Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Chuyên đề tốt nghiệp: Tình hình tái bảo hiểm thiết bị điện tử tại Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Bưu điện, giai đoạn 2005 đến 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (656.82 KB, 91 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Bảo hiểm
MỤC LỤC
Nguyễn Thị Quyên Lớp Kinh tế bảo hiểm 49
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Bảo hiểm
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Bảng:
1.1. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN, BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG CỦA TÁI
BẢO HIỂM 3 2 5
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của PTI 31 2 5
2.1.3. Thị trường TBH thiết bị điện tử tại Việt Nam 45 2 5
Bảo hiểm thiết bị điện tử được xem là loại hình BH đặc thù của PTI. Trung
bình, nghiệp vụ BH này chiếm xấp xỉ 70% doanh thu của nghiệp vụ BH kỹ
thuật. Trong 6 năm qua, tình hình thực hiện nghiệp vụ BH thiết bị điện tử
được thể hiện thông qua bảng số liệu dưới đây: 47 2 5
2.2.2. Tình hình kinh doanh nhượng tái bảo hiểm TBĐT tại PTI 48 2 6
2.3.1 Thuận lợi 65 2 6
2.3.3. Đánh giá chung về thực trạng tái bảo hiểm TBĐT tại PTI 67 2 6
3.1.1 Định hướng chung đối với công ty 69 2 6
3.1.3 Các vấn đề đặt ra đối với hoạt động tái bảo hiểm tại PTI trong thời gian
tới: 71 2 6
- Cần hoàn thiện việc thực hiện các hợp đồng chuyển nhượng tái bảo hiểm cố
định trong năm. Đây là các hợp đồng tái có vai trò quan trọng trong hoạt động
tái bảo hiểm nói chung và trong hoạt động tái bảo hiểm thiết bị điện tử nói
riêng vì phần lớn các hợp đồng TBH thiết bị điện tử thường rơi hết vào hợp
đồng cố định. Thực hiện tốt điều này sẽ đảm bảo sự ổn định kinh doanh TBH
với các hợp đồng TBH cố định hàng năm, đồng thời tạo sự uy tín lâu dài cho
doanh nghiệp đối với các nhà tái trên thị trường, đảm bảo an toàn cho các hợp
đồng bảo hiểm có giá trị lớn cần phải tái đi. 71 2 6
- Phải tìm hiểu các phương pháp tái bảo phù hiểm hợp cho mỗi hợp đồng
nhượng tái. Không phải hợp đồng nào cũng lựa chọn hình thức tái như nhau
do đặc thù riêng của từng loại thiết bị điện tử. Phương pháp tái bảo hiểm theo


tỷ lệ thì có thể được áp dụng đối với các thiết bọ được đặt ở nơi có thể gặp rủi
ro ở cấp độ động đất, tình hình bão lụt, trình độ và khả năng quản lý của DN,
công nghệ lắp đặt thiết bị, môi trường xung quanh… Phương pháp tái bảo
Nguyễn Thị Quyên Lớp Kinh tế bảo hiểm 49
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Bảo hiểm
hiểm phi tỷ lệ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các tổn thất lớn, tổn thất
toàn bộ hoặc mang tính thảm họa, bởi vì phần tổn thất vượt quá mức tự bồi
thường của công ty nhượng coi như đã được bảo vệ 100%. Do đó, với những
đơn bảo hiểm mà đối tượng bảo hiểm là các thiết bị có giá trị lớn, có khả năng
xảy ra tổn thất đặc biệt nghiêm trọng thì nên áp dụng phương pháp TBH phi
tỷ lệ. 71 2 6
3.2.1 Đối với công ty 72 3 6
3.2.2 Đối với nhà nước 76 3 6
1.1. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN, BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG CỦA TÁI
BẢO HIỂM 3 7
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của PTI 31 7
2.1.3. Thị trường TBH thiết bị điện tử tại Việt Nam 45 7
Bảo hiểm thiết bị điện tử được xem là loại hình BH đặc thù của PTI. Trung
bình, nghiệp vụ BH này chiếm xấp xỉ 70% doanh thu của nghiệp vụ BH kỹ
thuật. Trong 6 năm qua, tình hình thực hiện nghiệp vụ BH thiết bị điện tử
được thể hiện thông qua bảng số liệu dưới đây: 47 7
2.2.2. Tình hình kinh doanh nhượng tái bảo hiểm TBĐT tại PTI 48 7
2.3.1 Thuận lợi 65 7
2.3.3. Đánh giá chung về thực trạng tái bảo hiểm TBĐT tại PTI 67 7
3.1.1 Định hướng chung đối với công ty 69 7
3.1.3 Các vấn đề đặt ra đối với hoạt động tái bảo hiểm tại PTI trong thời gian
tới: 71 7
- Cần hoàn thiện việc thực hiện các hợp đồng chuyển nhượng tái bảo hiểm cố
định trong năm. Đây là các hợp đồng tái có vai trò quan trọng trong hoạt động
tái bảo hiểm nói chung và trong hoạt động tái bảo hiểm thiết bị điện tử nói

riêng vì phần lớn các hợp đồng TBH thiết bị điện tử thường rơi hết vào hợp
đồng cố định. Thực hiện tốt điều này sẽ đảm bảo sự ổn định kinh doanh TBH
với các hợp đồng TBH cố định hàng năm, đồng thời tạo sự uy tín lâu dài cho
doanh nghiệp đối với các nhà tái trên thị trường, đảm bảo an toàn cho các hợp
đồng bảo hiểm có giá trị lớn cần phải tái đi. 71 7
Nguyễn Thị Quyên Lớp Kinh tế bảo hiểm 49
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Bảo hiểm
- Phải tìm hiểu các phương pháp tái bảo phù hiểm hợp cho mỗi hợp đồng
nhượng tái. Không phải hợp đồng nào cũng lựa chọn hình thức tái như nhau
do đặc thù riêng của từng loại thiết bị điện tử. Phương pháp tái bảo hiểm theo
tỷ lệ thì có thể được áp dụng đối với các thiết bọ được đặt ở nơi có thể gặp rủi
ro ở cấp độ động đất, tình hình bão lụt, trình độ và khả năng quản lý của DN,
công nghệ lắp đặt thiết bị, môi trường xung quanh… Phương pháp tái bảo
hiểm phi tỷ lệ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các tổn thất lớn, tổn thất
toàn bộ hoặc mang tính thảm họa, bởi vì phần tổn thất vượt quá mức tự bồi
thường của công ty nhượng coi như đã được bảo vệ 100%. Do đó, với những
đơn bảo hiểm mà đối tượng bảo hiểm là các thiết bị có giá trị lớn, có khả năng
xảy ra tổn thất đặc biệt nghiêm trọng thì nên áp dụng phương pháp TBH phi
tỷ lệ. 71 7
3.2.1 Đối với công ty 72 8
3.2.2 Đối với nhà nước 76 8
1.1. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN, BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG CỦA TÁI
BẢO HIỂM 3
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của PTI 31
2.1.3. Thị trường TBH thiết bị điện tử tại Việt Nam 45
Bảo hiểm thiết bị điện tử được xem là loại hình BH đặc thù của PTI. Trung
bình, nghiệp vụ BH này chiếm xấp xỉ 70% doanh thu của nghiệp vụ BH kỹ
thuật. Trong 6 năm qua, tình hình thực hiện nghiệp vụ BH thiết bị điện tử
được thể hiện thông qua bảng số liệu dưới đây: 47
2.2.2. Tình hình kinh doanh nhượng tái bảo hiểm TBĐT tại PTI 48

