Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

hiện trạng và giải pháp phát triển bền vững nghề nuôi cá tra (pangasius hypophthalmus sauvage, 1878) thương phẩm ở huyện chợ lách, tỉnh bến tre

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.93 MB, 79 trang )

Cam đoan

Tôi xin cam đoan luận văn này được hoàn thành dựa trên các kết quả điều
tra và nghiên cứu của tôi. Kết quả nghiên cứu này chưa được sử dụng cho bất cứ
luận văn cùng cấp nào khác.
Bến Tre, Ngày 05 tháng 7 năm 2010
Ký tên


Trần Ngọc Nhuận
ii

Cảm tạ

Trước hết, xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô Hoàng Thị Bích Đào đã
tận tình giúp đỡ, sửa chữa, hướng dẫn và góp rất nhiều ý kiến quý báu giúp tôi từ
lúc xây dựng đề cương đến hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô khoa nuôi trồng thuỷ sản - Trường
Đại học Nha Trang; xin cám ơn Ủy ban nhân dân các xã Vĩnh Bình, Phú Phụng,
Sơn Định, Hòa Nghĩa, Tân Thiềng, Long Thới - Huyện Chợ Lách; xin cám ơn anh
chị phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Chợ Lách cùng toàn thể anh
chị em lớp cao học khóa 2006 đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thu
thập số liệu và thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp trong Chi cục Khai thác và Bảo vệ
nguồn lợi thủy sản Bến Tre; Chi cục Quản lý Chất lượng Nông lâm sản và Thủy
sản Bến Tre đã nhiệt tình giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong
thời gian thu thập số liệu và viết luận văn tốt nghiệp.
Sau cùng xin cảm ơn đến gia đình và bạn bè đã giúp đỡ, động viên và tạo
điều kiện tốt cho tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện đề tài tốt nghiệp
chương trình cao học.
iii



DANH MỤC BIỂU BẢNG
Bảng 2.1: Mục đích, phương pháp phân tích và kết quả phân tích thống kê 25
Bảng 2.2: Thông số thống kê của các biến được sử dụng trong các phương
pháp phân tích 27
Bảng 3.1 : Đặc điểm kinh kế xã hội của hộ nuôi cá (tỉ lệ %) 34
Bảng 3.2: Loại thức ăn sử dụng nuôi cá Tra ở Chợ Lách 37
Bảng 3.3: Tỉ lệ màu thịt cá thương thẩm (%) 40
Bảng 3.4: Các nhân tố chính liên quan đến kỹ thuật và đầu tư nuôi cá tra ở
Chợ Lách 42
Bảng 3.5: Trọng số và giá trị trung bình của các nhóm ao 45
Bảng 3.6: Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính bội đối với năng suất cá nuôi 47

Bảng 3.7: Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính bội đối với hệ số sử dụng
thức ăn 48
Bảng 3.8: Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính bội đối với lợi nhuận kinh tế
nuôi cá 49
Bảng 3.9: Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính bội đối với tỉ lệ cá thịt trắng
đạt tiêu chuẩn xuất khẩu 52

iv

DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1: Cá tra (Pangasius hypophthalmus) 3
Hình 1.2: Diện tích nuôi cá tra ao, hầm ở các tỉnh An Giang, Cần Thơ, Bến
Tre từ năm 2005 đền 2008 5
Hình 1.3: Sản lượng cá tra nuôi ao, hầm ở các tỉnh An Giang, Cần Thơ, Bến
Tre từ năm 2005 đến 2008 6
Hình 1.4: Các yếu tố ảnh hưởng đến phát sinh bệnh trên cá 13
Hình 2.1: Tiến trình thực hiện nghiên cứu 23

Hình 2.2: Minh hoạ phương pháp phân tích nhân tố: Xi (biến thực), Fi
(nhân tố) và 

(hệ số tương quan giữa biến X và nhân tố F) 26
Hình 3.1: Bản đồ tỉnh Bến Tre thể hiện địa điểm nuôi cá Tra tập trung ở
huyện Chợ Lách 30
Hình 3.2: Ao nuôi cá Tra ở Chợ Lách – Bến Tre 36
Hình 3.3: Số ngày và % thể tích nước thay/lần thay qua thời gian nuôi 38
Hình 3.4: Tổng lượng nước thay qua các tháng nuôi 39
Hình 3.5: Phân loại các nhóm ao chính (1, 2 3 và 4) dựa vào khoảng cách
khác biệt qua phân tích cụm 43
Hình 3.6: Hệ số hồi quy chuẩn (beta) của các biến ảnh hưởng đến năng suất
cá nuôi trong mô hình hồi quy tuyến tính bội: (a) năng suất cá/vụ và (b) năng
suất cá/tháng nuôi 47
Hình 3.7: Hệ số hồi quy chuẩn (beta) của các biến ảnh hưởng đến hệ số sử
dụng thức ăn trong mô hình hồi quy tuyến tính bội 48
Hình 3.8: Hệ số hồi quy chuẩn (beta) của các biến ảnh hưởng đến lợi nhuận
kinh tế nuôi cá trong mô hình hồi quy tuyến tính bội: (a) lợi nhuận kinh tế/vụ
và (b) lợi nhuận kinh tế/tháng nuôi. 50
Hình 3.9: Thành phần chi phí của nuôi cá tra ở Chợ Lách 51
Hình 3.10: Hệ số hồi quy chuẩn (beta) của các biến ảnh hưởng đến tỉ lệ cá
thương phẩm có thịt trắng trong mô hình hồi quy tuyến tính bội 52
Hình 3.11: Mô hình liên kết sản xuất nuôi cá tra xuất khẩu 59
v

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN

1.1. Phân loại và phân bố cá tra (Pangasius hypophthalmus) 3
1.1.1. Hệ thống phân loại 3
1.1.2. Phân bố 4
1.2. Tình hình phát triển nghề nuôi cá tra 4
1.2.1. Tình hình phát triển nghề nuôi cá tra trên thế giới 4
1.2.2. Tình hình phát triển nghề nuôi cá tra ở Việt Nam 4
1.3. Các hình thức nuôi cá tra thương phẩm 6
1.3.1. Nuôi bè 6
1.3.2. Nuôi đăng quầng 7
1.3.3. Nuôi trong ao đất 8
1.4. Một số yếu tố môi trường trong các ao nuôi cá tra 8
1.4.1. Nhiệt độ 8
1.4.2. pH 9
1.4.3. Oxy hòa tan (DO) 9
1.4.4. Tiêu hao oxy hóa học (COD) 9
1.4.5. Tổng vật chất lơ lửng (TSS) 10
1.4.6. Tổng đạm amôn (TAN) 10
1.4.7. Đạm nitrite (N-NO
2
-
) 11
1.4.8. Đạm Nitrate (N-NO
3
-
) 11
1.4.9. Lân (PO
4
3-
và TP) 12
1.5. Bệnh ở cá tra 13

