Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

tác nhân gây bệnh ở cá tầm (acipenser spp.) giai đoạn ương giống tại tỉnh lâm đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.96 MB, 84 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
******
&&
******





HOÀNG NGỌC HỒI



TÁC NHÂN GÂY BỆNH Ở CÁ TẦM (ACIPENSER
SPP.)
GIAI ĐOẠN ƢƠNG GIỐNG TẠI TỈNH LÂM ĐỒNG


Chuyên ngành: Nuôi trồng thủy sản
Mã số: 60 62 03 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. VÕ THẾ DŨNG




KHÁNH HÒA, 07/ 2014

i


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những kết quả nghiên cứu trong luận văn này là do chính bản
thân tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn và chỉ bảo hết sức tận tình của TS. Võ Thế Dũng –
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III, Th.s Võ Thị Dung và các anh, chị trong phòng
Sinh học thực nghiệm – Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III.
Các số liệu, kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn này là trung thực và
chưa ai từng công bố trong bất kỳ công trình nào.

Tác giả

Hoàng Ngọc Hồi
ii


LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Ban giám hiệu trường Đại học Nha Trang,
Viện Nuôi Trồng Thủy Sản – ĐHNT, Khoa đào tạo sau Đại học cho tôi mọi điều kiện
thuận lợi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Xin gửi đến ban lãnh đạo của Viện Nghiên cứu Nuôi Trồng Thủy Sản III lòng biết
ơn sâu sắc đã tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi có thể thực hiện đề tại tốt nghiệp luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Võ Thế Dũng, Ths. Võ Thị Dung đã
tận tình, chu đáo hướng dẫn tôi không những về phương pháp nghiên cứu, báo cáo khoa

học mà còn chỉ dẫn trong tác phong, lề lối làm việc của người nghiên cứu suốt thời gian
thực hiện đề tài tại phòng sinh học thực nghiệm – Viện Nghiên cứu NTTS III.
Xin gửi lời cám ơn chân tình tới các anh, chị trong phòng Sinh học thực nghiệm
Viện Nghiên cứu NTTS III, các bạn, các em sinh viên đang trong thời gian thực hiện đề
tài tốt nghiêp Đại học, Cao học những sự giúp đỡ, góp ý quý báu . Em gửi lòng biết ơn
sâu sắc đến các thầy, các cô trong Viện nghiên cứu NTTS – Trường ĐHNT cũng như các
chuyên gia trong và ngoài nước đã truyền đạt những kiến thức bổ ích trong khóa học.
Cuối cùng, tôi muốn gửi lòng biết ơn sâu sắc nhất đến gia đình tôi, xin cảm ơn đến
các thành viên trong lớp Quốc tế Rwanda khóa 2012 – 2014, bạn bè đã động viên, khích
lệ tinh thần cho tôi thực hiện tốt luận văn tốt nghiệp.
Một lần nữa, tôi xin chân thành cám ơn tất cả những sự giúp đỡ quý báu đó.
Học viên

Hoàng Ngọc Hồi
iii


MỤC LỤC

Trang phụ bìa Trang
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC HÌNH vii
DANH MỤC CÁC BIỂU BẢNG ix
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Sơ lược về hình thái phân loại, phân bố, đặc điểm sinh học, sinh sản và giá trị của
họ cá tầm Acipenseridae 3
1.1.1. Đặc điểm phân loại, hình thái và phân bố của cá tầm 3

1.1.2. Đặc điểm sinh học, sinh sản cá tầm 5
1.1.3. Giá trị cá tầm 6
1.2. Nuôi trồng thủy sản cá tầm trên Thế giới và ở Việt Nam 6
1.2.1. Đặc điểm sinh học, phân bố và tuổi thọ một số loài cá tầm nuôi phổ biến
trên Thế giới 7
1.2.2. Nuôi cá tầm trên Thế giới 7
1.2.3. Nuôi cá tầm ở Việt Nam 10
1.2.4. Nuôi cá tầm tại Lâm Đồng 10
1.3. Nghiên cứu về bệnh 11
1.3.1. Nghiên cứu bệnh cá tầm trên Thế giới 11
1.3.1.1. Bệnh do ký sinh trùng 11
iv


1.3.1.2. Vi khuẩn 12
1.3.1.3. Nấm 15
1.3.2. Nghiên cứu bệnh trên cá tầm ở Việt Nam 16
CHƢƠNG II. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 18
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu 18
2.2. Phương pháp nghiên cứu 18
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu bệnh do kí sinh trùng 19
2.2.1.1. Phương pháp kiểm tra và phát hiện ký sinh trùng 19
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu bệnh do vi khuẩn 22
2.2.2.1. Phương pháp nuôi cấy, phân lập và định danh vi khuẩn 23
2.2.3. Phương pháp nghiên cứu bệnh do nấm 25
2.2.3.1. Môi trường nuôi cấy nấm 26
2.2.3.2. Phương pháp nuôi cấy và phân loại nấm 26
2.3. Phương pháp xử lý số liệu 28
CHƢƠNG III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 30
3.1. Thành phần và mức độ nhiễm ký sinh trùng trên cá tầm Nga và cá tầm Siberi giống

ương nuôi tại Lâm Đồng 30
3.1.1. Thành phần ký sinh trùng trên cá tầm giống 30
3.1.2. Đặc điểm phân loại các giống loài KST 31
3.1.3. Mức độ nhiễm ký sinh trùng trên cá tầm giống 35
3.1.3.1. Tỷ lệ nhiễm và cường độ nhiễm KST ở cá tầm giống 35
3.1.3.2. Mức độ nhiễm ký sinh trùng ở cá tầm giống theo tháng 38
3.2. Thành phần vi khuẩn phân lập trên cá tầm giống bệnh thu tại Lâm Đồng 42
3.2.1. Thành phần vi khuẩn gây bệnh trên cá tầm giống 42
v