2.3.1 Thuận lợi 65
2.3.3. Đánh giá chung về thực trạng tái bảo hiểm TBĐT tại PTI 67
3.1.1 Định hướng chung đối với công ty 69
3.1.3 Các vấn đề đặt ra đối với hoạt động tái bảo hiểm tại PTI trong thời gian
tới: 71
- Cần hoàn thiện việc thực hiện các hợp đồng chuyển nhượng tái bảo hiểm cố
định trong năm. Đây là các hợp đồng tái có vai trò quan trọng trong hoạt động
Nguyễn Thị Quyên Lớp Kinh tế bảo hiểm 49
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Bảo hiểm
tái bảo hiểm nói chung và trong hoạt động tái bảo hiểm thiết bị điện tử nói
riêng vì phần lớn các hợp đồng TBH thiết bị điện tử thường rơi hết vào hợp
đồng cố định. Thực hiện tốt điều này sẽ đảm bảo sự ổn định kinh doanh TBH
với các hợp đồng TBH cố định hàng năm, đồng thời tạo sự uy tín lâu dài cho
doanh nghiệp đối với các nhà tái trên thị trường, đảm bảo an toàn cho các hợp
đồng bảo hiểm có giá trị lớn cần phải tái đi 71
- Phải tìm hiểu các phương pháp tái bảo phù hiểm hợp cho mỗi hợp đồng
nhượng tái. Không phải hợp đồng nào cũng lựa chọn hình thức tái như nhau
do đặc thù riêng của từng loại thiết bị điện tử. Phương pháp tái bảo hiểm theo
tỷ lệ thì có thể được áp dụng đối với các thiết bọ được đặt ở nơi có thể gặp rủi
ro ở cấp độ động đất, tình hình bão lụt, trình độ và khả năng quản lý của DN,
công nghệ lắp đặt thiết bị, môi trường xung quanh… Phương pháp tái bảo
hiểm phi tỷ lệ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các tổn thất lớn, tổn thất
toàn bộ hoặc mang tính thảm họa, bởi vì phần tổn thất vượt quá mức tự bồi
thường của công ty nhượng coi như đã được bảo vệ 100%. Do đó, với những
đơn bảo hiểm mà đối tượng bảo hiểm là các thiết bị có giá trị lớn, có khả năng
xảy ra tổn thất đặc biệt nghiêm trọng thì nên áp dụng phương pháp TBH phi
tỷ lệ 71
3.2.1 Đối với công ty 72
3.2.1.2 Đẩy mạnh công tác xây dựng thương hiệu, nhằm nâng cao hình ảnh cho doanh nghiệp 73
3.2.1.3 Hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin và đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT trong doanh

nghiệp 73
Một số đề xuất khác 74
a, Hoàn thiện công tác dịch vụ khách hàng: 74
3.2.2 Đối với nhà nước 76
Biểu đồ:
1.1. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN, BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG CỦA TÁI
BẢO HIỂM 3 2 5 2
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của PTI 31 2 5 2
2.1.3. Thị trường TBH thiết bị điện tử tại Việt Nam 45 2 5 2
Bảo hiểm thiết bị điện tử được xem là loại hình BH đặc thù của PTI. Trung
bình, nghiệp vụ BH này chiếm xấp xỉ 70% doanh thu của nghiệp vụ BH kỹ
Nguyễn Thị Quyên Lớp Kinh tế bảo hiểm 49
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Bảo hiểm
thuật. Trong 6 năm qua, tình hình thực hiện nghiệp vụ BH thiết bị điện tử
được thể hiện thông qua bảng số liệu dưới đây: 47 2 5 2
2.2.2. Tình hình kinh doanh nhượng tái bảo hiểm TBĐT tại PTI 48 2 6 2
2.3.1 Thuận lợi 65 2 6 2
2.3.3. Đánh giá chung về thực trạng tái bảo hiểm TBĐT tại PTI 67 2 6 2
3.1.1 Định hướng chung đối với công ty 69 2 6 2
3.1.3 Các vấn đề đặt ra đối với hoạt động tái bảo hiểm tại PTI trong thời gian
tới: 71 2 6 2
- Cần hoàn thiện việc thực hiện các hợp đồng chuyển nhượng tái bảo hiểm cố
định trong năm. Đây là các hợp đồng tái có vai trò quan trọng trong hoạt động
tái bảo hiểm nói chung và trong hoạt động tái bảo hiểm thiết bị điện tử nói
riêng vì phần lớn các hợp đồng TBH thiết bị điện tử thường rơi hết vào hợp
đồng cố định. Thực hiện tốt điều này sẽ đảm bảo sự ổn định kinh doanh TBH
với các hợp đồng TBH cố định hàng năm, đồng thời tạo sự uy tín lâu dài cho
doanh nghiệp đối với các nhà tái trên thị trường, đảm bảo an toàn cho các hợp
đồng bảo hiểm có giá trị lớn cần phải tái đi. 71 2 6 2
- Phải tìm hiểu các phương pháp tái bảo phù hiểm hợp cho mỗi hợp đồng

nhượng tái. Không phải hợp đồng nào cũng lựa chọn hình thức tái như nhau
do đặc thù riêng của từng loại thiết bị điện tử. Phương pháp tái bảo hiểm theo
tỷ lệ thì có thể được áp dụng đối với các thiết bọ được đặt ở nơi có thể gặp rủi
ro ở cấp độ động đất, tình hình bão lụt, trình độ và khả năng quản lý của DN,
công nghệ lắp đặt thiết bị, môi trường xung quanh… Phương pháp tái bảo
hiểm phi tỷ lệ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các tổn thất lớn, tổn thất
toàn bộ hoặc mang tính thảm họa, bởi vì phần tổn thất vượt quá mức tự bồi
thường của công ty nhượng coi như đã được bảo vệ 100%. Do đó, với những
đơn bảo hiểm mà đối tượng bảo hiểm là các thiết bị có giá trị lớn, có khả năng
xảy ra tổn thất đặc biệt nghiêm trọng thì nên áp dụng phương pháp TBH phi
tỷ lệ. 71 2 6 2
3.2.1 Đối với công ty 72 3 6 3
3.2.2 Đối với nhà nước 76 3 6 3
Nguyễn Thị Quyên Lớp Kinh tế bảo hiểm 49
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Bảo hiểm
1.1. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN, BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG CỦA TÁI
BẢO HIỂM 3 7 3
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của PTI 31 7 3
2.1.3. Thị trường TBH thiết bị điện tử tại Việt Nam 45 7 3
Bảo hiểm thiết bị điện tử được xem là loại hình BH đặc thù của PTI. Trung
bình, nghiệp vụ BH này chiếm xấp xỉ 70% doanh thu của nghiệp vụ BH kỹ
thuật. Trong 6 năm qua, tình hình thực hiện nghiệp vụ BH thiết bị điện tử
được thể hiện thông qua bảng số liệu dưới đây: 47 7 3
2.2.2. Tình hình kinh doanh nhượng tái bảo hiểm TBĐT tại PTI 48 7 3
2.3.1 Thuận lợi 65 7 3
2.3.3. Đánh giá chung về thực trạng tái bảo hiểm TBĐT tại PTI 67 7 3
3.1.1 Định hướng chung đối với công ty 69 7 3
3.1.3 Các vấn đề đặt ra đối với hoạt động tái bảo hiểm tại PTI trong thời gian
tới: 71 7 3
- Cần hoàn thiện việc thực hiện các hợp đồng chuyển nhượng tái bảo hiểm cố

định trong năm. Đây là các hợp đồng tái có vai trò quan trọng trong hoạt động
tái bảo hiểm nói chung và trong hoạt động tái bảo hiểm thiết bị điện tử nói
riêng vì phần lớn các hợp đồng TBH thiết bị điện tử thường rơi hết vào hợp
đồng cố định. Thực hiện tốt điều này sẽ đảm bảo sự ổn định kinh doanh TBH
với các hợp đồng TBH cố định hàng năm, đồng thời tạo sự uy tín lâu dài cho
doanh nghiệp đối với các nhà tái trên thị trường, đảm bảo an toàn cho các hợp
đồng bảo hiểm có giá trị lớn cần phải tái đi. 71 7 3
- Phải tìm hiểu các phương pháp tái bảo phù hiểm hợp cho mỗi hợp đồng
nhượng tái. Không phải hợp đồng nào cũng lựa chọn hình thức tái như nhau
do đặc thù riêng của từng loại thiết bị điện tử. Phương pháp tái bảo hiểm theo
tỷ lệ thì có thể được áp dụng đối với các thiết bọ được đặt ở nơi có thể gặp rủi
ro ở cấp độ động đất, tình hình bão lụt, trình độ và khả năng quản lý của DN,
công nghệ lắp đặt thiết bị, môi trường xung quanh… Phương pháp tái bảo
hiểm phi tỷ lệ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các tổn thất lớn, tổn thất
toàn bộ hoặc mang tính thảm họa, bởi vì phần tổn thất vượt quá mức tự bồi
thường của công ty nhượng coi như đã được bảo vệ 100%. Do đó, với những
Nguyễn Thị Quyên Lớp Kinh tế bảo hiểm 49
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Bảo hiểm
đơn bảo hiểm mà đối tượng bảo hiểm là các thiết bị có giá trị lớn, có khả năng
xảy ra tổn thất đặc biệt nghiêm trọng thì nên áp dụng phương pháp TBH phi
tỷ lệ. 71 7 4
3.2.1 Đối với công ty 72 8 4
3.2.2 Đối với nhà nước 76 8 4
1.1. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN, BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG CỦA TÁI
BẢO HIỂM 3 4
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của PTI 31 4
2.1.3. Thị trường TBH thiết bị điện tử tại Việt Nam 45 4
Bảo hiểm thiết bị điện tử được xem là loại hình BH đặc thù của PTI. Trung
bình, nghiệp vụ BH này chiếm xấp xỉ 70% doanh thu của nghiệp vụ BH kỹ
thuật. Trong 6 năm qua, tình hình thực hiện nghiệp vụ BH thiết bị điện tử