1.5.1. Bệnh đốm đỏ 13
vi

1.5.2. Bệnh trắng da 14
1.5.3. Bệnh gan thận mủ 14
1.5.4. Bệnh nấm thủy mi 15
1.5.5. Bệnh bào tử trùng - Myxoboliosis 15
1.5.6. Bệnh sán lá 16 móc – Dactylogyrosis 15
1.6. Một số đặc điểm về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội tỉnh Bến Tre.16
1.7. Thực trạng nuôi cá tra ở Bến Tre 18
1.7.1. Tình hình nuôi cá tra 18
1.7.2. Các hình thức nuôi cá tra chủ yếu ở Bến Tre 20
1.7.2.1. Nuôi chuyên canh trong ao đất 20
1.7.2.2. Nuôi luân canh trong ao đất 21
CHƯƠNG 2
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thời gian, địa điểm, đối tượng nghiên cứu 22
2.2. Phương pháp nghiên cứu 22
2.2.1. Phương pháp thu thập số liệu 22
2.2.2. Phương pháp xử lý số liệu 24
2.2.2.1. Các chỉ tiêu tính toán 24
2.2.2.2. Phương pháp phân tích thống kê 24
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Hiện trạng nghề nuôi cá tra ở Chợ Lách 29
3.1.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế-xã hội huyện Chợ Lách 29
3.1.1.1. Điều kiện tự nhiên 29
3.1.1.2. Tình hình chung về kinh tế - xã hội 31
3.1.2. Hiện trạng nuôi cá tra tại huyện Chợ Lách 32
vii


3.1.2.1. Đặc điểm kinh tế-xã hội của hộ nuôi cá 32
3.1.2.2. Đặc điểm đất đai 35
3.1.2.3. Kỹ thuật nuôi 35
3.1.2.4. Chất lượng cá thương phẩm và bán sản phẩm 39
3.1.3. Phân loại và đặc tính các hệ thống nuôi chính 40
3.1.3.1. Các yếu tố kỹ thuật chính 40
3.1.3.2. Phân loại các hệ thống nuôi chính 43
3.1.3.3. Mô tả đặc tính chính của các hệ thống nuôi 44
3.1.4. Các yếu tố chính ảnh hưởng đến nghề nuôi cá tra ở Chợ Lách 46
3.1.4.1. Yếu tố ảnh hưởng đến năng suất cá nuôi 46
3.1.4.2. Yếu tố ảnh hưởng đến hệ số sử dụng thức ăn 48
3.1.4.3. Yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận kinh tế 49
3.1.4.4. Yếu tố ảnh hưởng đến màu thịt cá thương phẩm 51
3.2. Giải pháp phát triển bền vững nghề nuôi cá tra của huyện Chợ Lách 53
3.2.1. Phân tích điểm mạnh, yếu, cơ hội và thách thức 53
3.2.1.1. Điểm mạnh 53
3.2.1.2. Điểm yếu 54
3.2.1.3. Cơ hội 54
3.2.1.4. Thách thức 55
3.2.2. Chiến lược và giải pháp 56
3.2.2.1. Chiến lược 56
3.2.2.2. Giải pháp 56
CHƯƠNG 4
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1. Kết luận 60
4.2. Kiến nghị 61





1

Mở Đầu

Bến Tre là một tỉnh cuối nguồn sông Cửu Long, với 65 km bờ biển, được
bao bọc bởi 4 nhánh sông lớn của sông Tiền: Mỹ Tho, Ba Lai, Hàm Luông và Cổ
Chiên; cùng với hệ thống kênh rạch chằng chịt tạo nên vị thế rất thuận lợi cho nuôi
trồng và khai thác thủy sản. Đại hội lần 7 tỉnh Đảng bộ Bến Tre xác định kinh tế
biển và vườn là những mũi nhọn kinh tế của tỉnh. Thực tế cho thấy những năm gần
đây Ngành Thủy sản Bến Tre đã chú trọng đầu tư phát triển khai thác thủy sản
cùng với nuôi trồng ở vùng nước ven biển (mặn, lợ); Song nước ngọt chưa được
quan tâm đúng mức kể cả các đối tượng truyền thống như tôm Càng xanh, cá Lóc,
cá Rô đồng… đặc biệt là nuôi cá Tra thâm canh. Trước xu thế phát triển mạnh
nghề nuôi cá Tra thâm canh ở đồng bằng sông Cửu Long, các doanh nghiệp, tập
thể, tư nhân đầu tư vốn để nuôi, đã tạo nên một diện mạo mới cho nghề nuôi
thủy sản nước ngọt, đa dạng hóa đối tượng nuôi, làm thay đổi ý thức trong cộng
đồng người nuôi. Đồng thời tạo nguồn nguyên liệu dồi dào cho các nhà máy chế
biến trong tỉnh và các tỉnh lân cận, cũng như tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn
người lao động.
Tuy vậy, việc tăng nhanh diện tích nuôi cá Tra (năm 2006: 97 ha, năm
2007: 468 ha, 2008: 650 ha) không theo quy hoạch, không tính đến yếu tố cung,
cầu; nuôi tập trung ở những bãi bồi, cồn nổi, ven các sông lớn đã làm tăng ô nhiễm
môi trường nước tự nhiên và nước sinh hoạt cho cộng đồng dân cư sinh sống trong
vùng nuôi cá tra. Bệnh trên cá tra xuất hiện nhiều, không theo quy luật mùa vụ,
ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng sản phẩm và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Ngoài ra, lợi nhuận bấp bênh đã tạo ra sự thay đổi liên tục các chủ sở hữu nuôi, tạo
tâm lý bất an cho người nuôi cũng như mâu thuẩn giữa người nuôi cá tra và cộng
đồng dân cư sinh sống nơi đó. Để phát triển nghề nuôi cá tra theo hướng hàng hóa,
chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, bền vững ở Bến Tre cần đánh giá đúng thực

chất hiện trạng nghề nuôi, việc đầu tư, quy hoạch và đề xuất các giải pháp quản lý
phù hợp là rất cần thiết.
Huyện Chợ Lách là huyện đầu nguồn của tỉnh Bến Tre là nơi không có sự
xâm nhập mặn với nhiều bãi bồi, cồn nổi thuận lợi cho nuôi cá tra thâm canh. Đây
là nơi khởi đầu phong trào nuôi và hiện có diện tích nuôi cá tra thâm canh mạnh
2

nhất tỉnh Bến Tre (chiếm 30 % về diện tích và sản lượng cá Tra của tỉnh). Vì vậy,
để đánh giá hiện trạng và đề xuất các giải pháp theo hướng bền vững có tầm quan
trọng, thiết thực, toàn diện chung cho toàn tỉnh thì việc chọn huyện Chợ Lách là
hợp lý. Chính vì lý do trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Hiện trạng và
giải pháp phát triển bền vững nghề nuôi cá tra (Pangasius hypophthalmus
Sauvage, 1878) thương phẩm ở huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre” với mục tiêu
và các nội dung sau:
* Mục tiêu: Phân tích hiện trạng nghề nuôi cá tra thâm canh tại Chợ lách –
Bến Tre trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp phát triển an toàn, bền vững cho nghề
nuôi cá tra thâm canh tại địa phương.
* Nội dung:
- Điều tra hiện trạng và phân tích những thuận lợi, khó khăn của nghề nuôi
cá tra ở huyện Chợ Lách – Bến Tre.
- Đề xuất các giải pháp nhằm phát triển nghề nuôi cá tra tại huyện Chợ Lách
theo hướng an toàn và bền vững.
Những nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa khoa học và thực tiễn:
- Góp phần cung cấp thêm các thông số kinh tế, kỹ thuật về hiện trạng của
nghề nuôi cá tra tại huyện Chợ Lách.
- Là cơ sở khoa học cho Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bến
Tre đề ra các biện pháp kỹ thuật và quản lý nhằm phát triển nghề nuôi cá tra tại
Chợ Lách một cách hợp lý.









