Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

hiệu quả kinh tế - xã hội của nghề nuôi tôm hùm tại cam ranh, khánh hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG








NGUYỄN ĐỨC TOÀN







HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA NGHỀ NUÔI TÔM
HÙM TẠI CAM RANH, KHÁNH HÒA




LUẬN VĂN THẠC SĨ




Khánh Hòa – 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG






NGUYỄN ĐỨC TOÀN



HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA NGHỀ NUÔI TÔM
HÙM TẠI CAM RANH, KHÁNH HÒA


Chuyên ngành : Kinh tế thủy sản
Mã số : 60620115

LUẬN VĂN THẠC SĨ



Người hướng dẫn khoa học: TS. Quách Thị Khánh Ngọc



Khánh Hòa - 2014

i


LỜI CAM ĐOAN

Đề tài: “Hiệu quả kinh tế - xã hội của nghề nuôi tôm hùm tại Cam Ranh, Khánh
Hòa” là công trình do chính bản thân tôi nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung và tính trung thực của đề tài
nghiên cứu này.
Khánh Hòa, tháng 07/2014





Nguyễn Đức Toàn



























ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh, bên cạnh sự nỗ lực
của bản thân còn có sự hướng dẫn tận tình của quý Thầy/Cô, cũng như sự ủng hộ của gia
đình và bạn bè trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến cô Quách Thị Khánh Ngọc đã hết lòng
và tạo mọi điều kiện giúp đỡ để tôi hoàn thành luận văn này. Xin gửi lời tri ân nhất của
tôi đối với những điều mà Thầy/Cô đã dành cho tôi.
Xin chân thành cảm ơn tới quý Thầy/Cô của Khoa Kinh tế đã tận tình truyền
đạt những kiến thức trong suốt quá trình học và thực hiện đề tài.
Và cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, những người đã luôn bên
tôi hỗ trợ, tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành luận văn này.
Khánh Hòa, tháng 7/2014



Nguyễn Đức Toàn

iii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT v
DANH MỤC CÁC BẢNG vi
DANH MỤC HÌNH VÀ SƠ ĐỒ vii
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 5
1.1. Khái niệm hiệu quả kinh tế 5
1.1.1. Các quan điểm truyền thống về hiệu quả kinh tế 5
1.1.2. Các quan điểm mới về hiệu quả kinh tế 8
1.2. Bản chất và tiêu chuẩn của hiệu quả kinh tế 11
1.2.1. Bản chất của hiệu quả kinh tế 11
1.2.2. Tiêu chuẩn của hiệu quả kinh tế 14
1.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế 15
1.3.1. Hệ thống chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh tế 16
1.3.2. Hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế 19
1.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xã hội – môi trường 20
1.4. Các quan điểm đánh giá hiệu quả 21
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU, ĐỊA BÀN NGHIÊN
CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 23
2.1. Tình hình nuôi tôm trên trên thế giới và Việt Nam 23
2.2. Tình hình nuôi tôm hùm tại Việt Nam 28
2.3. Nuôi tôm hùm tại Khánh Hòa và Cam Ranh 29
2.3.1. Nuôi tôm hùm tại Khánh Hòa 29
2.3.2. Nuôi tôm hùm tại Cam Ranh 32
2.4. Phương pháp nghiên cứu 41
2.4.1. Thiết kế nghiên cứu 42
2.4.2. Thu thập số liệu 44

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 46
3.1. Thông tin chung về nghiên cứu 46
iv
3.2. Đánh giá hiệu quả kinh tế của nghề nuôi tôm hùm lồng tại Cam Ranh 47
3.2.1. Đánh giá kết quả kinh tế 47
3.2.2. Đánh giá hiệu quả kinh tế 48
3.2.3. Đánh giá hiệu quả xã hội - môi trường 54
3.2.4. Những khó khăn thường gặp, hướng phát triển và nguyện vọng của hộ nuôi
tôm hùm lồng thành phố Cam Ranh 55
3.3. Đánh giá chung về hiệu quả kinh tế - xã hội của nghề nuôi tôm tôm hùm lồng tại
Cam Ranh 60
3.3.1. Thành tựu và hạn chế của nghề nuôi tôm hùm lồng Cam Ranh 60
3.3.2. Một số nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng đến hiệu quả các hộ nuôi tôm hùm
lồng tại Cam Ranh 63
KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO 69
PHỤ LỤC



























v

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT




TSCĐ : Tài sản cố định
HQKT: Hiệu quả kinh tế









































vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Sản lượng tôm toàn thế giới giai đoạn 2005 - 2011 24
Bảng 2.2: Tổng nhập khẩu tôm từ các nước của 3 thị trường chính Hoa Kỳ, EU, Nhật
Bản năm 2011 24
Bảng 2.3: Tổng nhập khẩu tôm vào Mỹ của các nước năm 2011 25
Bảng 2.4: Tổng nhập khẩu tôm vào EU của các nước năm 2011 25
Bảng 2.5: Tổng nhập khẩu tôm vào Nhật của các nước năm 2011 26
Bảng 2.6 : Sản lượng tôm nuôi của Việt Nam theo khu vực từ năm 2007 - 2012 27
Bảng 2.7: Tiềm năng diện tích nuôi trồng thủy sản tỉnh Khánh Hòa 30
Bảng 2.8: Chỉ tiêu quy hoạch nuôi trồng thủy sản tỉnh Khánh Hòa đến năm 2015 có
tính đến 2020 31
Bảng 3.1: Phân bố mẫu theo giới tính 46
Bảng 3.2: Phân bố mẫu theo độ tuổi 46
Bảng 3.3: Phân bố mẫu theo kỹ thuật nuôi tôm của chủ hộ 47
Bảng 3.4: Phân bố mẫu theo trình độ văn hóa 47
Bảng 3.5: Kết quả kinh tế của nghề nuôi tôm hùm lồng tại Cam Ranh 48
Bảng 3.6: Hiệu quả kinh tế của nghề nuôi tôm hùm lồng tại Cam Ranh 48
Bảng 3.7: Kiểm định phương sai cho năng suất theo các nhóm kinh nghiệm người nuôi 50
Bảng 3.8: Phân tích ANOVA cho sự khác biệt năng suất theo các nhóm kinh nghiệm
người nuôi 50
Bảng 3.9: Kiểm định phương sai cho năng suất theo các nhóm trình độ học vấn 51
Bảng 3.10: Phân tích ANOVA cho sự khác biệt năng suất theo các nhóm trình độ học
vấn 51
Bảng 3.11: Kiểm định sự khác nhau của năng suất trung bình giữa các nhóm học vấn 52
Bảng 3.12: Kiểm định phương sai đồng nhất cho năng suất theo lao động 53
Bảng 3.13: Phân tích ANOVA năng suất theo lao động 53
Bảng 3.14: Kiểm định phương sai đồng nhất cho năng suất theo chi phí 54
Bảng 3.15: Lý do tham gia nuôi tôm hùm lồng của hộ nuôi tại TP. Cam Ranh 55