được thể hiện thông qua bảng số liệu dưới đây: 47 4
2.2.2. Tình hình kinh doanh nhượng tái bảo hiểm TBĐT tại PTI 48 4
2.3.1 Thuận lợi 65 4
2.3.3. Đánh giá chung về thực trạng tái bảo hiểm TBĐT tại PTI 67 4
3.1.1 Định hướng chung đối với công ty 69 4
3.1.3 Các vấn đề đặt ra đối với hoạt động tái bảo hiểm tại PTI trong thời gian
tới: 71 4
- Cần hoàn thiện việc thực hiện các hợp đồng chuyển nhượng tái bảo hiểm cố
định trong năm. Đây là các hợp đồng tái có vai trò quan trọng trong hoạt động
tái bảo hiểm nói chung và trong hoạt động tái bảo hiểm thiết bị điện tử nói
riêng vì phần lớn các hợp đồng TBH thiết bị điện tử thường rơi hết vào hợp
đồng cố định. Thực hiện tốt điều này sẽ đảm bảo sự ổn định kinh doanh TBH
với các hợp đồng TBH cố định hàng năm, đồng thời tạo sự uy tín lâu dài cho
doanh nghiệp đối với các nhà tái trên thị trường, đảm bảo an toàn cho các hợp
đồng bảo hiểm có giá trị lớn cần phải tái đi. 71 4
- Phải tìm hiểu các phương pháp tái bảo phù hiểm hợp cho mỗi hợp đồng
nhượng tái. Không phải hợp đồng nào cũng lựa chọn hình thức tái như nhau
do đặc thù riêng của từng loại thiết bị điện tử. Phương pháp tái bảo hiểm theo
Nguyễn Thị Quyên Lớp Kinh tế bảo hiểm 49
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Bảo hiểm
tỷ lệ thì có thể được áp dụng đối với các thiết bọ được đặt ở nơi có thể gặp rủi
ro ở cấp độ động đất, tình hình bão lụt, trình độ và khả năng quản lý của DN,
công nghệ lắp đặt thiết bị, môi trường xung quanh… Phương pháp tái bảo
hiểm phi tỷ lệ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các tổn thất lớn, tổn thất
toàn bộ hoặc mang tính thảm họa, bởi vì phần tổn thất vượt quá mức tự bồi
thường của công ty nhượng coi như đã được bảo vệ 100%. Do đó, với những
đơn bảo hiểm mà đối tượng bảo hiểm là các thiết bị có giá trị lớn, có khả năng
xảy ra tổn thất đặc biệt nghiêm trọng thì nên áp dụng phương pháp TBH phi
tỷ lệ. 71 5
3.2.1 Đối với công ty 72 5

3.2.2 Đối với nhà nước 76 5
1.1. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN, BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG CỦA TÁI
BẢO HIỂM 3
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của PTI 31
2.1.3. Thị trường TBH thiết bị điện tử tại Việt Nam 45
Bảo hiểm thiết bị điện tử được xem là loại hình BH đặc thù của PTI. Trung
bình, nghiệp vụ BH này chiếm xấp xỉ 70% doanh thu của nghiệp vụ BH kỹ
thuật. Trong 6 năm qua, tình hình thực hiện nghiệp vụ BH thiết bị điện tử
được thể hiện thông qua bảng số liệu dưới đây: 47
2.2.2. Tình hình kinh doanh nhượng tái bảo hiểm TBĐT tại PTI 48
2.3.1 Thuận lợi 65
2.3.3. Đánh giá chung về thực trạng tái bảo hiểm TBĐT tại PTI 67
3.1.1 Định hướng chung đối với công ty 69
3.1.3 Các vấn đề đặt ra đối với hoạt động tái bảo hiểm tại PTI trong thời gian
tới: 71
- Cần hoàn thiện việc thực hiện các hợp đồng chuyển nhượng tái bảo hiểm cố
định trong năm. Đây là các hợp đồng tái có vai trò quan trọng trong hoạt động
tái bảo hiểm nói chung và trong hoạt động tái bảo hiểm thiết bị điện tử nói
riêng vì phần lớn các hợp đồng TBH thiết bị điện tử thường rơi hết vào hợp
đồng cố định. Thực hiện tốt điều này sẽ đảm bảo sự ổn định kinh doanh TBH
Nguyễn Thị Quyên Lớp Kinh tế bảo hiểm 49
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Bảo hiểm
với các hợp đồng TBH cố định hàng năm, đồng thời tạo sự uy tín lâu dài cho
doanh nghiệp đối với các nhà tái trên thị trường, đảm bảo an toàn cho các hợp
đồng bảo hiểm có giá trị lớn cần phải tái đi 71
- Phải tìm hiểu các phương pháp tái bảo phù hiểm hợp cho mỗi hợp đồng
nhượng tái. Không phải hợp đồng nào cũng lựa chọn hình thức tái như nhau
do đặc thù riêng của từng loại thiết bị điện tử. Phương pháp tái bảo hiểm theo
tỷ lệ thì có thể được áp dụng đối với các thiết bọ được đặt ở nơi có thể gặp rủi
ro ở cấp độ động đất, tình hình bão lụt, trình độ và khả năng quản lý của DN,

công nghệ lắp đặt thiết bị, môi trường xung quanh… Phương pháp tái bảo
hiểm phi tỷ lệ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các tổn thất lớn, tổn thất
toàn bộ hoặc mang tính thảm họa, bởi vì phần tổn thất vượt quá mức tự bồi
thường của công ty nhượng coi như đã được bảo vệ 100%. Do đó, với những
đơn bảo hiểm mà đối tượng bảo hiểm là các thiết bị có giá trị lớn, có khả năng
xảy ra tổn thất đặc biệt nghiêm trọng thì nên áp dụng phương pháp TBH phi
tỷ lệ 71
3.2.1 Đối với công ty 72
3.2.1.2 Đẩy mạnh công tác xây dựng thương hiệu, nhằm nâng cao hình ảnh cho doanh nghiệp 73
3.2.1.3 Hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin và đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT trong doanh
nghiệp 73
Một số đề xuất khác 74
a, Hoàn thiện công tác dịch vụ khách hàng: 74
3.2.2 Đối với nhà nước 76
Nguyễn Thị Quyên Lớp Kinh tế bảo hiểm 49
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Bảo hiểm
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BH
BT
CNTT
DNBH
ĐVRR

LĐK
LĐ.PTBH
PTI
STBH
STBT
TGĐ
TN.NV

TBH
TBĐT
VMBT
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
Bảo hiểm
Bồi thường
Công nghệ thông tin
Doanh nghiệp bảo hiểm
Đơn vị rủi ro
Hợp đồng
Lãnh đạo khối
Lãnh đạo phòng Tái bảo hiểm
Tổng công ty Cổ phần Bảo hiểm Bưu
điện
Số tiền bảo hiểm

