Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ÁP DỤNG CÔNG NGHỆ DẠY HỌC DỰ ÁN VÀO BÀI GIẢNG MÔN LỊCH SỬ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (921.67 KB, 61 trang )

Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận
1
Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận
LỜI CÁM ƠN
Xin chân thành cám ơn quý Thầy Cô Trường ĐHSP TP Hồ Chí Minh,
Phòng GD Trung học – GD Thường xuyên Sở GD&ĐT Bình Dương, Ban
giám hiệu, Ban chấp hành Công đoàn Trường THPT Dĩ An, Tổ Sử - Địa -
Giáo dục công dân, Tổ văn phòng, đặc biệt là quý thầy cô trong Lớp tập
huấn “Chương trình Partners in Learning – Đổi mới phương pháp dạy và
học” do Sở GD&ĐT Bình Dương kết hợp cùng Microsoft Việt Nam tổ chức
trong Hè 2008.
Những nội dung đã học tập và kinh nghiệm tích lũy được từ đề tài “Áp
dụng công nghệ dạy học dự án vào bài giảng lịch sử” nầy sẽ là hành trang
vô cùng quý báu cho quá trình đổi mới phương pháp dạy học lịch sử của
bản thân chúng tôi trong thời gian sắp tới.
Dĩ An, ngày 29 tháng 3 năm 2009
Người thực hiện,
“ÁP DỤNG CÔNG NGHỆ DẠY HỌC DỰ ÁN
VÀO BÀI GIẢNG LỊCH SỬ”
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài 5
2. Từ dư luận của báo chí về việc đổi mới kiểm tra đánh giá HS 8
3. Tính cấp bách của đề tài nghiên cứu 10
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 11
5. Mức độ nghiên cứu đề tài 12
2
Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận
6. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu 13
7. Cơ sở lí luận thực tiễn và PP nghiên cứu 13
8. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài 17


9. Kết cấu của đề tài 18
NỘI DUNG
Phần I. Nêu thực trạng của vấn đề
1. Thuận lợi khi thực hiện đề tài 19
2. Khó khăn khi thực hiện đề tài 20
Phần II. Mô tả và giới thiệu các nội dung, biện pháp chính
1. PP làm việc theo nhóm 21
Ưu điểm
Mục tiêu cần đạt
Các bước tiến hành
Có hai dạng nhóm làm việc
Điều kiện để đạt hiệu quả
Hướng dẫn HS đóng vai trò GV
Bước chuyển tiếp nhanh
Tìm sự hưởng ứng của HS
Giáo án đề nghị cho tiết day học dự án
2. Vài nét về áp dụng công nghệ trong dạy học 35
Các hình thức sử dụng CNTT trong dạy học
Sử dụng các bài giảng điện tử trong giảng dạy
Sử dụng internet trong tìm kiếm thông tin trực tuyến
Trao đổi chuyên môn, chia sẻ tài nguyên trên các mạng xã hội
3. Một vài kinh nghiệm trong việc sử dụng Blog trong dạy học 39
Thực chất vấn đề
Mỗi GV có một cách thiết kế trang web cá nhân
3
Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận
Sử dụng website cá nhân vào việc dạy học
Hoạt động học tập của HS có chuyển biến tích cực
4. Khai thác và sử dụng internet vào bài giảng lịch sử 42
5. Quá trình cải tiến bài giảng 46

PP học tập mới
Câu hỏi cải tiến bài giảng
Cải tiến bài giảng và thực hành hướng dẫn
Xây dựng bài giảng
Phần III. Kết quả và kinh nghiệm rút ra được từ SKKN
1. Kết quả đạt được 48
2. Bài học kinh nghiệm 48
Phần IV. Khả năng ứng dụng và triển khai SKKN
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Trong năm học 2006-2007 tôi đã áp dụng đề tài “Đổi mới phương pháp
dạy học lịch sử ở Trường THPT qua một tiết dạy bằng giáo án điện tử”, năm
học 2007-2008 tôi tiếp tục thực hiện đề tài “Ứng dụng CNTT&TT kết hợp sách
4
Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận
bài tập để đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường THPT” bước đầu đã
đạt được một số kết quả và tích luỹ được một số kinh nghiệm trong quá trình
tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) bộ môn lịch sử (LS) của mình ở
đơn vị trường THPT Dĩ An.