Bảng 3.16: Những khó khăn gặp phải trong nuôi tôm hùm lồng tại TP. Cam Ranh 57
Bảng 3.17: Hướng phát triển của các hộ nuôi ở TP. Cam Ranh 59
Bảng 3.18: Nguyện vọng của hộ nuôi tôm hùm lồng tại TP. Cam Ranh 60

vii

DANH MỤC HÌNH VÀ SƠ ĐỒ

Hình 2.1: Bốn loài tôm hùm Gai nuôi nhiều nhất ở Việt Nam 28
Sơ đồ 2.1: Chu kỳ sống của tôm hùm 34
Sơ đồ 2.2: Nội dung nghiên cứu 43







1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tôm hùm (Panulirus.spp) thuộc họ Palinuniade là loài tôm có giá trị kinh tế
cao. Ở Việt Nam có 7 loài tôm hùm gồm tôm hùm bông, tôm hùm đá, tôm hùm sỏi,
tôm hùm đỏ, tôm hùm ma, tôm hùm sen và tôm hùm bùn [1].
Nghề nuôi tôm hùm bằng lồng ở Việt Nam bắt đầu phát triển từ năm
2000, phân bố từ Quảng Bình đến Bình Thuận nhưng tập trung chủ yếu ở các tỉnh
Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận. Sản lượng trung bình
hàng năm đạt gần 1.400 tấn, chủ yếu là tôm hùm bông và tôm hùm xanh mang lại
nguồn thu hơn 3.500 tỷ đồng mỗi năm. Hiện cả nước có khoảng 43.000 lồng, tập trung
nhiều nhất ở Phú Yên và Khánh Hòa.

Tại Cam Ranh, từ năm 2000 đến 2004, số lồng tôm hùm tăng hơn 12 lần, sản
lượng tôm thương phẩm tăng 6,6 lần. Riêng năm 2003, sản lượng tôm thương phẩm
đạt 400 tấn, trị giá khoảng 200 tỷ đồng, tại thời điểm số lồng nuôi đạt cao nhất là 2006
– 2007 với số lượng lên đến 12.000 lồng. Sở dĩ nghề nuôi tôm hùm phát triển mạnh
mẽ như vậy do những thuận lợi về nhiệt độ, môi trường nước như: độ mặn, các yếu tố
thủy lý, dòng chảy, thủy triều, ít bị tác động của bão gió và có nguồn thức ăn tự nhiên
dồi dào. Đến 2013, Cam Ranh có 405 bè nuôi tôm hùm với số lượng 7.950 lồng. Tuy
nhiên, tình hình dịch bệnh trên tôm hùm nuôi diễn biến ngày càng phức tạp, nhiều
vùng nuôi chưa thể kiểm soát được dịch bệnh gây tâm lý lo ngại cho người nuôi. Hiện
nay công nghệ nuôi tôm hùm lồng vẫn áp dụng theo kiểu truyền thống, quy mô nhỏ lẻ.
Thức ăn chủ yếu hiện nay cho tôm hùm là cá tạp nên dễ gây ô nhiễm môi trường nuôi,
trong khi đó thức ăn công nghiệp cho tôm hùm chưa được sử dụng rộng rãi…
Trước thực trạng trên, việc tìm hiểu hiện trạng và đánh giá hiệu quả kinh tế - xã
hội của nghề nuôi tôm hùm lồng tại Cam Ranh trong thời gian qua là rất cần thiết,
nhằm tạo cơ sở khoa học cho việc quy hoạch vùng nuôi của địa phương, giúp cho nghề
nuôi tôm hùm lồng phát triển ổn định và bền vững. Xuất phát từ những lý do trên,
việc nghiên cứu đề tài: “Hiệu quả kinh tế - xã hội nghề nuôi tôm hùm tại Cam Ranh,
tỉnh Khánh Hòa” là cần thiết.
2. Mục tiêu của đề tài
2.1. Mục tiêu chung
Phân tích hiệu quả kinh tế - xã hội của nghề nuôi tôm hùm lồng tại Cam Ranh,
tỉnh Khánh Hòa.
2
2.2. Mục tiêu cụ thể
Điều tra thực trạng và đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội nghề nuôi tôm hùm
lồng tại thành phố Cam Ranh về các mặt: trình độ kỹ thuật, mức độ đầu tư, sản lượng,
doanh thu, chi phí…
Đánh giá những mặt tích cực và những khó khăn, thách thức, cơ hội ảnh hưởng
đến sự phát triển của nghề nuôi tôm hùm lồng và những phương hướng phát triển,
những ý kiến, kiến nghị mong muốn của hộ nuôi…

Đưa ra một số kiến nghị cho người nuôi và chính quyền địa phương nhằm góp
phần nâng cao hiệu quả kinh tế cho nghề nuôi tôm hùm lồng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là thực trạng về hiệu quả kinh tế - xã hội của nghề nuôi
tôm hùm lồng tại Cam Ranh.
Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của nghề nuôi tôm hùm lồng tại
Cam Ranh, Khánh Hòa – trường hợp các hộ nuôi tôm hùm lồng. Thu thập tình hình
nuôi tôm hùm lồng thương phẩm tại Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa vào tháng 3 năm
2014.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập số liệu: Số liệu thứ cấp và số liệu sơ cấp. Số liệu thứ cấp
thu thập từ các cơ quan: Cục Thống kê Khánh Hòa, Ủy ban Nhân dân tỉnh Khánh Hòa,
Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Khánh Hòa, internet…Số liệu sơ cấp điều tra
trực tiếp hộ nuôi.
Phương pháp xử lý số liệu: thống kê mô tả, so sánh, tổng hợp.
5. Đóng góp của đề tài
Đóng góp về lý luận: Luận văn tổng hợp cơ sở lý luận về đánh giá hiệu quả
kinh tế xã hội của nghề nuôi tôm hùm lồng tại Cam Ranh, Khánh Hòa.
Đóng góp về thực tiễn:
Cung cấp số liệu, dữ liệu về thực trạng và các đánh giá về hiệu quả kinh tế - xã
hội nghề nuôi tôm hùm lồng tại Cam Ranh, Khánh Hòa.
Những kết luận của đề tài sẽ là một tài liệu hỗ trợ cho người nuôi và các cơ
quan chức năng trong việc lập kế hoạch và quy hoạch để nghề nuôi tôm hùm lồng đạt
hiệu quả cao và bền vững.
3
Kết quả nghiên cứu sẽ giúp cho người nuôi tôm hùm lồng có những định hướng
và giải pháp đúng đắn nhằm phát triển nghề nuôi một cách hiệu quả, bền vững.
Luận văn còn là tài liệu tham khảo hữu ích cho những nghiên cứu tiếp theo về

