Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

tiểu luận môn luật kinh tế chủ đề hợp đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.4 KB, 42 trang )

LUẬT KINH TẾ CHỦ ĐỀ : HỢP ĐỒNG
Mục lục
GV: ThS TRẦN THỊ MINH ĐỨC 1
LUẬT KINH TẾ CHỦ ĐỀ : HỢP ĐỒNG
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong hệ thống luật Thương mại nước ta, chế định về hợp đồng kinh tế là một
trong những nội dung quan trọng, tuy nhiên có ít ai biết lịch sử hình thành và phát
triển của hợp đồng trong kinh doanh được diễn ra như thế nào. Trong kinh tế chính
trị, Mac – Lenin cũng đã cho rằng hàng hoá tự chúng không thể đi tới thị trường và
trao đổi với nhau được. Hình thức của mối quan hệ kinh tế giữa những người sở
hữu hàng hoá gọi là “bản giao kèo” được thiết lập trên cơ sở tự do ý chí giữa các
chủ thể trong quan hệ trao đổi sản phẩm hàng hoá. Khi được pháp luật tác động đến,
quan hệ kinh tế trên trở thành quan hệ pháp luật và “bản giao kèo” còn được gọi là
hợp đồng hay khế ước. Hợp đồng là hình thức của mối quan hệ trao đổi sản phẩm
hàng hoá dịch vụ giữa các chủ thể kinh doanh trong xã hội.
Ở nước ta hiện nay, chủ trương là xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, phát
triển bình đẳng theo định hướng XHCN. Trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch
của mình các đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế đều phải dựa vào vào các
quan hệ hợp đồng kinh tế. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, khi cơ cấu kinh tế
thay đổi thì các quan hệ kinh tế thay đổi theo. Vì vậy, chế độ hợp đồng kinh tế của
nhà nước ta luôn luôn đặt trước những yêu cầu thay đổi và đã thay đổi phù hợp với
mỗi bước phát triển của các quan hệ kinh tế. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, các quan hệ hợp đồng kinh tế giữa các đơn vị kinh tế
mang một nội dung mới, vì vậy, những bản điều lệ, quy định về chế độ hợp đồng
kinh tế cũ không còn phù hợp nữa. Do đó, Nhà nước ta ban hành Pháp lệnh hợp
đồng kinh tế, nó đã thể chế hoá được những tư tưởng lớn về đổi mới quản lý kinh tế
của Đảng, trả lại giá trị đích thực của hợp đồng kinh tế với tư cách là sự thống nhất
ý chí của các bên. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và các văn bản pháp lý cụ thể hoá
pháp lệnh đã tạo thành một hệ thống các quy phạm làm cơ sơ pháp lý quan trọng
điều chỉnh các quan hệ hợp đồng kinh tế trong cơ chế kinh tế mới hiện nay .
GV: ThS TRẦN THỊ MINH ĐỨC 2


LUẬT KINH TẾ CHỦ ĐỀ : HỢP ĐỒNG
PHẦN NỘI DUNG
I.Khái niệm hợp đồng
Pháp luật Việt Nam không có định nghĩa về hợp đồng nói chung nên định nghĩa
chung nhất và khái quát nhất về hợp đồng chính là hợp đồng dân sự. Theo quy định
tại Điều 388 – BLDS thì : “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về
việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự”.
Mặc dù Luật Thương mại không có quy định thế nào là hợp đồng thương mại
nhưng trên cơ sở quy định của Bộ luật Dân sự và phạm vi điều chỉnh của Luật
Thương mại như trên, có thể hiểu hợp đồng trong kinh doanh thương mại có bản
chất hợp đồng nói chung, là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong hoạt động thương mại.
II.Phân biệt hợp đồng trong kinh doanh và hợp đồng dân sự
2.1.Những điểm giống nhau giữa hợp đồng trong kinh doanh và hợp đồng dân sự
- Đều là những giao dịch có bản chất dân sự, thiết lập dựa trên sự tự nguyện, bình
đẳng và thỏa thuận của các bên.
- Đều hướng tới lợi ích của mỗi bên và lợi ích chung của các bên tham gia giao kết
hợp đồng.
- Hai loại hợp đồng này có một số điều khoản tương tự như: Điều khoản về chủ
thể, đối tượng của hợp đồng, giá cả, quyền và nghĩa vụ của các bên, phương thức
thực hiện, phương thức thanh toán, giải quyết tranh chấp phát sinh nếu có.
- Về hình thức của hợp đồng:
+ Một số hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại có thể giao kết bằng miệng
(thực hiện chủ yếu qua sự tín nhiệm, giao dịch được thực hiện ngay hoặc những
giao dịch đơn giản, có tính phổ thông, đối tượng giao dịch có giá trị thấp)
GV: ThS TRẦN THỊ MINH ĐỨC 3
LUẬT KINH TẾ CHỦ ĐỀ : HỢP ĐỒNG
+ Hoặc bằng văn bản (được thực hiện chủ yếu ở những giao dịch phức tạp, đối
tượng của hợp đồng có giá trị lớn hoặc do pháp luật quy định phải thực hiện bằng
văn bản như:

Vay tiền tại tổ chức tín dụng, bảo hiểm (nhưng không có mục đích lợi nhuận).
Đối với hình thức hợp đồng này tùy từng hợp đồng cụ thể pháp luật quy định bắt
buộc phải công chứng hoặc thị thực mới hợp lệ (như mua bán nhà ở, chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ). Tuy nhiên nếu các bên không công chứng hoặc
chứng thực thì hợp đồng vẫn có giá trị pháp lý và không bị coi là vô hiệu trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác.
Ngoài ra những trường hợp pháp luật không quy định bắt buộc phải công chứng
thì các bên vẫn có thể thỏa thuận công chứng hoặc có sự chứng kiến của người làm
chứng nhằm làm cho hợp đồng có giá trị pháp lý cao. Các loại văn bản cũng được
coi là hợp đồng nếu hai bên giao kết gián tiếp bằng các tài liệu giao dịch như: Công
văn, điện báo, đơn chào hàng, đơn đặt hàng và được sự đồng ý của bên kia với nội
dung phản ảnh đầy đủ các nội dung chủ yếu cần có và không trái pháp luật thì được
coi là hợp lệ.
+ Hợp đồng cũng có thể được giao kết bằng hành vi cụ thể: Thông thường đây là
một dạng quy ước đã hình thành trên cơ sở thông lệ mà các bên đã mặc nhiên chấp
nhận.
2.2.Những điểm khác nhau giữa hợp đồng trong kinh doanh và hợp đồng dân sự
STT Tiêu chí HĐ trong kinh doanh HĐ dân sự
1 Chủ thể Tất cả các thương nhân (VN hoặc
nước ngoài) trừ một số HĐ đại lí
thương mại, HĐ dịch vụ quảng
cáo, HĐ đại diện thương nhân bắt
buộc các bên phải là thương nhân
VN
Một bên là chủ thể bất kì và một
bên là thương nhân như hợp đồng
mua bán hàng hóa, hợp đồng dịch
vụ bán đấu giá hàng hóa, hợp
Cá nhân, pháp nhân,
nhà nước, hộ gia đình,