Kết quả bước đầu đã làm thay đổi toàn bộ cách nghĩ và cách soạn giảng
mà tôi đã được học ở trường ĐHSP trước đây. Sự thay đổi PPDH cũng đã tạo
hứng thú trong HS nhiều hơn trong tiết học LS của tôi, bởi vì trong một tiết dạy
tôi đã cung cấp cho các em nhiều hình ảnh, sơ đồ, biểu mẩu… và giới thiệu cho
các em biết những điều mới lạ hơn trong SGK, cung cấp cho các em những
kiến thức mới, tầm nhìn mới hơn về việc học lịch sử.
Trong dịp hè 2008 tôi được tham dự lớp tập huấn giảng dạy theo phương
pháp mới do Sở GD-ĐT Bình Dương phối hợp cùng sự tài trợ của Microsoft
Việt Nam. Sau khi dự lớp tập huấn nầy tôi có thêm được thông tin bổ ích về

việc đầu tư công nghệ ứng dụng vào dạy và học với tên gọi là “Dạy học theo
dự án”. Cách dạy nầy giống như phương pháp thuyết trình mà tôi đã được học
trước đây ở trường ĐHSP, tuy nhiên cái mới là cách dạy nầy được áp dụng ở
Mĩ và các nước tiên tiến châu Âu. Trong một tiết dạy, HS được làm chủ lớp
học, tự tìm tòi và khám phá theo nội dung bài học đã được GV hướng dẫn cho
HS. Tiết học không quá máy móc bắt buộc HS phải ghi chép hết nội dung bài
học có trong SGK như cách làm hiện nay của các trường phổ thông ở Việt
Nam. Đầu năm học tôi được nghe phổ biến chủ đề của năm học 2008-2009 là
“Năm học đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực”.
Theo Ông Quách Tuấn Ngọc, Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin Bộ
Giáo dục và Đào tạo : “Năm 1998, ngay sau khi Internet được mở ra tại Việt
Nam, Trung tâm CNTT của Bộ (nay là Cục CNTT) đã xây dựng đề án Mạng
giáo dục EduNet, để nối mạng toàn ngành và phát triển dịch vụ thông tin giáo
dục.
5
Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận
Ý tưởng nội dung cơ bản của dự án Mạng giáo dục có thể tóm tắt như
sau: Nối tất cả các cơ sở giáo dục và đào tạo vào Internet trên một xa lộ quốc
gia (backbone), phát triển các dịch vụ thông tin và ứng dụng trên Internet, phát
triển thông tin (số) về giáo dục; đưa công nghệ dạy học trực tuyến lên mạng
EduNet để chia sẻ dùng chung, để mọi người có thể học mọi nơi, mọi lúc; mỗi
trường đại học (ĐH), cao đẳng (CĐ) phải có website riêng, mỗi giáo viên và
học sinh có email theo tên miền của trường.
Năm học 2008-2009 sẽ là bước ngoặt lớn trong lịch sử Internet ở Việt
Nam nói chung và trong giáo dục nói riêng. Ngày 4/1/2008, Tổng công ty Viễn
thông Quân đội Viettel đã ký văn bản hợp tác với Cục CNTT về triển khai
mạng giáo dục. Theo đó, Viettel cung cấp dịch vụ kết nối Internet băng thông
rộng, kết nối kênh thuê riêng (leased line) qua đường cáp quang… nhằm giải
quyết tình trạng học sinh, sinh viên, giáo viên là những người cần dùng

Internet nhất thì lại gặp khó khăn nhất do giá thành cao, do tốc độ kết nối quá
chậm.
