như sau:
- Các nhà kinh tế học nước ngoài:
+ Nhà kinh tế học John M.Keynes cho rằng đầu tư là hoạt động mua sắm tài
sản cố định để tiến hành sản xuất hoặc có thể là mua tài sản tài chính để thu lợi
nhuận, ông viết: "Đầu tư, theo cách dùng thông thường là việc cá nhân hoặc Công ty
mua sắm một tài sản. Đôi khi, thuật ngữ này còn bị giới hạn trong việc mua một tài
sản tại Sở giao dịch chứng khoán". Mặc dù ở đây ông có nói đến đầu tư mua tài sản
tài chính, song chủ yếu tập trung nhấn mạnh đầu tư là việc mua thêm tài sản vật chất
mới (như máy móc, thiết bị, nhà xưởng…) để sản xuất nhằm thu về một khoản lợi
nhuận trong tương lai, ông viết: "Khi một người mua hay đầu tư một tài sản, người

đó mua quyền để được thu một loạt các khoản lợi tức trong tương lai mà người đó hy
vọng giành được qua việc bán sản phẩm do tài sản cố định làm ra…”. Quan niệm
của ông đã nói lên kết quả của đầu tư về hình thái vật chất là tăng thêm tài sản cố
định, tạo ra tài sản mới về mặt giá trị, kết quả thu được lớn hơn chi phí bỏ ra.
+ Nhà kinh tế học P.A Samuelson cho rằng đầu tư là hoạt động tạo ra vốn tư
bản thực sự, theo các dạng nhà ở, đầu tư vào tài sản cố định của doanh nghiệp như
máy móc, thiết bị và nhà xưởng và tăng thêm hàng tồn kho. Đầu tư cũng có thể dưới
dạng vô hình như giáo dục, nâng cao chất lượng nhân lực, nghiên cứu, phát minh…
Theo ông đầu tư tài chính mang một ý nghĩa hoàn toàn khác, nó dùng để chỉ mua một
loại chứng khoán, cổ phiếu… , đó không phải là đầu tư thực sự của nền kinh tế. Trên
góc độ làm tăng thu nhập cho tương lai, đầu tư được hiểu là " hoạt động kinh tế từ bỏ
tiêu dùng hiện nay với tầm nhìn để tăng sản lượng cho tương lai", với niềm tin, kỳ
vọng thu nhập do đầu tư đem lại sẽ cao hơn các chi phí đầu tư. Các vấn đề mà P.A

8
Samuelson nêu ra trong các cách tiếp cận về đầu tư đã cho thấy đầu tư là hy sinh tiêu
dùng hôm nay để có thu nhập cao hơn trong tương lai và đó là quá trình chứa đựng
những rủi ro. Điều đó không chỉ nói lên kết quả của đầu tư mà còn chỉ rõ nguồn gốc
của đầu tư trên giác độ cá nhân cũng như trên phạm vi nền kinh tế, thể hiện các mối
quan hệ thu nhập, tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư. Đồng thời ông cũng xác định các
dạng chính của đầu tư, trong đó bao quát được cả hoạt động đầu tư cho khoa học, kỹ
thuật và phát triển con người. Như vậy P.A.Samuelson đã đưa ra khái niệm đầu tư
khá đầy đủ.
- Khái niệm về đầu tư Việt Nam:
+ Theo Luật đầu tư (2005) định nghĩa “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn
bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt
động đầu tư”.
Qua tìm hiểu các quan niệm về đầu tư, chúng ta thấy thể hiện ở 3 nội dung:
Một là, hoạt động đầu tư thường sử dụng nhiều nguồn lực khác nhau và
thường sử dụng đơn vị tiền tệ để biểu hiện. Các nguồn lực để đầu tư có thể bằng tiền,

bằng các loại tài sản khác như máy móc thiết bị, nhà xưởng, công trình xây dựng
khác thuộc nhiều hình thức sở hữu khác nhau như sở hữu nhà nước, tư nhân, nước
ngoài
Hai là, đầu tư cần phải xác định trong một khoảng thời gian nhất định (có thể
nhiều năm, tháng ). Tuy nhiên thời gian càng dài thì mức độ rủi ro cũng càng cao
bởi vì nền kinh tế luôn thay đổi, lạm phát có thể xảy ra cũng như các nguyên nhân
chủ quan khác có ảnh hưởng đến đầu tư.
Ba là, mục đích của đầu tư là sinh lời trên cả 2 mặt: Lợi ích về mặt tài chính -
thông qua lợi nhuận gắn liền với quyền lợi của chủ đầu tư, và lợi ích về mặt xã hội -
thông qua các chỉ tiêu kinh tế xã hội ảnh hưởng đến quyền lợi của xã hội hay cộng
đồng.
Đồng thời qua các khái niệm nầy ta có thể phân biệt một số loại đầu tư :
Thứ nhất là đầu tư tài chính: là loại đầu tư, trong đó người ta có tiền bỏ tiền ra
cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước hoặc lãi suất tuỳ
thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của Công ty phát hành.

9
Thứ hai là đầu tư thương mại: là loại đầu tư, trong đó người có tiền bỏ tiền ra
để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá
khi bán.
Thứ ba là đầu tư tài sản vật chất và sức lao động: Người có tiền bỏ tiền ra để
tiến hành các hoạt động nhằm duy trì và tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng
năng lực sản xuất, kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để
tạo việc làm, nâng cao đời sống của nhân dân. Trong đầu tư tài sản vật chất, có đầu
tư các điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật, kiến trúc, thông tin, dịch vụ tài chính, ngân
hàng… tạo nền tảng cơ bản cho các hoạt động kinh tế - xã hội. Đó là đầu tư kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội. Hay có thể nói đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội bỏ một lượng tiền vào việc tạo mối hay tăng cường cơ sở vật chất, các điều kiện
kỹ thuật, phương tiện, thiết chế, tổ chức làm nền tảng cho kinh tế - xã hội phát triển.
1.1.1.2. Phân loại đầu tư ở Việt Nam:

Tuỳ theo góc độ tiếp cận, người ta phân loại đầu tư như sau:
- Theo hình thức đầu tư:
+ Đầu tư trực tiếp: Là đầu tư mà người bỏ vốn và người sử dụng vốn là một
chủ thể. Người đầu tư có thể là nhà nước thông qua các cơ quan, DNNN hoặc cũng
có thể là tư nhân hoặc tập thể thông qua các công ty cổ phần, công ty TNHH…Nếu
đầu tư trực tiếp bằng vốn của nước ngoài thì phải tuân theo Luật đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam. Theo luật này, đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam có thể tiến
hành theo bốn hình thức: Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh
doanh, công ty liên doanh, Công ty 100% vốn nước ngoài, Hợp đồng xây dựng –
kinh doanh – chuyển giao.
+ Đầu tư gián tiếp: Là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ
phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các
định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý
hoạt động đầu tư - Luật đầu tư (2005). Như vậy, đầu tư gián tiếp là loại hình đầu tư
mà trong đó người bỏ vốn ra và người sử dụng vốn không cùng một chủ thể. Đầu tư
gián tiếp thông thường thông qua kênh tín dụng hay kênh đầu tư trên thị trường
chứng khoán.