Số tiền bồi thường
Tổng Giám đốc
Trưởng nhóm nghiệp vụ
Tái bảo hiểm
Thiết bị điện tử
Vượt mức bồi thường
Nguyễn Thị Quyên Lớp Kinh tế bảo hiểm 49
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Bảo hiểm
LỜI MỞ ĐẦU
Bước sang thế kỉ 21, thế kỉ của nền khoa học kĩ thuật đang phát triển với tốc
độ nhanh chóng. Đất nước ta ngày càng hoà nhập hơn vào xu thế tiến bộ đó của thế
giới, với những bước đi công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã trang bị cho cơ sở vật chất
cho đất nước ta ngày càng tiên tiến và hiện đại hơn. Nhờ có chính sách đổi mới
đúng đắn ấy của nhà nước về công nghệ thông tin và thu hút vốn đầu tư của nước
ngoài mà hiện nay chúng ta đã có một số thiết bị điện tử được sử dụng ngày càng
nhiều vào các ngành như: Phát thanh truyền hình, Bưu chính viễn thông, các viện
nghiên cứu, các bệnh viện lớn, các nhà máy xí nghiệp Chúng ta đang thừa hưởng
những công nghệ hiện đại vào cuộc sống và công việc hàng ngày thì cũng tồn tại
song song với chính nó là các rủi ro có thể xảy ra đối với các công nghệ đó. Chẳng
hạn nếu giả sử hệ thống bưu chính viễn thông sử dụng các thiết bị điện tử mà gặp sự
cố như sét đánh hoặc điều khiển sai kĩ thuật thì thiệt hại rất là to lớn vì các thiết bị
này thường phải nhập ngoại và có giá trị rất cao so với thu nhập của chúng ta. Để
khắc phục những rủi ro có thể xảy ra thì bảo hiểm thiết bị điện tử ra đời như một
nhu cầu tất yếu giúp các tổ chức, cơ quan, xí nghiệp yên tâm, tin tưởng để sử dụng
các thiết bị điện tử cho công việc của mình. Bên cạnh sự ra đời và phát triển của
nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử thì tái bảo hiểm thiết bị điện tử cũng sớm ra đời
như một giải pháp ổn định tài chính, cũng như là một tấm lá chắn bảo vệ cho doanh
nghiệp bảo hiểm gốc trước các nguy cơ tổn thất đối với các máy móc, thiết bị điện
tử có giá trị rất lớn.
Ở Việt Nam, có thể coi bảo hiểm thiết bị điện tử và tái bảo hiểm thiết bị điện

tử là một trong những nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ mới nhất và là một nghiệp
vụ khá phức tạp đòi hỏi kĩ thuật cao trong các công đoạn và trong cách tính phí. Do
vậy nghiên cứu nghiệp vụ này là rất cần thiết đối với những người làm công tác bảo
hiểm. Xuất phát từ cơ sở thực tiễn đó, nên trong quá trình thực tập tại Tổng công ty
cổ phần bảo hiểm bưu điện em đã chọn đề tài: “Tình hình tái bảo hiểm thiết bị
điện tử tại Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Bưu điện, giai đoạn 2005 – 2010”
Chuyên đề gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về tái bảo hiểm
Chương 2: Thực trạng tái bảo hiểm thiết bị điện tử tại Tổng công ty Cổ
phần Bảo hiểm Bưu điện (PTI) giai đoạn 2005 – 2010
Chương 3: Một số đề xuất nhằm phát triển hoạt động tái bảo hiểm TBĐT
tại PTI trong thời gian tới.
Nguyễn Thị Quyên Lớp Kinh tế bảo hiểm 49
1
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Bảo hiểm
Trong thời gian làm chuyên đề, do kiến thức và thời gian có hạn nên bài của
em không tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong các thầy cô và các bạn đọc bổ
sung và hoàn thiện cho bài được tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn quý công ty
cùng các anh chị chuyên viên trong Ban Tái bảo hiểm đã tạo điều kiện cho em được
thực tập và hoàn thành chuyên đề. Đồng thời em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc
đến Thạc sĩ Bùi Quỳnh Anh đã nhiệt tình hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề.
Em xin chân thành cảm ơn!
Nguyễn Thị Quyên Lớp Kinh tế bảo hiểm 49
2
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Bảo hiểm
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÁI BẢO HIỂM
1.1. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN, BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG CỦA TÁI
BẢO HIỂM
1.1.1. Sự cần thiết khách quan của tái bảo hiểm
Trong cuộc sống và hoạt động sản xuất kinh doanh thường gặp những rủi ro

bất ngờ xảy ra. Bất kể do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường gây thiệt hại về
kinh tế, ảnh hưởng đến đời sống, đến hoạt động sản xuất kinh doanh – chưa kể đến
những tổn thất về người. Để đối phó với hậu quả của rủi ro, người ta sử dụng nhiều
biện pháp, nhưng hiệu quả nhất là bảo hiểm. Sau khi chấp nhận rủi ro từ khách hàng
chuyển giao, đến lượt mình các công ty bảo hiểm cũng có thể gặp phải rủi ro dẫn
đến khó khăn về mặt tài chính, thậm chí là phá sản.
Trong rất nhiều trường hợp, khả năng tài chính của các công ty bảo hiểm là
hữu hạn. Tuy nhiên, có rất nhiều đối tượng bảo hiểm có giá trị bảo hiểm hoặc số
tiền bảo hiểm lớn. Khi nhận được rủi ro vượt quá khả năng tài chính của mình, công
ty bảo hiểm gốc (còn gọi là công ty nhượng tái bảo hiểm) muốn thực hiện được
trách nhiệm với khách hàng và giúp họ có được giải pháp an toàn về tài chính thì họ
sẽ phải chuyển một phần rủi ro đó cho công ty tái bảo hiểm. Nhờ có sự hỗ trợ của
các công ty tái bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm mới có thể cấp đơn bảo hiểm với
số tiền bảo hiểm (hoặc giới hạn bảo hiểm) đầy đủ cho khách hàng.
Đôi khi nhà bảo hiểm và đối tượng bảo hiểm ở địa bàn cách xa nhau, nhà bảo
hiểm không đủ khả năng kiểm soát và quản lý rủi ro, hoặc cũng có trường hợp tổn
thất lớn xảy ra liên tục trong một thời gian ngắn, khiến công ty bảo hiểm không đủ
khả năng đảm bảo tài chính cho những rủi ro đó. Vấn đề đặt ra cho các công ty bảo
hiểm gốc là làm sao vừa có thể BH được cho những rủi ro đó, vừa có thể quản lý
tốt nhất các rủi ro đó mà vẫn đảm bảo được an toàn tài chính, tránh được nguy cơ
đưa DNBH đến bờ vực phá sản?
Đặc biệt, ở các thị trường bảo hiểm non trẻ, thiếu kinh nghiệm, việc xác định
phí bảo hiểm không được chính xác khiến cho việc thu không đủ bù chi, hoặc ở các
lĩnh vực bảo hiểm mới triển khai, nhà bảo hiểm chưa đủ kinh nghiệm và trình độ để
đánh giá rủi ro hoặc do quy luật số đông bù số ít chưa được đảm bảo. Điều này khiến
các công ty bảo hiểm gốc có xu hướng tìm kiếm sự hỗ trợ về kỹ thuật từ các công ty tái
bảo hiểm.
Nguyễn Thị Quyên Lớp Kinh tế bảo hiểm 49
3
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Bảo hiểm