Hiện nay tại Bộ đã kết nối đường cáp quang 34 Mbps trong nước và 2
Mbps đi quốc tế. Viettel cung cấp gói Net+ (gói chất lượng cao nhất) tới các
cơ sở giáo dục. Kết nối cáp quang từ Bộ về các sở giáo dục và đào tạo với
băng thông 4 Mbps. Ba bên (Cục CNTT, các Sở GDĐT và Viettel) sẽ phối hợp
lên danh sách các cơ sở giáo dục khó khăn để có chính sách hỗ trợ kết nối. Các
cơ sở giáo dục hưởng lợi từ dịch vụ ưu đãi này sẽ bao gồm cả các trường mầm
non, mẫu giáo (các sở cung cấp PC), các trung tâm giáo dục cộng đồng, trung
tâm giáo dục thường xuyên, các trường dạy nghề, các phòng giáo dục.
Đối với các trường vùng sâu, vùng xa, không thể rải cáp Internet và nếu
có điện, cần lên phương án kết nối khác (có thể là qua vệ tinh). Viettel cam kết
hỗ trợ cung cấp miễn phí qua sóng điện thoại di động và cần thời gian thử
nghiệm vì địa hình các vùng này rất khó khăn. Chúng tôi cũng đã đề nghị
Viettel tài trợ miễn phí kết nối Internet cho một số điểm tỉnh như Điện Biên,
Lai Châu, Hà Giang…
Năm học 2007-2008, Cục CNTT đã hướng dẫn và hỗ trợ miễn phí cho
các trường ĐH, CĐ, các sở, các trường phổ thông tạo hệ thống email. Bước
vào năm học mới này, mục tiêu đặt ra là đến ngày 31/10/2008, tất cả các cơ sở
giáo dục và đào tạo hoàn tất công việc này.
Trong năm vừa qua, Cục CNTT đã xây dựng và cung cấp hệ thống
email @moet.edu.vn đến tất cả các cơ sở giáo dục để giao dịch văn bản điện
tử. Chúng tôi đề nghị lãnh đạo Sở GDĐT các tỉnh, thành phố hằng ngày khai
thác hệ thống email này và đôn đốc các phòng ban sử dụng để nhận thông tin
văn bản từ Bộ một cách nhanh chóng.
Cho đến nay, giáo viên các trường đang chủ yếu soạn bài trình chiếu
powerpoint và một số phần mềm dạy học. Vẫn còn có sự nhầm lẫn khá lớn
6
Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận
giữa khái niệm về giáo án điện tử với bài trình chiếu, bài giảng điện tử, giữa

thiết bị dạy học với phần mềm.
Năm học ứng dụng CNTT sẽ tạo ra bước ngoặt mới về việc làm bài
giảng điện tử theo công nghệ e-Learning. Trong những năm qua, Cục CNTT
đã xây dựng website e-Learning để tuyên truyền phổ cập
công nghệ, nghiên cứu thử nghiệm và tuyển chọn các phần mềm e-Learning
thích hợp, đã Việt hoá phần mềm mã nguồn mở Moodle và đến nay đã có
khoảng 70 trường ĐH, CĐ sử dụng. Cục CNTT sẽ tổ chức chuyển giao các
phần mềm công cụ tạo bài giảng đạt chuẩn quốc tế, phù hợp với yêu cầu Việt
Nam cho các Sở.