10
Giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp có quan hệ chặt chẽ trong quá trình
thực hiện đầu tư. Đầu tư trực tiếp là tiền đề để phát triển đầu tư gián tiếp, điều này thể
hiện thông qua nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp từ các tổ chức tín dụng hay các
doanh nghiệp phát hành cổ phiếu trên thị trường sơ cấp để huy động vốn. Mặt khác,
môi trường đầu tư gián tiếp được mở rộng sẽ thúc đẩy việc đầu tư trực tiếp với mong
đợi tiếp cận với các nguồn vốn được dễ dàng. Bởi vì một khi thị trường tài chính phát
triển thì nhà đầu tư có nhiều cơ hội lựa chọn các nguồn vốn có chi phí sử dụng vốn
thấp, và cũng có thể sử dụng lợi thế này làm gia tăng đòn bẩy tài chính để thực hiện ý
đồ kinh doanh của mình.
- Theo ngành đầu tư:
+ Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng: Là hoạt động đầu tư phát triển nhằm xây

dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội, như: Cơ sở hạ tầng kỹ thuật (giao thông vận
tải, thông tin , điện, nước…); Cơ sở hạ tầng xã hội (trường học, bệnh viện, cơ sở văn
hóa, thể thao…). Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam , cơ sở hạ tầng còn
yếu kém và mất cân đối nghiêm trọng. Cơ sở hạ tầng cần được đầu tư phát triển, đi
trước một bước, tạo tiền đề để phát triển các lĩnh vực kinh tế khác.
+ Đầu tư phát triển công nghiệp: Là hoạt động đầu tư phát triển nhằm xây
dựng các công trình công nghiệp. Trong công cuộc phát triển ở Việt Nam hiện nay
theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước đầu tư công nghiệp là chính yếu,
nhằm gia tăng giá trị sản lượng công nghiệp trong GDP.
+ Đầu tư phát triển nông nghiệp: Là hoạt động đầu tư phát triển nhằm xây
dựng các công trình nông nghiệp. Việt Nam từ điểm xuất phát là một nước nông
nghiệp, với lợi thế so sánh trong nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lương thực cho nên
đầu tư phát triển nông nghiệp có ý nghĩa chiến lược, lâu dài nhằm đảm bảo an toàn
lương thực quốc gia và tỷ trọng giá trị sản lượng nông nghiệp hợp lý trong GDP.
+ Đầu tư phát triển dịch vụ: Là hoạt động đầu tư phát triển nhằm xây dựng
các công trình dịch vụ (thương mại, khách sạn – du lịch, dịch vụ khác…). Trong bối
cảnh quốc tế hóa nền kinh tế ngày càng cao, đầu tư dịch vụ là xu thế phát triển, nhằm
gia tăng tỷ trọng giá trị dịch vụ trong GDP ở Việt Nam trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.

11
1.1.2 Vốn đầu tư
1.1.2.1. Khái niệm:
Theo nghĩa rộng, vốn bao gồm toàn bộ các nguồn lực kinh tế khi đưa vào hoạt
động kinh tế - xã hội. Do đó, vốn không những bao gồm tiền vốn, các tài sản hiện vật
như máy móc, vật tư hàng hóa, lao động, đất đai, hầm mỏ, sông, biển… được con
người khai thác và sử dụng; mà vốn còn bao gồm cả giá trị của những tài sản vô hình
như vị trí địa lý, thành tựu khoa học và công nghệ, quyền phát minh sáng chế, trí tuệ
của người lao động…được sử dụng vào quá trình đầu tư cho nền kinh tế. Theo nghĩa
hẹp, vốn là tiềm lực về tài chính của mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia.

Vốn đầu tư là nguồn vốn được sử dụng để xây dựng, tạo cơ sở vật chất cho
các công trình kinh tế - xã hội, mà các hoạt động đó làm tăng tiềm lực kinh tế, tái tạo
sản phẩm mới, tăng tích lũy cho nền kinh tế quốc dân và tác động trực tiếp hoặc gián
tiếp đến các hoạt động xã hội khác. Vốn là chìa khóa, là điều kiện hàng đầu của mọi
quá trình phát triển. Như vậy có thể nói đối với quá trình sản xuất và tái sản xuất dưới
mọi hình thức nào, vốn cũng giữ vai trò không thể thiếu. Các nguồn vốn có thể
chuyển hóa cho nhau và biến thành tiền mặt trong những trường hợp nhất định. Vốn
được lưu chuyển từ ngành này sang ngành khác, từ vùng này sang vùng khác hoặc
biến đổi hình thái sở hữu giữa các thành phần kinh tế. Vấn đề quan trọng là phải biết
khai thác các nguồn vốn tiềm tàng để phục vụ cho sự phát triển của mỗi doanh
nghiệp, địa phương hay mỗi quốc gia.
- Quá trình tích lũy vốn trong nước:
Quá trình tích lũy vốn được chia thành 3 khâu đó là: Tiết kiệm; huy động tiết
kiệm vào hệ thống tài chính; đầu tư.