3.2.1.1. Cá tầm bị xuất huyết 42
3.2.1.2. Thành phần vi khuẩn gây bệnh xuất huyết trên cá tầm giống 44
3.2.2. Đặc điểm các loài vi khuẩn phân lập được từ cá tầm giống 45
3.2.2.1. Đặc điểm sinh hóa của các loài vi khuẩn 45
3.2.2.2. Đặc điểm một số loài vi khuẩn phân lập được trên cá tầm giống 48
3.2.2.3. Tần số bắt gặp của một số loài vi khuẩn 52
3.3. Thành phần nấm có khả năng gây bệnh trên cá tầm giống 55
3.3.1. Dấu hiệu bệnh lý và thành phần nấm bắt gặp 55
3.3.2. Đặc điểm loài nấm Saprolegnia sp. 55
3.3.3. Tần số bắt gặp nấm trên cá tầm giống ương nuôi tại Lâm Đồng 58
CHƢƠNG 4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO 63
PHỤ LỤC 71


vi


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT


CĐN: Cường độ nhiễm
0
C: Độ C
%0 : Phần ngàn
KST: Ký sinh trùng
ppt: (parts per thousand) phần ngàn
ppm: (parts per million) phần triệu
TSBG: Tần số bắt gặp
TSXH: Tần số xuất hiện
TLN: Tỷ lệ nhiễm

vii


DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 1.1. Cá tầm Nga (Acipenser gueldenstaedtii) 3
Hình 1.2. Cá tầm Siberi (Acipenser baerii) 3
Hình 2.1. Sơ đồ khối nghiên cứu ký sinh trùng 18
Hình 2.2. Sơ đồ khối nôi dung nghiên cứu bệnh do vi khuẩn 21
Hình 2.3. Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu bệnh do nấm 25
Hình 3.1. Cấu tạo của Trichodina nigra 29
Hình 3.2. Trichodina nigra trên cá tầm 30
Hình 3.3. Loài Ichthyophthirius multifiliis 31
Hình 3.4. Gyrodactylus sp. 32
Hình 3.5. Loài Cetaxomyxa sp. 33
Hình 3.6. Cá tầm bị xuất huyết 42
Hình 3.7. Vi khuẩn A. hydrophyla gây bệnh trên cá tầm giống 48
Hình 3.8. Areomonas hydrophyla 49

Hình 3.9. Vi khuẩn Gram (–) 49
Hình 3.10. Đặc điểm sinh hóa của Aeromonas hydrophyla trên test kit API 20E 49
Hình 3.11. Vây cá tầm bị nhiễm vi khuẩn 47
Hình 3.12. Aeromonas salmonicida 47
Hình 3.13. Vi khuẩn Gram (–) 47
Hình 3.14. Đặc điểm sinh hóa của A. salmonicida trên test kit API 20E 48
Hình 3.15. Cá bị nhiễm P. luteola 48
Hình 3.16. Pseudomonas luteola 49
viii


Hình 3.17. Vi khuẩn Gram (–) 49
Hình 3.18. Đặc điểm sinh hóa của P. luteola trên test kit API 20E 49
Hình 3.19. Cá bị nhiễm nấm Saprolegnia sp. 55
Hình 3.20. Nấm Saprolegnia sp. phân lập từ cá tầm . 56
Hình 3.21. Nấm Saprolegnia sp. dạng giống bông trên cá 57
Hình 3.22. Phòng lưu giữ cá tầm 71
Hình 3.23. Bể lưu giữ cá tầm 71
Hình 3.24. Buồng cấy 71
Hình 3.25. Kính hiển vi quang học 71
Hình 3.26. Kính soi nổi 71
ix


DANH MỤC CÁC BIỂU BẢNG

Bảng 1.1. Bảng so sánh các chỉ tiêu trên một số loài cá tầm 4
Bảng 2.1. Các thông số về số lượng, chiều dài và khối lượng mẫu 17
Bảng 3.1. Thành phần ký sinh trùng trên cá tầm giống 28
Bảng 3.2. Tỷ lệ nhiễm và cường độ nhiễm KST ở cá tầm Nga giống 33

Bảng 3.3. Tỷ lệ nhiễm và cường độ nhiễm KST ở cá tầm Siberi giống 34
Bảng 3.4. Mức độ nhiễm ký sinh trùng ở cá tầm Nga giống theo tháng 36
Bảng 3.5. Mức độ nhiễm ký sinh trùng ở cá tầm Siberi giống theo tháng 36
Bảng 3.6. TSXH các dạng dấu hiệu bị xuất huyết của cá tầm thu tại Lâm Đồng 40
Bảng 3.7. Thành phần các loài vi khuẩn phân lập từ cá tầm giống bị bệnh xuất huyết 41
Bảng 3.8. Đặc điểm sinh hóa của một số loài vi khuẩn phân lập từ cá tầm giống bị bệnh
thu tại Lâm Đồng 43
Bảng 3.9. Tần số bắt gặp của các loài vi khuẩn trên cá tầm Nga và cá tầm Siberi .49
Bảng 3.10. Tần số bắt gặp nấm trên cá tầm giống 55
1


MỞ ĐẦU

Cá tầm (tên tiếng anh Sturgeons) được xếp vào nhóm cá nước lạnh, là một trong
những đối tượng thủy sản nước ngọt quan trọng được du nhập và nuôi thành công ở
nhiều nước trên thế giới như Nga, Pháp, Mỹ, Trung Quốc Loài cá này có thể thích ứng
với nhiệt độ môi trường từ 22 – 25
0
C, do đó các nước thuộc khu vực khí hậu nhiệt đới
như Việt Nam có thể nuôi thành công đối tượng thủy sản kinh tế này.
Tại Lâm Đồng, tháng 9/2006 cá tầm bắt đầu được đưa vào nuôi thử nghiệm. Nhiều
nơi như hồ Tuyền Lâm – Đà Lạt, Giang Ly – Huyện Lạc Dương, Huyện Lâm Hà, có
điều kiện tự nhiên rất thích hợp để phát triển và nuôi cá tầm. Sau thành công này, Hội
đồng nhân dân tỉnh khóa VII đã xây dựng Nghị quyết về phát triển nuôi các đối tượng
nước lạnh trong đó có cá tầm trên diện rộng (UBND tỉnh Lâm Đồng, 2012). Tuy vậy, đây
là đối tượng mới, những nghiên cứu về cá tầm ở Việt Nam còn hạn chế, trong đó chủ yếu
về sản xuất giống, nuôi thương phẩm mà chưa có nhiều công trình nghiên cứu về bệnh
đặc biệt là trên cá giai đoạn ương giống. Chính sự phát triển ồ ạt, thiếu quy hoạch kèm
theo những hạn chế trong khâu quản lý đàn cá của các trại sản xuất giống cá tầm dẫn đến