hiệu quả kinh tế - xã hội của nghề nuôi tôm hùm lồng.
6. Tổng quan tài liệu
Một số đề tài nghiên cứu trong nước có liên quan tới nội dung điều tra hiện
trạng kỹ thuật và đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của một số đối tượng nuôi thủy sản
như:
Đề tài “Đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội của nghề nuôi tôm sú giống (Penaeus
monodon) tại tỉnh Khánh Hòa (2008)” của tác giả Hoàng Thu Thủy, luận văn thạc sỹ,
Đại học Nha Trang. Kết quả nghiên cứu được tác giả xác định nghề nuôi tôm sú giống
đã giải quyết được công ăn việc làm cho 3.387 lao động trực tiếp cho nghề nuôi tôm sú
giống và 20.169 lao động cho nghề nuôi tôm thương phẩm trong 2 năm 2005 và 2006,
và đề tài còn xác định được một số nhân tố ảnh hưởng đến sản lượng sản xuất ấu trùng
tôm sú như: Nhân tố về trình độ kỹ thuật của người nuôi; nguồn gốc tôm bố mẹ; sản
lượng tôm mẹ trong một chu kỳ sản xuất, tỷ lệ m
3
bể chứa [14].
Đề tài “Đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội của nghề nuôi cá chẽm (Lates
calcarifer Bloch, 1790) thương phẩm tại tỉnh Khánh Hòa (2009)” của tác giả Nguyễn
Xuân Bảo Sơn, luận văn Thạc sỹ, Trường Đại học Nha Trang. Nghiên cứu này tìm và
xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sản lượng cá chẽm nuôi thương phẩm của các cơ
sở/hộ nuôi tại Khánh Hòa dựa trên các số liệu điều tra về diện tích ao nuôi, mật độ thả
giống, kích cỡ giống thả nuôi, số năm kinh nghiệm, năng suất, sản lượng, doanh thu,
chi phí, lỗ, lãi… Kết quả nghiên cứu được tác giả xác định nghề nuôi cá chẽm thương
phẩm đã giải quyết cho 957 lao động trực tiếp với sản lượng thu hoạch là 3.500 tấn sản
lượng vào năm 2008, đề tài còn xác định được các nhân tố ảnh hưởng tới sản lượng
nuôi cá hàng năm là mật độ thả, kích thước giống thả, số năm kinh nghiệm của chủ hộ
nuôi và quy mô vốn đầu tư [12].
Đề tài “Đánh giá hiện trạng kỹ thuật và hiệu quả kinh tế - xã hội của nuôi cá rô
đồng trong ao, eo ngách vùng bán ngập ở lòng hồ Trị An, tỉnh Đồng Nai (2012)” của
tác giả Phan Thị Hoa, luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Nha Trang. Kết quả nghiên
cứu của tác giả này cho rằng năng suất trung bình cho 1ha ao nuôi cá Rô đồng tại vùng

bán ngập hồ Trị An là 36,32 tấn/ha/năm. Các hộ nuôi tại xã Phú Ngọc đạt cao nhất với
4
42,767 tấn/ha/năm và các hộ nuôi tại xã Mã Đà có năng suất thấp nhất với 29,66
tấn/ha/năm. Doanh thu trung bình của 1ha ao nuôi cá Rô đồng tại vùng bán ngập hồ
Trị An là 1.046,62 triệu đồng/ha/năm. Các hộ nuôi tại xã Phú Ngọc đạt cao nhất với
1.297,19 triệu đồng/ha/năm và các hộ nuôi tại xã Mã Đà có doanh thu trung bình thấp
nhất với 776,63 triệu đồng/ha/năm. Lợi nhuận trung bình trên 1ha nuôi cá Rô đồng tại
vùng bán ngập hồ Trị An là 93,18 triệu đồng/ha. Các hộ nuôi tại xã Phú Ngọc đạt cao
nhất với 112,38 triệu đồng/ha/năm và các hộ nuôi tại xã Mã Đà có lợi nhuận trung
bình thấp nhất với 42,97 triệu đồng/ha/năm [6].
Đề tài “Đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội nghề nuôi tôm he chân trắng thương
phẩm tại tỉnh Khánh Hòa (2014)” của tác giả Hồ Thị Thúy Thanh, luận văn thạc sĩ,
Trường Đại học Nha Trang. Nghiên cứu đo lường hiệu quả kinh tế xã hội cho các ao
tôm he chân trắng tại tỉnh Khánh Hòa dựa trên chỉ tiêu là lợi nhuận trên một ha nuôi,
tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu và tỷ suất lợi nhuận trên chi phí. Kết quả điều tra 192
hộ nuôi trong năm 2010 cho thấy bình quân lợi nhuận trên đơn vị ha là rất thấp với lợi
nhuận trung bình/ha là 6.196.147 đồng/ha, giá trị nhỏ nhất là - 857.217.241 đồng/ha,
giá trị lớn nhất là 831.636.363 đồng/ha, độ lệch chuẩn là 268.167.607 – trong đó chỉ có
40,73% số hộ là có lãi. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu trung bình và Tỷ suất lợi
nhuận trên chi phí trung bình của một ao nuôi tại Khánh Hòa lần lượt là -1,11 và 0,01.
Kết quả nghiên cứu hàm ý rằng mặc dù nghề nuôi đang gặp khó khăn nhưng các hộ
vẫn tiếp tục tham gia nuôi và đây là nghề rủi ro lớn nhưng sức hấp dẫn của nghề cao
[13].
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung đề tài gồm:
Chương 1. Cơ sở lý luận
Chương 2. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu, địa bàn nghiên cứu và phương
pháp nghiên cứu
Chương 3. Kết quả nghiên cứu – Thảo luận
Chương 4. Kết luận – Kiến nghị

5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Khái niệm hiệu quả kinh tế
1.1.1. Các quan điểm truyền thống về hiệu quả kinh tế
Hiệu quả hiểu theo nghĩa phổ thông, phổ biến trong cách nói của mọi người:
‘’Kết quả như yêu cầu của việc làm mang lại hiệu quả” [19].
Xét góc độ thuật ngữ chuyên môn, hiểu hiệu quả theo nghĩa kinh tế nó là “Mối
quan hệ giữa đầu vào với đầu ra hàng hoá và dịch vụ, có thể được đo lường theo hiện
vật gọi là hiệu quả kỹ thuật hoặc theo chi phí thì được gọi là hiệu quả kinh tế. Khái
niệm hiệu quả kinh tế được dùng như một tiêu chuẩn để xem xét các tài nguyên được
thị trường phân phối như thế nào” [8]
Ngày nay, người ta vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về hiệu quả. Ở mỗi
góc độ, lĩnh vực khác nhau thì hiệu quả cũng được xem xét nhìn nhận khác nhau và
thông thường khi nói đến hiệu quả của một lĩnh vực nào đó thì chúng ta xem xét vấn
đề hiệu quả trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị và xã hội. Tương ứng ta có 3 phạm trù:
hiệu quả kinh tế, hiệu quả chính trị và hiệu quả xã hội.
Hiệu quả kinh tế: Nếu xét trên phạm vi từng khía cạnh, từng yếu tố, từng ngành
thì chúng ta có phạm trù hiệu quả kinh tế. Có thể hiểu hiệu quả kinh tế là hệ số giữa
kết quả thu về và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Kết quả thu về đề cập trong
khái niệm này có thể là doanh thu, lợi nhuận, tổng sản phẩm công nghiệp… Hiệu quả
kinh tế thể hiện trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất kinh
doanh.
Hiệu quả chính trị, xã hội: Nếu đứng trên phạm vi toàn xã hội và nền kinh tế
quốc dân thì ta có hai phạm trù hiệu quả chính trị và hiệu quả xã hội. Hai phạm trù này
phản ánh ảnh hưởng của hoạt động sản xuất kinh doanh đối với việc giải quyết những
yêu cầu và mục tiêu chung của toàn bộ nền kinh tế xã hội. Và hai loại hiệu quả này có
vị trí quan trọng trong việc phát triển đất nước một cách toàn diện và bền vững. Hiệu
quả chính trị, xã hội phản ánh trình độ phát triển nền kinh tế xã hội ở các mặt: trình độ
tổ chức sản xuất, trình độ quản lý, mức sống bình quân.