tổ hợp tác.
GV: ThS TRẦN THỊ MINH ĐỨC 4
LUẬT KINH TẾ CHỦ ĐỀ : HỢP ĐỒNG
đồng môi giới thương mại.
2 Mục đích
Hỗ trợ thương nhân tìm kiếm lợi
nhuận trong hoạt động kinh
doanh
Một số trường hợp khác, một bên
không phải là thương nhân nhưng
chọn luật Thương mại áp dụng
cho hợp đồng thì lúc này không
phải hợp đồng phục vụ lợi ích
cho tất cả các bên.
Đa dạng, nhưng phổ
biến là nhằm mục đích
tiêu dùng hay sinh
hoạt của các bên.
3
Điều khoản của
hợp đồng
Có nhiều điều khoản chi tiết: thời
gian, địa điểm giao hàng, bảo
hiểm, vận chuyển hàng hóa,…
Không cụ thể
4
Cơ quan giải
quyết tranh chấp
Khi xảy ra tranh chấp thương mại
mà các bên không thỏa thuận

được thì các bên có thể gửi yêu
cầu nhờ giải quyết tới cơ quan
tóa án hoặc trọng tài
Tòa án là cơ quan duy
nhất có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp
dân sự
Trên đây là một số điểm giống và khác cơ bản giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng
thương mại cũng như ý nghĩa thực tiễn của việc phân biệt 2 loại hợp đồng này.
III.Các trường hợp hợp đồng vô hiệu và xử lý trong trường hợp vô hiệu
3.1.Hợp đồng vô hiệu
3.1.1 Khái quát chung
Do Luật Thương mại không quy định cụ thể các trường hợp hợp đồng trong kinh
doanh, thương mại vô hiệu nên có thể vận dụng các quy định chung của Bộ Luật
Dân sự về giao dịch dân sự vô hiệu cho hợp đồng trong hoạt động kinh doanh
thương mại vì bản chất của hợp đồng kinh doanh thương mại cũng là một loại hợp
đồng dân sự.
GV: ThS TRẦN THỊ MINH ĐỨC 5
LUẬT KINH TẾ CHỦ ĐỀ : HỢP ĐỒNG
Vậy thế nào là hợp đồng vô hiệu? Hợp đồng vô hiệu là hợp đồng không thỏa mãn
đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Theo quy định tại Điều 122 của
BLDS về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự:
a) Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
• Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
• Mục đích và nội dung giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội;
• Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
b) Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường
hợp pháp luật có quy định.
Như vậy, hợp đồng không có một trong các điều kiện trên thì vô hiệu.

Tuy nhiên, cần phân biệt giữa Hợp đồng vô hiệu và Hợp đồng không có giá trị
pháp lí để tránh việc nhầm lẫn, hay đánh đồng chúng với nhau.
Hợp đồng vô hiệu là hợp đồng đã được giao kết nhưng vô hiệu, theo đó, hậu quả
pháp lí của hợp đồng đó là các quyền và nghĩa vụ của các bên không phát sinh từ
thời điểm giao kết, các bên trả lại cho nhau những gì đã nhận; Hợp đồng vô hiệu sẽ
không có giá trị pháp lí, nên cũng được gọi là Hợp đồng không có giá trị pháp lí.
Hợp đồng không có giá trị pháp lí là hợp đồng có thể chưa được xác lập, hoặc
đã được xác lập nhưng bị đình chỉ hiệu lực, hoặc vô hiệu hay hết hiệu lực.
Tóm lại, hợp đồng vô hiệu thì chắc chắn là hợp đồng không có giá trị pháp lí,
nhưng ngược lại, hợp đồng không có giá trị pháp lí thì chưa hẳn đã phải là hợp đồng
vô hiệu và đó là trong những trường hợp như hợp đồng chưa được kí kết, hoặc đã kí
kết nhưng bị đình chỉ hiệu lực hay đã hết hiệu lực.
3.1.2. Phân loại hợp đồng vô hiệu
 Theo tính chất vi phạm:
 Hợp đồng vô hiệu tương đối: Hợp đồng vi phạm lợi ích đặc thù của cá nhân,
tổ chức là chủ thể của hợp đồng. Cá nhân, tổ chức có lợi ích bị vi phạm mới
có quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Trong trường hợp, người đại
diện hợp pháp, người giám hộ, người thừa kế của người đã chết là chủ thể
hợp đồng có quyền này.
GV: ThS TRẦN THỊ MINH ĐỨC 6
LUẬT KINH TẾ CHỦ ĐỀ : HỢP ĐỒNG
 Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối: Hợp đồng vi phạm lợi ích chung của nhà nước,
của xã hội hay của cộng đồng. Mọi cá nhân, tổ chức có liên quan đều có
quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
 Theo phạm vi vô hiệu:
 Hợp đồng vô hiệu toàn bộ: Là hợp đồng mà toàn bộ nội dung của nó đều vô
hiệu.
 Hợp đồng vô hiệu từng phần: Là hợp đồng khi một phần của hợp đồng vô
hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực phần còn lại của hợp đồng.
3.1.3.Các trường hợp hợp đồng vô hiệu

Theo Điều 128 đến Điều 134 BLDS, giao dịch dân sự vô hiệu trong các trường
hợp:
1) Do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội;
2) Do giả tạo;
3) Do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện;
4) Do bị nhầm lẫn;
5) Do bị lừa dối, đe dọa;
6) Do người xác lập không nhận thức hoặc làm chủ được hành vi của mình;
7) Do không tuân thủ qui định về hình thức.
Nội dung cụ thể như sau:
Điều 128: Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo
đức xã hội
Giao dịch dân sự có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái
đạo đức xã hội thì vô hiệu.
Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ
thể thực hiện những hành vi nhất định.
Pháp luật không cho phép sản xuất, tiêu thụ hàng giả; mua bán, vận chuyển hàng
cấm; cung ứng dịch vụ bị cấm thực hiện; dịch chuyển tài sản trái phép hay những
thỏa thuận gây thiệt hại cho lợi ích của người thứ ba; Để xác định nội dung hợp
đồng có vi phạm điều cấm của pháp luật hay không, chúng ta cần xem xét đến các
qui phạm cấm đoán trong các văn bản pháp luật, chẳng hạn: Các qui định về hàng
GV: ThS TRẦN THỊ MINH ĐỨC 7
LUẬT KINH TẾ CHỦ ĐỀ : HỢP ĐỒNG
hóa cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện trong Nghị định số
11/1999/NĐ-CP ngày 3/3/1999, qui định trong Luật Phá sản về cấm doanh nghiệp
mắc nợ dịch chuyển tài sản
Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong
đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
Nếu nội dung trong hợp đồng kí kết vi phạm đạo đức xã hội thì hợp đồng đó vô