dịch bệnh bùng phát, đặc biệt là các bệnh có dấu hiệu liên quan đến các tác nhân như ký
sinh trùng, vi khuẩn, nấm làm thiệt hại không hề nhỏ cho người nuôi trong thời gian qua ở
nhiều địa phương trong đó có tỉnh Lâm Đồng.
Nhận thức được điều đó, được sự đồng ý của Hội đồng xét duyệt đề cương luận
văn cao học chuyên ngành NTTS trường đại học Nha Trang, Viện nghiên cứu NTTS – III
và các thầy cô, cán bộ hướng dẫn, tôi thực hiện đề tài:
“Tác nhân gây bệnh ở cá tầm (Acipenser spp.) giai đoạn ƣơng giống tại tỉnh
Lâm Đồng”


2


Mục tiêu của đề tài:
Tìm hiểu các dấu hiệu bệnh lý, xác định được thành phần loài của tác nhân gây
bệnh là nấm, vi khuẩn và ký sinh trùng làm cơ sở cho việc nghiên cứu phòng trị bệnh sau
này.
Nội dung:
 Nghiên cứu thành phần ký sinh trùng, vi khuẩn, nấm trên cá tầm giống bị
bệnh:
 Thành phần kí sinh trùng ký sinh trên cá tầm giống.
 Thành phần vi khuẩn trên cá tầm giống.
 Thành phần nấm ký sinh trên cá tầm giống bị bệnh.
Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn:
 Ý nghĩa khoa học:
- Bổ sung những tư liệu về thành phần ký sinh trùng, vi khuẩn, nấm trên cá
tầm nói riêng và cá nước ngọt Việt Nam nói chung, từ đó làm cơ sở để
phòng trị bệnh ở cá tầm.
 Ý nghĩa thực tiễn:
- Kết quả nghiên cứu của đề tài giúp người nuôi nhận biết được các dấu hiệu

bệnh lý của đàn cá bị nhiễm bệnh và làm cơ sở cho nghiên cứu phòng và trị
bệnh trên cá tầm, nhất là giai đoạn cá giống nhằm phát triển ổn định nghề
nuôi.


3


CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Sơ lƣợc về hình thái phân loại, phân bố, đặc điểm sinh học, sinh sản và giá trị
của họ cá tầm Acipenseridae:
1.1.1. Đặc điểm phân loại, hình thái và phân bố của cá tầm:
Hệ thống phân loại:
Giới: Animalia
Ngành: Chordata
Lớp: Actinopterygii
Bộ: Acipenseriformes
Họ: Acipenseridae
Giống: Acipenser (Linnaeus, 1758)
Tên tiếng Anh: Sturgeon





Bộ cá tầm (Acipenseriformes) thuộc lớp cá vây tia (Actinopterygii) nguyên thủy
bao gồm các họ cá tầm (Acipenseridae), cá tầm thìa (Polyodontidae) và một số họ đã
tuyệt chủng. Cá tầm là tên gọi chung cho nhiều loài cá trong họ Acipenseridae bao gồm
Hình 1.1. Cá tầm Nga

(Acipenser gueldenstaedtii)
Hình 1.2. Cá tầm Siberi
(Acipenser baerii)
4


các giống Acipenser, Huso, Scaphirhynchus và Pseudoscaphirhynchus. Là một trong
những loài cá nước ngọt lâu đời nhất, cá tầm xuất hiện trên trái đất từ 200 – 250 triệu năm
trước, đến bây giờ nó vẫn mang trên mình những đặc điểm của loài cá tầm cổ nên được
gọi là hóa thạch sống (Chebanov và cs, 2005.). Cá tầm khác biệt với các loài cá xương
hiện đại ở bộ xương sụn, các dây sống được bao quanh bởi một lớp màng bọc để hỗ trợ
cấu trúc sụn này của cá (Hochleithner và cs, 1999). Cá tầm có vảy tấm, thân cá hình ống,
thuôn dài, được phủ bởi 5 hàng xương gai – vảy xương: 1 hàng trên lưng, 2 hàng ở hai
bên sườn và 2 bên bụng. Giữa những dãy vảy xương có những tấm bản hình sao lớn nhỏ
xen kẽ nhau. Đường bên có từ 29 – 50 chiếc vảy xương.
Bảng 1.1. Bảng so sánh các chỉ tiêu trên một số loài cá tầm (CITES Identification Guide –
Sturgeon and Paddlefish, 2001)
Loài
DF
AF
DS
LS
VS
GR
poD
poA
prA
AL
ML
Huso huso

48–
81
22–
41
9–17
28–
60
7–14
17–
36
0
0
0–3
185–
250
500
A. gueldenstaedtii
27–
51
16–
35
5–19
21–
50
6–14
15–
36
0–2
1–2
1–3

100–
150
200
A. persicus
27–
51
16–
35
7–19
23–
50
7–13
15–
31
0–2
1–2
1–2
130–
200

A. stellatus
40–
54
22–
35
9–16
26–
43
9–14
24–

29
0
0
1–5
128–
150
220
A. sturio
30–
50
22–
33
9–16
24–
40
8–15
15–
29
3–9
3–5
2–6
130–
220
300
A. nudiventris
39–
57
17–
37
11–

26
33–
74
11–
17
24–
45
0
0
0–3
120–
170
200
A. ruthenus
32–
49
16–
34
11–
18
56–
71
10–
20
11–
27
0
0
1–4
30–60