Phải luôn có sự cân đối giữa hiệu quả kinh tế với hiệu quả chính trị, xã hội. Đây
là một nguyên tắc để phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia một cách liên tục và
lâu dài. Bất kỳ một sự mất cân đối nào sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.
6
Mặc dù đã có sự thống nhất rằng phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh phản
ánh mặt chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng vẫn chưa có sự thống
nhất trong quan niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh. Các nhà kinh tế và thống kê có
nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả sản xuất kinh doanh do điều kiện lịch sử và
giác độ nghiên cứu là không giống nhau.
"Hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu trong tiêu
thụ hàng hóa” [14]. Theo quan điểm này thì hiệu quả là tốc độ tăng của kết quả đạt
được như: Tốc độ tăng của doanh thu, của lợi nhuận. Như vậy, hiệu quả được đồng
nhất với các chỉ tiêu kết quả hay với nhịp độ tăng của các chỉ tiêu ấy. Quan điểm này
thực sự không còn phù hợp với điều kiện ngày nay. Kết quả sản xuất có thể tăng lên do
tăng chi phí, mở rộng sử dụng các nguồn sản xuất (đầu vào của quá trình sản xuất).
Nếu hai doanh nghiệp có cùng một kết quả sản xuất tuy có hai mức chi phí khác nhau,
theo quan điểm này thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của chúng là như nhau.
"Hiệu quả được xác định bằng nhịp độ tăng tổng sản phẩm xã hội hoặc thu
nhập quốc dân” [14]. Xét trên phạm vi của doanh nghiệp, theo quan điểm này thì hiệu
quả sản xuất kinh doanh và nhịp độ tăng giá trị tổng sản lượng là một. Nhìn trên một
góc độ nào đó thì quan điểm này cũng gần giống như quan điểm trên. Nó cũng không
đề cập tới chi phí bỏ ra để đạt được giá trị tổng sản lượng đó. Nếu tốc độ tăng của chi
phí sản xuất được các nguồn lực được huy động tăng nhanh hơn nhịp độ tăng giá trị
tổng sản lượng thì sao. Hơn nữa, việc chọn năm gốc có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả
so sánh. Với mỗi năm gốc khác nhau chúng ta lại có mức hiệu quả khác nhau của cùng
một năm nghiên cứu.
"Hiệu quả sản xuất diễn ra khi sản xuất không thể tăng sản lượng một loại hàng
hóa mà không cắt giảm sản xuất của một loại hàng hóa khác. Một nền kinh tế có hiệu
quả nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất của nó” [20]. Nhìn nhận quan điểm
này dưới giác độ doanh nghiệp thì tình hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả khi nằm

trên đường giới hạn khả năng sản xuất của nó. Giới hạn khả năng sản xuất của doanh
nghiệp được xác định bằng giá trị tổng sản lượng tiềm năng, là giá trị tổng sản lượng
cao nhất có thể đạt được ứng với tình hình công nghệ và nhân công nhất định. Theo
quan điểm này thì hiệu quả thể hiện ở sự so sánh mức thực tế và mức "tối đa" về sản
lượng. Tỷ lệ so sánh càng gần 1 càng có hiệu quả. Mặt khác ta thấy quan điểm này
tuy đã đề cập đến các yếu tố đầu vào nhưng lại đề cập không đầy đủ.
7
"Hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội là mức độ hữu ích của sản phẩm được
sản xuất ra, tức là giá trị sử dụng của nó chứ không phải là giá trị” [14]. Theo tác giả
của quan điểm này, mức độ thỏa mãn nhu cầu phụ thuộc vào các tác dụng vật chất cụ
thể chứ không phải giá trị trừu tượng nào đó. Tuy nhiên quan điểm này gặp phải trở
ngại là khó tính được tính hữu ích của sản phẩm được sản xuất ra. Và nếu vậy thì
chúng ta không thể so sánh được tính hữu ích giữa các sản phẩm, do đó cũng không
đánh giá được tính hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh.
"Hiệu quả kinh tế được xác định bởi quan hệ tỷ lệ giữa sự tăng lên của đại
lượng kết quả và chi phí” [5]. Quan điểm này phản ánh hiệu quả chưa đầy đủ và trọn
vẹn. Nó chỉ đề cập đến hiệu quả của phần tăng thêm bằng cách so sánh giữa phần gia
tăng của kinh doanh sản xuất và phần gia tăng của chi phí sản xuất chứ chưa đề cập
toàn bộ phần tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Xét trên quan điểm triết học
Mác Lênin thì mọi sự vật, hiện tượng đều có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ với nhau
chứ không tồn tại một cách riêng lẻ, độc lập. Sản xuất kinh doanh không nằm ngoài
quy luật này, các yếu tố "tăng thêm" giảm đi có liên hệ với các yếu tố sẵn có. Chúng
trực tiếp hoặc gián tiếp các động tới kết quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sản xuất
kinh doanh luôn là kết quả tổng hợp của toàn bộ phần tham gia vào quá trình sản
xuất kinh doanh. Quan điểm này chỉ đề cập đến phần tăng thêm trong khái niệm hiệu
quả là chưa đầy đủ, thiếu chính xác.
"Hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra
để đạt được kết quả đó” [5]. Quan điểm này cho rằng, nói đến hiệu quả kinh tế tức là
nói đến phần còn lại của kết quả sản xuất kinh doanh sau khi đã trừ chi phí. Nó được
đo bằng các chi phí và lời lãi. Và cũng nhiều tác giả cho rằng, hiệu quả kinh tế được