hiệu. Ví dụ: “A đã thuê thiết kế sửa nhà mình để có cửa nhà vệ sinh hướng thẳng
vào cửa chính – nơi đặt bản thờ của gia đình hàng xóm – anh B vì muốn gia đình
anh B mở cửa chính sang hướng khác cho nhà A đẹp hơn”. Hợp đồng thuê thiết kế
sửa nhà sẽ không có hiệu lực (vô hiệu) vì mục đích của hợp đồng vi phạm đạo đức
xã hội.
“Đạo đức xã hội” không phải là một khái niệm pháp lý, nó phụ thuộc vào nhiều
yếu tố như văn hóa – xã hội, phong tục – tập quán, lịch sử, kinh tế,…Hầu hết các hệ
thống pháp luật không có giải thích chính thức về vấn đề này. Vì vậy, các thẩm
phán, trọng tài viên thường căn cứ vào án lệ hoặc tư duy lô-gíc của mình để giải
thích.
Điều 129: Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo
Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao
dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực,
trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này.
Ví dụ: “Anh A bán một căn nhà cho anh B, đã làm một hợp đồng chính có ra
công chứng với số tiền ít hơn số tiền bán thực tế để đóng thuế bớt đi, sau đó anh A
làm thêm một hợp đồng phụ với anh B thể hiện đúng số tiền thực tế - hợp đồng này
có một người làm chứng”. Vậy hợp đồng phụ đó có giá trị không nếu trong thời
gian chờ hoàn tất thủ tục bán nhà anh B cho rằng họ chỉ căn cứ vào hợp đồng
chính?
Hợp đồng phụ trong trường hợp này không nhằm mục đích bổ sung, hỗ trợ điều
kiện để thực hiện hợp đồng chính mà nhằm che giấu hợp đồng chính. Vì vậy, khi có
GV: ThS TRẦN THỊ MINH ĐỨC 8
LUẬT KINH TẾ CHỦ ĐỀ : HỢP ĐỒNG
tranh chấp xảy ra, và vụ tranh chấp được TAND giải quyết thì hợp đồng phụ được
tạo lập để trốn thuế sẽ bị vô hiệu, và hợp đồng chính ban đầu sẽ có hiệu lực.
Trong trường hợp xác lập hợp đồng giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người
thứ ba thì hợp đồng đó cũng bị vô hiệu.
Quy định này trên thực tế đang có nhiều cách hiểu khác nhau khiến sự vận dụng
pháp luật không chính xác.

Đơn cử như vụ “Bà L mượn nợ gần 10 tỉ đồng mà TAND TP.HCM đã xử phúc
thẩm. Trước đó, do không trả được nợ, bà đã ký giấy xác nhận nợ và đồng ý bán đứt
ba căn nhà cho chủ nợ. Việc mua bán này chưa được thực hiện thì bà L lại bán nhà
cho người khác (một số hợp đồng đã qua công chứng ). Chủ nợ không đồng ý đã
khởi kiện ra tòa yêu cầu tuyên bố hủy các hợp đồng mua bán của bà L.”
Tòa cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm đều nhận định rằng cam kết đầu tiên giữa bà L
với chủ nợ có giá trị pháp lí và chưa có một văn bản nào bãi bỏ. Từ việc đã có cam
kết nói trên, bà L biết rõ phải trả nợ nhưng lại bán nhà cho người khác là vi phạm
cam kết trả nợ. Do đó, các hợp đồng mua bán của bà L và những người liên quan là
vô hiệu.
Điều 130: Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng
lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện
Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu
cầu của người đại diện của người đó, Toà án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu
theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập,
thực hiện.
Trường hợp này qui định: Nếu chủ thể hợp đồng là cá nhân thì hợp đồng vô hiệu
khi người tham gia giao kết hợp đồng không có hoặc hạn chế năng lực hành vi dân
sự, người chưa thành niên. Khi đó, theo yêu cầu của người đại diện của người đó,
Tòa án tuyên bố hợp đồng đó vô hiệu nếu theo qui định của pháp luật hợp đồng này
phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện. Nếu chủ thể hợp đồng là pháp
GV: ThS TRẦN THỊ MINH ĐỨC 9
LUẬT KINH TẾ CHỦ ĐỀ : HỢP ĐỒNG
nhân, tổ chức không phải là pháp nhân thì người đại diện phải có đủ năng lực hành
vi.
Ví dụ: “Anh Bảo – Con trai ông Hùng nghiện ma túy, đã có ra quyết định tuyên
bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự của Tòa án, đồng thời chỉ định ông
Hùng là người đại diện theo pháp luật của Bảo. Vừa qua, Bảo mang xe máy (giấy
đăng ký xe máy do Bảo đứng tên) đi bán”. Như vậy, việc anh Bảo bán xe máy có

được pháp luật công nhận không?
Việc anh Bảo đã bị tòa án tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự,
tham gia giao dịch mua bán xe máy (thậm chí trong trường hợp giấy đăng kí do Bảo
đứng tên) mà không có sự đồng ý của ông Hùng là trái quy định của pháp luật (theo
Điều 130 BLDS). Theo đó, ông Hùng có thể yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch đó
vô hiệu.
Một số ví dụ minh họa khác như anh H bán chiếc xe đạp của mình cho một cửa
hàng kinh doanh xe đạp trong khi chưa đủ 14 tuổi, Anh Đ kí hợp đồng bán nhà
trong tình trạng đang sử dụng chất kích thích (thuốc lắc, ma túy)…Các hợp đồng đó
đều bị vô hiệu.
Điều 131: Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn
Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân
sự mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội
dung của giao dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền
yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu.
Ví dụ: “A bán cho B một chiếc xe máy nhưng A quên không thông báo cho B
biết rằng hệ thống đèn của chiếc xe đó đã bị cháy. Khi phát hiện hệ thống đèn không
hoạt động, B đã yêu cầu A giảm bớt giá bán chiếc xe đó hoặc phải thay thế hệ thống
đèn mới nhưng A không chấp nhận. Lúc đó, B có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố
hợp đồng mua bán vô hiệu.”
Trong trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của
giao dịch thì được giải quyết theo quy định tại Điều 132 của Bộ luật này.
GV: ThS TRẦN THỊ MINH ĐỨC 10
LUẬT KINH TẾ CHỦ ĐỀ : HỢP ĐỒNG
Điều 132: Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa
Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có quyền
yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm
làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của
giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.