100
DF– tia vây lưng; AF–tia vây hậu môn; DS–vảy lưng;LS–vảy bên;VS–vảy bụng;GR–lược
mang;poD–vảy tấm giữa vây lưng và vây đuôi;poA–vảy tấm giữa vây hậu môn và vây đuôi,prA–
vảy tấm giữa hậu môn và vây hậu môn;AL–chiều dài trung bình (cm);ML–chiều dài tối đa (cm)
5


Trong tự nhiên, cá chỉ phân bố ở vùng Bắc Bán Cầu và thường gặp tại Bắc Đại
Tây Dương, Bắc Thái Bình Dương, vùng biển Caspian, Biển Đen, tại nhiều sông (Volga,
Elbe, Rhin) và hồ Ladoga.
1.1.2. Đặc điểm sinh học, sinh sản cá tầm:
Cá tầm là nhóm sinh vật miệng dưới, ăn đáy, trong tự nhiên thức ăn của chúng là
những động vật đáy như giun nhiều tơ, động vật thân mềm, giáp xác và ấu trùng của côn
trùng. Cá tầm có tập tính bắt mồi vào ban đêm. Đối với cá tầm mới nở, cho ăn bằng thức
ăn tươi sống, đặc biệt là giun đốt (trùng chỉ, trùng quế) cá lớn nhanh và tỷ lệ sống cao hơn
các loại thức ăn khác. Đối với cá giống và cá trưởng thành, cho ăn thức ăn nhân tạo thuận
tiện hơn nhiều trong quá trình chăm sóc và quản lý so với sử dụng thức ăn tươi sống.
Cá tầm phát triển nhanh trong môi trường nước ngọt, lạnh, sạch hàm lượng ôxy
hòa tan trong nước trên 5 mg/l, pH thích hợp cho cá khoảng 7,0 – 8,5; nhiệt độ tối ưu cho
cá tầm sinh trưởng là từ 15 đến 26
0
C, chúng có thể sống được khi nhiệt độ cao hơn,
nhưng tăng trưởng kém, nếu nhiệt độ cao kéo dài có thể gây chết hoặc phát triển dịch
bệnh. Riêng cá tầm nga có thể thích nghi và sống khỏe mạnh trong điều kiện nhiệt độ
khắc nghiệt hơn (10 – 29
0
C). Với sự can thiệp của con người bằng công nghệ, cá tầm có
thể sống được ở 31
0
C, nhưng trên 31

0
C cá sẽ bỏ ăn, sinh bệnh xuất huyết, lở loét, hoại tử,
và ở nhiệt độ nước trên 33
0
C cá sẽ chết hàng loạt.
Rất khó phân biệt đực cái cá tầm, đây cũng là yếu tố làm hạn chế phát triển đàn
cá bố mẹ phục vụ cho mục đích sản xuất giống nhân tạo. Chebanov cs (2001) đã công bố
kỹ thuật siêu âm không xâm lấn bước đầu đã xác định nhanh chóng giới tính và các giai
đoạn của tuyến sinh dục. Một phương pháp xác định giới tính khác mà người nuôi chuyên
nghiệp ở Nga có thể căn cứ là dựa vào màu sắc cá trưởng thành. Một số loài cá như cá
tầm mõm ngắn, cá tầm Đại Tây Dương và cá tầm trắng có thể căn cứ hình dạng lỗ niệu
sinh dục cá trưởng thành để phân biệt đực cái đạt độ chính xác đến 82%.
6


Cá tầm thành thục ở giai đoạn 4 – 6 năm tuổi hoặc hơn nữa tùy thuộc vào loài. Cá
tầm Nga tuổi thành thục của con đực là 11 – 13 năm, con cái là 12 – 16 năm trong khi đó,
cá tầm sao tuổi thành thục của con đực là 5 – 6 năm và con cái là 8 – 10 năm (Chebanov
và cs, 2011). Do tuổi phát dục cá tầm bố mẹ rất muộn và cá đực phát dục sớm hơn cá cái
một vài năm, nên việc nuôi cá bố mẹ rất tốn kém và phải chờ đợi lâu. Khi cá bố mẹ đến
tuổi thành thục đòi hỏi phải trải qua thời gian mùa đông nhất định thì buồng trứng mới
chuyển sang giai đoạn IV và cho đẻ được. Cá đẻ không liên tục, khoảng cách giữa các lần
đẻ là 1 – 2 năm. Trong tự nhiên, cá có thời gian thành thục chậm hơn rất nhiều, thành thục
sớm hay muộn phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố môi trường và hàm lượng dinh dưỡng trong
thức ăn. Vào mùa đông, nhiệt độ nước hạ xuống cũng là lúc tuyến sinh dục của cá cũng
bắt đầu phát triển mạnh. Nhiệt độ thích hợp nhất cho tuyến sinh dục của cá phát triển là 8
– 12
0
C.
1.1.3. Giá trị cá tầm:

Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, cá tầm đã được biết
đến như là một trong những loài có giá trị thương mại quan trọng nhất thế giới với 2 dòng
sản phẩm chính là thịt và trứng cá. Thịt cá tầm trắng, dai, béo, có giá trị dinh dưỡng cao,
dễ tiêu hóa, hấp thu. Ngoài ra, một số bộ phận của cá cũng mang lại những giá trị kinh tế
đáng kể. Bóng hơi của cá tầm sử dụng để làm gelatin tự nhiên, và được sử dụng trong sản
xuất rượu bia, bánh kẹo và món tráng miệng (Wells và cs, 2007).
Giá trị hơn cả phải kể đến trứng cá tầm mà đặc biệt là trứng cá tầm muối với tên
thương mại là Caviar. Theo Cites (2001), 90% sản phẩm Caviar của thế giới lấy từ một số
loài cá tầm sống ở vùng biển Caspi. Các nước giáp với biển Caspi như Iran, Nga,
Kazakhstan, Azerbaijan dẫn đầu về sản phẩm caviar của Thế giới, bên cạch đó các nước
như Trung Quốc, Romania, Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ và Canada cũng đóng góp một phần nhỏ
trong sản phẩm Caviar toàn cầu. Các loài cá tầm Beluga (Huso huso), cá tầm Nga, là đối
tượng thương mại được ưa chuộng cho sản xuất trứng cá muối caviar.
1.2. Nuôi trồng thủy sản cá tầm trên Thế giới và ở Việt Nam:
7