xem như là tỷ lệ giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra, hay ngược lại là chi phí trên
một đơn vị sản phẩm hay giá trị sản phẩm. Những chỉ tiêu hiệu quả này thường là giá
thành sản phẩm hay mức sinh lời của đồng vốn. Nó chỉ được tính toán khi kết thúc một
quá trình sản xuất kinh doanh.
"Hiệu quả kinh tế của một hiện tượng (hoặc một quá trình kinh tế) phản ánh
trình độ lợi dụng các nguồn lực (nhân tài, vật lực, tiền vốn) để đạt được mục tiêu xác
định” [15].
Như vậy, ta nhận thấy rằng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Còn kết quả
8
của quá trình sản xuất kinh doanh (doanh thu, lợi nhuận) thì phản ánh số lượng của
hoạt động sản xuất kinh doanh. Vậy khi xem xét, đánh giá hoạt động của một doanh
nghiệp thì phải quan tâm cả kết quả cũng như hiệu quả của doanh nghiệp đó. Quan
điểm này đã đánh giá được tốt nhất trình độ lợi dụng các nguồn lực ở mọi điều kiện
"động" của hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc tính toán hiệu quả hoàn toàn có thể
thực hiện được trong sự vận động và biến đổi không ngừng của hoạt động sản xuất
kinh doanh, không phụ thuộc vào quy mô và tốc độ biến động khác nhau của chúng.
Theo Hoàng Hùng (2001): Các quan điểm truyền thống chưa thật toàn diện khi
xem xét hiệu quả kinh tế: Thứ nhất, nó coi quá trình sản xuất kinh doanh trong trạng
thái tĩnh, chỉ xem xét hiệu quả sau khi đã đầu tư. Trong khi đó hiệu quả là chỉ tiêu rất
quan trọng không những cho phép chúng ta biết được kết quả đầu tư mà còn giúp
chúng ta xem xét trước khi ra quyết định đầu tư tiếp và nên đầu tư bao nhiêu, đến mức
độ nào. Trên phương diện này, quan điểm truyền thống chưa đáp ứng đầy đủ được.
Thứ hai, nó không tính yếu tố thời gian khi tính toán thu và chi cho một hoạt
động sản xuất kinh doanh. Do đó, thu và chi trong tính toán hiệu quả kinh tế theo quan
điểm này thường chưa tính đủ và chính xác. Thứ ba, hiệu quả kinh tế theo quan điểm
truyền thống chỉ bao gồm hai phạm trù cơ bản là thu và chi. Hai phạm trù này chủ yếu
liên quan đến yếu tố tài chính đơn thuần như chi phí về vốn, lao động, thu về sản phẩm
và giá cả. Trong khi đó, các hoạt động đầu tư và phát triển lại có những tác động
không chỉ đơn thuần về mặt kinh tế mà còn cả các yếu tố khác nữa. Và có những phần

thu lợi hoặc những khoản chi phí lúc đầu không hoặc khó lượng hoá được nhưng
nó là những con số không phải là nhỏ thì lại không được phản ánh ở cách tính này [7].
1.1.2. Các quan điểm mới về hiệu quả kinh tế
Hiệu quả hoạt động kinh doanh là một phạm trù kinh tế, phản ánh sử
dụng các nguồn lực sẵn có của đơn vị cũng như của nền kinh tế để thực hiện mục tiêu
đặt ra. Nó không chỉ là thước đo chất lượng phản ánh thực trạng tổ chức quản lý kinh
doanh của một doanh nghiệp, mà còn là vấn đề sống còn của doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một vấn đề phức tạp, có
liên quan đến nhiều yếu tố, nhiều mặt của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp như: lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động, nên doanh
nghiệp chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi sử dụng tốt các yếu tố cơ bản của quá trình sản
xuất kinh doanh. Gần đây các nhà kinh tế đã đưa ra các quan niệm mới về hiệu quả
kinh tế, nhằm khắc phục những điểm thiếu của các quan điểm truyền thống:
9
Hiệu quả là sự liên quan giữa nguồn lực đầu vào khan hiếm (như lao động, vốn,
máy móc…) với kết quả trung gian hay kết quả cuối cùng. Hiệu quả là một phạm trù
được sử dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, xã hội. Hiểu theo
nghĩa rộng, hiệu quả thể hiện mối tương quan giữa các biến số đầu ra thu được
(outputs) so với các biến số đầu vào đã được sử dụng để tạo ra những kết quả đầu ra
đó (inputs)
Theo Colli, T.J (2005) [7]: Quan điểm mới khi tính hiệu quả kinh tế phải căn cứ
vào tổ hợp các yếu tố:
Trạng thái động của mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra. Về mối quan hệ này,
cần phân biệt rõ ba phạm trù: Hiệu quả kỹ thuật (Technical efficiency); hiệu quả phân
bổ các nguồn lực (Allocative efficiency) và hiệu quả kinh tế (Economic efficiency).
Hiệu quả kỹ thuật là số sản phẩm (O) thu thêm trên một đơn vị đầu vào (I) đầu tư
thêm. Tỷ số D O/ D I được gọi là sản phẩm biên. Hiệu quả phân bổ nguồn lực là giá trị
sản phẩm thu thêm trên một đơn vị chi phí đầu tư thêm. Thực chất nó là hiệu quả kỹ
thuật có tính đến các yếu tố giá sản phẩm và giá đầu vào. Nó đạt tối đa khi doanh thu
biên bằng chi phí biên. Hiệu quả kinh tế là phần thu thêm trên một đơn vị đầu tư thêm.

Nó chỉ đạt được khi hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả sử dụng nguồn lực là tối đa.
Yếu tố thời gian, các nhà kinh tế hiện nay đã coi thời gian là yếu tố trong tính
toán hiệu quả. Cùng đầu tư một lượng vốn như nhau và cùng có tổng doanh thu bằng
nhau nhưng hai dự án có thể có hiệu quả khác nhau
Hiệu quả tài chính, xã hội và môi trường: Theo quan điểm toàn diện, hiệu
quả kinh tế nên được đánh giá trên ba phương diện: Hiệu quả tài chính, xã hội
và hiệu quả môi trường. Hiệu quả tài chính mà trước đây ta quen gọi là hiệu quả
kinh tế thường được thể hiện bằng những chỉ tiêu như lợi nhuận, giá thành, tỷ lệ nội
hoàn vốn, thời gian hoàn vốn
Hiệu quả xã hội của một dự án phát triển bao gồm lợi ích xã hội mà dự án đem
lại như: Việc làm, mức tăng về GDP do tác động của dự án, sự công bằng xã hội, sự tự
lập của cộng đồng và sự được bảo vệ hoặc sự hoàn thiện hơn của môi trường sinh
thái Một số tác giả khác khi đánh giá hiệu quả kinh tế cho rằng cần phân biệt hai
khái niệm hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối
tương quan so sánh giữa lượng kết quả đạt được và lượng chi phí bỏ ra. Còn hiệu
quả xã hội là mối tương quan so sánh giữa các lợi ích xã hội thu được và tổng chi phí
10
bỏ ra. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau, chúng là
tiền đề của nhau và là phạm trù thống nhất. Việc phân biệt hiệu quả tài chính hay hiệu
quả xã hội là tuỳ theo phạm vi và mức độ của sự phân tích là của cá nhân hay cả xã hội
khi xem xét. Hiệu quả tài chính được phân tích trên quan điểm lợi ích cá nhân của
từng người đầu tư; chỉ tính toán những lời lãi thông thường trong phạm vi tài chính để
cho người đầu tư ra quyết định đầu tư. Hiệu quả xã hội thì được phân tích trên lợi ích
của toàn xã hội để xem xét sự phát triển chung của xã hội như mức tăng trưởng, sự
công bằng xã hội và sự phát triển cộng đồng và cả về vấn đề môi trường Vì vậy,
tùy theo phạm vi xem xét là của cá nhân hay toàn xã hội mà có hiệu quả tài chính hay
hiệu quả xã hội.
Hiện nay, những dự án sản xuất ra sản phẩm hàng hoá, các nhà đầu tư
thường chú ý nhiều tới hiệu quả tài chính. Thế nhưng ở những dự án phát triển như
những dự án xóa đói giảm nghèo, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn thì hiệu quả của