3

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Phân loại và phân bố cá tra (Pangasius hypophthalmus)
1.1.1. Hệ thống phân loại
Loài cá tra nuôi được mô tả lần đầu bởi Sauvage năm 1878 ở Campuchia.
Tên khoa học của cá tra có nhiều tên khác nhau dựa trên cơ sở những tài liệu các
tác giả nước ngoài mô tả cá ở các khu hệ cá lân cận (như Thái Lan) [48]. Trước
đây, cá tra được xếp vào họ Shilbeidae và tên khoa học của chúng là Pangasius
micronemus Bleeker, 1847 [22], [6]. Ngoài ra, ở Thái Lan, Indonesia, Malaysia, cá
tra còn có tên khoa học khác là Pangasius sutchi [28]. Gần đây một số tác giả lại
xếp cá tra vào giống Pangasianodon [32]. Theo kết quả định danh lại, cá tra có tên
khoa học là Pangasius hypophthamus [46]. Vì vậy, cá tra có hệ thống phân loại
như sau:
Ngành: Vertebrata
Lớp: Ostichthyes
Bộ : Siluriformes
Họ: Pangasiidae
Giống: Pangasius
Loài: Pangasius hypophthalmus Sauvage, 1878 [3]

Hình 1.1: Cá tra (Pangasius hypophthalmus) [3]
4


1.1.2. Phân bố
Cá tra phân bố nhiều trên lưu vực sông Mekong và sông Chaophraya–Thái
Lan [46]. Ở Việt Nam, cá tra phân bố trên sông Tiền, sông Hậu, rất nhiều ở vùng
hạ lưu. Cá tra giống được vớt chủ yếu trên sông Tiền, cá trưởng thành chỉ thấy
trong ao nuôi, rất ít khi tìm thấy trong tự nhiên [22]. Ở hạ lưu sông Cửu Long có
11 loài chủ yếu thuộc giống Pangasius, trong đó có 8 loài có kích thước lớn (chiều
dài lớn hơn 50 cm) [28]. Đặc biệt có 2 loài: Cá tra (Pangasius hypophthalmus) và
cá basa (Pangasius bocourti) được nuôi rất nhiều ở Đồng bằng sông Cửu Long.
1.2. Tình hình phát triển nghề nuôi cá tra
1.2.1. Tình hình phát triển nghề nuôi cá tra trên thế giới
Cá tra và basa phân bố ở một số nước Đông Nam Á như Campuchia, Thái
Lan, Indonesia và Việt Nam. Đây là 2 loài cá nuôi có giá trị kinh tế cao, được nuôi
phổ biến hầu hết ở các nước Đông Nam Á và là một trong những loài cá nuôi quan
trọng nhất của khu vực này. Ba nước trong khu vực hạ lưu sông Mêkông đã có
nghề nuôi cá tra truyền thống là Campuchia, Thái Lan và Việt Nam do có nguồn cá
tự nhiên phong phú. Ở Campuchia tỷ lệ cá tra thả nuôi chiếm 98% trong 3 loài
thuộc giống cá tra, chỉ có 2% là cá basa và cá vồ đém. Một số nước trong khu vực
như Malaysia, Indonesia cũng đã nuôi cá tra có hiệu quả từ thập niên 70-80 của thế
kỷ XX [10].
Ở Thái Lan và Campuchia thì cá tra (Pangasius hypophthalmus) được nuôi
trong ao và bè. Từ xưa, cá Pangasius được nuôi trong những bè nổi bằng tre ở Thái
Lan và Campuchia. Hệ thống nuôi này cũng được áp dụng ở Châu Âu và Mỹ [43].
Trước đây nhu cầu về sản phẩm cá da trơn (catfish) đối với người dân Mỹ
còn rất hạn chế, sau khi các chiến dịch tiếp thị của các trại nuôi cá catfish và doanh
nghiệp chế biến thủy sản thì nhu cầu đối với các sản phẩm chế biến cá catfish tăng
lên. Nếu như năm 1970 các nhà nuôi cá catfish ở Mỹ chỉ sản xuất 2.580 tấn thì
năm 2001 con số này lên tới 271.000 tấn. Các trại nuôi cá catfish chủ yếu tập trung
ở đồng bằng sông Mississippi tại các bang Mississippi, Alabama, Arkansas và
Louisiana [36].

1.2.2. Tình hình phát triển nghề nuôi cá tra ở Việt Nam
5

Nuôi cá tra, cá basa ở Việt Nam đã có từ những năm 50 của thế kỷ XX, xuất
phát từ Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), ban đầu chỉ nuôi ở quy mô nhỏ,
nhằm tự cung tự cấp thực phẩm. Các hình thức nuôi chủ yếu là tận dụng ao hầm,
mương vườn với nguồn thức ăn sẵn có. Cuối thập niên 90, nghề nuôi cá tra, cá
basa đã có những bước tiến vượt bậc. Các doanh nghiệp đã tìm được thị trường
xuất khẩu, các nhà khoa học đã thành công trong quy trình sản xuất giống và kỹ
thuật nuôi thâm canh đạt kết quả cao. Vì vậy, việc chủ động sản xuất giống cá tra,
cá basa nhân tạo đã đáp ứng đủ nhu cầu cho sản xuất và mở ra khả năng sản xuất
hàng hóa tập trung phục vụ cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa [10].
Nghề nuôi cá da trơn trên bè bắt đầu vào những năm 1968, khi nhóm người
Việt Nam sinh sống ở Campuchia phải sơ tán về hạ lưu sông Mêkông do tình hình
chiến tranh [42]. Ðiều kiện tự nhiên ở vùng ÐBSCL là yếu tố quan trọng nhất
mang tính quyết định đến hiệu quả của nghề nuôi cá tra và cá basa. Ở khu vực
miền Tây Nam bộ hệ thống nuôi cá tra, cá basa đặc trưng là nuôi bè, đăng quầng
và nuôi ao như tỉnh Ðồng Tháp và An Giang.
Trong những năm qua do thị trường xuất khẩu được mở rộng ở Bắc Mỹ và
Châu Âu, giá cá xuất khẩu tốt, nên diện tích cá tra, cá basa nuôi ở bè, ao hầm, đăng
quầng trên các bãi bồi, còn nổi, các triền sông mỗi năm đều tăng. Theo ước tính,
diện tích nuôi cá tra thâm canh ở vùng ĐBSCL năm 2007 khoảng 5.600 ha, sản
lượng cá ước đạt khoảng 1,5 triệu tấn và giá trị xuất khẩu đạt hơn một tỷ đô la
Mỹ[2].
0
200
400
600
800
1000

1200
1400
1600
1800
2005 2006 2007 2008
Năm
Diện tích nuôi (ha)
An Giang
Cần Thơ
Bến Tre

Hình 1.2: Diện tích nuôi cá tra trong ao, hầm ở các tỉnh An Giang, Cần Thơ,
Bến Tre từ năm 2005 đền 2008 [14], [15], [16].
6

0
50000
100000
150000
200000
250000
300000
2005 2006 2007 2008
Năm
Sản lượng (tấn)
An Giang
Cần Thơ
Bến Tre

Hình 1.3: Sản lượng cá tra nuôi trong ao, hầm ở các tỉnh

An Giang, Cần Thơ, Bến Tre từ năm 2005 đến 2008 [14], [15], [16].