1.2.1. Đặc điểm sinh học, phân bố và tuổi thọ một số loài cá tầm nuôi phổ biến
trên Thế giới:

 Cá tầm Nga – Acipenser gueldenstaedtii Brandt & Ratzeburg, 1833
 Phân bố:
Cá tầm Nga là một trong những loài thuộc chi Acipenser phân bố rộng nhất trên
Thế giới. Loài này sinh sống trong lưu vực sông của vùng biển Đen, Caspi và Azov.
 Hình thái:
Cơ thể cá tầm Nga dài, dạng hình trục, mõm ngắn và tù. Môi dưới bị gián đoạn.
Màu sắc rất khác nhau, thường là mặt lưng màu xám đen, hai bên của cơ thể là màu bụi
và bụng có màu trắng.
 Tuổi thọ:
Tuổi thành thục của con đực là 11 – 13 năm, con cái là 12 – 16 năm. Tuổi thọ của

cá tầm Nga đạt 50 năm (Tsepkin và cs, 1970).
 Cá tầm Siberi – Acipenser baerii Brandt, 1869
 Phân bố:
Loài cá này hiện diện khắp các lưu vực sông lớn Xibia chảy hướng bắc vào biển
Kara, biển Laptev và biển Đông Xibia, bao gồm sông Ob, sông Lena và sông Kolyma. Nó
cũng được tìm thấy ở Kazakhstan và Trung Quốc ở sông Irtysh một nhánh chính của sông
Ob.
 Hình thái:
Cá tầm Siberi cá tầm thường nặng khoảng 65 kg, với khác biệt đáng kể giữa và
trong các lưu vực sông. Trọng lượng tối đa là 210 kg.
 Tuổi thọ:
Cá tầm Siberi sống thọ lên đến sáu mươi năm, và chậm đạt tới thành thục sinh dục
con đực 11 – 24 năm, con cái 20 – 28 năm.
1.2.2. Nuôi cá tầm trên Thế giới:
8


Nghề nuôi cá tầm ở Nga, trong năm 1869 Ovsjannikov đã thành công trong việc
cho thụ tinh nhân tạo trứng loài cá tầm sterlet (Acipenser ruthenus) từ sông Volga và
được ương thành cá giống (Milshteyn, 1969). Cùng với thành tựu của Ovsjannikov, các
nhà khoa học của Nga nghiên cứu chuyên sâu về cho sinh sản nhân tạo cá tầm. Họ đã tập
trung vào cá đẻ tự nhiên khi không thể nuôi giữ lớn những đàn cá bố mẹ. Một bước đi
mang tính quyết định đã đạt được khi Gerbil'skij (1941, 1951, 1962), và các cộng sự
(Barannikova, 1987), đã thành công trong việc kích thích rụng trứng bằng cách sử dụng
phương pháp tiêm hormone lên tuyến yên.
Tại Trung Quốc, nghề nuôi cá tầm thực sự phát triển mạnh trong những năm gần
đây. Theo Wei và cs (2002, 2003), từ năm 2000 Trung Quốc đã trở thành quốc gia dẫn
đầu Thế giới về nuôi cá tầm. Cũng trong thời gian này, Trung Quốc đã bắt đầu ương nuôi
cá tầm quy mô lớn, mục tiêu đáp ứng thị trường nội địa (Bronzi và cs, 2011). Một lượng
lớn trứng cá tầm đã thụ tinh được nhập vào nước này từ Nga, Pháp và Hungary (Sun và

cs, 2003; Wei và cs, 2003). Suốt những năm 1990, công nghệ nuôi cá tầm dần dần phát
triển, một số lượng lớn trứng thụ tinh và con giống của một số loài cá tầm nhập khẩu vào
Trung Quốc đồng thời được giới thiệu đến nhiều tỉnh khác nhau nhằm phát triển các trại
nuôi cá tầm ở quy mô thương mại (Wei và cs, 1997; Chang và cs, 1999; Zhuang và cs,
2002; Sun và cs, 2003).
Tại Thổ Nhĩ Kỳ, những nghiên cứu đầu tiên về nuôi cá tầm được bắt đầu từ cuối
những năm 1990. Trong năm 1996, cá tầm A. baeri giống 75 ngày tuổi được nhập từ Pháp
về nuôi tại trường đại học Ankara (Köksal và cs, 2000; Atar và cs, 2008). Năm 2001,
khoa thủy sản thuộc trường đại học Istanbul nhập trứng cá tầm Nga đã thụ tinh từ trung
tâm liên bang về di truyền và chọn giống thủy sản Nga phục vụ tái thả giống và nghiên
cứu về đối tượng này (Ercan và cs,2002; Çelikkale và cs, 2003). Đến năm 2008, một dự
án của FAO có tên là “Phục hồi quần thể cá tầm tại Thổ Nhĩ Kỳ” kết hợp với một số Bộ,
Ban ngành và một số trường Đại học đã nhập trứng cá tầm Sao và tầm Nga đã thụ tinh từ
trung tâm liên bang về di truyền và chọn giống thủy sản Nga. Kết quả từ các trại giống
9


cho tỷ lệ nở cao. Năm 2009, trường Đại học Istanbul đã bắt đầu lưu giữ cá tầm giống
đánh bắt từ tự nhiên và thuần hóa chúng trong điều kiện trại nuôi (Memiş và cs, 2011).
10