dự án chủ yếu tập trung vào hiệu quả xã hội. Chính vì vậy các dự án đầu tư hiện nay
hiệu quả đem lại chưa cao. Các dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn cần hướng
đồng thời vào ba mục tiêu sau: Một là đảm bảo lợi ích tài chính (tăng số lượng, chất
lượng và chủng loại sản phẩm, hiệu quả sử dụng nguồn lực ). Hai là đảm bảo mục
tiêu xã hội (tạo việc làm, phát triển đồng đều giữa các vùng, các cộng đồng, các tầng
lớp cư dân, giữ gìn bản sắc văn hóa, ). Ba là sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên
nhiên, hạn chế suy thoái môi trường, Ba mục tiêu trên luôn luôn được tính toán một
cách kỹ lưỡng trong xây dựng và thực hiện các dự án phát triển nông thôn. Một dự án
phát triển được coi là đạt hiệu quả chỉ khi đồng thời cùng một lúc đáp ứng được cả
mục tiêu tài chính, xã hội và môi trường…
Coi việc đánh giá dự án thông qua việc so sánh giữa lợi ích và chi phí. Quan
điểm đánh giá hiệu quả gắn với việc xem xét quá trình phát triển và tăng trưởng cho
phép đưa ra một cách nhìn tổng quát hơn về hiệu quả kinh tế. Một mặt, quan điểm này
phù hợp với quan điểm truyền thống về đánh giá hiệu quả kinh tế ở chỗ nó cũng nhằm
so sánh chi phí bỏ ra và lợi ích thu được. Mặt khác, quan điểm này có cách nhìn nhận
rộng hơn về khái niệm chi phí và lợi ích.
Về chi phí, các quan niệm truyền thống chỉ chú ý chủ yếu vào các yếu tố tiền
bạc, vật chất, công sức bỏ ra cho một dự án đầu tư. Quan điểm mới cho rằng ngoài yếu
tố chi phí trên còn phải tính đến các chi phí phi vật chất và gián tiếp như các tác
11
động bất lợi của dự án đầu tư đến môi trường (ô nhiễm môi trường, thay đổi bất lợi
cho hệ sinh thái,vv ) và đến xã hội như khoảng cách giàu và nghèo, công bằng
trong phân phối
Về lợi ích, quan điểm mới tính đến ba phạm trù: Lợi ích tài chính, xã hội và lợi
ích về môi trường. Lợi ích tài chính bao gồm việc đạt được kết quả, năng suất cao cho
các hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Ở các dự án đầu tư nông nghiệp và
nông thôn thì lợi ích kinh tế chính là sự tăng lên của năng suất vật nuôi, cây trồng, sự
đa dạng hóa nền sản xuất nông nghiệp và chủng loại sản phẩm nông nghiệp dựa trên
lợi thế so sánh của từng vùng sinh thái khác nhau. Lợi ích xã hội thể hiện ở khả năng
đảm bảo công bằng trong phân phối các nguồn lực và phúc lợi xã hội giữa các vùng,

giữa các cộng đồng dân cư trong cùng một vùng Đồng thời đảm bảo sự bền
vững của dự án thông qua các cơ chế tham gia của người hưởng lợi dự án vào các
quá trình đầu tư và sử dụng thành quả đầu tư, thực hiện được mục tiêu ổn định xã hội.
Lợi ích môi trường là khả năng bảo tồn và phát triển tài nguyên môi trường (đất, nước,
đa dạng sinh học ).
Quan niệm mới về hiệu quả đầu tư cho phép đánh giá toàn diện hơn các tác
động do dự án đầu tư mang lại, phù hợp với xu thế thời đại và chiến lược tăng trưởng
và phát triển bền vững của các quốc gia ngày nay.
1.2. Bản chất và tiêu chuẩn của hiệu quả kinh tế
1.2.1. Bản chất của hiệu quả kinh tế

Hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động
kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (lao động, thiết bị, máy móc,
tiền, nguyên vật liệu) để đạt được mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp. Bản chất của
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là sự thực hiện yêu cầu của quy luật
tiết kiệm thời gian.
Các Mác đã cho rằng quy luật tiết kiệm thời gian là quy luật có tầm quan trọng
đặc biệt. Mọi hoạt động của con người đều phải tuân theo quy luật đó. Con người tạo
ra của cải vật chất bằng sức lao động. Lao động được đo lường bằng thời gian. Với
một mục tiêu nhất định con người phải thực hiện trong một thời gian lao động ít nhất,
hay nói một cách khác thì trong một thời gian lao động nhất định kết quả đạt được
phải cao nhất.
Vì vậy, yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là phải đạt kết
quả tối đa với chi phí tối thiểu (thời gian hao phí lao động thấp nhất). Điều này có
12
nghĩa là với mức chi phí nhất định thì doanh nghiệp phải đạt kết quả tối đa hoặc ngược
lại, đạt kết quả nhất định với chi phí tối thiểu.
Tuy nhiên, để hiểu rõ bản chất của phạm trù hiệu quả kinh tế của hoạt động
sản xuất kinh doanh, cũng cần phân biệt ranh giới giữa hai khái niệm hiệu quả và kết
quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Trước đây trong lý luận cũng như thực tiễn đã