Việc mở rộng diện tích ao nuôi cá một cách tự phát trong vài năm qua đã
làm suy thoái nghiêm trọng môi trường nước. Nhất là hiện nay, đa số ngư dân áp
dụng nuôi cá tra theo công nghệ mới, để nâng cao năng suất và cải thiện thịt cá,
việc thay nước được thực hiện liên tục, trong khi hệ thống ao xử lý hầu như không
được quan tâm để xử lý nước thải trước khi thải ra môi trường. Điều này đã làm
suy giảm môi trường nghiêm trọng. Đây chính là những nguy cơ tiềm ẩn cho nghề
nuôi cá ở vùng ĐBSCL.
1.3. Các hình thức nuôi cá tra thương phẩm
1.3.1. Nuôi bè
Bè nuôi cá ở vùng ĐBSCL thường được kết hợp vừa là bè cá vừa là nhà
ở. Dựa vào thời gian sử dụng mà chia ra 2 nhóm bè: bè kiên cố và bè tạm
thời. Nhóm bè tạm thời thường nhỏ và được đóng bằng tre hoặc loại gỗ chịu nước
kém. Bè cỡ trung và cỡ lớn thường nằm trong nhóm bè kiên cố. Các bè này được
đóng bằng gỗ tốt và chịu nước như gỗ sao, vên vên, căm xe, chò chỉ, dầu, bằng
lăng. Loại bè này đủ sức chịu đựng được với điều kiện sóng gió, nước chảy và khá
bền, có khi tới 50 năm việc đóng mới các loại bè kiên cố hiện nay cũng gặp khó
khăn do khan hiếm các loại gỗ tốt. Vì vậy hiện có một số bè được thiết kế bằng các
loại vật liệu mới như bè ximăng lưới thép
Bè nuôi cá thường có dạng hộp chữ nhật, ngoại trừ một số bè cỡ nhỏ dùng
cho ương cá giống thì có dạng hộp vuông. Người nuôi cá bè cho rằng dạng bè hộp
chữ nhật dễ dàng trong chọn gỗ thiết kế và quản lý sử dụng. Ngoài ra, dạng này
7

cũng phù hợp cho việc làm nhà trên bè theo truyền thống và cũng là nơi chế biến
thức ăn, nhà kho
Bè được đặt nổi và neo cố định tại một điểm trên sông, vì vậy phải lựa chọn
những vị trí thích hợp nhiều mặt, tiện lợi cho nuôi cá, nhưng không làm cản trở
giao thông và hạn chế sự ô nhiễm môi trường nước.

Bè được đặt gần bờ dọc theo chiều nước chảy, nơi thoáng, có dòng chảy
liên tục, lưu tốc thích hợp (0,2 – 0,5m/giây), mực nước sông ít thay đổi theo thủy
triều và độ sâu tối thiểu phải cao hơn chiều cao ngập nước của bè 0,5 - 1m để tránh
cho bè không bị đội lên mặt nước.
Nước sông nơi đặt bè không ảnh hưởng trực tiếp nước phèn. Trong mùa khô
khi nước bị nhiễm mặn thì độ mặn cho phép cá chịu đựng được và không thay đổi
đột ngột. Nguồn nước lưu thông tương đối trong sạch, không bị ô nhiễm, nhất là
không gần các cống nước thải đô thị, nước thải các nhà máy sử dụng hóa chất, nhà
máy giấy, nhuộm, tẩy rửa và chứa các độc tố, các khu ruộng lúa sử dụng thuốc sát
trùng Tránh nơi có luồng nước ngầm, nơi khúc quanh của sông, nơi sông bồi tụ,
xói lở, nơi có nhiều rong cỏ, nơi dòng nước có quá nhiều phù sa.
Ngoài ra, bè nuôi cá nên đặt gần nguồn cung cấp thực phẩm nuôi cá, vị trí
thuận tiện giao lưu, gần các trục lộ giao thông thủy bộ để việc vận chuyển thức ăn,
cá giống và buôn bán cá thịt được dễ dàng thuận lợi. Khi chọn vị trí đặt bè phải
xem xét nhiều mặt, cân nhắc hợp lý các điều kiện và các tiêu chuẩn trên để quyết
định chính xác, vì việc di chuyển bè rất khó khăn, tốn kém và ảnh hưởng đến cá
nuôi và kết quả nuôi. Tuy nhiên, lưu tốc dòng chảy, chất lượng nước và nguồn
nguyên liệu làm thức ăn là những yếu tố quan trọng hàng đầu.
Mật độ thả cá từ 90- 110 con/m
3
, cỡ cá giống từ 10-15con/kg [4].
1.3.2. Nuôi đăng quầng
Chọn vị trí nuôi ven các bờ sông, kênh lớn. Lưu ý đến các yếu tố như: dòng
chảy, bờ kênh vững chắc, chất đáy ổn định, độ sâu 1,5 - 2m, không bị ô nhiễm.
Xung quanh khu vực nuôi cần có hệ thống cọc bằng gỗ hoặc bê-tông vững
chắc để đỡ cho hệ thống đăng phụ. Đăng phụ được làm từ tre hoặc lưới. Diện tích
đăng tùy thuộc vào vị trí nuôi và khả năng của mỗi gia đình. Hình dạng đăng phụ
8

thuộc vào tính chất dòng chảy của nước. Ở vùng nước chảy mạnh có thể làm theo

hình chữ V, U hoặc W, nước chảy đều làm theo kết cấu hình thẳng.
Vùng nuôi đăng chắn thì kích thước của mắt lưới và đăng tre phải nhỏ hơn
kích thước của cá giống để tránh cá thoát ra ngoài. Mật độ thả 50 - 100con/m
3

nước, cỡ cá giống từ 70 đến 100g/con [17].
1.3.3. Nuôi trong ao đất
Ao nuôi cá tra phải được đặt gần nguồn cấp và thoát nước tốt (sông, kênh
rạch). Tránh xa các nguồn gây ô nhiễm như nước đổ từ đồng ruộng, khu vực công
nghiệp, khu dân cư. Ao nuôi không bị nhiễm phèn, nhiễm mặn. Độ phèn (pH) của
nước trung tính và dao động từ 7 - 8,5 là thích hợp.Trong quá trình thiết kế xây
dựng ao nuôi, cần lưu ý đến hệ thống ao trữ và lắng nước, cũng như hệ thống ao,
mương xử lý nước trước khi thải ra môi trường.
Diện tích ao nuôi dao động từ 1.000 – 15.000 m
2
. Để thuận lợi trong quản lý
và chăm sóc cá nuôi nên phải thật cẩn thận khi quyết định thiết kế ao nuôi có diện
tích phù hợp trong khoảng 4.000-5.000 m
2
/ao.
Tùy theo cơ cấu đất ở vùng nuôi, độ sâu của ao nuôi có thể thiết kế dao
động từ 3.5-5m. Ao phải có cống cấp và thoát nước riêng biệt. Ao tốt nhất có dạng
hình chữ nhật với chiều dài gấp 1,5–2 lần chiều rộng. Với những vùng thường bị
ngập lũ, bờ ao phải được gia cố chắc chắn và phải thiết kế với lưới bao quanh ao.
Xung quanh ao phải thông thoáng, không có cây cối rậm rạp. Trường hợp ao nuôi
cá nằm trong vườn cây, cần phải chặt bỏ các cây xung quanh ao để ao được
thoáng. Mật độ thả giống từ 30-60 con/m
2
, cở giống thả từ 1,5-2 cm.
Trong ao nuôi cá tra nên thiết kế một hay nhiều nơi cho cá ăn, đó là các sàn