Sơ đồ 1.1 Quy trình tích lũy vốn đầu tư

12
+Tiết kiệm nói lên tiềm năng của sự gia tăng vốn. Nếu tiết kiệm được nhưng
lại ở dưới dạng vàng, ngoại tệ mạnh, bất động sản… để cất giữ thì tiềm năng về sự
gia tăng vốn đó không được thực hiện, không được phát huy. Tiềm năng này chỉ được
thực hiện khi tiết kiệm được chuyển hóa thành đầu tư thông qua hệ thống tài chính
hoặc trực tiếp chuyển thành đầu tư.
+ Huy động vốn qua các thị trường tài chính là một kênh quan trọng để thu hút
tiết kiệm của các cá nhân, tổ chức không trực tiếp tiến hành đầu tư sản xuất, kinh
doanh.
+ Đầu tư sẽ là tăng vốn cho nền kinh tế và là một trong những yếu tố quyết
định đến GDP tiềm năng và tăng trưởng kinh tế.
Do vậy, khi đề cập đến các giải pháp về vốn cho tăng trưởng, phải đề cập đến
cả 3 khâu là nâng cao tiết kiệm tức nâng cao tiềm năng, chuyển tiềm năng thành đầu

tư một cách tối đa và có hiệu quả, qua các kênh trực tiếp và gián tiếp. Tác động liên
hoàn của 3 khâu này là: đầu tư hiệu quả sẽ nâng tích lũy, tăng tiết kiệm, huy động tốt
thì đầu tư tăng lên.
1.1.2.2. Phân loại nguồn vốn đầu tư:
Ở góc độ chung nhất trong phạm vi một quốc gia, nguồn vốn đầu tư được chia
thành 2 nguồn:
- Nguồn vốn đầu tư trong nước: Nguồn vốn trong nước thể hiện sức mạnh
nội lực của một quốc gia. Nguồn vốn này có ưu điểm là bền vững, ổn định, chi phí
thấp, giảm thiểu được rủi ro và tránh được hậu quả từ bên ngoài. Nguồn vốn trong
nước tích luỹ chủ yếu từ tiết kiệm. Tiết kiệm luôn ảnh hưởng tích cực đối với tăng
trưởng, nhất là ở những nước đang phát triển vì làm tăng vốn đầu tư. Hơn nữa, tiết
kiệm đó là điều kiện cần thiết để hấp thụ vốn nước ngoài có hiệu quả, đồng thời giảm
được sức ép về phía ngân hàng Trung ương trong việc hàng năm phải cung ứng thêm
tiền để tiêu hóa ngoại tệ. Tiết kiệm trong nước được hình thành từ các khu vực sau:
- Tiết kiệm của NSNN chính là chênh lệch giữa tổng các khoản thu mang tính
không hoàn lại (chủ yếu là các khoản thu thuế) với tổng chi tiêu dùng của ngân sách.
Tổng thu ngân sách sau khi chi cho các khoản chi thường xuyên, còn lại hình thành

13
nguồn vốn đầu tư phát triển. Nguồn vốn này phụ thuộc vào khả năng tập trung thu
nhập quốc dân vào ngân sách và quy mô chi tiêu dùng của nhà nước.
- Tiết kiệm của các doanh nghiệp là một nguồn hình thành vốn đầu tư trong
nước. Tiết kiệm của các DNNN cũng như tiết kiệm của các doanh nghiệp tư nhân
(gọi chung là tiết kiệm của công ty) được hình thành từ lợi nhuận đạt được trong kinh
doanh để lại cho doanh nghiệp để đầu tư (không chia) và quỹ khấu hao tài sản cố định
của công ty. Tiết kiệm của công ty là một bộ phận quan trọng của vốn đầu tư nhằm
mở rộng quy mô kinh doanh, đổi mới trang thiết bị, đổi mới công nghệ và nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, góp phần phát triển kinh tế .
- Tiết kiệm của các hộ gia đình và tổ chức đoàn thể xã hội (sau đây gọi tắt là
khu vực dân cư): Là khoản tiền còn lại của thu nhập sau khi đã phân phối và sử dụng

cho mục đích tiêu dùng. Quy mô tiết kiệm khu vực dân cư chịu ảnh hưởng bởi các
nhân tố trực tiếp như trình độ phát triển kinh tế, thu nhập bình quân đầu người, chính
sách lãi suất, chính sách thuế, sự ổn định kinh tế vĩ mô…Trong nền kinh tế thị
trường, số tiền tiết kiệm của khu vực dân cư có thể chuyển hoá thành nguồn vốn cho
đầu tư thông qua các hình thức như gởi tiết kiệm vào các tổ chức tín dụng, mua
chứng khoán trên thị trường tài chính, trực tiếp đầu tư kinh doanh… Có thể nói, tiết
kiệm khu vực dân cư giữ vị trí rất quan trọng đối với đầu tư thông qua hệ thống tài
chính trung gian. Chẳng hạn, nếu tiết kiệm NSNN không đáp ứng đủ nhu cầu chi đầu
tư thì buộc Nhà nước phải tìm đến nguồn vốn tiết kiệm của khu vực này để thoả mãn
bằng cách phát hành trái phiếu Chính phủ. Tương tự, đối với khu vực tài chính doanh
nghiệp cũng vậy, khi phát sinh nhu cầu vốn để mở rộng đầu tư kinh doanh, thông qua
thị trường tài chính các doanh nghiệp có thể huy động vốn tiết kiệm khu vực dân cư
bằng nhiều hình thức rất phong phú, như phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vay vốn từ
các tổ chức tín dụng…
Tóm lại, tiết kiệm là quá trình nền kinh tế dành ra một phần thu nhập hiện tại
để tạo ra nguồn vốn cung ứng cho đầu tư phát triển, qua đó nâng cao hơn nữa mức
sống ngày càng cao của người dân trong tương lai. Tuy vậy, đối với nền kinh tế đang
chuyển đổi trong giai đoạn thực hiện công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước như Việt Nam, do nguồn vốn tiết kiệm trong nước còn thấp, không đáp ứng đủ

14
nhu cầu vốn đầu tư phát triển nên cần phải thu hút nguồn vốn nước ngoài để tạo ra cú
hích cho sự đầu tư phát triển nền kinh tế.
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài: Về bản chất, vốn nước ngoài cũng được
hình thành từ tiết kiệm của các chủ thể kinh tế nước ngoài và được huy động thông
qua các hình thức cơ bản sau:
+ Tài trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance - ODA):
Viện trợ phát triển chính thức (ODA: Official Development Assictance) là nguồn tài
chính do các chính phủ, các tổ chức thuộc liên hợp quốc, các tổ chức phi chính phủ,
các tổ chức tài chính quốc tế, gọi chung là các đối tác viện trợ nước ngoài, viện trợ

nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của các nước đang phát triển. Các tài trợ
chính thức gồm: khoản viện trợ không hoàn lại ( thường chiếm khoản 25% tổng vốn
ODA) và tín dụng ưu đãi của các đối tác viện trợ nước ngoài dành cho chính phủ và
nhân dân nhận viện trợ.
ODA được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu sau: Tín dụng thương mại
với các điều kiện mềm như lãi suất thấp, thời hạn trả nợ và thời gian ân hạn dài. Hỗ
trợ dự án đây chính là hình thức chủ yếu của ODA. Nó có thể liên quan tới hỗ trợ cơ
bản hay hỗ trợ kỹ thuật, hoặc cả hai. Hỗ trợ cơ bản được sử dụng chủ yếu về xây
dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội. Hỗ trợ kỹ thuật tập trung chủ yếu là chuyển giao tri
thức: chuyển giao công nghệ, đào tạo…
ODA có vai trò to lớn đối với quốc gia tiếp nhận: một là bổ sung cho nguồn
vốn trong nước để phát triển kinh tế, hai là tiếp cận nhanh chóng với các thành tựu
khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, ba là phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội,
bốn là đào tạo phát triển nguồn nhân lực. Nhưng các nước tiếp nhận viện trợ thường
xuyên phải đối mặt những thử thách rất lớn là gánh nặng nợ quốc gia trong tương lai,
chấp nhận những điều kiện và ràng buộc khắt khe về thủ tục chuyển giao vốn, đôi khi
còn gắn cả những điều kiện về chính trị.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FOREIGN DIRECT INVESTMENT - FDI):
Đây là nguồn vốn do các nhà đầu tư nước ngoài đem vốn vào một nước khác để đầu
tư trực tiếp. FDI đã và đang trở thành hình thức huy động vốn nước ngoài phổ biến
của nhiều nước đang phát triển khi mà các luồng dịch chuyển vốn từ các nước phát

15
triển đi tìm cơ hội đầu tư ở nước ngoài để gia tăng khai thác về lợi thế so sánh. Các
hình thức chủ yếu của FDI ở nước ta là: doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài, hợp đồng hợp tác kinh doanh, ngoài ra còn có các hình thức
BOT, BTO, BT…
Nguồn vốn FDI có lợi lớn nhất là không chỉ đơn thuần đưa ngoại tệ vào nước
sở tại, mà còn kèm theo chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và khả
năng tiếp cận thị trường thế giới… Nhưng nó có mặt trái của nó là nước sở tại

thường bị các nhà đầu tư nước ngoài tính giá cao hơn mặt bằng quốc tế cho các yếu
tố đầu vào, cũng như bị chuyển giao những công nghệ và kỹ thuật lỗi thời
Tóm lại, nguồn vốn nước ngoài có ưu thế là mang lại ngoại tệ cho nền kinh tế,
nhưng nó luôn chứa ẩn những yếu tố tiềm tàng gây bất lợi cho nền kinh tế, đó là sự lệ
thuộc, nguy cơ khủng hoảng nợ, sự tháo chạy đầu tư, sự gia tăng tiêu dùng và giảm
tiết kiệm trong nước…Do đó, một mặt phải ra sức huy động vốn nước ngoài để đáp
ứng tối đa nhu cầu vốn cho công nghiệp hoá, mặt khác, phải kiểm soát chặt chẽ sự
huy động vốn nước ngoài để ngăn chặn khủng hoảng. Điều này đòi hỏi Nhà nước
phải có chính sách tốt, phải tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi cho sự vận động vốn
nước ngoài, điều chỉnh và lựa chọn các hình thức thu hút đầu tư sao cho có lợi cho
nền kinh tế.
1.1.2.3. Các kênh huy động vốn đầu tư :
Huy động vốn đầu tư là quá trình thu hút, tập trung một phần tiết kiệm trong
nước và nước ngoài để chuyển vào hoạt động đầu tư cho sản xuất kinh doanh nhằm
phát triển kinh tế. Quá trình chuyển hoá từ tiết kiệm đến đầu tư được thực hiện thông
qua các kênh huy động vốn đầu tư. Các kênh huy động vốn thường được sử dụng là:
- Ngân sách nhà nước.
-Tín dụng: Tín dụng nhà nước; tín dụng ngân hàng.
- Huy động vốn từ các doanh nghiệp.
- Huy động từ thị trường vốn.
1.2. Tổng quan về du lịch và thu hút vốn đầu tư để phát triển du lịch
1.2.1. Du lịch:
1.2.1.1. Khái niệm:

16
Theo Tổ chức du lịch thế giới (World Tourism Organization - WTO) đã đưa ra
định nghĩa “Du lịch bao gồm những hoạt động của những người đi đến một nơi khác
ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình trong thời hạn không quá một năm liên tục
để vui chơi, vì công việc hay vì mục đích khác không liên quan đến những hoạt động
kiếm tiền ở nơi mà họ đến”.

Theo Luật Du lịch Việt Nam (2005) định nghĩa “Du lịch là các hoạt động có
liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm
đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời
gian nhất định”.
1.2.1.2. Phân loại du lịch : Các loại hình du lịch có thể phân chia như sau:
+Du lịch thưởng ngoạn: là hình thức du khách đến một nơi để thưởng ngoạn
phong cảnh thiên nhiên, các di tích văn hoá và các hoạt động vui chơi…nhằm đạt
được sự hưởng thụ cái đẹp, được vui vẻ, nghỉ ngơi. Đây là hình thức du lịch chủ yếu
nhất hiện nay.
+Du lịch thương mại: là hình thức du khách là Thương nhân đến một nơi để
để tìm hiểu thị trường, đàm phán mậu dịch, kết giao các hợp đồng kinh doanh…
trong đó có ăn ở khách sạn, mời tiệc, xã giao, du ngoạn.
+Du lịch thăm viếng người thân: là hình thức du khách tìm cội nguồn, thăm
viếng bà con, dòng họ, kết hợp với du ngoạn.
+Du lịch văn hóa : là hình thức du khách (phần lớn là những người có học)
đến một nơi để tìm hiểu văn vật cổ tích, văn hóa nghệ thuật, kiến trúc dân tộc, khoa
học kỹ thuật giáo dục với mục đích khảo sát văn hóa và giao lưu văn hóa.
+Du lịch hội nghị: là hình thức du khách (phần lớn là những nhà chính trị,
doanh nhân) đến một nơi để dự hội nghị, kết hợp với du ngoạn. Đặc điểm của loại du
lịch này là thời gian lưu lại dài, khả năng mua sắm mạnh.
+Du lịch tôn giáo: là hình thức du khách (phần lớn là những tín đồ) đến một
nơi để cúng bái hoặc thực hiện một số nghi thức tôn giáo.
Việc phân loại du lịch trên có ý nghĩa rất quan trọng, sẽ giúp cho ta khai thác
lợi thế, tiềm năng du lịch, xác định được thế mạnh của cơ sở kinh doanh du lịch, từ