Bộ GDĐT (Cục CNTT chủ trì) sẽ tổ chức cuộc thi giáo viên làm bài
giảng điện tử theo công nghệ e-Learning, giáo viên dạy giỏi ứng dụng CNTT,
nhằm mục đích khuyến khích động viên giáo viên tiếp cận công nghệ mới
cũng như chia sẻ kinh nghiệm. Khẩu hiệu của chúng ta là: Nếu mỗi giáo viên
góp mỗi năm 1 bài giảng e-Learning, chúng ta sẽ có 1 triệu bài giảng điện tử
trong 1 năm và nếu bài giảng đó soạn thêm bằng tiếng Anh, chúng ta có thể
chia sẻ với bạn bè giáo viên ở các nước khác về công nghệ làm bài giảng e-
Learning.
Cục CNTT cũng sẽ tổ chức tuyển chọn các phần mềm dạy học khác để
phổ biến trên tinh thần tiết kiệm, hợp chuẩn quốc tế, dễ sử dụng và khai thác.
Tại sao lại phải là công nghệ e-Learning? Đó là vì e-Learning có chuẩn
công nghệ SCORM, AICC được thế giới công nhận, nên có thể chia sẻ bài
giảng giữa các nước với nhau, có nhiều công cụ xây dựng bài giảng hợp
chuẩn, đáp ứng nhu cầu học tập mọi nơi, mọi lúc một cách mềm dẻo, có thể
học trực tuyến qua Internet, cũng có thể học ngoại tuyến qua đĩa CD. Đổi lại,
chúng ta cũng có thể tận dụng các nguồn bài giảng của các nước khác.” (Theo
Chinhphu.vn)
Từ những lí do nêu trên nên tôi đã tiếp tục ứng dụng đề tài : “Áp dụng
công nghệ dạy học dự án vào bài giảng lịch sử”
2. Từ dư luận của báo chí về việc Đổi mới cách kiểm tra đánh giá học sinh
Đổi mới cách ra đề kiểm tra bậc phổ thông

(Dân trí) - Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng, Bộ GD-ĐT yêu
cầu các đơn vị đổi mới ra đề kiểm tra 15 phút, 1 tiết, học kỳ, theo hướng
kiểm tra kiến thức cơ bản, năng lực vận dụng kiến thức của người học,
hạn chế lối học tủ, học vẹt, ghi nhớ máy móc.
Theo đó, các trường tăng cường đổi mới khâu kiểm tra, đánh giá thường
xuyên, định kỳ. Phối hợp có hiệu quả giữa các hình thức kiểm tra vấn đáp, tự
luận và trắc nghiệm khách quan. Trang bị cho người học kiến thức, kỹ năng
đáp ứng yêu cầu đối với chương trình của từng cấp học.
7
Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận
Đặc biệt, các trường phải có biện pháp quản lý tích cực, chủ động trong
dạy và học, nghiêm túc trong kiểm tra, đánh giá để phản ánh đúng chất lượng
dạy và học, thực hiện thành công nhiệm vụ năm học theo tinh thần cuộc vận
động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục;
nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo và việc ngồi nhầm lớp”.
Các trường có kế hoạch tổ chức việc ôn tập bồi dưỡng nâng cao kiến
thức cho người học, cần chú ý đối tượng có học lực yếu, đối tượng chưa tốt
nghiệp ở các kỳ thi trước; khắc phục tình trạng học sinh “ngồi nhầm lớp”; kiên
quyết không để học sinh chưa đủ trình độ lớp 12 dự thi tốt nghiệp trung học
phổ thông.
Bộ yêu cầu các Sở GD-ĐT rà soát, lựa chọn trong số cán bộ, giáo viên
những người có năng lực chuyên môn để tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ biên
soạn, biên tập đề thi để từng bước xây dựng ngân hàng câu hỏi thi phục vụ cho
việc ra đề kiểm tra. (Hồng Hạnh)
Đổi mới kiểm tra, đánh giá: Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
Bấy lâu nay, học sinh thường “ngán” học các môn xã hội. Vậy, làm thế nào
để các em yêu thích các môn học này?