Trên thực tế trường hợp này thường xảy ra. Sau đây xin dẫn vài ví dụ minh họa:
Ví dụ:
1. Bà K kiện bà C ra tòa để tranh chấp hợp đồng mua bán đất. Bà K khai vào năm
2007, bà có ký hợp đồng (có công chứng) mua gần 4.000 m
2
đất của bà C với giá
450 triệu đồng. Hai bên thỏa thuận sẽ mua, bán cả nhà và đất. Thế nhưng hợp đồng
thì chỉ nói mua bán đất còn căn nhà thì hai bên chỉ thỏa thuận bằng miệng. Sau đó
bà C không giao nhà và đất. Bà K đã kiện bà C vì bà C đã lừa dối mình. Như vậy,
hợp đồng này được coi là vô hiệu.
2. Anh C hứa bán cho B một chiếc TiVi Sony 21 Inch lắp ráp ở Nhật Bản do
người thân ở Nhật Bàn gởi về, với điều kiện B phải đặt trước 1/2 giá tiền. Ít ngày
sau B đến nhận, thì C lại giao cho B chiếc tivi lắp ráp tại Việt Nam. Trong trường
hợp này C đã lừa dối B và hợp đồng bị vô hiệu.
Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho
bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của
mình.
Ví dụ: “Ông H muốn có Công ty TNHH Điện tử Viễn thông của ông T nên đã đe
doạ ông T nếu không bán Công ty cho mình thì ông ta sẽ cho bà V – vợ ông H biết
quan hệ bất chính giữa ông H và cô trợ lí riêng. Sợ gia đình đổ vỡ, ông H đồng ý
bán công ty lại cho ông T”. Nếu có quá trình tranh chấp xảy ra sau đó, thì Tòa án sẽ
GV: ThS TRẦN THỊ MINH ĐỨC 11
LUẬT KINH TẾ CHỦ ĐỀ : HỢP ĐỒNG
tuyên bố hợp đồng trên vô hiệu do ông H bị đe dọa mới dẫn đến phát sinh việc giao
kết hợp đồng này.
Điều 133: Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm
chủ được hành vi của mình
Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời
điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Toà

án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Ví dụ: Ông K có năng lực hành vi dân sự bình thường nhưng đã ký hợp đồng
mua bán nhà đất trong lúc say rượu, không nhận thức được hành vi của mình. Sau
đó ông K có quyền đưayêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó vô hiệu.
Điều 134: Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có
hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc
các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên
thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó
mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu.
Các hợp đồng trong trường hợp này thường sẽ rơi vào một tình trạng “lưỡng
cực” – hoặc trở nên có hiệu lực nếu lỗi hình thức được sửa chữa, hoặc sẽ trở nên vô
hiệu nếu lỗi hình thức không được khắc phục trong thời hạn do Tòa án ấn định
Hợp đồng không có hình thức phù hợp theo qui định pháp luật có thể là do sự
thiếu hiểu biết pháp luật của các bên; hoặc do các bên cố tình vi phạm những qui
định của pháp luật về nội dung hợp đồng được kí kết. Ví dụ như A biết mảnh đất mà
B rao bán không được giao dịch do nằm trong khu qui hoạch dự án trường tiểu học
của quận hoặc chưa được đăng kí Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng vẫn
kí “giấy tay” mua.
Để làm rõ hơn cho trường hợp hợp đồng vô hiệu do không có hình thức phù hợp
với qui định của pháp luật, chúng ta cùng tìm hiểu một ví dụ sau đây:
GV: ThS TRẦN THỊ MINH ĐỨC 12
LUẬT KINH TẾ CHỦ ĐỀ : HỢP ĐỒNG
"Vợ chồng ông A rất thân với vợ chồng ông B và cho vợ chồng ông B mượn nhà
để sinh sống. Khi cơ hội đến, vợ chồng ông A đã dùng căn nhà của mình đem thế
chấp ngân hàng để vay tiền kinh doanh. Nhưng do việc làm ăn của vợ chồng ông A
không thuận lợi, nợ nần quá nhiều, khiến vợ chồng ông B phải cho vợ chồng ông A
vay tiền để trả ngân hàng và trang trải nợ nần.
Trước tình hình đó, vợ chồng ông A gợi ý bán căn nhà cho vợ chồng ông B. Sau
nhiều lần thỏa thuận, hai bên đã lập bốn văn bản mua bán căn nhà có đầy đủ chữ ký

của các bên nhưng không đem đi công chứng, chứng thực. Đang trong quá trình
sang tên sổ đỏ, vợ chồng ông A lại làm đơn ra tòa yêu cầu hủy thỏa thuận mua bán
căn nhà, buộc vợ chồng ông B phải trả lại nhà”. Vậy, Tòa án sẽ giải quyết như thế
nào trong trường hợp này?
Mặc dù đã xác nhận việc mua bán căn nhà là có thực, song Tòa án tuyên bố chấp
nhận yêu cầu xin hủy thỏa thuận mua bán căn nhà của vợ chồng ông A và tuyên bố
hợp đồng vô hiệu. Lý do là thỏa thuận mua bán căn nhà chưa được hai bên lập hợp
đồng, công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật, vi phạm qui định về
hình thức hợp đồng. Cụ thể, hai bên đã vi phạm qui định tại điều 450 BLDS 2005:
“Hợp đồng mua bán nhà ở phải được lập thành văn bản, có công chứng hoặc
chứng thực, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Do đó, mặc dù vợ chồng
ông A và vợ chồng ông B lập bốn văn bản mua bán căn nhà có đầy đủ chữ ký của
các bên nhưng không đem đi công chứng, chứng thực thì đã vi phạm quy định về
hình thức của hợp đồng.
Tại khoản 2 điều 137 – Hậu quả pháp lí của giao dịch dân sự vô hiệu qui định:
“Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn
trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải
hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị
tịch thu theo qui định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”.
Theo đó, vợ chồng ông B phải trả lại căn nhà, ngược lại, vợ chồng ông A có nghĩa
vụ trả lại cho vợ chồng ông B tiền bán (hay bất kì tài sản có liên quan đến việc bán
căn nhà) đã nhận.
GV: ThS TRẦN THỊ MINH ĐỨC 13
LUẬT KINH TẾ CHỦ ĐỀ : HỢP ĐỒNG
Tuy nhiên, một vấn đề có thể phát sinh là việc vợ chồng ông B vẫn muốn được
sở hữu căn nhà nên họ không đồng ý với phán xét của Tòa án. Trong trường hợp
này, Tòa án sẽ áp dụng điều 134 BLDS 2005: “Trong trường hợp pháp luật quy
định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên
không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, tòa án, cơ quan nhà nước
có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của

giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô
hiệu”. Theo đó, Tòa án ra quyết định buộc vợ chồng ông A và vợ chồng ông B phải
thực hiện các thủ tục để hoàn thiện hình thức hợp đồng mua bán căn nhà trong thời
gian một tháng. Vợ chồng ông A và vợ chồng ông B phải đem hợp đồng mua bán
căn nhà đi công chứng, chứng thực tại cơ quan có thẩm quyền trong thời gian ấn
định là một tháng nếu muốn hợp đồng có hiệu lực.
Tuy nhiên, trước sự tăng giá nhà đất, vì lợi ích vợ chồng ông A càng có động lực
để không tiếp tục thực hiện hợp đồng, muốn hợp đồng vô hiệu. Họ sẵn sàng chấp
nhận việc bồi thường thiệt hại để đạt được mục đích vì biết rằng cái lợi sau đó có
thể bù đắp cho việc phải bồi thường. Do đó, để lấy lại căn nhà, vợ chồng ông A đã
không thực hiện các thủ tục hoàn tất hợp đồng với vợ chồng ông B. Vì vậy, việc
khắc phục vi phạm về hình thức hợp đồng đã không thể thực hiện được, tòa án buộc
phải tuyên bố hợp đồng vô hiệu và xác định vợ chồng ông A là bên có lỗi làm cho
hợp đồng vô hiệu.
Kết quả vẫn như ban đầu, tức là Tòa án căn cứ vào điều 137, Bộ luật Dân sự
2005 buộc vợ chồng ông B phải trả lại căn nhà cho vợ chồng ông A, đồng thời yêu
cầu vợ chồng ông A trả lại cho vợ chồng ông B tiền bán căn nhà đã nhận và phải bồi
thường toàn bộ thiệt hại cho vợ chồng ông B.
Quy định bắt buộc vợ chồng ông A và vợ chồng ông B thực hiện hình thức hợp
đồng trong một khoảng thời gian nhất định tỏ ra không đem lại kết quả như các nhà
làm luật mong đợi. Trước sự biến động của giá nhà đất, vì lợi ích vợ chồng ông A
càng có động lực để không tiếp tục thực hiện hợp đồng, muốn hợp đồng vô hiệu.
GV: ThS TRẦN THỊ MINH ĐỨC 14
LUẬT KINH TẾ CHỦ ĐỀ : HỢP ĐỒNG
Nguời ta sẵn sàng chấp nhận việc bồi thường thiệt hại để đạt được mục đích vì biết
rằng cái lợi sau đó có thể bù đắp cho việc phải bồi thường.
Qua đó, có thể thấy rằng, trong trường hợp hợp đồng vi phạm hình thức do một
trong các bên tham gia cố tình không tuân thủ những qui định của pháp luật thì hình
thức của hợp đồng thường không thể khắc phục cho dù đã được Tòa án gia hạn. Và
khi đó, vô hình chung, Tòa án là nơi để họ lạm dụng đưa ra các yêu cầu tuyên bố

hợp đồng vô hiệu với lý do hợp đồng chưa tuân thủ về mặt hình thức để họ đạt mục
đích.
3.2. Xử lí hợp đồng vô hiệu
Việc kết luận và xử lí hợp đồng vô hiệu thuộc thẩm quyền của Tòa án khi giải
quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng.
Về hậu quả pháp lí của giao dịch dân sự vô hiệu:
Áp dụng qui định tại điều 137 BLDS 2005:
Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.
1. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu,
hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện
vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi
tức thu được bị tịch thu theo qui định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại
phải bồi thường.
Theo đó, về nguyên tắc, hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ
ràng buộc các bên từ thời điểm kí kết, bởi vậy hợp đồng vô hiệu được xử lí như sau:
• Nếu hợp đồng mới xác lập mà chưa thực hiện thì các bên không được phép thực
hiện;
• Nếu nội dung trong hợp đồng đã được thực hiện thì các bên phải chấm dứt việc tiếp
tục thực hiện và bị xử lí tài sản;
GV: ThS TRẦN THỊ MINH ĐỨC 15
LUẬT KINH TẾ CHỦ ĐỀ : HỢP ĐỒNG
• Nếu nội dung công việc trong hợp đồng đã thực hiện xong thì các bên bị xử lí tài
sản.
• Trong trường hợp hợp đồng vô hiệu từng phần thì các bên tham gia phải sửa đổi
hoặc hủy bỏ nội dung trái pháp luật. Nếu nội dung vô hiệu đã được thực hiện xong
thì phải bị xử lí tài sản.
• Bên cạnh những hậu quả pháp lý trên, trong trường hợp hợp đồng vô hiệu là hợp
đồng chính thì sẽ làm chấm dứt hợp đồng phụ. Bởi lẽ hợp đồng phụ phát sinh từ
hợp đồng chính, hợp đồng chính là cơ sở để hình thành nên hợp đồng phụ. Do đó,

khi hợp đồng chính vô hiệu thì căn cứ phát sinh hợp đồng phụ không còn nữa. Vì
vậy, hợp đồng phụ đương nhiên không thể có hiệu lực khi hợp đồng chính vô hiệu
trừ trường hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính. Tuy nhiên quy định này
không áp dụng đối với các biện pháp bảo đảm. Trong trường hợp các bên thỏa thuận
hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính thì sự vô hiệu của
hợp đồng phụ cũng làm chấm dứt hợp đồng chính.
Về bồi thường thiệt hại
Điều 137 BLDS 2005 cũng có qui định: “ Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi
thường”. Như vậy, để buộc một bên bồi thường thì chúng ta phải xác định hai yếu
tố:
 Yếu tố có lỗi.
 Thực tế phải tồn tại thiệt hại.
Về nguyên tắc việc xử lí tài sản:
 Các bên hoàn trả cho nhau tất cả tài sản đã nhận được từ việc thực hiện hợp
đồng. Trong trường hợp không thể hoàn trả bằng hiện vật thì phải trả bằng
tiền, nếu tài sản đó không bị tịch thu theo qui định của pháp luật;
 Thu nhập bất hợp pháp phải nộp vào ngân sách Nhà nước;
 Thiệt hại phát sinh các bên phải chịu.
Hậu quả pháp lí của hợp đồng vô hiệu trong trường hợp tài sản đã được
chuyển giao cho người thứ ba ngay tình
Hợp đồng vô hiệu ngoài liên quan tới các bên tham gia trong hợp đồng, một số
trường hợp, hợp đồng còn liên quan tới người thứ ba ngay tình, đó là trường hợp
GV: ThS TRẦN THỊ MINH ĐỨC 16
LUẬT KINH TẾ CHỦ ĐỀ : HỢP ĐỒNG
hợp đồng vô hiệu nhưng tài sản giao dịch đã được chuyển giao dịch cho người thứ
ba ngay tình.
Tính đặc biệt trong trường hợp hợp đồng vô hiệu trong trường hợp này thể hiện ở
chỗ tài sản giao dịch đã không còn chiếm giữ bởi một trong các bên tham gia giao
kết hợp đồng mà là một người thứ ba ngay tình do việc xử lý tài sản khi hợp đồng bị
tuyên bố vô hiệu gặp phải một số khó khăn nhất định.