17
đó có thể xác định được cơ cấu khách hàng, mục tiêu của điểm du lịch, tạo điều kiện
đưa hoạt động ngành du lịch ngày càng phát triển tốt nhất.
1.2.2 Thu hút vốn đầu tư để phát triển du lịch
1.2.2.1 Sự cần thiết phải thu hút vốn đầu tư để phát triển du lịch

Câu hỏi lớn được đặt ra là tại sao cần phải thu hút vốn để đầu tư phát triển du
lịch? Câu trả lời có rất nhiều, nhưng tóm gọn lại bởi vì vai trò cực kỳ quan trọng của
ngành Du lịch đối với sự phát triển kinh tế xã hội và các mặt của một quốc gia, một
địa phương. Thu hút vốn đầu tư vào ngành du lịch là sự cần thiết khách quan, bởi một
số lý do sau:
1.2.2.1.1 Thu hút vốn đầu tư phát triển du lịch góp phần tăng trưởng kinh
tế, tăng GDP.
Một điều thực tế dễ thấy là việc khách du lịch đem tiền kiếm được từ nơi khác
đến chi tiêu ở vùng du lịch, làm tăng nguồn thu của vùng và của đất nước du lịch, góp
phần làm cho kinh tế của vùng du lịch và của đất nước phát triển. Hoạt động của
ngành du lịch góp phần làm tăng thu nhập quốc dân, thông qua việc sản xuất, chế
biến các đồ ăn, thức uống phục vụ du khách và bán các mặt hàng lưu niệm…Ở các
nước du lịch phát triển, nguồn thu ngoại tệ từ du lịch quốc tế chiếm đến 20% trong
tổng nguồn thu ngoại tệ của đất nước. Ngành du lịch phát triển còn là động lực thúc
đẩy quá trình sản xuất kinh doanh của nhiều ngành khác phát triển góp phần phát
triển kinh tế. Do nhu cầu của khách du lịch là rất đa dạng và phong phú cho nên
ngành du lịch tạo điều kiện cho các ngành đa dạng hóa sản phẩm, mở rộng thị trường
tiêu thụ ngay tại chỗ giúp cho quá trình lưu thông được nhanh hơn, tăng vòng quay
của vốn, từ đó sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Còn các cơ sở kinh doanh du lịch cũng
tiêu thụ phần lớn các sản phẩm của các ngành khác như xây dựng, dịch vụ bưu
điện…
- Cơ sở lý thuyết về đầu tư phát triển du lịch góp phần tăng GDP:
GDP (Tổng sản phẩm quốc nội): là chỉ tiêu phản ánh bằng tiền (giá thị trường)
toàn bộ sản phẩm (hàng hoá và dịch vụ) cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi
lãnh thổ một nước, trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Xác định theo

18
công thức: GDP = C + I + G + XM.
(1.1)
. Trong đó: C là chi tiêu của hộ gia đình; I:

Chi tiêu đầu tư của doanh nghiệp; G: Chi tiêu của chính phủ; XM: xuất khẩu ròng.
Từ công thức
(1.1)
ta thấy đầu tư (I) và GDP tỷ lệ thuận với nhau, nếu tăng I
thì sẽ dẫn đến tăng GDP. Nếu phân tích sâu hơn ta thấy đầu tư (I) có hai vai trò quan
trọng trong tăng trưởng kinh tế của một quốc gia: Thứ nhất, đầu tư là một khoản lớn,
những thay đổi lớn trong đầu tư có ảnh hưởng nhiều đến tổng cầu, đến lượt mình tổng
cầu lại tác động tới sản lượng, công ăn việc làm và kèm theo là sự biến động của giá
cả. Thứ hai, đầu tư tạo ra tích lũy vốn. Đầu tư làm tăng lên quỹ nhà xưởng và máy
móc thiết bị, thúc đẩy sản lượng tiềm năng của quốc gia và kích thích tăng trưởng
trong dài hạn. Vì vậy, đầu tư đóng vai trò kép, đó là tác động tới sản lượng trong
ngắn hạn thông qua ảnh hưởng của nó tới tổng cầu và tác động tới tăng trưởng trong
dài hạn thông qua việc hình thành vốn đối với sản lượng tiềm năng và tổng cung.
Chi tiêu của hộ gia đình du khách (C) đối với các sản phẩm, dịch vụ du lịch;
Chi tiêu của Chính Phủ (G) và Chi tiêu của doanh nghiệp (I) để xây dựng khách sạn,
nhà hàng, khu vui chơi, nhà máy điện, các cơ sở hạ tầng giao thông-viễn thông, các
trang thiết bị sẽ làm tăng GDP.
+Mô hình Harrod – Domar đã chỉ ra rằng vốn đầu tư của nền kinh tế có ảnh
hưởng trực tiếp với tốc độ tăng trưởng:

(1.2)
Từ công thức (1.2) ta thấy giữa vốn đầu tư và mức tăng trưởng tỷ lệ thuận với
nhau, nếu tăng vốn đầu tư thì sẽ dẫn đến tăng GDP. Như vậy thu hút đầu tư sẽ làm
cho lượng vốn đầu tư tăng lên, và do đó sản lượng đầu ra cũng tăng lên sẽ góp phần
thúc đẩy phát triển ngành du lịch nói riêng và tăng trưởng kinh tế nói chung.
Ở đây ta thấy nó phụ thuộc hệ số ICOR (viết tắt của: Incremental Capital
Output Ratio). ICOR xác định mối quan hệ giữa vốn - tư bản và đầu ra – GDP. Nếu
ICOR lớn thì chúng ta phải mất một lượng tư bản lớn để tạo ra một giá trị GDP gia
tăng. Ví dụ ICOR của một nước bằng 5, có nghĩa để tạo ra 1 đồng GDP gia tăng
chúng ta phải đầu tư 5 đồng. ICOR xác định mức độ sử dụng vốn trong nền kinh tế.

Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước được tổ chức thống kê đưa ra hàng năm.