Đây là điều các nhà làm giáo dục luôn trăn trở. Ngày 3-3 vừa qua, Sở GD-
ĐT Bình Dương đã có buổi hội thảo, nhằm mổ xẻ việc đổi mới kiểm tra đánh
giá, thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học các môn ngữ văn, lịch sử, địa lý,

giáo dục công dân.
Những hạn chế
Từ trước đến nay, giáo viên thường thực hiện
kiểm tra, đánh giá chất lượng học tập môn học của
học sinh qua kiểm tra miệng, 15 phút, 1 tiết. Tuy
nhiên, một số giáo viên chưa có sự sáng tạo trong
việc thực hiện các hình thức kiểm tra này. Cụ thể
như, kiểm tra miệng còn thực hiện máy móc, nội
dung kiểm tra chủ yếu nhắc lại các kiến thức của
bài cũ. Cũng chính vì điều này, học sinh có thói quen học bài thuộc lòng. Còn
kiểm tra 15 phút thực tế giáo viên thường sử dụng với mục đích chính là thực
hiện theo quy định của kế hoạch dạy học để lấy cho đủ số điểm quy định, nên
tác dụng đích thực của loại bài này chưa phát huy đầy đủ. Ở dạng bài kiểm tra
1 tiết cũng vậy, tuy được thực hiện khá đầy đủ và có ý thức trách nhiệm, nhưng
nội dung kiểm tra không bảo đảm được số lượng và chất lượng. Về nội dung,
gần đây giáo viên đã quan tâm đánh giá kỹ năng, nhưng chưa thường xuyên.
Giáo viên thường chỉ kiểm tra một vài nội dung cho là quan trọng, học sinh có
thể đoán, sau đó học tủ, học vẹt
Ông Lý Văn Trung, Trưởng phòng Giáo dục phổ thông - thường xuyên, Sở
Giáo dục - Đào tạo đánh giá: Trong nhà trường hiện nay, việc xếp loại đánh giá
8
Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận
năng lực và báo cáo kết quả, thành tích học tập của học sinh, dạy học của giáo
viên, kết quả thi đua của lớp được căn cứ trên điểm số. Vì chạy theo điểm số,
giáo viên chỉ chú trọng dạy, học sinh học những gì sẽ kiểm tra, thi, bỏ qua
những những nội dung kiến thức kỹ năng không phục vụ cho thi cử. Hậu quả,
kết quả kiểm tra khó đo lường và phản ánh đúng năng lực, trình độ học sinh.
Nỗ lực đổi mới
Đổi mới chương trình và sách giáo khoa trong đó có đổi mới phương pháp
dạy học và đổi mới kiểm tra, đánh giá. Cô Tuyết Lan, giáo viên dạy ngữ văn

trường THPT chuyên Hùng Vương chia sẻ: Thời gian qua, tổ văn chúng tôi đã
có nhiều cố gắng tiến hành từng bước việc áp dụng đổi mới công tác kiểm tra,
đánh giá học sinh, đồng thời góp phần thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học
bộ môn. Đối với kiểm tra miệng, chúng tôi không nhất thiết phải kiểm tra đầu
mỗi tiết học. Vì như thế vừa mất thời quan, vừa mang tính công thức thủ tục và
đặt học sinh vào tình thế căng thẳng, bắt buộc học để đối phó. Thay vào đó,
giáo viên có thể linh hoạt về thời gian và hình thức kiểm tra. Cụ thể như, trong
quá trình giảng bài mới, khi cần liên hệ đến kiến thức của bài học các tiết trước,
giáo viên nêu câu hỏi, sau đó gọi học sinh phát biểu, giáo viên nhận xét và cho
điểm. Nội dung kiểm tra, không chỉ kiểm tra bài tiết học trước, mà giáo viên có
thể kết hợp vừa kiểm tra bài cũ, vừa kiểm tra phần chuẩn bị bài mới. Trong quá
trình dạy, có những câu hỏi cần học sinh tư duy trả lời, nếu các em trả lời đúng,
giáo viên vẫn cho điểm.