Trong thực tế thì các công ty bảo hiểm chuyển giao hoặc phân tán rủi ro cho
những nhà bảo hiểm thông qua 2 hình thức là đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm. Đồng
bảo hiểm là việc nhiều công ty bảo hiểm cùng lúc nhận bảo hiểm cho một đối
tượng tham gia. Đồng bảo hiểm ra đời từ rất sớm. Với việc nhận bảo hiểm đơn giản,
dễ hiểu, đặc biệt với những công ty bảo hiểm mới thành lập chưa có kinh nghiệm
thì việc phân tán rủi ro diễn ra nhanh chóng, thuận tiện và làm cho khách hàng yên
tâm, tin tưởng hơn. Tuy vậy nhưng để thoả thuận được một hợp đồng đồng BH giữa
các công ty BH thường mất rất nhiều thời gian do đó dễ làm mất thời cơ trong kinh
doanh. Ngoài ra, khi tổn thất xảy ra với đối tượng BH, việc bồi thường của các công
ty cho khách hàng thường rất khó tập trung trong cùng một lúc và ảnh hưởng trực
tiếp đến việc khôi phục lại tài sản cho khách hàng. Do những hạn chế của đồng bảo
hiểm mà tái bảo hiểm ra đời nhằm khắc phục những nhược điểm của nó và được các
công ty bảo hiểm sử dụng cho tới ngày nay.
Từ thực tế diễn ra nêu trên đã chứng minh tái bảo hiểm ra đời là một tất yếu
khách quan và thực sự cần thiết đối với mỗi công ty bảo hiểm.
1.1.2 Bản chất của TBH
Tái bảo hiểm là sự bảo hiểm cho những rủi ro mà nhà BH này gánh chịu cho
những nhà BH khác, hay tái bảo hiểm là sự bảo hiểm lại. Bản chất của phương pháp
này là san sẻ rủi ro, san sẻ tài chính giữa các nhà TBH với nhau nhằm góp phần làm
cho ngành BH phát triển nhanh chóng, mọi lúc mọi nơi.
Nhiệm vụ chủ yếu của tái bảo hiểm là phân chia các rủi ro đã được bảo hiểm
của các công ty bảo hiểm gốc cho tập thể những công ty tái bảo hiểm và thông qua
đó sẽ tận dụng được một cách tối ưu các quy luật thống kê. Với nhiệm vụ trên tái
bảo hiểm ổn định kinh doanh cho các công ty bảo hiểm gốc và tạo điều kiện cho các
công ty này có thể nhận bảo hiểm cho những rủi ro vượt quá khả năng tài chính của
mình. Ví dụ sau sẽ minh họa cho điều đó:`
Công ty bảo hiểm PTI chỉ có thể thanh toán tiền bồi thường tối đa là 1 triệu
USD, muốn bảo hiểm cho một chiếc tàu chở một khối lượng hàng hóa lớn trị giá 10
triệu USD. Nếu giả sử không có tái bảo hiểm thì PTI không thể ký hợp đồng bảo
hiểm với chủ tàu đó được, vì khi không may có tổn thất toàn bộ xảy ra thì PTI sẽ bị

phá sản. Nhưng do có hình thức tái bảo hiểm nên PTI vẫn kí được hợp đồng bảo
hiểm với chủ tàu bảo hiểm cho con tàu trị giá 10 triệu USD đó. Sau khi kí hợp
đồng, PTI dùng phương pháp tái bảo hiểm phân tán bớt mức trách nhiệm mà mình
phải gánh chịu. Trong trường hợp này, PTI chỉ giữ lại 10%, còn 90% của 10 triệu
Nguyễn Thị Quyên Lớp Kinh tế bảo hiểm 49
4
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Bảo hiểm
USD PTI chuyển cho các công ty tái bảo hiểm khác, ví dụ như 50% cho Bảo Việt
và 40% cho PVI.
Thông qua ví dụ trên ta có thể thấy được tác dụng của TBH trong việc nâng
cao khả năng khai thác BH của công ty BH gốc. Từ đó sẽ nâng cao uy tín cho công
ty BH gốc. Ở đây cần phải phân biệt sự khác nhau giữa đồng bảo hiểm và tái bảo
hiểm. Mặc dù có điểm giống nhau cơ bản giữa đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm là
cùng có nhiều công ty bảo hiểm tham gia bảo hiểm cho cùng một đơn vị rủi ro,
nhưng giữa chúng có nhiều điểm khác nhau. Đó là:
Tiêu thức
so sánh
Đồng bảo hiểm Tái bảo hiểm
1. Trong
việc ký kết
hợp đồng
2. Trong
việc trả tiền
bồi thường
- Việc ký hợp đồng do
nhiều công ty bảo hiểm tiến
hành, mỗi một công ty tham
gia đồng bảo hiểm đều phải
ký tên vào giấy chứng nhận
bảo hiểm.

- Khi tổn thất xảy ra các
công ty tham gia đồng bảo
hiểm có trách nhiệm trả tiền
bồi thường trực tiếp cho
người được bảo hiểm theo
tỷ lệ mình tham gia.
- Công ty bảo hiểm gốc đứng ra ký hợp
đồng với người tham gia và sau đó phân
chia trách nhiệm cho các công ty tái bảo
hiểm theo sự thỏa thuận giữa họ và các
công ty tái bảo hiểm.
- Khi tổn thất xảy ra, trước hết công ty
bảo hiểm gốc phải đứng ra bồi thường
cho người được bảo hiểm, sau đó mới đòi
lại công ty tái bảo hiểm phần thuộc trách
nhiệm họ đảm nhận. Ở đây người được
bảo hiểm không có quan hệ trực tiếp với
công ty tái bảo hiểm.
Do có sự phiền phức trong việc ký kết hợp đồng và trả tiền bồi thường trên và
cùng với sự phát triển của nghiệp vụ tái bảo hiểm, đồng bảo hiểm đã dần dần mất đi
ý nghĩa của nó. Mặc dù vậy, hiện nay trên thị trường bảo hiểm London, đồng bảo
hiểm trong lĩnh vực hàng hải vẫn còn phổ biến.
Tùy theo góc độ quan sát của công ty bảo hiểm gốc hay công ty tái bảo hiểm
mà người ta phân chia tái bảo hiểm thành hai phần riêng biệt. Đó là chuyển tái bảo
hiểm (hay nhượng tái bảo hiểm) và nhận tái bảo hiểm:
- Chuyển tái bảo hiểm hay còn gọi là nhượng tái bảo hiểm: Có nghĩa là một
công ty bảo hiểm gốc phân tán rủi ro cho các công ty tái bảo hiểm. Trong trường
hợp này, công ty bảo hiểm gốc phải chuyển phí cho các công ty tái bảo hiểm và
nhận được từ họ yếu tố đảm bảo và ổn định kinh doanh của mình.
Nguyễn Thị Quyên Lớp Kinh tế bảo hiểm 49

5
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Bảo hiểm
- Nhận tái bảo hiểm: Là một công ty bảo hiểm nhận một phần rủi ro đã được
bảo hiểm từ một công ty bảo hiểm gốc khác. Trong trường hợp này, công ty nhận
tái bảo hiểm được hưởng số phí từ công ty bảo hiểm gốc nhằm mục đích kinh doanh
nghiệp vụ bảo hiểm, đồng thời cũng phải trả hoa hồng tái bảo hiểm cho công ty bảo
hiểm gốc.
Trong ví dụ trên thì quá trình phân tán rủi ro của công ty bảo hiểm PTI cho các
công ty tái bảo hiểm Bảo Việt và PVI được gọi là nhượng tái bảo hiểm, nếu đứng
trên góc độ của công ty bảo hiểm PTI, nhưng được gọi là nhận tái bảo hiểm nếu
đứng trên góc độ của công ty tái bảo hiểm Bảo Việt và PVI.
Ngoài ra, TBH còn bao gồm cả hình thức TBH tiếp hay còn gọi là chuyển
nhượng TBH, nghĩa là một công ty tái bảo hiểm phân chia tiếp phần trách nhiệm mà
mình đã nhận được từ một công ty bảo hiểm gốc cho các công ty tái bảo hiểm khác.
1.1.3. Chức năng của tái bảo hiểm:
Đứng trên các góc độ khác nhau, chức năng của TBH cũng có sự khác nhau:
Đối với công ty nhượng tái bảo hiểm:
Chức năng của nhượng tái bảo hiểm chủ yếu ở chỗ nhằm đảm bảo sự kinh
doanh cho công ty bảo hiểm gốc. Sự đảm bảo này phụ thuộc vào các dạnh hợp đồng
tái bảo hiểm và được thể hiện ở các mức độ khác nhau:
- Có thể giảm một cách tuyệt đối sự chênh lệch của kết quả kinh doanh, trong
lúc tỷ lệ phí và chi bồi thường vẫn giữ nguyên.
- Có thể loại trừ được những tổn thất lớn xảy ra cho nền kinh tế trong nước.
- Cân bằng được các tổn thất trong từng nghiệp vụ cũng như trong tất cả các
nghiệp vụ mà công ty triển khai.
Nhượng tái bảo hiểm là một nghiệp vụ tốn kém vì trong phí tái bảo hiểm có cả
phần chi quản lý và lợi nhuận cho công ty tái bảo hiểm. Do đó một điều cần phải
chú ý là công ty nhượng luôn phải tìm được phương án tối ưu để vừa tiết kiệm được
tài chính (ở các nước đồng tiền không chuyển đổi được thì điều này càng quan trọng
vì đó là ngoại tệ), đồng thời ổn định được hoạt động kinh doanh của mình. Có nghĩa