19
Đối với Việt Nam cũng như các nước đang phát triển, hầu hết đều thiếu cả
vốn lẫn chất xám, vì vậy việc kêu gọi, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước để xây
dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế, phát triển du lịch là một điều quan
trọng và cấp thiết. Việc thu hút vốn đầu tư vào nền kinh tế nói chung và ngành du lịch
nói riêng sẽ tác động làm gia tăng sản lượng quốc gia theo lý thuyết bội số đầu tư của
Keynes, thu nhập của xã hội tăng lên sẽ tạo cho người dân có nhiều cơ hội và điều
kiện để chi tiêu cho du lịch nhiều hơn, và đến lượt nó sẽ làm tăng GDP.
1.2.2.1.2 Thu hút vốn đầu tư phát triển du lịch góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế.
Sự phát triển của ngành du lịch tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một
địa phương là quá trình phát triển của ngành du lịch tác động trực tiếp hoặc gián tiếp
đến các ngành kinh tế khác dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giữa các ngành và làm
thay đổi tương quan giữa chúng so với một thời điểm trước đó. Đầu tư có chiến lược,
kế hoạch chính là phương tiện đảm bảo cho cơ cấu kinh tế được hình thành hợp lý.
Giữa ngành du lịch và các ngành kinh tế khác có mối quan hệ biện chứng, hỗ
trợ lẫn nhau nhưng vẫn mang tính độc lập tương đối của nó. Các ngành kinh tế khác
phát triển tạo tiền đề cho ngành du lịch phát triển, ngược lại du lịch phát triển sẽ là
động lực thúc đẩy các ngành khác phát triển.
Thực tế chứng minh rằng ở các nước phát triển du lịch điều dẫn đến chuyển
dịch kinh tế hợp lý, tăng tỷ trọng thương mại dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp.
Chúng ta định hướng đúng và có biện pháp thu hút vốn đầu tư hiệu quả sẽ tác động
đến cơ cấu thành phần kinh tế, tác động đến mối quan hệ giữa đầu tư khu vực nhà
nước và khu vực tư nhân, phải tính toán sao cho đầu tư công của Nhà nước phải có
tác động lôi kéo, dẫn dắt đầu tư tư nhân. Kết quả tất yếu trong cơ cấu GDP sẽ giảm tỷ
trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng thương mại dịch vụ.
1.2.2.1.3 Thu hút vốn đầu tư phát triển du lịch góp phần tăng cường ứng
dụng khoa học kỹ thuật và nâng cao năng lực quản lý điều hành kinh doanh.

Du lịch phát triển làm cho mọi người sử dụng kỹ thuật hiện đại ngày nhiều
hơn, đặc biệt là công nghệ thông tin và viễn thông. Điều nầy cũng dễ hiểu, vì xuất
phát từ nhu cầu của du khách và nhu cầu quản lý của doanh nghiệp. Trong thực tế du

20
khách, nhất là du khách từ các nước phát triển, sử dụng dịch vụ viễn thông,
internet…như là một nhu cầu không thể thiếu. Đối với các doanh nghiệp du lịch để
đáp ứng nhu cầu nầy họ phải trang bị những kỹ thuật hiện đại, nâng cao năng lực
quản lý điều hành kinh doanh, sử dụng công nghệ thông tin một cách hữu hiệu Do
đó, thu hút vốn đầu tư để phát triển ngành du lịch sẽ góp phần tăng cường ứng dụng
khoa học kỹ thuật thông qua các dự án đầu tư được triển khai, thay thế các thiết bị,
công nghệ lạc hậu. Đồng thời sẽ góp phần nâng cao được trình độ quản lý, năng lực
điều hành của một số nhà doanh nghiệp.
1.2.2.1.4 Thu hút vốn đầu tư phát triển du lịch góp phần tạo công ăn việc
làm cho địa phương và tăng nguồn thu cho NSNN.
Đặc thù của ngành du lịch là ngành dịch vụ nên có hệ số sử dụng lao động
cao, do đó du lịch là ngành tạo ra nhiều việc làm cho xã hội. Hàng năm vào mùa du
lịch chính, các cơ sở kinh doanh du lịch thường tiếp nhận một số lượng lớn lao động
vào làm hợp đồng trong doanh nghiệp tạo nguồn thu nhập cho họ. Ngoài ra, sự phát
triển của du lịch còn kích thích các ngành khác phát triển, từ đó còn tạo nhiều việc
làm. Về thu NSNN, ngành du lịch đóng góp vào ngân sách quốc gia thông qua thuế
gián thu đánh trên người tiêu dùng, thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá
nhân. Theo báo cáo của Hội đồng du lịch và Lữ hành thế giới (WTTC) về đóng góp
của ngành du lịch vào nền kinh tế thế giới cho thấy số thuế ( bao gồm VAT, thuế thu
nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân) do ngành du lịch đóng góp 1.200 tỉ USD
vào năm 2005 và đã đạt đến 1.765,3 tỉ USD vào năm 2010.
1.2.2.1.5 Thu hút vốn đầu tư phát triển du lịch góp phần phát triển văn
hoá xã hội:
Thông qua các cuộc tiếp xúc giữa khách du lịch với dân cư của địa phương
giúp con người mở mang những hiểu biết về lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán,

đạo đức, kinh tế…Du lịch làm giàu và phong phú thêm khả năng thẩm mỹ của con
người. Du khách được mở rộng kiến thức, hiểu biết thêm được nhiều điều mới lạ.
Thông qua du lịch dân trí của người dân được nâng cao hơn và du lịch được xem là
cánh cửa giao lưu văn hóa giữa các cộng đồng trên thế giới. Qua các chuyến đi tham
quan, nghĩ mát…giúp người dân làm quen với các cảnh đẹp, với lịch sử và văn hóa

21
của dân tộc, qua đó tác động tăng thêm lòng yêu đất nước mình. Mặc khác, Sự phát
triển của du lịch còn góp phần bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa, các
danh lam thắng cảnh của địa phương, của đất nước; góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc thông qua các hoạt động lễ hội, khôi phục các làng nghề truyền thống…

1.2.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư vào ngành
du lịch
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư vào phát triển
kinh tế xã hội nói chung và ngành du lịch nói riêng. Các nhân tố này có tác động trực
tiếp hoặc gián tiếp đến các dòng vốn đầu tư. Qua nghiên cứ những nhân tố ảnh hưởng
đến việc thu hút vốn đầu tư vào ngành du lịch của các nhà khoa học, nhà quản lý như
TS. Nguyễn Kha Nguyên, Các
nhân tố ảnh hưởng đến thu hút FDI, trên Tạp chí
Công nghệ và kinh tế đối ngoại;
TS
. Nguyễn Văn Dũng, Các nhân tố ảnh
hưởng tới việc thu hút vào các vùng kinh tế, trên Tạp chí Tài nguyên giáo dục
Việt Nam. Các tác giả
TS
. Nguyễn Thế Giới,
TS
. Nguyễn Xuân Kiều-Trường
Đại học kinh tế Hồ Chí Minh, Phạm Thị Túy – Tổng cục Du lịch,