Trong khi đó, các giáo viên ở trường THCS Chu Văn An (TX.TDM) kiểm
tra 15 phút, vừa kiểm tra nội dung vừa kết hợp thực hành, vận dụng vào viết
đoạn văn với vấn đề mang tính xã hội được mọi người quan tâm, như: vấn đề
môi trường, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh Giáo viên
còn cho điểm học sinh tham gia trả lời những câu hỏi nâng cao để khuyến
khích học sinh; cho điểm những bài sưu tầm, tranh ảnh phục vụ cho tiết học.
Kiểm tra học kỳ có trắc nghiệm từ 3-4 điểm, tùy theo khối lớp, đề ra có ma trận
nhưng mới chỉ ở mức ban đầu.
Đổi mới phương pháp giáo dục cũng đang được các trường ở vùng sâu, vùng
xa nỗ lực thực hiện. Thầy Đào Duy Nội, giáo viên dạy môn địa trường THPT
Phan Bội Châu, Dầu Tiếng nói vui: Tình trạng học bài các môn xã hội nói
chung là một “cực hình” với học sinh. Để tình trạng này không còn xảy ra, cần
thiết phải đổi mới cách thức kiểm tra, đánh giá. Để tránh kiểu học tủ, học vẹt
của học sinh, nội dung kiến thức kiểm tra trọng tâm cùng với khả năng liên hệ
thực tế, làm, học sinh biết sử dụng mô hình, đọc bản đồ, lược đồ
Giáo viên dạy môn lịch sử của trường THPT Tây Sơn (Phú Giáo) có kinh
nghiệm ra đề kiểm tra có sự phân bố tỷ lệ phù hợp giữa các câu hỏi ở mức độ

nhận biết (55-60%), thông hiểu (25-30%), vận dụng (15-20%).
(Theo Báo Bình Dương)
05/03/2009
3. Tính cấp bách của đề tài nghiên cứu
9
Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận
“Áp dụng công nghệ dạy học dự án vào bài giảng lịch sử” là việc làm
cấp bách và cần thiết. Hiện nay nền kinh tế tri thức đang đóng vai trò quyết
định trong sản xuất vật chất. Nhờ những phương tiện thông tin hiện đại mà
khoảng cách về không gian được rút ngắn hơn. Xu thế toàn cầu hóa yêu cầu
con người phải thay đổi nhịp sống của mình thì mới nắm bắt kịp những thay
đổi nhanh chóng của nhân loại, mới thích ứng và phát triển theo nhịp sống
đương đại.
Khối lượng kiến thức của nhân loại ngày càng nhiều, thời gian và điều
kiện tiếp thu lại có hạn mà yêu cầu của ngành GD về chất lượng đào tạo phải
ngày càng cao. Chính vì thế việc đổi mới nội dung và PPDH LS có tầm quan
trọng đặc biệt. Làm thế nào để HS không bị nhồi nhét kiến thức, lo học tủ, học
vẹt để thi cử?
Với chủ trương vận động của Bộ GD&ĐT, càng đòi hỏi người GV
DHLS phải cải tiến PP soạn giảng, làm thế nào để HS có hứng thú, phát huy tư
duy, óc phán đoán trong các vấn đề về các sự kiện LS để các em hiểu được
nguyên nhân, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm LS trong quá trình dạy học LS.
Qua ba năm giảng dạy SGK mới, về hình thức trình bày, cách thể hiện
nguồn kiến thức trong mối quan hệ giữa kênh hình và kênh chữ đã tạo điều
kiện cho GV có thể tiến hành đổi mới PPDH LS.
Từ công tác bồi dưỡng thay sách lớp 10, 11, 12 việc đổi mới PPDH LS
ở trường THPT đã trở thành một yêu cầu cấp bách của GV LS, vì không chỉ để
đáp ứng mục tiêu và nhiệm vụ của bộ môn LS ở trường THPT mà còn góp
phần làm thế nào để thay đổi nhận thức của xã hội về vị trí, tầm quan trọng của
bộ môn LS đối với việc GD thế hệ trẻ.