Trường hợp hợp đồng vô hiệu nhưng tài sản giao dịch là động sản không phải
đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một hợp đồng khác cho người thứ
ba ngay tình:
Hợp đồng với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp người chiếm hữu
ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người
không có quyền định đoạt tài sản. Trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có
đền bù thì chủ sở hữu (CSH) có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp,
bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của CSH.
Như vậy, CSH có được đòi lại tài sản không đăng ký quyền sở hữu từ người thứ
ba ngay tình khi hợp đồng vô hiệu cũng phụ thuộc vào ý chí của CSH có muốn
chuyển giao của CSH đối với tài sản đó hay không. Và cũng cần lưu ý là muốn đòi
hỏi lại tài sản đó, CSH phải chứng minh được đó là tài sản của mình. Qua đây có
thể thấy, lợi ích chính đáng của CSH tài sản luôn được ưu tiên bảo vệ. Trong trường
hợp tài sản giao dịch là bất động sản hoặc động sản phải đăng ký quyền sở hữu đã
được chuyển giao bằng một hợp đồng khác cho người thứ ba ngay tình.
Hợp đồng với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình
nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc hợp đồng với người mà theo bản
án, quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là CSH tài sản nhưng sau đó
người này không phải là CSH tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sữa (Điều 138
BLDS 2005).
Quy định này nhằm đảm bảo giá trị pháp lý của việc đăng ký quyền sở hữu cũng
như thể hiện tính đặc thù của đối tượng là động sản đối với bất động sản. Pháp luật
GV: ThS TRẦN THỊ MINH ĐỨC 17
LUẬT KINH TẾ CHỦ ĐỀ : HỢP ĐỒNG
quy định một số loại tài sản nhất định phải đăng ký quyền sở hữu để công nhận
quyền chủ sở hữu của CSH, chống lại xâm phạm của người thứ ba và khi có tranh
chấp thì CSH có thể dễ dàng chứng minh được đâu là đối tượng của hợp đồng đã vô
hiệu căn cứ vào giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu. Mặt khác, vì giấy tờ chứng nhận
quyền sở hữu tài sản đứng tên không phải là người giao kết với người thứ ba dẫn
đến khó khăn khi chứng minh được tính ngay tình hay không ngay tình của người

thứ ba.
IV. Các chế tài thương mại
4.1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng
4.1.1 Khái niệm
Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực
hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và
bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh.
Mục đích của các bên khi kí kết hợp đồng là muốn các quyền và nghĩa vụ phát
sinh từ hợp đồng được thực hiện đúng, đầy đủ và thiện chí, mang lại lợi ích kinh tế
cho mỗi bên. Đây chính là cơ sở thực tiễn của biện pháp buộc thực hiện đúng hợp
đồng, một biện pháp được áp dụng phổ biến khi có hành vi vi phạm hợp đồng.
Chế tài được thực hiện đúng hợp đồng được áp dụng là nhằm đảm bảo thực hiện
trên thực tế hợp đồng đã kí kết, làm cho nghĩa vụ hợp đồng phải được tiếp tục thực
hiện. Các bên xuất phát từ mục tiêu kinh doanh để kí kết hợp đồng chứ không phải
là nhằm đạt được lợi ích từ việc nộp phạt hay bồi thường thiệt hại từ phía bạn hàng.
Trong nhiều trường hợp tiền phạt hay bồi thường thiệt hại không thể thay thế lợi
ích từ việc thực hiện hợp đồng đã kí kết của các bên.
4.1.2 Căn cứ áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
Căn cứ áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng bao gồm:
- Có hành vi vi phạm hợp đồng
GV: ThS TRẦN THỊ MINH ĐỨC 18
LUẬT KINH TẾ CHỦ ĐỀ : HỢP ĐỒNG
- Có lỗi của bên vi phạm
Việc các bên không thực hiện, thực hiện không đúng theo cam kết trong hợp
đồng như: không giao hàng, giao thiếu hàng, giao hàng sai chất lượng là cơ sở phát
sinh chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng. Bên có quyền lợi bị vi phạm chỉ có
quyền buộc bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng nếu bên này có lỗi.
Như vậy, đối với hình thức chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thương
mại căn cứ áp dụng chỉ bao gồm hai căn cứ trên là đủ để bên bị vi phạm áp dụng đối
với bên vi phạm.

Điều 296 - Luật Thương mại (2005) cho phép các bên kéo dài thời hạn thực hiện
hợp đồng hoặc từ chối thực hiện hợp đồng trong trường hợp bất khả kháng:
1- Trong trường hợp bất khả kháng, các bên có thể thỏa thuận kéo dài thời hạn
thực hiện nghĩa vụ hợp đồng; nếu các bên không có thỏa thuận hoặc không
thỏa thuận được thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng được tính thêm
một thời gian bằng thời gian xảy ra trường hợp bất khả kháng công với thời
gian hợp lí để khắc phục hậu quả, nhưng không được kéo dài quá thời hạn
sau đây:
a. Năm tháng đối với hàng hóa, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung
ứng dịch vụ được thỏa thuận không quá mười hai tháng, kể từ khi
giao kết hợp đồng;
b. Tám tháng đối với hàng hóa, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung
ứng dịch vụ được thỏa thuận trên mười hai tháng, kể từ khi giao
kết hợp đồng.
2- Thời hạn kéo dài quá các thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này, các bên có
quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ hợp đồng và không bên nào có quyền yêu
cầu bên kia bồi thường thiệt hại.
Như vậy, trong trường hợp bất khả kháng (thiên tai, dịch bệnh,…) hành vi không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng không bị coi là có lỗi. Bên bị vi
phạm không có quyền buộc bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng. Ngay cả khi hết
thời gian thực hiện hợp đồng được tính thêm khi có bất khả kháng, bên bị vi phạm
GV: ThS TRẦN THỊ MINH ĐỨC 19
LUẬT KINH TẾ CHỦ ĐỀ : HỢP ĐỒNG
cũng không thể áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng và không bên nào có
quyền buộc bên kia bồi thường thiệt hại, bởi Điều 296 không cho phép các bên có
quyền từ chối thực hiện hợp đồng.
4.1.3 Nội dung của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
Nội dung của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm buộc
bên vi phạm thực hiện đúng các nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc dùng các biện pháp
khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí tổn thất phát