cho cá ăn. Điều này sẽ giúp ích cho việc theo dõi cá ăn và điều chỉnh lượng thức
ăn. Sàn ăn có thể được làm bằng tre, tràm hay bằng các loại gỗ tạp khác [7].
1.4. Một số yếu tố môi trường trong các ao nuôi cá tra
1.4.1. Nhiệt độ
Theo Lê Như Xuân (1994) thì khoảng nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển
của cá nhiệt đới là 25 – 30
o
C. Như vậy với khí hậu nhiệt đới gió mùa của vùng
ĐBSCL, có nhiệt độ trung bình 26 – 28
o
C là phù hợp cho sự phát triển và sinh
trưởng của cá nói chung [21]. Zimmermann (1998) thì nhận định rằng nếu nhiệt độ
9

cao hơn 34
o
C diễn ra trong thời gian dài thì động vật thủy sản sẽ không sống được
và tất nhiên thời gian còn phụ thuộc vào giai đoạn phát triển, nếu nhiệt độ <19
o
C
hoặc > 42
o
C thì tôm cá sẽ bị chết [13]. Riêng đối với cá da trơn theo NRC (1993)
thì nhiệt độ từ 26 – 30
o
C là lý tưởng [40].
1.4.2. pH
Theo Lê Văn Cát và ctv (2006), (Boyd, 1990) thì khoảng tối ưu cho tôm cá
nước ngọt phát triển và sinh sản là từ 6,5 – 9,0. Điểm chết đối với chúng là pH < 4
và pH > 11[1], [25].

Theo Dương Thúy Yên (2003) thì cá tra có thể sống trong điều kiện môi
trường có pH rất thấp, khoảng 4,0. Do đó ảnh hưởng của pH, nhất là pH thấp lên
cá Tra nuôi là ít xảy ra. Ngoài ra, sự biến động pH theo ngày đêm còn phụ thuộc
vào mật độ phiêu sinh thực vật [23].
1.4.3. Oxy hòa tan (DO)
Nồng độ oxy hòa tan tự do trong nước khoảng 8-10 ppm và sẽ dao động
mạnh phụ thuộc vào nhiệt độ, các quá trình phân hủy các hợp chất và sự quang
hợp của thực vật thủy sinh [5]. Trong ao hồ nuôi thâm canh, lượng oxy trong nước
được quyết định chủ yếu bởi các hoạt động sinh hóa, lượng oxy khuếch tán từ
không khí chỉ có vai trò thứ yếu. Khi oxy hòa tan thấp làm giảm hoạt động hoặc
gây chết thủy sinh vật, do đó, oxy hòa tan là một chỉ số quan trọng để đánh giá sự
ô nhiễm nước của thủy vực [1].
Khi nghiên cứu trên đối tượng cá tra, Dương Nhựt Long và ctv (2004) cho
rằng hàm lượng thích hợp cho ao nuôi cá thâm canh là 3,5 – 6,5 ppm [7]. Nuôi cá
ở mật độ cao, ao nuôi cũng thường xảy ra hội chứng thiếu oxy cục bộ do sự gia
tăng hàm lượng CO
2
trong nước, pH giảm, NO
2
-
tăng và biến động của một số yếu
tố môi trường khác [47].
1.4.4. Tiêu hao oxy hóa học (COD)
Giá trị COD của nước phụ thuộc vào nhiệt độ và hàm lượng chất hữu cơ
trong thủy vực. COD quan hệ tỷ lệ thuận với các hợp chất hữu cơ, các hợp chất
hydrocarbon trong nước. Các hợp chất này có thể bị oxy hóa 95 – 100% và khả
năng oxy hóa phụ thuộc rất lớn vào hàm lượng ion Cl
-
trong nước. Khi hàm lượng
ion Cl

-
hiện diện cao thì hầu như quá trình oxy hóa này ít được xảy ra [14].
10

Theo Lê Như Xuân và ctv (1994 ) thì COD thích hợp cho các ao nuôi cá là
15 – 30 ppm, giới hạn cho phép là 15 – 40 ppm [21].
1.4.5. Tổng vật chất lơ lửng (TSS)
Vật chất lơ lửng trong ao nuôi thủy sản thường do phù sa, vật chất hữu cơ
và phiêu sinh vật tạo nên.
Vật chất lơ lửng thường đi vào ao nuôi thông qua nguồn nước cấp, nước
mưa hoặc do bởi sóng gió hay dòng nước chảy mạnh làm xói lở bờ ao. Phần lớn
những vật chất này sẽ lắng tụ xuống đáy ao, nhưng một phần sẽ lơ lững trong nước
trong thời gian dài gây nên độ đục trong nước. Ngoài ra ao nuôi tôm cá, nước đục
còn do phiêu sinh thực vật có trong ao thì đây là yếu tố có lợi, vì chúng là thức ăn
cho tôm cá. Trong khi đó độ đục do vật chất phù sa hay vật chất hữu cơ thì ít nhiều
sẽ gây hại cho đối tượng nuôi và hàm lượng này thích hợp cho ao nuôi dao động
trong khoảng 10 – 50 mg/L [26].
Kết quả nghiên cứu của Trương Quốc Phú và ctv (2003) cho thấy vào thời
điểm từ tháng 4 – tháng 6, tại một số điểm trên sông Hậu gần khu vực chợ thì hàm
lượng TSS thường vượt quá 200 mg/L [12]. Theo Lawson (1995) hàm lượng TSS
thích hợp trong ao nuôi thủy sản phải nhỏ hơn 80 mg/L [33].
Kết quả khảo sát hàm lượng TSS trong các ao nuôi cá tra thâm canh của Lê
Bảo Ngọc (2004) cho thấy hàm lượng này biến động rất lớn và cao (100 ± 273
mg/L, 112 ± 340 mg/L và 149 ± 415 mg/L) [9].
1.4.6. Tổng đạm amôn (TAN)
Tổng đạm amôn bao gồm NH
3
và NH
4
+

, trong đó NH
4
+
là dạng phân đạm
cần thiết cho sự phát triển của thực vật, nó thúc đẩy sự phát triển mạnh của tảo
trong các ao nuôi. Khi cơ thể động vật đồng hóa protein trong thức ăn thì một phần
chuyển thành amoniac và được bài tiết vào trong nước. Nồng độ NH
3
trong các ao
nuôi tỷ lệ thuận với lượng thức ăn sử dụng [1]. Đạm amôn còn sinh ra trong nước
do quá trình phân hủy hợp chất hữu cơ có chứa N (protein).
Nồng độ NH
3
được xem là an toàn cho ao nuôi là 0,13 ppm [30]. Các hợp
chất vô cơ hòa tan quan trọng của nitơ là NH
3
, NH
4
+
, NO
3
-
, và NO
2
-
. Trong đó
NH
3
+
và NO