1.2.3. Nuôi cá tầm ở Việt Nam
Có 4 loài cá tầm đang được nuôi hiện nay tại các trang trại nuôi thủy sản ở các khu
vực miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên là cá tầm Siberi (Acipenser baerii),
cá tầm beluga (Huso huso), cá tầm Nga (Acipenser gueldenstaedtii) và cá tầm sterlet
(Acipenser ruthenus). Năm 2005, Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I đã nhập trứng cá
tầm Siberi từ Nga về Việt Nam và cho ấp nở và ương nuôi thành công. Đối tượng này
được nuôi thử nghiệm ở nhiều địa điểm khác nhau ở Việt Nam như Sa Pa (Lào Cai), Na
Hang (Tuyên Quang), hồ chứa Thác Bà (Yên Bái), Đà Lạt (Lâm Đồng), hồ Đa Mi (Bình

Thuận) với các phương thức nuôi lồng, nuôi bể và nuôi nước chảy cho thấy khả năng
thích nghi rất cao.
Viện nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản III đã hoàn thiện được quy trình công nghệ
nuôi công nghiệp cá tầm trong hệ thống tuần hoàn khép kín cho năng suất 61,67 kg/m3, tỷ
lệ sống đạt 95,7%, FCR là 1,036, tốc độ tăng trưởng đạt 8,46g/ngày, cao hơn so với nuôi
cá tầm trong lồng (năng suất 33,72 kg/m3, tỷ lệ sống 88,7%, FCR là 1,033, tốc độ tăng
trưởng 7,86g/ngày). Việc phổ biến công nghệ này tại các cơ sở nuôi sẽ góp phần đẩy
mạnh sản lượng cá Tầm nuôi và thúc đẩy sự hình thành ngành công nghiệp nuôi cá tầm
khai thác trứng và sản xuất caviar tại Việt Nam.
1.2.4. Nuôi cá tầm tại Lâm Đồng
Năm 2008, cùng với sự giúp đỡ của chuyên gia Ucraina, Viện Nghiên cứu NTTS I
phối hợp với Viện Nghiên cứu NTTS III ấp nở số lượng lớn trứng cá tầm đã thụ tinh nhập
nội, kết quả cho tỷ lệ nở khá cao đạt 70%, cho ra khoảng 300.000 con giống (đạt 50%) tại
thôn Klong Klanh, xã Đạ Chais (Lạc Dương– Lâm Đồng).
Cuối năm 2011 theo chỉ đạo của UBND tỉnh, Sở NN – PTNT đã kết hợp với Hiệp
hội Cá nước lạnh Lâm Đồng và Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III xây dựng “Quy
hoạch chi tiết phát triển nuôi cá nước lạnh tỉnh Lâm Đồng tới năm 2020”. Qua kết quả
khảo sát, thì vào thời điểm cuối năm 2011 đầu năm 2012, trên địa bàn tỉnh đã có 12 doanh
11


nghiệp và hộ gia đình tổ chức sản xuất cá giống và cá nước lạnh thương phẩm, với sản
lượng sản xuất năm 2011 gồm 100.000 cá hồi giống, 390.000 con cá tầm giống và 360 tấn
cá nước lạnh thương phẩm trên diện tích gần 80 ha mặt nước nuôi thả (sở NN – PTNT
tỉnh Lâm Đồng). Ngoài sản xuất cá giống, các doanh nghiệp này đều kết hợp với nuôi cá
thương phẩm; một số hồ chứa nước thủy lợi cũng đã được các doanh nghiệp khai thác thả
cá nước lạnh như hồ Đasar (Lâm Hà) với Công ty cổ phần Tầm Việt, hồ KaLa (Di Linh)
của Tổng Công ty Thủy sản Việt Nam, hồ Proh (Đơn Dương) của Công ty TNHH Tầm
Dương, hồ Mai Thành (Bảo Lộc) của Công ty cổ phần Hàng hải dầu khí Việt Xô… đã
cho kết quả khả quan.

1.3. Nghiên cứu về bệnh:
1.3.1. Nghiên cứu bệnh cá tầm trên Thế giới:
1.3.1.1. Bệnh do ký sinh trùng:
Theo Bazari và ctv (2010) khi nghiên cứu sự nhiễm ký sinh trùng trên cá tầm Ba
Tư (Acipenser persicus) ở giai đoạn ấu trùng và cá giống trong bể Vniro và ao đất. Không
phát hiện thấy ký sinh trùng trên cá giai đoạn ấu trùng sau khi cho ăn thức ăn ngoài 3 – 5
ngày, tuy nhiên Trichodina reticulate được tìm thấy trên ấu trùng trong tuần đầu cũng như
cá giống 20 ngày sau khi được chuyển ra ao đất với tỷ lệ nhiễm lần lượt là 10,0 – 20,0%
và 10,0 – 46,7%. Ngoài ra người ta còn thấy xuất hiện Diplostomum spathaceum với tỷ lệ
nhiễm 6,7 – 30,0% trên cá tầm giống.
Giống Nitzschia (Baer, 1875) được biết nhiều khi nghiên cứu bệnh ký sinh do giun
dẹp trên cá tầm. Trong số đó, loài Nitzschia sturionis (Abildgaard, 1794) nhiễm trên mang
của cá tầm ở Châu Âu. Hai loài khác là N. monticelli (Price, 1939) từ cá tầm A. sturio ở
địa trung hải và N. superba (MacCallum, 1924) từ mang của cá tầm Bắc Mỹ được nghiên
cứu bởi hai tác giả Schulman (1954) và Bychowsky (1957). Nitzschia sturionis là loài ký
sinh trùng khá lớn với chiều dài lên đến 10 mm, ký sinh trên cả cá tầm nước mặn và lợ.
Tuy nhiên, nó chết một cách nhanh chóng trong môi trường nước ngọt nên khi vật chủ di
12


cư để sinh sản thì chỉ thấy xuất hiên loài ký sinh trùng này ở giai đoạn đầu trong quá trình
di cư đó. Theo Dogiel và cs (1934), ký sinh trùng này đã được tìm thấy trong mang và
vòm miệng của cá tầm ở vùng biển Đen, Azov và Caspi nhưng lại không tìm thấy loài này
trên cá tầm A. nudiventris ở biển Aral. Theo báo cáo của Dogiel và cs (1937) và Lutta
(1937, 1941), trong những năm 1935 – 1936 đã bùng phát dịch bệnh nghiêm trọng gây
chết hàng loạt loại cá tầm A. nudiventris ở vùng biển Aral mà tác nhân ký sinh trùng N.
sturionis, Lutta (1937) chỉ ra có 100 – 300 thậm chỉ có lúc lên đến 600 mẫu N. sturionis
ký sinh trên 1 mẫu cá tầm. Khi nghiên cứu về mô học của mang cá bị nhiễm, Lotta (1941)
thấy rằng có sự phá hủy các lá mang và sự tăng sinh của lá mang mỏng sơ cấp và những
thay đổi khác trong mô mang của cá tầm.