tồn tại sự nhầm lẫn giữa hai phạm trù hiệu quả và kết quả của hoạt động sản xuất kinh
doanh, khi đó đã coi kết quả là mục đích và coi hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh
doanh là mục tiêu. Từ quan niệm nhầm lẫn đó dẫn đến sự hạn chế trong phương pháp
luận giải quyết vấn đề, đôi khi người ta hay coi đạt được kết quả là đạt được hiệu quả
và rõ ràng điều đó có nghĩa là không cần chú ý đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đây
là quan niệm sai lầm và cần phải được thay đổi.
Hiện nay, chúng ta có thể hiểu kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp là những gì mà doanh nghiệp đạt được sau một quá trình sản xuất kinh
doanh nhất định, kết quả cần đạt bao giờ cũng là mục tiêu cần thiết của doanh nghiệp
có thể là những đại lượng có thể cân, đo, đong đếm được như số sản phẩm tiêu thụ mỗi
loại, doanh thu, lợi nhuận… và cũng có thể là các đại lượng chỉ phản ánh mặt chất
lượng hoàn toàn có tính chất định tính như uy tín của hãng, chất lượng sản phẩm…
Như thế, kết quả bao giờ cũng là mục tiêu của doanh nghiệp. Trong khi đó
trong khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh, người ta đã sử dụng cả hai chỉ tiêu
là kết quả (đầu ra) và chi phí (các nguồn lực đầu vào) để đánh giá hiệu quả sản xuất
kinh doanh.
Trong lý thuyết và thực tế quản trị kinh doanh, cả hai chỉ tiêu kết quả và chi phí
đều có thể được xác định bằng đơn vị hiện vật và đơn vị giá trị. Tuy nhiên, sử dụng
đơn vị hiện vật để xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ vấp phải khó khăn là giữa
“đầu vào” và “đầu ra” không có cùng một đơn vị đo lường, còn việc sử dụng đơn vị
giá trị luôn luôn đưa các đại lượng khác nhau về cùng một đơn vị đo lường tiền tệ.
Vấn đề được đặt ra là hiệu quả sản xuất kinh doanh là mục tiêu hay phương tiện
của kinh doanh? Trước tiên, hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh việc thực hiện
mục tiêu của doanh nghiệp đạt được ở trình độ nào. Nhưng xem xét hiệu quả kinh
tế không chỉ dừng ở đó mà thông qua đó có thể phân tích, tìm ra các nhân tố cho
phép nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Từ đó có thể có các giải pháp nhằm đạt
mục tiêu của doanh nghiệp ở mức độ cao hơn với chi phí về nhân tài, vật lực và tiền
13
vốn ít hơn. Như vậy, nhiều lúc người ta sử dụng các chỉ tiêu hiệu quả như mục tiêu
cần đạt và trong nhiều trường hợp khác người ta lại sử dụng chúng như công cụ để

nhận biết khả năng tiến tới mục tiêu cần đạt là kết quả.
Như đã đề cập trên, bản chất hiệu quả hoạt động kinh doanh là hiệu quả của lao
động xã hội, được so sánh giữa chất lượng kết quả lợi ích thu được với lượng hao phí
lao động xã hội và tiêu chuẩn của hiệu quả hoạt động kinh doanh là tối đa hóa kết quả
hoặc tối thiểu hóa chi phí trên nguồn vốn sẵn có. Hiệu quả kinh doanh chỉ có thể đạt
được trên cơ sở nâng cao năng suất lao động và chất lượng công tác. Để đạt hiệu quả
ngày càng cao và vững chắc, đòi hỏi các nhà kinh doanh không những nắm chắc các
tiềm năng tiềm ẩn về lao động, vốn, kỹ thuật… mà còn phải nắm vững tình hình cung
cầu hàng hóa trên thị trường, đối thủ cạnh tranh…hiểu được thế mạnh thế yếu
của doanh nghiệp để khai thác hết mọi tiềm năng hiện có, tận dụng được những
cơ hội vàng của doanh nghiệp, ngoài ra phải nghiên cứu và nhận thức một cách đầy đủ
bản chất và các quan điểm đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Từ việc đánh giá
đúng hiệu quả, cho phép doanh nghiệp phát hiện khả năng và tìm đúng biện pháp để
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh:
Thứ nhất, cần phân biệt sự khác nhau và mối quan hệ giữa kết quả kinh tế với
hiệu quả kinh tế. Về hình thức, hiệu quả kinh tế luôn là một phạm trù so sánh thể hiện
mối tương quan giữa cái phải bỏ ra và cái thu về được. Kết quả kinh tế chỉ là yếu tố
cần thiết để tính toán và phân tích hiệu quả kinh tế. Tự bản thân mình, kết quả chưa
thể hiện được nó tạo ra ở mức nào và với chi phí bao nhiêu [10]
Thứ hai, phân biệt hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội. Hiệu quả kinh tế của
doanh nghiệp là phạm trù kinh tế biểu hiện quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế mà
doanh nghiệp đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Hiệu quả xã hội phản
ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu về xã hội nhất định.
Các mục tiêu xã hội thường là: giải quyết công ăn việc làm cho người lao động
trong phạm vi toàn xã hội, phạm vi từng khu vực, nâng cao trình độ văn hóa, nâng cao
mức sống, đảm bảo vệ sinh môi trường… Hiệu quả xã hội của doanh nghiệp còn thể
hiện ở đóng góp của doanh nghiệp vào việc đạt mục tiêu kinh tế xã hội của toàn bộ nền
kinh tế quốc dân như đóng góp vào ngân sách, vào sự tăng trưởng kinh tế,
Hiệu quả kinh tế là tiền đề vật chất của hiệu quả xã hội. Nếu hiệu quả kinh tế
của doanh nghiệp giảm tức là doanh nghiệp mất đi khả năng cạnh tranh thiếu sức sống

14
và trở thành gánh nặng cho nhà nước. Vì thế doanh nghiệp không thể đạt được mục
tiêu xã hội.
Về mặt định lượng: Biểu hiện ở mối tương quan giữa kết quả thu được so với
chi phí bỏ ra, chênh lệch giữa kết quả thu về và chi phí đã bỏ ra càng lớn thì hiệu quả
kinh tế càng cao và ngược lại.
Về mặt định tính: Mức độ hiệu quả kinh tế cao thu được phản ánh sự cố gắng,
nỗ lực, trình độ và năng lực quản lý ở các khâu, các cấp quản lý và sự gắn bó của việc
giải quyết những yêu cầu và mục tiêu kinh tế với những yêu cầu và mục tiêu chính trị
xã hội [10].
Khi xem xét bản chất hiệu quả kinh tế, không được phép đồng nhất giữa kết quả
và hiệu quả. Vì kết quả chỉ mới làm cơ sở để tính toán hiệu quả.
1.2.2. Tiêu chuẩn của hiệu quả kinh tế
Tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế là cơ sở để đánh giá mức độ hiệu quả của
các phương án khác nhau và chọn phương án có hiệu quả kinh tế cao. Trong thực tế,
nếu thiếu một tiêu chuẩn thống nhất sẽ không có căn cứ xác đáng để đưa ra những
quyết định hợp lý, nhất là trong điều kiện giải quyết một nhiệm vụ đòi hỏi thực hiện
tổng hợp các biện pháp, mà ảnh hưởng của chúng đến kết quả cuối cùng không đồng
nhất hoặc không đồng hướng như nhau.
Cần phải có một tiêu chuẩn chung để đánh giá hiệu quả kinh tế. Tiêu chuẩn
hiệu quả kinh tế phải thể hiện mối tương quan giữa thu và chi theo hướng cực đại cái
thu được và cực tiểu cái phải chi ra. Tiêu chuẩn ấy nhất thiết phải thể hiện được mục
đích của sản xuất trong điều kiện nền kinh tế xã hội chủ nghĩa trong từng giai đoạn cụ
thể. Mục đích của chủ nghĩa xã hội, suy đến cùng, là nâng cao mức sống vật chất, tinh
thần và sự phát triển toàn diện của mọi công dân trong xã hội. Để thực hiện mục
đích đó, phải sử dụng hợp lý tất cả chi phí và dự trữ sản xuất để tạo nên kết quả cao
nhất. Nghĩa là phải tăng năng suất lao động xã hội.
Như vậy, theo nghĩa tổng quát có thể coi tăng năng suất lao động xã hội như
tiêu chuẩn chung của hiệu quả kinh tế dưới chủ nghĩa xã hội. Theo ý nghĩa trực tiếp,
tăng năng suất lao động xã hội là giảm hao phí lao động xã hội cần thiết để tạo ra đơn