2
-
được xem là độc đối với động vật thủy sinh, còn NH
4
+
và NO
3
-

nguồn dinh dưỡng tốt mà thực vật thủy sinh dễ hấp thu nhất tạo nên các hợp chất
11

hữu cơ trong thủy vực. Ngoài ra NH
3
và muối của nó sẽ biến thành đạm nitrite
(NO
2
-
) và nitrate (NO
3
-
) nhờ vi khuẩn nitrite và nitrate hóa. Tuy nhiên NH
3
được
cung cấp trong thủy vực từ quá trình phân hủy bình thường các protein, xác bã
động thực vật, sản phẩm bài tiết của động vật hay từ phân bón vô cơ và hữu cơ,
trong đó nguồn NH
3
chủ yếu từ sự bài tiết trực tiếp của động vật thủy sinh [30].
Theo Boyd (1998) nước dùng cho nuôi trồng thủy sản thì hàm lượng TAN

tốt nhất là không được vượt quá 2 mg/L, vào cuối vụ nuôi nước ao nuôi cá tra thâm
canh đã vượt quá giới hạn trên [26].
Ở các ao nuôi cá tra thâm canh, mặc dù vào cuối vụ việc thay nước diễn ra
thường xuyên hơn so với đầu vụ nhưng hàm lượng TAN vẫn ở mức cao, cao hơn 5
lần so với ao nuôi tôm thâm canh và cao hơn 10 lần so với ao nuôi thủy sản thông
thường [11].
1.4.7. Đạm nitrite (N-NO
2
-
)
Nitrite trong nước có thể do các nguồn ô nhiễm xâm nhập vào hoặc là hợp
chất trung gian của quá trình phân hủy sinh ra từ ammoniac thành nitrat. Nó cũng
là tác nhân gây độc đối với động vật thủy sinh [1].
Hàm lượng N-NO
2
-
thích hợp cho ao nuôi cá <0,3 mg/L và đạm (N-NO
3
-
)
một trong những dạng đạm được thực vật hấp thu dễ dàng, không độc hại đối với
thủy sinh vật là 0,2 – 10 mg/L. Trong ao nuôi cá nheo có thay nước hàm lượng
nitơ tổng và COD tăng theo thời gian nuôi, trong đó nitơ ở dạng nitrite và nitrate
không vượt quá 0,05 mg/L và 0,1 mg/L và ammonia tổng không vượt quá 0,75
mg/L [26].
Hàm lượng NO
2
-
được hình thành chủ yếu bởi quá trình nitrite hoá từ TAN.
Do đó khi hàm lượng NH

4
+
trong ao thấp thì hàm lượng NO
2
-
sẽ thấp. Mặt khác,
theo Chapman (1997), hàm lượng NO
2
-
trong nước ngọt thường rất thấp (0,001
mg/L) và luôn nhỏ hơn 1,0 mg/L [29].
1.4.8. Đạm Nitrate (N-NO
3
-
)
Nitrate có trong thủy vực là do quá trình nitrate hóa, NO
2
-
bị oxy hóa thành
NO
3
-
. Vi khuẩn tham gia vào quá trình nitrate hóa ở các thủy vực nước ngọt có vi
khuẩn Nitrobacter europara. Vi khuẩn này phân bố rất ít trong thủy vực nước
sạch, nghèo dinh dưỡng, quá trình nitrate hóa chỉ xảy ra khi có mặt oxy, trong môi
12

trường yếm khí với sự có mặt của hydrate carbon sẽ xảy ra quá trình phản nitrate
hóa, quá trình này khử nitrate qua nitrite thành NO, N
2

O, NH
2
OH, NH
3
và N
2
. Vi
khuẩn tham gia quá trình này bao gồm các loài kỵ khí không bắt buộc như
Bacillus, Pseudomonas [49].
Trong điều kiện hiếu khí, chúng oxy hóa các hợp chất hữu cơ bằng oxy hòa
tan trong nước, còn trong điều kiện kỵ khí chúng oxy hóa các hợp chất hữu cơ
bằng con đường khử hydro để chuyển hydro cho nitrate và nitrite. Quá trình này
không có lợi vì nó làm mất nitơ trong thủy vực và tạo thành các chất độc hại cho
thủy sinh vật như NH
3,
NO
2
-
[41].
Theo Boyd (1998) nitrate là dạng đạm không độc nhưng với hàm lượng quá
cao cũng không có lợi cho tôm cá, khi hàm lượng nitrate trong nước cao sẽ làm tảo
phát triển quá mức. Hàm lượng NO
3
-
thích hợp trong ao nuôi thuỷ sản từ 0,2 - 3,0
mg/L [26].
1.4.9. Lân (PO
4
3-
và TP)

Lân là một yếu tố dinh dưỡng rất cần thiết cho thủy sinh vật, quá trình tổng
hợp protein chỉ tiến hành được khi có sự tham gia của H
3
PO
4
và sự thiếu hụt nó
trong thủy vực còn hạn chế quá trình phân hủy các hợp chất hữu cơ bởi vi sinh vật
[35].
Trong môi trường tự nhiên lân tồn tại dưới các dạng muối orthophosphate
hòa tan như: H
2
PO
4
-
, HPO
4
2-
và PO
4
3-
hay dưới dạng phosphate ngưng tụ
(Pyrophosphate, P
2
O
7
4-
Metaphosphate và polyphosphate). Dạng phosphate ngưng
tụ dễ bị thủy phân thành Orthophosphate hòa tan, dạng lân hữu cơ hòa tan dễ dàng
chuyển hóa lẫn nhau và chuyển thành dạng muối orthophosphate hòa tan nhờ hoạt
động của vi sinh vật [44].

Phospho là nguyên tố giới hạn của sự phát triển phiêu sinh thực vật trong hệ
thống ao nuôi thủy sản [25] và nếu trong thủy vực tự nhiên có nhiều phospho thì
thực vật phiêu sinh càng phát triển [44]. Tuy nhiên, lân hoà tan trong nước cũng dễ
bị lớp bùn đáy hấp thu, từ đó làm giảm lượng lân hoà tan trong nước, mặt khác
chúng còn bị kết tủa dưới dạng Ca
3
(PO
4
)
2
. Thông thường, đối với môi trường ao
nuôi giàu dinh dưỡng, TAN và lân hòa tan rất cao, nhưng đối với những ao có lớp
bùn đáy dầy, độ cứng cao thì sự biến động lân hòa tan không cùng quy luật với
13

TAN. Theo Lê Bảo Ngọc (2004) đối với ao nuôi cá Tra thâm canh, hàm lượng lân
hoà tan đạt giá trị 0,44 ± 0,52 mg/l [9].
1.5. Bệnh ở cá tra
Bệnh làm giảm tốc độ sinh trưởng và tỉ lệ sống của cá. Do vậy ảnh hưởng
tới chất lượng, năng suất, sản lượng cá và an toàn vệ sinh thực phẩm. Tuy nhiên
bệnh là sự tác động tổng hợp giữa 3 yếu tố cơ bản: Mầm bệnh (vi khuẩn, nấm, kí
sinh trùng ), môi trường (pH, nhiệt độ, độ mặn ) và vật nuôi tôm/cá (Hình 4).
Bệnh xảy ra khi xuất hiện đồng thời 3 yếu tố: Mầm bệnh , môi trường xấu, vật
nuôi yếu.