Một nhóm quan trọng khác của Monogenea được tìm thấy trong mang của cá tầm
gồm các loài thuộc họ Diclybothriidae (Bychowsky và cs, 1950). D. armatum (Leuckart
1835) phân bố rộng giữa các loài cá tầm của Châu Âu và Châu Á, theo Hoffman (1998)
cũng tìm thấy những loài này trên cá tầm ở Bắc Mỹ.
1.3.1.2. Vi khuẩn
Vuillaume và cs (1987) công bố bệnh xuất huyết trên da và nội tạng của cá tầm
Siberi ở trại nuôi phía Tây Nam nước Pháp. Với tỷ lệ tử vong là 10% ở cá giai đoạn giống
cỡ 15 – 30g. Theo báo cáo này, nhóm nghiên cứu đã phân lập được vi khuẩn Yersinia
ruckeri từ gan, lách, thận và ruột của cá tầm chết do xuất huyết ở nhiều bộ phận trên cơ
thể. Vi khuẩn này nhạy cảm với amoxicillin, acid oxolinic, flumequine. Bauer và cs
(2002) báo cáo đã phân lập được vi khuẩn Flavobacterium johnsonae gây bệnh xuất huyết
trên cá tầm được nuôi ở Konakov miền Trung nước Nga. Bệnh thường bùng phát vào mùa
xuân, khi nhiệt độ nước thấp hơn 16
0
C trên cá giống cỡ 3 – 4g. Loài vi khuẩn này cũng
được xác định là tác nhân gây bệnh xuất huyết ở vòng miệng, xung quanh vây và kèm
theo những đốm màu xám trên da của cá tầm Nga nuôi tại Thổ Nhĩ Kỳ, bệnh gây chết ở tỷ
lệ không đáng kể (Karatas và cs, 2010).
Theo Tania (2008), bệnh nhiễm trùng xuất huyết gây ra trên cá tầm Nga giai đoạn
giống do tác nhân là vi khuẩn thuộc giống Aeromonas và Pseudomonas. Bệnh nhiễm
13


trùng xuất huyết trên cá nước ngọt với những nguyên nhân phức tạp và không rõ ràng,
bệnh lây lan rộng trên khắp thế giới, ảnh hưởng rất lớn cho nghề nuôi trồng thủy sản
(Noga, 2000, Prearo và cs, 2009). Cũng theo báo cáo này, tác giả đã định danh tên loài là
tác nhân chính gây bệnh cho cá đó là A. hydrophila và P. flurorescens. Aeromonas
hydrophila là vi khuẩn gram âm, dạng hình que với kích thước 0,3 –1,0 x 1,0 –3,5µm.
khuẩn lạc dạng lồi, màu trắng kem, đường kính 5 mm.
Trong số các loài thuộc giống Aeromonas, thì phổ biến nhất là Aeromonas

hydrophila. Vi khuẩn này phổ biến ở nước ngọt. Mặc dầu là luôn hiện diện trong đường
tiêu hóa cá, nhưng lại là tác nhân cơ hội một khi nguồn nước nuôi bị xấu đi (Aoki, 1999;
Cipriano, 2001; Dixon B.A., 1993), chúng trở thành tác nhân gây nhiễm trùng máu, bệnh
lở loét hay “bệnh Đỏ” (Guz, 2004) do độc tố vi khuẩn phát tán ở nhiều bộ phận khác nhau
trên cơ thể cá làm chết với số lượng đáng kể. Dịch bệnh thường gắn liền với sự thay đổi
điều kiện môi trường, chẳng hạn như do căng thẳng, mật độ dày, nhiệt độ đột ngột thay
đổi, chất lượng nước kém, nitrit và carbon dioxide cao (Aoki, 1999; Yildiz, 2005). Ở Thổ
Nhĩ Kỳ sự hiện diện của A. hydrophila đã được báo cáo ở một số đối tượng bao gồm lươn
Anguilla anguilla, cá sấu và cá trắm cỏ Ctenopharyngodon idella (Turutoglu, 2005;
Uzbilek, 2002).
Theo Mohler (2003), cá tầm Đại Tây Dương nuôi rất dễ bị nhiễm vi khuẩn
Aeromonas salmonicida, một loại vi khuẩn gây bệnh nhọt (furunculosis). Đây là tác nhân
gây bệnh theo trục ngang và gây tử vong cho cá tầm Đại Tây Dương kích cỡ 40 gam được
lây nhiễm khi nuôi chung với cá hồi bị bệnh. Tuy vậy, khả năng chống lại tác nhân gây
bệnh này ở cá tầm tốt hơn so với cá hồi (Rocco Cipriano, U.S. Geological Survey –
Biological Resources Division, personal communication). Dấu hiệu lâm sàn khi cá bị
bệnh thường là bị hôn mê khi bệnh phát triển, sau cùng là xuất hiện những nốt đỏ ở góc
chân vây và các mô khác. Theo Post (1987), có thể nhìn thấy các nốt đỏ ở da và các tổ
chức khác trên cá tầm. Nhưng trong một vài trường hợp lại không có những dấu hiệu lâm
sàn trên cá. Một dấu hiệu khác của bệnh này là có triệu chứng viêm và lồi của lỗ niệu ở cơ
14