vị sản phẩm hoặc tăng lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian. Theo ý
nghĩa rộng hơn, tăng năng suất lao động dưới chủ nghĩa xã hội còn là việc phát triển
sản xuất, mở mang ngành nghề, trên cơ sở đó thu hút thêm lao động vào việc tạo ra
của cải vật chất, tạo thêm việc làm cho người lao động. Tăng năng suất lao động xã
15
hội tạo ra điều kiện vật chất để tăng thu nhập quốc dân, tăng quỹ tích lũy và quỹ tiêu
dùng xã hội. Đó là những điều kiện không thể thiếu để cải thiện mức sống vật chất,
tinh thần và sự phát triển toàn diện của mọi công dân trong xã hội.
Tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế phải đảm bảo tính toàn diện. Trước hết, đó là sự
gắn bó và ước định lẫn nhau giữa giá trị và giá trị sử dụng: một mặt, giảm chi phí lao
động xã hội sản xuất hàng hóa; mặt khác, bảo đảm chất lượng sản phẩm và không
ngừng mở rộng mặt hàng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của xã hội. Thứ
hai, tính toàn diện của tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế đòi hỏi cùng lúc vừa phải giải quyết
những vấn đề kinh tế - kinh doanh, vừa giải quyết những vấn đề xã hội của đất
nước. Thứ ba, tính toàn diện của tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế yêu cầu phải xem xét
mỗi giải pháp, mỗi phương án một cách toàn diện về không gian và thời gian, làm
sao để hiệu quả của từng phần tử, từng phân hệ có tác động tích cực đến việc nâng cao
hiệu quả của toàn bộ hệ thống, nâng cao hiệu quả hiện tại và lâu dài của cả nền kinh tế
quốc dân.
Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, đối với mọi tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh, việc tạo ra và không
ngừng làm tăng lợi nhuận là hết sức cần thiết. Nhưng không được đơn giản coi lợi
nhuận như là tiêu chuẩn duy nhất đánh giá hiệu quả kinh tế. Điều quan trọng là phải
xem xét lợi nhuận đạt được bằng cách nào và được phân phối sử dụng như thế nào.
Mọi tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh là một tế bào của hệ thống kinh tế quốc dân,
sự vận động của nó phải nằm trong quỹ đạo chung và góp phần thực hiện mục tiêu
chung của cả hệ thống. Do đó, lợi nhuận mà mọi tổ chức, cá nhân sản xuất kinh
doanh thu được phải thể hiện sự gắn bó của họ đối với sự vận động của thị trường, vừa
phải thể hiện sự tuân thủ pháp luật Nhà nước, góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đồng thời, lợi nhuận cũng phải được phân

phối theo hướng kết hợp hài hòa các loại lợi ích khác nhau: lợi ích cá nhân người lao
động, lợi ích người chủ sở hữu, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội [10].
1.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế
HQKT của các tiến bộ kỹ thuật, các phương án sản xuất hoặc các mô hình kinh
tế (gọi tắt là các mô hình) … được biểu hiện bằng nhiều chỉ tiêu. Các chỉ tiêu này
chịu tác động của những nhân tố khác nhau và với những cường lực không giống
nhau. Thậm chí cùng một loại nhân tố nhưng thời kỳ này tác động mạnh, thời kỳ
16
khác lại có thể yếu hơn. Mặt khác, có loại chỉ tiêu trị số càng lớn càng tốt (được gọi
là chỉ tiêu thuận), lại có chỉ tiêu trị số càng nhỏ càng tốt (được gọi là chỉ tiêu
nghịch). Trong đánh giá HQKT không thể sử dụng một chỉ tiêu mà phải sử dụng một
hệ thống chỉ tiêu. Các chỉ tiêu này lại không trực tiếp cộng lại được với nhau và
mỗi chỉ tiêu biểu hiện HQKT ở một khía cạnh riêng biệt, do đó cũng không thể sử
dụng một chỉ tiêu làm đại diện để so sánh.
Xác định kết quả kinh tế của nghề nuôi tôm hùm lồng là xác định những chi phí
bỏ ra cho các yếu tố đầu vào, như: Chi phí cố định: Chi phí khấu hao của giá trị đầu tư
xây dựng lồng bè, chi phí sửa chữa lớn, chi phí trả lãi vay và thuế. Các khoản chi
phí biến đổi, gồm: Chi phí mua con giống; chi phí thức ăn, chi phí thuốc phòng trừ
dịch bệnh, vi sinh, vi lượng; chi phí năng lượng; chi phí tiền lương công nhân; chi phí
sửa chữa nhỏ; các khoản chi phí giao dịch khác. Và đồng thời xác định doanh thu từ
nghề nuôi tôm hùm lồng. Cuối cùng là việc xác định lợi nhuận, lợi nhuận được tính
bằng tổng doanh thu trừ (-) tổng chi phí, và sử dụng chỉ tiêu này để xác định tỷ suất
sinh lợi của nghề nuôi tôm hùm lồng mang lại cao hay thấp [14].
1.3.1. Hệ thống chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh tế
Với mục tiêu nghiên cứu của luận văn chủ yếu tập trung vào xác định hiệu quả
kinh tế của hoạt động nuôi tôm hùm lồng tại Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa, nên tác giả
chủ yếu tập trung xây dựng các chỉ tiêu đánh giá kết quả kinh tế. Từ cơ sở trên các chỉ
tiêu được sử dụng để đánh giá kết quả kinh tế nghề nuôi tôm hùm lồng tại Cam Ranh,
tỉnh Khánh Hòa được trình bày trong luận văn này bao gồm:
- Doanh thu

- Chi phí
- Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận
1.3.1.1. Doanh thu
Doanh thu = Sản lượng x Giá bán
Doanh thu là tổng giá trị các lợi ích kinh tế hộ nông dân thu được trong kỳ kế
toán, phát sinh từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh thông thường của hộ nông dân,
góp phần làm phát triển vốn chủ sở hữu ”.
Doanh thu từ hoạt động nuôi tôm hùm lồng thương phẩm là tổng giá trị các lợi
ích kinh tế mà các hộ nuôi thu được từ việc nuôi tôm hùm lồng và tiêu thụ nó. Doanh
thu của các cơ sở nuôi được thay đổi theo sản lượng tôm thương phẩm mà các cơ sở

×