sinh.
Khi bên vi phạm gia hàng thiếu, cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng, bên bị
vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm phải giao đủ hàng, cung ứng dịch vụ đúng
theo thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu bên vi phạm giao hàng kém chất lượng, cung
ứng dịch vụ không đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm
loại trừ khuyết tật của hàng hóa, thiếu sót của dịch vụ hoặc giao hàng khác thay thế,
cung ứng dịch vụ theo đúng hợp đồng. Trường hợp bên vi phạm không thực hiện
yêu cầu thực hiện đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền mua hàng, nhận cung
ứng dịch vụ của người khác theo đúng loại hàng hóa, dịch vụ ghi trong hợp đồng và
bên vi phạm phải bù chênh lệch giá. Bên bị vi phạm cũng có thể tự sửa chữa khuyết
tật của hàng hóa, thiếu sót của dịch vụ và yêu cầu bên vi phạm phải trả các chi phí
thực tế hợp lí.
Bên có quyền lợi bị vi phạm trong quan hệ hợp đồng, không chỉ là bên mua hàng
mà còn có thể là bên bán hàng, khi giao hàng hóa, dịch vụ đúng cam kết trong hợp
đồng nhưng không được tiếp nhận. Bên vi phạm là bên mua thì bên bán có quyền
yêu cầu bên mua trả tiền, nhận hàng hoặc thực hiện các nghĩa vụ khác của bên mua
được quy định tại hợp đồng theo qui định của Luật Thương mại (2005) so với luật
Thương mại (1997).
Để áp dụng biện pháp buộc thực hiện đúng hợp đồng, bên có quyền lợi bị vi
phạm có thể gia hạn một thời gian hợp lí để bên vi phạm thực hiện nghĩa vụ. Việc
gia hạn này hoàn toàn do bên bị vi phạm quyết định trên cơ sở xem xét lợi ích của
GV: ThS TRẦN THỊ MINH ĐỨC 20
LUẬT KINH TẾ CHỦ ĐỀ : HỢP ĐỒNG
việc tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Vì vậy, việc gia hạn để tiếp tục thực hiện
hợp đồng nằm trong tiến trình áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng và
hoàn toàn không phải là sự thỏa thuận lại về thời gian thực hiện hợp đồng giữa các
bên. Nếu không có thỏa thuận nào khác, trong thời gian áp dụng chế tài buộc thực
hiện đúng hợp đồng, bên có quyền lợi bị vi phạm có quyền yêu cầu áp dụng chế tài
phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại nhưng không được áp dụng chế tài khác (đình chỉ
thực hiện hợp đồng, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, hủy hợp đồng). Khi bên vi

phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thời hạn mà bên
bị vi phạm ấn định, bên bị vi phạm được áp dụng các chế tài khác để bảo vệ quyền
lợi chính đáng của mình.
Theo quy định của pháp luật, bên bị vi phạm quyết định áp dụng chế tài buộc
thực hiện đúng hợp đồng trước khi sử dụng các chế tài khác. Bên bị vi phạm quyết
định áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong những trường hợp mà
việc kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng không ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của
mình. Đối với những hàng hóa mang tính chất mùa vụ, phụ thuộc vào từng thời
điểm trong năm (bánh trung thu, nước giải khát, chăn đệm,…) thì bên bị vi phạm
không thể lực chọn áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng nếu thời cơ tiêu
thụ các loại sản phẩm trên đã hết. So với các hình thức trách nhiệm khác, buộc thực
hiện đúng hợp đồng là một biện pháp chế tài mang tính mềm dẻo, thiện chí và hiệu
quả của nó có khă năng hạn chế thiệt hại.
4.2. Phạt vi phạm
4.2.1 Khái niệm
Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm phải trả một khoản tiền
phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận, trừ các trường hợp
miễn trách nhiệm qui định tại Điều 294, Luật Thương mại (2005).
Phạt hợp đồng là một chế tài tiền tệ, được áp dụng phổ biến đối với tất cả các
hành vi vi phạm các điều khoản của hợp đồng, không cần tính đến hành vi đó đã
gây ra thiệt hại hay chưa gây thiệt hại. So với chế tài “buộc thực hiện đúng hợp
GV: ThS TRẦN THỊ MINH ĐỨC 21
LUẬT KINH TẾ CHỦ ĐỀ : HỢP ĐỒNG
đồng”, chế tài phạt hợp đồng cứng rắn hơn và có chức năng chủ yếu là trừng phạt,
phòng ngừa vi phạm hợp đồng, đề cao ý thức tôn trọng pháp luật nói chung và pháp
luật hợp đồng nói riêng.
Mục đích chủ yếu mà bên bị vi phạm hướng tới khi áp dụng hình thức chế tài này
không phải là “hành vi” giống như buộc thực hiện đúng hợp đồng mà là khoản tiền
phạt mà bên vi phạm phải trả.
Luật Thương mại (2005) qui định các bên có thể thỏa thuận về một khoản tiền

phạt hợp đồng, nếu xảy ra vi phạm, bên bị vi phạm có quyền đòi khoản tiền phạt mà
không được quyền đòi bồi thường thiệt hại.
Với qui định như vậy, chế tài phạt vi phạm được áp dụng cho hai mục đích:
- Răn đe, ngăn chặn vi phạm hợp đồng (trong trường hợp có vi phạm thì bên
vi phạm sẽ phải nộp phạt không phụ thuộc vào việc thực hiện vi phạm đó có
gây ra thiệt hại cho bên kia hay không);
- Bồi thường thiệt hại theo mức định trước (tức là nếu có vi phạm gây thiệt hại
thì bên bị thiệt hại không được quyền đòi bồi thường thiệt hại theo mức thiệt
hại thực tế mà chỉ được đòi khoản tiền đã xác định trước mặc dù thực tế
không có thiệt hại hoặc thiệt hại có thể là thấp hơn hoặc cao hơn mức qui
định này).
4.2.2 Căn cứ áp dụng chế tài phạt vi phạm
Căn cứ áp dụng chế tài phạt vi phạm, bao gồm:
- Hợp đồng có thỏa thuận về phạt vi phạm;
- Có hành vi vi phạm hợp đồng;
- Có lỗi của bên vi phạm hợp đồng.
Theo Luật Thương mại (2005), chế tài phạt vi phạm hợp đồng chỉ được áp dụng
khi các bên “có sự thỏa thuận” trong hợp đồng. Nếu hợp đồng không có sự thỏa
thuận về phạt vi phạm thì bên bị vi phạm mất quyền đòi phạt vi phạm hợp đồng và
chỉ có quyền đòi bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, qui định này của Luật Thương mại
(2005) không phù hợp với xu hướng đề cao sự tự do ý chí của các bên trong quan
GV: ThS TRẦN THỊ MINH ĐỨC 22
LUẬT KINH TẾ CHỦ ĐỀ : HỢP ĐỒNG
hệ hợp đồng. Hợp đồng không thỏa thuận về việc phạt vi phạm, nhưng sau đó các
bên có thỏa thuận mới hoặc một bên thừa nhận vi phạm và chấp nhận mức phạt do
bên bị vi phạm đưa ra thì không có lí do gì để không chấp nhận phạt vi phạm theo
thỏa thuận của các bên.
Phạt hợp đồng được áp dụng phổ biến đối với các hành vi vi phạm hợp đồng.
Tuy vậy, có những vi phạm mà không có cá nhân, tổ chức nào đặt vấn đề áp dụng
trách nhiệm đối với hành vi vi phạm đó, như: vi phạm điều khoản về giải quyết