là chỉ phân tán bớt rủi ro khi thật sự cần thiết.
Đối với công ty nhận tái bảo hiểm:
Nhận tái bảo hiểm có chức năng hoàn toàn khác với nhượng tái bảo hiểm. Ở
đây công ty bảo hiểm xuất khẩu dịch vụ bảo hiểm nhằm ổn định kinh doanh cho các
Nguyễn Thị Quyên Lớp Kinh tế bảo hiểm 49
6
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Bảo hiểm
công ty bảo hiểm khác. Vì vậy, chức năng của nhận tái bảo hiểm giống với chức năng
của bảo hiểm đối ngoại là kinh doanh dịch vụ bảo hiểm nhằm tăng thu ngoại tệ. đồng
thời nhận tái bảo hiểm còn giúp các công ty nhận tái tăng cường quan hệ với các đối
tác trong nước cũng như quốc tế, làm gia tăng doanh thu cho công ty mình.
Đối với Nhà nước:
- Đảm bảo ổn định và sự chắc chắn cho các đơn vị kinh tế của quốc gia.
- Đảm bảo ổn định ngân sách nhà nước.
- Tăng thu nhập cho các DNBH, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước.
Thông qua nhiệm vụ và chức năng trên ta thấy bảo hiểm có một ý nghĩa quan
trọng đối việc phát triển kinh tế của một đất nước. Đảm bảo kinh doanh cho công ty
bảo hiểm nghĩa là đảm bảo được sự kinh doanh và sản xuất của các đơn vị kinh tế,
từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho họ phát triển kinh doanh. Đảm bảo tính ổn định
của ngân sách nhà nước nghĩa là đảm bảo được kế hoạch chi tiêu ngoại tệ nhằm
phát triển sản xuất một cách đồng bộ. Tăng thêm thu nhập quốc dân tức là mở rộng
được kinh doanh sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân.
1.2. CÁC HÌNH THỨC TÁI BẢO HIỂM
1.2.1. Tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn
Đây là hình thức tái bảo hiểm cơ bản và cổ điển nhất mà các nhà tái bảo hiểm
và bảo hiểm Châu Âu đã bắt đầu thực hiện từ giữa thế kỷ XIX. Danh từ “tùy ý lựa
chọn” (Facultative) có liên quan đến ý niệm là trong loại bảo hiểm này, công ty
nhượng (Ceding company) có toàn quyền lựa chọn rủi ro cần phải tái bảo hiểm và
ngược lại, nhà tái bảo hiểm (Reinsurer) có quyền nhận hay từ chối rủi ro đó. Mỗi
dịch vụ đem nhượng theo cơ sở tùy ý lựa chọn là hợp đồng tái bảo hiểm tách biệt

bao gồm toàn bộ hay một phần rủi ro mà công ty nhượng muốn nhượng cho thị
trường tái bảo hiểm.
Vào thời vào thỏa thuận đó thường quan tâm đến việc qui định thật chính xác
các chi tiết cần thỏa thuận của lần tiếp theo, các mục đích, nghĩa vụ của các bên đối
với nhau và đạt ra các điều kiện cần thiết để ràng buộc những nghĩa vụ và quyền lợi
ấy. Như vậy chỉ có hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn là phù hợp nhất, vì nó có
thể cho phép nhà tái bảo hiểm có được một ý niệm đúng về những rủi ro mà mình
phải gánh chịu trước khi tham gia hợp đồng.
Nguyễn Thị Quyên Lớp Kinh tế bảo hiểm 49
7
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Bảo hiểm
Thủ tục tiến hành:
- Công ty nhượng sẽ thông báo bằng văn bản cho nhà tái bảo hiểm biết về một
dịch vụ bảo hiểm cần tái. Trong bảng thông báo này thường bao gồm các thông tin:
tên, địa chỉ của khách hàng, tính chất của rủi ro, ngày bắt đầu và kết thúc hợp đồng,
thời hạn bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, giá trị bảo hiểm, phần giữ lại của công ty bảo
hiểm, tỷ lệ hoa hồng…
- Nhà tái bảo hiểm sau khi nhận được bản thông báo này sẽ nghiên cứu, xem
xét xem có chấp nhận được không hay phải từ chối. Nếu chấp nhận, họ thường kí tắt
vào bản thông báo này và gửi trả lại cho công ty nhượng. Rất nhiều trường hợp, họ
muốn có thêm thông tin hoặc trao đổi với công ty bảo hiểm gốc về một vấn đề nào đó.
Sự trao đổi và thỏa thuận ngày nay thường diễn ra trên điện thoại hoặc máy fax. Thỏa
thuận xong họ sẽ ký tắt vào bản thông báo và gửi trả. Nếu từ chối, các nhà tái bảo hiểm
thường yêu cầu công ty bảo hiểm gốc xác minh, xem xét lại cách thức đánh giá rủi ro,
tính toán phí bảo hiểm, phương án quản lý rủi ro của công ty bảo hiểm gốc có phù hợp
không…thông qua những việc làm này để họ tìm cách từ chối khéo.
- Sau khi nhận được thông báo trả lại của công ty nhận, rằng họ chấp nhận
tham gia, hai bên thỏa thuận lần cuối cùng trước khi đi đến ký kết và lựa chọn hợp
đồng ký kết. Như vậy dịch vụ tái bảo hiểm đã hoàn tất.
Ưu, nhược điểm của hình thức này:

+ Ưu điểm:
- Giúp công ty nhượng, nhất là các công ty BH non trẻ, có ít kinh nghiệm của
các quốc gia đang phát triển, có thể hoàn thành việc nhận bảo hiểm cho những đơn
vị rủi ro ở địa phương mà có giá trị bảo hiểm lớn, vượt quá khả năng tài chính thông
thường của mình bằng việc sử dụng chuyên môn và khả năng của thị trường TBH
quốc tế.
- Công ty nhượng có điều kiện lựa chọn để duy trì kim ngạch bảo hiểm được
cân đối, loại bỏ được những rủi ro đặc biệt lớn hoặc nguy hiểm mà một khi tổn thất
thuộc đơn vị rủi ro này xảy ra có thể làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của
công ty trong năm kế hoạch ở một nghiệp vụ bảo hiểm riêng biệt nào đó.
- Công ty nhượng có quyền chủ động trong việc chấp nhận bảo hiểm phục vụ
nhu cầu của người được bảo hiểm về những loại rủi ro mà có thể không được chấp
nhận trong các hợp đồng bắt buộc truyền thống của mình như rủi ro về động đất,
ngập lụt, bạo loạn, chiến tranh…
Nguyễn Thị Quyên Lớp Kinh tế bảo hiểm 49
8
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Bảo hiểm
- Tạo điều kiện cho công ty nhượng có thể nhờ vào hình thức TBH tùy ý lựa
chọn trước khi tận dụng khả năng các hợp đồng TBH bắt buộc của họ, tức là có điều
kiện để cải thiện sự thăng bằng của các hình thức TBH bắt buộc, cải thiện vận may
rủi trong việc đạt được những lợi ích tối đa theo các điều kiện quy định trong các
hợp đồng TBH đó của họ.
+ Nhược điểm:
- Công ty nhượng tái phải thông báo đầy đủ chi tiết nghiệp vụ bảo hiểm gốc,
nghĩa là khi áp dụng hình thức này nhiều lần thì nhà TBH thường xuyên phải tiếp
xúc và biết được ý đồ bên trong của các hợp đồng bảo hiểm gốc và kim ngạch bảo
hiểm của công ty nhượng, dẫn đến có thể bị tiết lộ những thông tin có lợi cho sự
cạnh tranh trong thị trường bảo hiểm gốc.
- Không đảm bảo thời gian tính trong việc phân tán rủi ro TBH, tức là công ty
nhượng không có sự đảm bảo chắc chắn của thị trường TBH khi họ nhận bảo hiểm