TS
. Trần Văn
Tín-VHTT & Du lịch TPHCM và một số chuyên gia, khách du lịch Có hơn
15 nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư vào phát triển kinh tế xã hội
nói chung và ngành du lịch nói riêng. Tác giả nghiên cứu và nhận thấy rằng có
10 nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư vào phát
triển ngành du lịch; Các nhân tố này có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến
các dòng vốn đầu tư, ảnh hưởng của các nhân tố này được thể hiện như sau
:
- Nhân tố thứ nhất:
Lợi thế về điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch
của địa phương:
Sự phát triển của ngành du lịch gắn liền với việc khai thác sử dụng các nguồn
tài nguyên thiên nhiên, các di tích lịch sử và nhân văn, do đó tài nguyên thiên nhiên
như núi, rừng, biển, đảo, sông ngòi, ghềnh thác, ao hồ, cảnh quan thiên nhiên, di tích
lịch sử, con người… là những nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng đến thu hút đầu tư
vào ngành du lịch. Những địa phương có nhiều điều kiện về tài nguyên du lịch thì sẽ
có nhiều điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư vào ngành du lịch. Tài nguyên du

22
lịch là tất cả các nhân tố có thể kích thích động cơ của khách du lịch được ngành du
lịch vận dụng để tạo ra lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội đều được gọi là tài nguyên du
lịch. Tài nguyên du lịch được phân làm 3 loại:
+ Tài nguyên thiên nhiên du lịch là những tài nguyên mà thiên nhiên đã ban
tặng để con người tiến hành các hoạt động du lịch như nghỉ ngơi điều dưỡng, du
ngoạn tham quan và khảo sát khoa học bao gồm sông núi nổi tiếng, biển đảo mênh
mông, suối thác kỳ vĩ, hoa thơm cỏ lạ…
+ Tài nguyên du lịch nhân văn là những của cải vật chất và của cải tinh thần
do con người sáng tạo ra từ xưa cho đến nay, có thể thu hút mọi người tiến hành du
lịch như các truyền thuyết, huyền thoại, di tích lịch sử, kiến trúc cổ điển, di tích văn

hóa, văn hóa nghệ thuật…
+ Tài nguyên du lịch xã hội là tài nguyên mang tính văn hóa. Du khách đi du
lịch là muốn được hưởng thụ văn hóa nơi đến. Con người được hun đúc trong bối
cảnh văn hóa khác nhau sẽ có giá trị, phương thức tư duy và phương thức sống khác
nhau, vì vậy con người cũng là tài nguyên du lịch xã hội.
- Nhân tố thứ hai:
Các cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ phát triển du lịch
của địa phương:
Sự phát triển của cơ sở hạ tầng kinh tế của một quốc gia và một địa phương là
điều kiện vật chất hàng đầu để các nhà đầu tư có thể nhanh chóng thông qua các
quyết định và triển khai thực tế các dự án đầu tư đã cam kết.
Một tổng thể hạ tầng phát triển phải bao gồm một hệ thống giao thông vận tải
đồng bộ và hiện đại với các cầu cảng, đường sá, kho bãi và các phương tiện vận tải
đủ sức bao phủ quốc gia và đủ tầm hoạt động quốc tế; một hệ thống bưu điện thông
tin liên lạc viễn thông với các phương tiện nghe – nhìn hiện đại, có thể nối mạng
thống nhất toàn quốc và liên thông với toàn cầu; hệ thống điện, nước đầy đủ và phân
bổ tiện lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như đời sống xã hội; một hệ
thống mạng lưới cung cấp các loại dịch vụ khác ( y tế, giáo dục, giải trí, các dịch vụ
hải quan, thương mại, quảng cáo, kỹ thuật…) phát triển rộng khắp, đa dạng và có
chất lượng cao sẽ thu hút vốn đầu tư một cách nhanh chóng.

23
- Nhân tố thứ ba: Chính sách thu hút đầu tư, ưu đãi đầu tư, sự cải cách
hành chính, ổn định pháp luật đầu tư và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, kinh
doanh tại địa phương:
Chính sách thu hút đầu tư, ưu đãi đầu tư sẽ là điều kiện ban đầu, cực kỳ quan
trọng thu hút các doanh nghiệp đến đầu tư tại một nước, một địa phương. Bởi vì các
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xét cho cùng là vì lợi nhuận. Các mức ưu đãi tài
chính - tiền tệ dành cho vốn đầu tư là để cho các nhà đầu tư tìm kiếm được lợi nhuận
cao nhất trong điều kiện kinh doanh chung của khu vực; nó còn khuyến khích họ đầu

tư vào những nơi mà Chính phủ muốn khuyến khích đầu tư. Trong đó, những ưu đãi
về thuế chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong số các ưu đãi tài chính dành cho đầu
tư. Chính sách thương mại được thông thoáng theo hướng tự do hóa sẽ bảo đảm khả
năng xuất – nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên liệu sản xuất, cũng như sản phẩm,
tức là bảo đảm sự thuận lợi, kết nối liên tục các công đoạn hoạt động đầu tư của các
nhà đầu tư trong và ngoài nước. Sự hỗ trợ tín dụng cùng với các dịch vụ tài chính,
bảo lãnh của Chính phủ, của các cơ quan tín dụng xuất khẩu và của các tổ chức tài
chính đa phương như WB, ADB…sẽ đóng vai trò to lớn làm tăng dòng vốn đầu tư,
nhất là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước. Khi có sách ưu đãi đầu tư dẫn
đến các rủi ro giảm xuống, tỷ lệ lợi nhuận tăng lên, các luồng vốn đầu tư sẽ đổ vào
nhiều và ổn định, ngay cả khi tốc độ tăng trưởng chung của nơi đó chưa cao.
Lực cản lớn làm nản lòng các nhà đầu tư là thủ tục hành chính rườm ra, phiền
phức gây tốn kém về thời gian và chi phí, làm mất cơ hội đầu tư. Bộ máy hành chính
hiệu quả quyết định sự thành công không chỉ thu hút vốn đầu tư mà còn của toàn bộ
quá trình huy động, sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của mỗi quốc gia cũng như mỗi
địa phương. Bộ máy đó phải thống nhất, gọn nhẹ, sáng suốt và nhạy bén. Đối với
những thủ tục hành chính, những quy định pháp luật cần phải được đơn giản, công
khai và nhất quán, được thực hiện bởi những con người có trình độ chuyên môn cao,
được giáo dục tốt và có kỷ luật, tôn trọng pháp luật.
- Nhân tố thứ tư
: Công tác tuyên truyền quảng bá và xúc tiến du lịch, xúc
tiến đầu tư du lịch, Công tác tổ chức, quản lý Nhà nước về du lịch:

24
Khi đã có các chính sách thu hút đầu tư, ưu đãi đầu tư, công việc quan trọng
gắn liền với nó mà Lãnh đạo một địa phương cần thực hiện quyết liệt ngay là phải
tuyên truyền quảng bá và xúc tiến du lịch, xúc tiến đầu tư để các doanh nghiệp trong
và ngoài nước biết và đến tham quan tìm hiểu, qua đó họ mới tiến hành đầu tư.
Các hình thức truyền quảng bá và xúc tiến du lịch, xúc tiến đầu tư là tổ chức
cho các doanh nghiệp tham gia hội nghị, hội chợ triển lãm du lịch của tỉnh nhà…

Ngoài ra các doanh nghiệp cũng rất quan tâm đến công tác tổ chức, quản lý nhà nước
về du lịch của địa phương như: Công tác thực hiện quy hoạch du lịch, đặc biệt là
công tác đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển du lịch và đầu tư phát triển cơ sở vật
chất kỹ thuật du lịch; công tác kiểm tra chấn chỉnh tình hình trật tự kinh doanh dịch
vụ, giá cả…tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp du lịch.
- Nhân tố thứ năm
: Sự phát triển về kinh tế, tốc độ tăng GDP và sự phát
triển về xã hội:
Sự phát triển về kinh tế, tốc độ tăng GDP và sự phát triển về xã hội của một
nước, một khu vục, một địa phương là các yếu tố đóng vai trò quan trọng hấp dẫn các
nhà đầu tư. Một điều rất dễ hiểu là khi các ngành kinh tế phát triển, GDP phát triển
thì nó tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào ngành du lịch, hay nói cách khác nó kéo
theo sự phát triển dây chuyền đối với toàn xã hội, trong đó có ngành du lịch. Mặt
khác GDP phát triển làm thu nhập bình quân trên đầu người của địa phương đó tăng
lên, dẩn đến sự chi tiêu của họ nhiều lên, điều nầy rất có lợi cho nhà đầu tư. Sự phát
triển về mạng lưới y tế, giáo dục, về lao động việc làm, văn hoá, thể thao…là điều
kiện cực kỳ quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư. Những bất ổn kinh tế - xã hội
không chỉ làm cho dòng vốn đầu tư bị thu hẹp mà còn làm cho nhà đầu tư dè chừng,
chờ đợi. Họ chờ đợi khi kinh tế xã hội của khu vực sắp đầu tư phát triển ổn định, họ
mới đầu tư hết dự án của mình.
- Nhân tố thứ sáu
: Sự phát triển của hệ thống các dịch vụ tài chính - ngân
hàng, thị trường tài chính của tỉnh:
Sự phát triển của thị trường tài chính, trong đó thị trường chứng khoán đóng
vai trò quan trọng tạo ra tính thanh khoản cao cho các chứng khoán, trái phiếu, các tài
sản tài chính nói chung. Điều này có ý nghĩa quan trọng có tác động tích cực đến thu

25
hút tiết kiệm cũng như hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư. Sự phát triển của TTCK
cũng tác động làm tăng mức tiết kiệm quốc gia và các nhà đầu tư cũng dễ dàng tiếp

cận được những nguồn vốn lớn phục vụ cho nhu cầu đầu tư của mình bằng việc phát
hành chứng khoán, trái phiếu …
Sự phát triển của ngân hàng đóng vai trò quan trọng việc thu hút vốn đầu tư, vì
thông qua ngân hàng, các dịch vụ ngân hàng, nhà đầu tư cũng như du khách trực tiếp
sử dụng các dịch vụ của các ngành này để thanh toán, dịch vụ đổi tiền
- Nhân tố thứ bảy
: Sự phát triển của đội ngũ lao động, trình độ quản lý,
trình độ lao động trong ngành du lịch:
Đội ngũ nhân lực có tay nghề cao là điều kiện rất quan trọng để một nước và
địa phương vượt qua được những hạn chế về tài nguyên thiên nhiên và trở nên hấp
dẫn các nhà đầu tư. Việc thiếu các nhân lực kỹ thuật lành nghề, các nhà quản lý cao
cấp, các nhà doanh nghiệp tài ba và sự lạc hậu về trình độ khoa học – công nghệ sẽ
khó lòng đáp ứng được các yêu cầu của nhà đầu tư để triển khai các dự án của họ,
làm chậm và thu hẹp lại dòng vốn đầu tư chảy vào một lãnh thổ và địa phương.
Một hệ thống doanh nghiệp trong lãnh thổ và địa phương phát triển, đủ sức
hấp thu công nghệ chuyển giao, và là đối tác ngày càng bình đẳng với các nhà đầu tư
là điều kiện cần thiết để lãnh thổ và địa phương tiếp nhận đầu tư có thể thu hút được
nhiều hơn và hiệu quả hơn luồng vốn đầu tư.
- Nhân tố thứ tám
: Môi trường tự nhiên và môi trường xã hội và công tác
bảo vệ môi trường :
Quan điểm phát triển của đa số nhà đầu tư ngành du lịch hiện nay là phát triển
bền vững, bảo vệ môi trường tổng thể sạch đẹp, lâu dài. Vì đặc điểm của ngành du
lịch là vốn đầu tư ban đầu tương đối lớn, thời hạn thu hồi vốn khá dài, nên chỉ bảo vệ
môi trường tốt trong thời gian dài mới có thể thu hút các nhà đầu tư.
Một nhà đầu tư muốn đầu tư vào ngành du lịch của một tỉnh nào đó họ thường
tìm hiểu rất kỹ về hiện trạng về môi trường tự nhiên, môi trường xã hội có liên quan
đến hoạt động du lịch. Công tác bảo vệ môi trường tự nhiên nếu được duy trì thường
xuyên tại các khu du lịch; vấn đề rác thải, chất thải và khu vực ô nhiễm cục bộ dần
dần nếu được khắc phục sẽ thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư.

×