Hình 1.4: Các yếu tố ảnh hưởng đến phát sinh bệnh trên cá

Môi trường tốt, phù hợp tạo khả năng kháng bệnh của cá cao; tỉ lệ sống và
tốc độ sinh trưởng nhanh, hiệu quả kinh tế cao.
Bệnh ở cá tra do các nhóm chính tạo nên: Vi khuẩn, Nấm, Ký sinh trùng,
Giáp xác kí sinh. Bệnh cá và môi trường ao nuôi là yếu tố không thể tách rời và có
quan hệ hữu cơ với nhau.
Một số bệnh thường gặp chủ yếu ở cá Tra nuôi
1.5.1. Bệnh đốm đỏ
Bệnh đốm đỏ còn gọi là bệnh xuất huyết, bệnh nhiễm trùng máu, Là loại
bệnh do vi khuẩn Aeromonas hydrophila gây ra. Bệnh đốm đỏ xuất hiện trên tất cả
các loài cá nuôi và cá tự nhiên. Bệnh xuất hiện khắp nơi trên thế giới. Ở Việt Nam,
Bệnh phát sinh
Mầm bệnh (virus, ký sinh trùng, )
Môi trường
Vật nuôi

14

vi khuẩn này thường gây bệnh đốm đỏ trên cá trắm cỏ nuôi lồng ở miền Bắc. Ở
miền Nam bệnh này xuất hiện trên cá tra, baba, cá bống tượng, cá mè vinh, cá he,
cá tai tượng, cá trê lai. Bệnh có thể xuất hiện ở tất cả giai đoạn phát triển của cá
ương và nuôi.
Trên thân cá xuất hiện những đốm đỏ, gốc vi và hậu môn xuất huyết. Xuất
huyết và có dịch trong xoang nội quan. Bệnh thường xuất hiện nhiều vào đầu mùa
mưa (giao mùa). Tỉ lệ chết do bệnh này từ 30–70% [8].
1.5.2. Bệnh trắng da
Bệnh này xảy ra ở cá tra, cá Nheo ở Mỹ, ở Ý và một số nước Châu Âu.

Bệnh gây tác hại cho cá hương, cá giống và cá thịt. Bệnh thường xuất hiện sau khi
vận chuyển, đánh bắt. Hiện nay, nhiều tác giả phân lập bệnh này là do vi khuẩn
Flexibacter columnaris hay Flavobacterium columnare gây ra. Cá nhiễm bệnh
này có biểu hiện bơi lội lờ đờ và thể hiện bỏ ăn. Bệnh nặng, trên cơ thể cá xuất
hiện những vệt trắng và những vết thương, có nấm phát triển.
Bệnh thường xuất hiện trên các loài cá nuôi như: cá trơn và cá đồng. Bệnh
này rất nguy hại cho cá hương, cá giống từ 20-30 ngày. Mức hao hụt rất cao và quá
trình bệnh rất ngắn, thời gian bắt đầu bệnh đến chết chỉ trong vòng 2-3 ngày[8].
1.5.3. Bệnh gan thận có mủ
Bệnh gan thận có mủ còn có một số tên gọi khác là: bệnh trắng gan; gan
thận mủ. Tác nhân gây bệnh chủ yếu là do vi khuẩn Edwardsiella ictaluri.
Vi khuẩn E. ictaluri xuất hiện đầu tiên trên cá nheo (Ictalurus furcatus), cá
trê trắng (Clarias batrachus) ở Thái lan. Ở Việt Nam bệnh mủ gan chủ yếu xuất
hiện trên cá tra, thỉnh thoảng xuất hiện trên cá Basa ở ĐBSCL. Bệnh mủ gan xuất
hiện đầu tiên vào mùa lũ năm 1998 ở các tỉnh nuôi cá tra thâm canh phát triển
mạnh như: An Giang, Đồng Tháp và Cần Thơ. Sau đó, bệnh lan dần đến các vùng
có nuôi cá tra lân cận. Đặc biệt, những năm gần đây bệnh này cũng xuất hiện ở
một số tỉnh mới phát triển nuôi cá tra như Trà Vinh, Bến Tre và Sóc Trăng. Cá
nhiễm bệnh thì gầy, mắt hơi lồi. Cá bệnh nặng bỏ ăn, bơi lờ đờ trên mặt nước và tỉ
lệ chết cao. Dấu hiệu bệnh bên ngoài không rõ ràng, bên trong xuất hiện nhiều
đốm trắng đục kích cở 1-3mm trên gan, thận và tỳ tạng.
15

Bệnh mủ gan ở cá tra thường xuất hiện nhiều vào mùa mưa lũ và cao điểm
vào tháng 7, 8, 9 và 10 hằng năm. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, bệnh này lại
xuất hiện trên cá tra hầu như quanh năm. Bệnh xuất hiện trên tất cả các giai đoạn
phát triển của cá tra. Tỉ lệ hao hụt từ 10–50%, tùy thuộc vào chế độ chăm sóc và
quản lý hệ thống ương nuôi [8].
1.5.4. Bệnh nấm thủy mi
Bệnh xuất hiện trên cá tra và một số cá khác nuôi bè, khi bị bệnh đốm đỏ

mãn tính hoặc bị rận cá ký sinh gây tổn thương sẽ tạo điều kiện cho nấm thủy mi
xâm nhập phát triển làm bệnh của cá thêm nghiêm trọng.
Bệnh nấm thủy mi thường phát sinh sau khi cá bị một loại bệnh xâm nhập
trước như ngoại ký sinh trùng, bệnh đốm đỏ, bị thương do đánh bắt hay khi điều
kiện ngoại cảnh bất lợi như mật độ cao, thức ăn thiếu, thời tiết quá lạnh làm cho cơ
thể cá bị suy nhược, sức đề kháng yếu. Bệnh do 2 giống nấm thường có trong
nước, nhất là nước bẩn và trong bùn ao là Saprolegnia và Achlya, thuộc họ
Saprolegniaceae. Sợi nấm dài và trong, có phân nhánh hoặc không phân nhánh,
không có vách ngăn. Phần dưới cắm sâu vào tổ chức cơ thể cá, phần trên lơ lửng
trong nước trông như bông, vì thế người nuôi cá miền Nam gọi là bệnh "bệnh bọ
gòn". Bệnh nấm thủy mi có thể ký sinh và gây tác hại lớn cho các loài cá nước
ngọt từ trứng (trong trại sản xuất giống) đến giai đoạn cá nuôi thương phẩm xuất
khẩu[8].
1.5.5. Bệnh bào tử trùng - Myxoboliosis
Bệnh này do bào tử trùng 2 cực nang Myxobolus, họ Myxobolidae, bộ
Myxosporidia. Bệnh xuất hiện trên tất cả các loài cá nuôi và cá tự nhiên và phân bố
rộng rãi trên khắp thế giới trong đó có cá Tra. Cá mắc bệnh này thường bơi lội
không bình thường, cơ thể dị hình như cong đuôi, da có nhiều chỗ bị đen. Nếu
nhiều bào nang ký sinh ở mang thì mang cá không khép chặt lại được. Có thể nhìn
thấy các bào nang màu trắng đục bằng hạt tấm, hạt đậu bám ở da, mang, vây của
cá. Bệnh xuất hiện hầu như quanh năm nhưng cao điểm vào các tháng có nhiệt độ
ấm (tháng 2 đến 4) [8].
1.5.6. Bệnh sán lá 16 móc – Dactylogyrus.
16