một rủi ro nào đó. Công ty nhượng sẽ mất cơ hội tranh thủ bảo hiểm nếu như ở thị
trường đó có công ty bảo hiểm khác có khả năng phục vụ tốt hơn, hoặc không có
khả năng để nhận bảo hiểm cho rủi ro có giá trị lớn, hay ít nhất cũng làm cho công
ty nhượng mất uy tín vì sự chậm trễ trả lời người được bảo hiểm.
- Chi phí hành chính, thủ tục giấy tờ tốn kém làm giảm thu nhập kinh doanh.
- Thường xuyên phải đàm phán tái lập hợp đồng TBH trước khi kí kết bảo
hiểm gốc với khách hàng mà trong nhiều trường hợp đáng lẽ không cần thiết phải
thay đổi hay hủy bỏ hợp đồng đã kí đó.
- Trong trường hợp khi khả năng tiếp nhận rủi ro của thị trường TBH quốc tế
đã gần đạt tới mức tối đa, hoặc khi phí bảo hiểm gốc quá thấp so với phí trung bình
của thị trường thì hình thức TBH tùy ý lựa chọn chỉ có thể thực hiện được với một
mức phí cao hơn so với mức phí gốc hoặc buộc phải giảm bớt mức thủ tục phí
TBH. Trong trường hợp này, sai biệt đó sẽ do công ty nhượng tự gánh chịu, hoặc
nếu không muốn vậy, công ty nhượng buộc phải giảm bớt phần trách nhiệm mà
mình cam kết trong bảo hiểm gốc.
1.2.2. Tái bảo hiểm bắt buộc (Obligatory)
Hình thức tái bảo hiểm bắt buộc là sự thỏa thuận gữa công ty nhượng và nhà
tái bảo hiểm mà trong đó, công ty nhượng tự bắt buộc mình phải nhượng cho nhà
tái bảo hiểm tất cả các đơn vị rủi ro bảo hiểm gốc mà hai bên đã quy định trong hợp
đồng cho tới một hạn mức trách nhiệm ngang với số tiền hạn mức tối đa đã được
Nguyễn Thị Quyên Lớp Kinh tế bảo hiểm 49
9
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Bảo hiểm
thỏa thuận từ trước. Ngược lại, nhà tái bảo hiểm cũng tự bắt buộc mình phải chấp
nhận toàn bộ các rủi ro đó. Theo hình thức này, công ty nhượng có toàn quyền tự do
chấp nhận và định giá phí bảo hiểm cho những đơn vị rủi ro mà khách hàng yêu cầu
bảo hiểm mà không cần phải tham khảo ý kiến của các nhà tái bảo hiểm trước.
Mặt khác, công ty nhượng cũng đơn phương thanh toán các vụ tổn thất liên
quan đến những rủi ro được bảo hiểm đó với mục đích bảo vệ quyền lợi chung giữa
công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm. Nghĩa là, trong mọi quyết định của mình, công

ty nhượng đều phải quan tâm đến quyền lợi của cả nhà tái bảo hiểm và quyền lợi
của mình. Trong hình thức này, nhà tái bảo hiểm sẽ hoàn toàn chia sẻ những vận
may rủi với công ty nhượng và sẽ chấp nhận thanh toán cho những tổn thất thuộc
phạm vi hợp đồng tái bảo hiểm đã thỏa thuận mà công ty nhượng đã thay mặt họ
giải quyết. Tuy vậy, nhà tái bảo hiểm sẽ không bị ràng buộc bởi những hành động
sơ xuất của công ty nhượng mà đi ngược lại với lợi ích của họ.
Như vậy, hình thức tái bảo hiểm bắt buộc là thỏa ước ràng buộc các bên với nhau
một cách chặt chẽ hơn là dịch vụ bảo hiểm nhượng theo hình thức tái bảo hiểm lựa chọn.
Thủ tục tiến hành
- Hai bên thỏa thuận với nhau về tất cả các dịch vụ bảo hiểm, các đơn vị rủi ro và
các loại rủi ro cần tái và nhượng tái. Mọi vướng mắc đều được thỏa thuận từ trước.
- Sau khi đã thỏa thuận, hai bên kí hợp đồng và trong năm nghiệp vụ cứ chiếu
theo hợp đồng để hai bên thực hiện đúng trách nhiệm và quyền lợi họ được hưởng.
Ưu, nhược điểm của hình thức này:
+ Ưu điểm:
- Theo hình thức này, mọi thủ tục diễn ra nhanh chóng gọn nhẹ, chi phí hành
chính ít tốn kém.
- Vận may rủi ro được chia đều cho các bên.
- Đối với những công ty nhỏ, mới thành lập ít kinh nghiệm, nếu đem chào tái
cho các công ty lớn ở nước ngoài thì họ rất dễ chấp nhận. Do vậy việc kí kết càng
diễn ra nhanh chóng.
- Với hình thức này, nhà tái bảo hiểm có điều kiện thu được phí lớn nhất, phù
hợp với nguyên tắc “số đông bù số ít” giúp cho nhà tái bảo hiểm thực hiện được tốt
vai trò kinh tế quốc dân về đẩy mạnh những tiến bộ kỹ thuật của ngành bảo hiểm
bằng việc chấp nhận rủi ro và các dạng bảo hiểm mới.
Nguyễn Thị Quyên Lớp Kinh tế bảo hiểm 49
10
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Bảo hiểm
+ Nhược điểm:
- Nếu xét toàn cục, thì tái bảo hiểm theo hình thức này, nhà tái bảo hiểm sẽ bị

bất lợi hơn so với các công ty nhượng, cho dù công ty nhượng có toàn quyền định
phí, đánh giá rủi ro.
- Trong quá trình thỏa thuận, đàm phán để đi đến ký kết hợp đồng, nếu mọi
khía cạnh trong hợp đồng còn những vấn đề gì chưa rõ, chưa chặt chẽ, thông thường
công ty nhượng cũng bị bất lợi.
1.2.3. Tái bảo hiểm lựa chọn – bắt buộc (Fac – Obli)
Sau chiến tranh thế giới thứ II, một loạt các công ty bảo hiểm mới ở tất cả các
châu lục ra đời và phần lớn trong số này nhận thức được rõ ưu nhược điểm của hai
hình thức nêu trên nên họ đã đưa ra hình thức tái bảo hiểm lựa chọn bắt buộc.
Tái bảo hiểm lựa chọn bắt buộc hay còn gọi là đảm bảo để ngỏ (open cover),
là một hình thức tái bảo hiểm mà công ty nhượng thường cố gắng thu xếp mỗi khi
những rủi ro cần tái đi trong một ngành kinh tế lên tới một mức độ nào đó.
Trong hình thức tái bảo hiểm này, công ty nhượng không bắt buộc phải nhượng tất
cả những dịch vụ mà mình nhận bảo hiểm, nhưng ngược lại nhà tái bảo hiểm buộc phải
chấp nhận các dịch vụ mà công ty nhượng đưa vào thỏa thuận này với điều kiện những
dịch vụ đó phải phù hợp với nội dung và điều khoản đã quy ước trước của hợp đồng tái
bảo hiểm. Như vậy so với hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn, nhà tái bảo hiểm bất lợi
hơn vì không có quyền được từ chối những rủi ro mà một khi họ không muốn.
Để bù đắp thiệt hại nói trên, trong hình thức này, nhà tái bảo hiểm có điều kiện
thu nhập nguồn phí tái bảo hiểm lớn hơn và có phần thăng bằng hơn so với hình
thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn. Tuy nhiên, trong hình thức này, tỷ lệ thủ tục phí
tái bảo hiểm thường cao hơn so với hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn. Trong
hình thức tái bảo hiểm lựa chọn bắt buộc vẫn có điều kiện đặt ra là nội dung của
hình thức tái bảo hiểm này không có nghĩa chỉ có những rủi ro có khả năng dễ xảy
ra tổn thất nhất thì đưa vào hợp đồng.
Nói cách khác, công ty nhượng không được lợi dụng hình thức tái bảo hiểm
này để lựa chọn rủi ro nhằm mục đích đẩy phần bất lợi cho nhà tái bảo hiểm. Để
phòng ngừa trường hợp này có thể xảy ra, nhà tái bảo hiểm phải nắm rõ ý đồ của
công ty nhượng, xem xét kỹ các rủi ro mà họ đem tái bảo hiểm và thường xuyên
phải canh chừng diễn biến của thỏa ước mình đã ký kết.