quan sinh dục cá. Những dấu hiệu khác của cá bị bệnh là bơi lờ đờ chủ yếu gần mặt nước,
không giữ thăng bằng (Wade Jodun, U.S. Fish và Wildlife Service, personal
communication).
Một bệnh lý khác trên cá tầm gây ra bởi vi khuẩn cũng được Mohler (2003) đề cập
đến là triệu chứng phình đại bóng hơi (Hyper–inflated swim bladder syndrome – HISB).
Tác nhân gây bệnh theo tác giả cũng chưa được xác định, tuy nhiên đó là một loài vi
khuẩn yếm khí (Bacteriodes sp.), loài mà có thể đã được phân lập từ ruột xoắn của cá tầm

trắng. Công trình cũng chỉ ra rằng, một tỷ lệ nhỏ cá nuôi trong các trại sản xuất giống cá
tầm Đại Tây Dương bị nhiễm bệnh HISB xảy ra vào mùa thu khi nhiệt độ nước vào
khoảng 10
0
C. Triệu chứng của bệnh bao gồm bụng phình to, cá mất cân bằng trong khi
bơi, đôi lúc bị nổi lộn ngược trên mặt nước. Nguyên nhân là do loài vi khuẩn này sản sinh
ra khí hydro như là một sản phẩm thải của quá trình trao đổi chất, dẫn đến bóng hơi của
cá bị phình to.
Có một vài báo cáo ghi nhận bệnh xuất huyết do vi khuẩn Aeromonas hydrophila
với tỷ lệ thấp trên cá tầm Ba Tư giống ở Bắc Iran (Soltani và cs, 2001) cũng như cá tầm
sống ở sông Harrison – Canada (Raverty và cs, 1999). Vi khuẩn này cũng gây tử vong
khoảng 10% trên cá tầm Siberi giống (15 – 30 g) nuôi ở phía Tây Nam nước Pháp
(Vuillaume và cs, 1987). Brunetti và cs (2006) đã thông báo về sự bùng phát của vi khuẩn
Pseudomonas fluorescens trên cá tầm Siberi giống (10g) được nuôi ở phía Bắc Italia với
tỷ lệ tử vong cao (40%).
Timur (2009) thông báo bệnh xuất huyết bùng phát trên cá tầm Nga 1 – 2 năm tuổi
(100 – 380g) ương nuôi trong ao xi măng tại trường đại học Istanbul. Với những triệu
chứng như da trở nên đen, xuất huyết ở da và vùng bụng của đầu. Phần mang của cá bị tắc
nghẽn, xuất huyết hoặc hoại tử. Sợi mang có hiện tượng tăng sản các tế bào biểu mô, hoại
tử và gây tróc các tế bào bị hoại tử. Theo báo cáo này, đã xác định được tác nhân gây
bệnh là chỉ một loài vi khuẩn Aeromonas hydrophila hoặc kết hợp giữa 2 nhóm A.
hydrophila và Flavobacterium hydatis. Về các dấu hiệu mô bệnh học, bệnh xuất huyết do
15


vi khuẩn trên cá tầm Nga cho thấy sự suy giảm của các yếu tố tạo máu ở thận và lá lách.
Các tế bào còn lại ở lách bị hoại tử. Ở thận, với những biểu hiện như phù cầu thận, ống
thận dần bị thoái hóa và hoại tử. Ở cơ tim và gan của cá, có những ổ hoại tử dạng lỏng
lớn, ruội và niêm mạc dạ dày bị hoại tử.
Brunetti và cs (2006) đã báo cáo về dịch bệnh bùng phát tại các trại nuôi cá tầm ở

phía Bắc nước Ý gây tỷ lệ tử vong khoảng 40%. Tác giả đã phân lập được tác nhân từ
nhóm cá bị bệnh là vi khuẩn Pseudomonas fluorescens. Vi khuẩn này gây bệnh trên nhóm
cá giống, kích cở 10g, nuôi trong bể tròn (15 m
3
), được trang bị hệ thống cung cấp oxy tự
động, nhiệt độ nước giao động từ 22 – 24
0
C. Với những dấu hiệu bên ngoài như cá bị tổn
thương da vùng quanh hậu môn, giải phẫu cá có những biểu hiện như bóng hơi phình to,
xuất huyết phần ruột đặc biệt ở phần đầu và cuối.
1.3.1.3. Nấm:
Nấm thuộc nhóm có bào tử động (zoosporic fungi) là tác nhân gây bệnh trên nhiều
đối tượng thủy sản từ động vật nhuyễn thể đến các nhóm cá, gây thiệt hại lớn đối với nghề
nuôi trồng thủy sản trên thế giới. Saprolegnia australis được báo cáo tìm thấy trên một
vài loài cá. Czeczuga và cs (1995) thông báo tìm thấy loài này trên trứng của cá tầm
Acipenser guldenstadti persicus, Acipenser nudiventris và Acipenser stellatus.
Saprolegnia rất phổ biến trong hệ sinh thái nước ngọt, và là giống nấm chính trong
nước gây bệnh trên cá nước ngọt ở cả giai đoạn trứng và cá giống (Pelczar và cs, 2008).
Das và cs (2012), khi nghiên cứu về tác nhân Saprolegnia trên cá chép Ấn Độ cho thấy,
bệnh xảy ra ở giai đoạn cá giống, với những dấu hiệu ban đầu như xuất hiện đốm màu đỏ
của sợi nấm dạng sợi kèm theo tổn thương da, sau đó xuất hiện lớp nhầy, các đốm đỏ dần
dần lây lan rộng, xuất hiện những điển vùng có cấu trúc dạng bông hình tròn trên da cá,
sau đó dạng cấu trúc giống bông này lan rộng ra tạo ra các đốm có kích thước 1cm. Bệnh
do Saprolegnia gây ra khi có những biến động trong môi trường nước như nhiệt độ từ 8 –
22
0
C, pH tăng lên 9, oxy hòa tan giảm xuống 4 mg/L. Cũng theo báo cáo này, cá chết sau
thời gian khoảng 12 – 15 ngày từ khi bị nhiễm nấm Saprolegnia. Thời gian này còn phụ
thuộc vào vị trí lây nhiễm nấm ban đầu, loại mô bị phá hủy, tốc độ tăng trưởng của nấm

×