Trùng gây bệnh là Dactylogyrus. Dactylogyrus ký sinh ở mang và da,
nhưng chủ yếu là trên mang. Khi ký sinh chúng tiết ra men phá hoại tế bào, tổ chức
mang làm cho mang tiết ra nhiều nhớt ảnh hưởng đến quá trình hô hấp của cá. Ở
nước ta bệnh xuất hiện nhiều vào mùa xuân và mùa hè ở phía bắc và vào mùa mưa
ở phía nam.Có thể chẩn đoán bệnh bằng cách quan sát dịch nhờn trên da và mang

cá trên kính hiển vi [8].
Từ những thành công và những tồn tại của nghề nuôi cá cho thấy rằng ngoài
các yếu tố bệnh cá, chất lượng con giống, những rủi ro do bão, lụt quản lý tối ưu
môi trường là một trong những giải pháp có tầm quan trọng đặc biệt giúp cho nghề
nuôi đạt tới hiệu quả cao, chất lượng, phát triển lâu bền và ổn định.
1.6. Một số đặc điểm về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội tỉnh Bến Tre
Bến Tre nằm ở hạ lưu châu thổ Sông Mekong, về phía tây Nam bộ, thuộc
vùng ĐBSCL. Địa hình tự nhiên tương đối bằng phẳng, thuận lợi cho canh tác
nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Giới hạn bởi 9
o
48’–10
o
20’ độ vĩ Bắc,
105
o
57’–106
o
48’ độ kinh đông. Phía bắc giáp tỉnh Tiền Giang, có ranh giới chung
là sông Tiền, phía tây giáp tỉnh Vĩnh Long, phía nam giáp tỉnh Trà Vinh, có ranh
giới chung là sông Cổ Chiên, phía đông giáp biển Đông với chiều dài bờ biển là
65km. Những con sông lớn nối từ biển Đông qua các cửa sông chính (Cửa Đại,
Cửa Ba Lai, Cửa Hàm Luông, cửa Cổ Chiên), ngược về phía thượng nguồn đến tận
Campuchia . Những con sông này bao bọc và chia Bến Tre thành ba dãi cù lao: Cù
lao An Hóa, cù lao Bảo và cù lao Minh.
Khí hậu ở Bến Tre mang tính chất nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, có 2 mùa
khá rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa (gió mùa Tây nam) từ cuối tháng 4
đến tháng đầu tháng 11 hàng năm, mùa khô (gió mùa Đông bắc) từ tháng 11 đến
tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.250-1.500 mm/năm. Hơn
90% lượng mưa tập trung trong mùa mưa. Lượng mưa lớn thường xảy ra vào mùa
gió Tây nam, nên tháng 5 cũng có mưa, nhưng tháng 9 đến tháng 10 là những

tháng có mưa lớn, trong năm có khoảng 100-130 ngày có mưa.
Nhiệt độ không khí trung bình có giá trị từ 26-28
o
C. Trung bình cao nhất từ
28-29
o
C, nhiệt độ cao thường đo được vào tháng 4 và trung bình thấp nhất 25-26
o
C
vào tháng giêng. Nhiệt độ tuyệt đối thấp nhất trong ngày là 18.1
o
C và cao nhất là
17

36
o
C. Tuy nhiên, biên độ nhiệt dao động ngày đêm khá rõ 11.4
o
C vào mùa mưa,
14
o
C vào mùa khô.
Độ ẩm không khí tương đối cao vì Bến Tre có mật độ sông ngòi và kênh rạch
cao, độ ẩm trung bình trong các tháng mùa khô là 83–90%, chênh lệch độ ẩm trung
bình tháng ẩm nhất và khô nhất là 15%. Độ ẩm thấp nhất vào tháng mười hai đến
tháng giêng (khoảng 40–50%). Độ bốc hơi cao trong mùa khô, trung bình đạt
6mm/ngày đêm. Vào mùa mưa, độ bốc hơi trung bình đạt 3,5 mm/ngày đêm.
Diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh Bến Tre là 2.315 km
2
trong đó bao gồm

1.812km
2
đất nông nghiệp. Hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt khoảng
6.000km (sông Cổ Chiên 82km, sông Hàm Luông 71km, sông Ba Lai 59km, sông
Cửa Đại 83 km) chở phù sa chảy khắp ba dãy cù lao là một lợi thế của Bến Tre
trong phát triển giao thông thủy, hệ thống thủy lợi, phát triển kinh tế biển, kinh tế
vườn, trao đổi hàng hóa với các tỉnh lân cận. Vào mùa khô, gió chướng mạnh đưa
nước biển sâu vào nội đồng, dẫn đến tình trạng xâm nhập mặn xảy ra vào khoảng 2
tháng cuối mùa khô, điều đó gây trở ngại cho hoạt động nông nghiệp và ảnh hưởng
đến nguồn nước ngọt cho sinh hoạt. Vào giữa đến cuối mùa mưa (từ tháng 9 đến
tháng 11) nước lũ từ thượng nguồn Sông Mekong tràn về, theo dòng nước lũ, tôm
cá trên sông Mekong di trú về làm cho nguồn lợi thủy sản khá dồi dào. Là tỉnh gần
biển nên lũ không làm ảnh hưởng nhiều đến các công trình giao thông thủy lợi, cây
trồng, nhưng nó lại ảnh hưởng đến dịch bệnh trên Cá Tra nuôi thâm canh như
bệnh mủ gan thường xuất hiện vào mùa lũ.
Về hành chính, tỉnh Bến Tre có một thành phố và tám huyện (thành phố Bến
Tre, các huyện : Ba Tri, Thạnh Phú, Châu Thành, Giồng Trôm, Chợ Lách, Mỏ Cày
(Mỏ Cày Nam và Mỏ Cày Bắc). Dân số Bến Tre khoảng 1.369.358 người. Trong
đó ba huyện ven biển có ưu thế về khai thác thủy sản, nuôi tôm biển và nhuyễn
thể. Các huyện còn lại có ưu thế về sản xuất nông nghiệp và nuôi thủy sản nước
ngọt như Cá tra, tôm Càng xanh…
Hoạt động kinh tế ở Bến Tre tập trung chủ yếu vào lĩnh vực nông nghiệp
như trồng lúa (182.025 ha), trồng cây ăn trái (33.290 ha), khai thác thủy sản (4.317
phương tiện khai thác), nuôi trồng thủy sản (42.000 ha) Với điều kiện tự nhiên
thuận lợi, tiềm lực đất đai khá lớn, hệ thống kênh rạch chằng chịt, đất đai phì nhiêu

×