tranh chấp, điều khoản về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thương mại. Khi đề cập
đến căn cứ áp dụng chế tài phạt hợp đồng, Luật Thương mại (2005) cũng không đề
cập đến yếu tố lỗi. Tuy nhiên, không có nghĩa là pháp luật đã cho phép áp dụng phạt
hợp đồng đối với mọi hành vi vi phạm (không thực hiện, thực hiện không đúng
hoặc thực hiện không đầy đủ theo thỏa thuận mà không cần tính đến yếu tố lỗi.
Pháp luật quy định, được miễn trách nhiệm hợp đồng khi bên vi phạm không có lỗi
(do bất khả kháng hoặc do lỗi của bên đối tác, xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm
mà các bên đã thỏa thuận, do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền). Điều đó cho thấy, lỗi vẫn là yếu tố cần thiết để áp dụng chế tài phạt vi phạm
hợp đồng và các hình thức chế tài khác trong trách nhiệm hợp đồng.
4.2.3 Nội dung của chế tài phạt vi phạm
Nội dung của chế tài phạt vi phạm là bên bị vi phạm phải trả một khoản tiền nhất
định. Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với
nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng không vượt quá 8% giá
trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266, Luật
Thương mại (2005). Mức phạt do các bên thỏa thuận trong hợp đồng phải trong
khuôn khổ giới hạn của pháp luật. Giới hạn thứ nhất là mức phạt hay tổng mức phạt
không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm; mức phạt thứ hai là giới
hạn được tính trên giá trị nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm.
Như vậy, theo quy định của Luật Thương Mại (2005), điều khoản phạt vi phạm
hợp đồng thương mại chỉ đóng vai trò là “điều khiển tùy nghi”, tức là những điều
GV: ThS TRẦN THỊ MINH ĐỨC 23
LUẬT KINH TẾ CHỦ ĐỀ : HỢP ĐỒNG
khoản các bên có thể tự thỏa thuận với nhau và ghi vào trong hợp đồng khi chưa có
quy định của pháp luật nhưng các bên được phép vận dụng linh hoạt vào hoàn cảnh
thực tế của mình mà không trái pháp luật. Trong trường hợp này, các bên có thể
thỏa thuận hoặc không thỏa thuận về điều khoản phạt vi phạm hợp đồng. Nếu có
điều khoản phạt vi phạm, thì điều khoản đó có hiệu lực thi hành. Nếu các bên không
thỏa thuận và ghi vào trong hợp đồng thì chế tài phạt vi phạm có thể không được áp
dụng. Các quy định của luật Thương Mại được xây dựng dựa trên nguyên tắc tôn

trọng thỏa thuận của các bên về mức phạt trước khi áp dụng mức phạt giới hạn mà
pháp luật quy định.
4.3. Bồi thường thiệt hại
4.3.1. Khái niệm
Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi
phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.
Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi
phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm
đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.
Mục đích của chế tài bồi thường thiệt hại là nhằm bồi hoàn, bù đắp, khôi phục
những lợi ích vật chất bị thiệt hại của bên bị vi phạm hợp đồng.
4.3.2. Căn cứ áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại
Trừ trường hợp miễn trách nhiệm, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi
có đủ các yếu tố sau đây:
• Có hành vi vi phạm hợp đồng
• Có thiệt hại thực tế
• Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại
• Có lỗi của bên vi phạm
4.3.3. Nội dung của chế tài bồi thường thiệt hại
Nghĩa vụ chứng minh tổn thất: Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng minh
tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị
GV: ThS TRẦN THỊ MINH ĐỨC 24
LUẬT KINH TẾ CHỦ ĐỀ : HỢP ĐỒNG
vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm (Điều 304- Luật
Thương mại 2005)
Nghĩa vụ hạn chế tổn thất: Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải áp dụng các
biện pháp hợp lí để hạn chế tổn thất kể cả tổn thất với khoản nợ trực tiếp đáng lẽ
được hưởng do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra; nếu bên yêu cầu bồi thường thiệt
hại không áp dụng biện pháp đó, bên vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu giảm bớt
giá trị bồi thường thiệt hại bằng mức tổn thất đáng lẽ có thể hạn chế được (Điều 305

– Luật Thương mại).
Quan hệ giữa giữa chế tài phạt vi phạm và chế tài bồi thường thiệt hại ( Điều
307- Luật thương mại 2005)
• Trường hợp các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có
quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật Thương mại có quy
định khác
• Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền
áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp
Luật Thương mại có quy định khác
• Trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định cấp chứng thư giám
định có kết quả sai do lỗi cố ý của mình thì phải bồi thường thiệt hại phát
sinh cho khách hàng trực tiếp yêu cầu giám định
Ví dụ 1:
Doanh nghiệp của A ký hợp đồng với doanh nghiệp B chuyên chở hàng hóa. Cho
dù trong hợp đồng không có ghi câu “Nếu vi phạm hợp đồng gây thiệt hại thì phải
bồi thường”, nhưng khi điều đó thực tế diễn ra, thì doanh nghiệp A vẫn có quyền
kiện và yêu cầu doanh nghiệp B bồi thường thiệt hại cho mình.
Nếu trong hợp đồng hai bên có ghi rõ về điều khoản phạt vi phạm hợp đồng.
Chẳng hạn: “Nếu bên B vi phạm hợp đồng thì phải chịu phạt một số tiền 50 triệu
đồng”. Thì khi đó, nếu bên B vi phạm hợp đồng – thì ngoài khoản bồi thường thiệt
hại như nói ở phần trên, doanh nghiệp B còn phải chịu đóng phạt cho bên A 50 triệu
đồng nữa (miễn là 50 triệu đồng này thấp hơn 8% giá trị vi phạm).
GV: ThS TRẦN THỊ MINH ĐỨC 25

×