Nguyễn Thị Quyên Lớp Kinh tế bảo hiểm 49
11
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Bảo hiểm
Sử dụng hình thức tái bảo hiểm này, công ty nhượng có điều kiện để đem chào
tái từng phần trách nhiệm thặng dư của khả năng tự giữ lại của mình cho một nhà
tái bảo hiểm duy nhất hay cho một số ít các nhà tái bảo hiểm mà họ lựa chọn, thay
cho việc phải đem phân chia tất cả các phần thặng dư của khả năng tự giữ lại của
mình cho các nhà tái bảo hiểm nếu như đem tái đi theo hình thức bắt buộc. Tuy
nhiên cách tái như thế thường chỉ có thể thực hiện được bằng cách chào cho các nhà
tái bảo hiểm có tiềm lực thật lớn, vì họ là những nhà tái bảo hiểm có khả năng nhận
các rủi ro có giá trị bảo hiểm cao và như vậy sẽ không đòi hỏi phải phân tán cho
nhiều nhà bảo hiểm, đỡ tốn kém chi phí.
Thủ tục tiến hành:
- Công ty nhượng phải cân nhắc nên tái đi những dịch vụ nào, giữ lại dịch vụ nào.
Tất cả các dịch vụ đem tái đi phải xác định thật rõ ràng những nội dung cần thiết.
- Sau khi đã thỏa thuận, công ty nhượng sẽ lựa chọn hợp đồng tái bảo hiểm
nhưng tất cả phải phù hợp với nội dung của hợp đồng đã lựa chọn.
- Trên cơ sở lựa chọn hợp đồng ký kết, hai bên cam kết theo trách nhiệm và
quyền lợi của mình.
Ưu, nhược điểm của hình thức này:
+ Ưu điểm:
- Công ty nhượng có lợi hơn, vì không phải dịch vụ bảo hiểm nào cũng phải
đem tái đi.
- Giúp công ty nhượng có điều kiện cân đối được giá trị bảo hiểm hoặc số tiền
bảo hiểm giữ lại về phía mình để từ đó chủ động và ổn định kinh doanh.
- Nhờ có hình thức này mà hoạt động của các công ty nhượng nhỏ bé thiếu kinh
nghiệm ổn định hơn, đồng thời vẫn nâng cao được năng lực khai thác của mình.
- Chi phí hành chính ít tốn kém.
+ Nhược điểm:
- Vì công ty nhượng phải thông báo đầy đủ, chi tiết đặc điểm của các rủi ro

cần tái đi, nên nếu tiếp xúc nhiều, quan hệ lâu dài với một nhà TBH nào đó rất dễ bị
lộ thông tin. Đặc biệt nếu nhà TBH biết được ý đồ của công ty nhượng họ sẽ có
chiến lược đối phó.
- Về mặt thời gian, từ lúc thỏa thuận đến lúc ký hợp đồng thường bị kéo dài.
Bởi vậy, khả năng khai thác, chấp nhận bảo hiểm cho khách hàng bị hạn chế, dễ
làm mất uy tín cho công ty nhượng.
Nguyễn Thị Quyên Lớp Kinh tế bảo hiểm 49
12
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Bảo hiểm
- Chi phí hành chính rườm rà, tốn kém ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của
công ty.
- Có thể thường xuyên phải đàm phán lại mới ký kết được hợp đồng TBH vì
thế công ty nhượng sẽ ít có cơ hội tiếp cận thị trường để mở rộng hoạt động kinh
doanh, thậm chí phải hủy bỏ các hợp đồng bảo hiểm gốc, nếu các nhà TBH chèn ép
các dịch vụ mà công ty nhượng đưa vào thỏa thuận, với điều kiện các dịch vụ đó
phải phù hợp nội dung, điều khoản hai bên đã quy ước từ trước.
1.3. CÁC PHƯƠNG PHÁP TÁI BẢO HIỂM
1.3.1. Tái bảo hiểm theo tỷ lệ (Proportional Reinsuarance)
a, Khái niệm:
Tái bảo hiểm theo tỷ lệ là một phương pháp tái bảo hiểm mà trong đó trách
nhiệm của công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm đối với mỗi đơn vị rủi ro được bảo
hiểm phân bổ theo tỷ lệ tham gia của mỗi bên trên cơ sở số tiền bảo hiểm.
b, Đặc điểm:
Tái bảo hiểm theo tỷ lệ có đặc tính sau:
- Trách nhiệm của công ty nhượng và công ty nhận TBH được tính theo tỷ
lệ tương ứng của mỗi bên tham gia.
- Phí bảo hiểm sẽ được chia sẻ giữa công ty nhượng và công ty nhận TBH theo
tỷ lệ tham gia của mỗi bên về số tiền bảo hiểm.
- Đây là phương pháp tái bảo hiểm rất đơn giản, dễ hiểu, dễ áp dụng, dễ tính toán.
c, Các phương pháp tái bảo hiểm theo tỷ lệ

Tái bảo hiểm số thành
+ Bản chất:
Theo phương pháp này, các công ty nhượng giữ lại cho mình một tỷ lệ % nhất
định tính trên mỗi đơn vị rủi ro, phần còn lại đem tái đi cho các công ty khác. Bởi
vậy, phí bảo hiểm và số tiền bồi thường nếu có cũng được phân bổ theo tỷ lệ mỗi
bên đảm nhận.
Dạng tái bảo hiểm số thành không mang tính chất san bằng đối với các giá trị
được bảo hiểm. Nó cung cấp một sự đảm bảo giản đơn và có hiệu quả trong mọi
trường hợp, đặc biệt trong trường hợp có sự tích lũy của một số lớn các vụ bồi
thường tổn thất nhỏ hoặc trung bình mà gây ra bởi cùng một sự cố.
Nguyễn Thị Quyên Lớp Kinh tế bảo hiểm 49
13
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Bảo hiểm
+ Đặc điểm:
- Đơn vị rủi ro nào cũng phải đem tái đi.
- STBH tối đa trên mỗi đơn vị rủi ro thường khác nhau, vì mức giữ lại của các
bên là số tương đối.
- Tái bảo hiểm theo phương pháp này dễ hiểu, dễ áp dụng, đơn giản, dễ tính toán.
- Phương pháp này rất phù hợp với những nghiệp vụ bảo hiểm mà STBH
trên mỗi đơn vị rủi ro có mức độ biến động không lớn (như xe cơ giới, hàng
hóa vận chuyển nội địa, hàng hóa xuất nhập khẩu…)
Tái bảo hiểm mức dôi:
+ Bản chất:
Theo phương pháp này, công ty nhượng giữ lại cho mình một STBH nhất
định, phần còn lại đem tái đi cho công ty khác. Bởi vậy, phí bảo hiểm và STBH nếu
có cũng được phân bổ theo tỷ lệ mỗi bên đảm nhận.
Tái bảo hiểm mức dôi là dạng tái bảo hiểm cổ xưa và phổ biến nhất. Thông
thường dạng này được sử dụng khi khối lượng dịch vụ gồm nhiều rủi ro có những
số tiền bảo hiểm rất chênh lệch. Dạng tái bảo hiểm này giúp công ty nhượng có
được sự bù đắp cần thiết cho những rủi ro mà họ nhận bảo hiểm. Với dạng tái bảo

hiểm này, công ty nhượng đảm bảo được sự cân bằng trong kinh doanh và có thể
nhận bảo hiểm cho những rủi ro có giá trị lớn hơn khả năng tài chính của mình.
Ngoài ra, áp dụng dạng tái bảo hiểm này, công ty nhượng sẽ có điều kiện giữ lại
một khối lượng kim ngạch bảo hiểm lớn và do đó, có mức phí thu nhập lớn không
cần phải đem TBH.
+ Đặc điểm:
- Không phải rủi ro nào cũng đem tái đi mà chỉ tái đi những đơn vị rủi ro nào
vượt quá mức giữ lại.
- Vì mức giữ lại trên mỗi đơn vị rủi ro chính là số tuyệt đối nên mức giữ lại tối
đa trên mỗi đơn vị rủi ro thường bằng nhau.
- Nếu những đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm quá lớn, các nhà tái bảo hiểm
không đảm nhận hết theo như ký kết ban đầu, bản thân công ty nhượng phải xử lý
tình huống này. Thông thường bằng ba cách sau:
+ Đàm phán lại với các nhà tái bảo hiểm, nếu họ đồng ý sẽ tiếp tục phân bổ
cho đến hết thì thôi.
Nguyễn Thị Quyên Lớp Kinh tế bảo hiểm 49
14

×