Việt Nam đang bước vào hội nhập quốc tế và khu vực cho nên càng đòi
hỏi cấp bách việc GD phải đổi mới và nâng cao chất lượng để đáp ứng yêu cầu
trên. Trước tiên và quan trọng hơn cả là việc DHLS phải phấn đấu vươn tới
chuẩn chung về chương trình đào tạo, về mô hình quản lý, đặc biệt là phải đạt
chuẩn về chất lượng và các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo. Nhiều
10
Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận
chuyên gia GD cho rằng tìm được lời giải cho vấn đề nầy cũng có nghĩa là tìm
được hướng cải cách chương trình, thay SGK, cũng chính là mục đích tìm ra
một hướng di cho phù hợp tình hình hiện nay của đơn vị.
Đề tài “Áp dụng công nghệ dạy học dự án vào bài giảng lịch sử” nhằm
giải quyết vấn đề cấp bách của GV bộ môn LS và của công tác DHLS mà xã
hội đang quan tâm hiện nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Bộ môn LS ở trường THPT có ưu thế đặc biệt trong việc phát triển con
người toàn diện vừa có tri thức khoa học, có tư tưởng đạo đức đúng đắn, đậm
đà bản sắc dân tộc, vừa có khả năng tự lập. linh hoạt, sáng tạo … trong cuộc
sống. Song muốn phát huy được ưu thế nầy, trước hết, HS phải nắm vững kiến
thức LS. Vậy làm thế nào để HS nắm vững kiến thức trong DHLS ở trường
THPT?
Căn cứ vào mục tiêu bộ môn LS ở trường THPT, đặc trưng của hiện
thực LS, đặc điểm nhận thức của HS và yêu cầu đổi mới GD hiện nay theo chỉ
đạo của Bộ GD – ĐT hiện nay, chúng ta thấy rằng, việc giúp HS nắm vững
kiến thức là vấn đề hết sức cần thiết. Song trước hết cần thống nhất khái niệm
“nắm vững kiến thức” của HS. Xung quanh khái niệm nầy, các nhà GD, tâm lí
và GDLS đã đề cập đến nhiều khía cạnh.
Trong những tài liệu PP DHLS, các nhà GDLS cũng khẳng định rằng,
nắm vững kiến thức trong DHLS là phải “biết”, “hiểu” LS và “ứng dụng”.
Đây là con đường nhận thức biện chứng LS từ nắm sự kiện đến tạo biểu tượng,
hình thành khái niệm để hiểu bản chất, rút ra bài học kinh nghiệm và quy luật

LS. Trong đó, “biết” LS chưa phải là thước đo chất lượng của việc học tập,
nghiên cứu LS, mà điều chủ yếu là hiểu LS, vận dụng tri thức LS vào tiếp thu
kiến thức mới và hoạt động thực tiễn (Phan Ngọc Liên-Trịnh Đình Tùng-
Nguyễn Thị Côi. PP dạy học lịch sử. Tập II. NXB ĐHSP, Hà Nội 2002,
tr.134-135).
11
Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận
Các nhà tâm lí GD và GDLS về cơ bản đều thống nhất : nắm vững kiến
thức trong học tập nói chung, LS nói riêng là đòi hỏi HS phải “biết”, “hiểu”
và “vận dụng” được tri thức đã học.
Với quan điểm như trên, việc giúp HS nắm vững kiến thức có vai trò rất
quan trọng trong DHLS ở trường THPT. Nó là yếu tố cơ sở đầu tiên của mục
đích học tập bộ môn. Chỉ có nắm vững kiến thức LS, HS mới nảy sinh tư tưởng
tình cảm đúng đắn và phát triển toàn diện con người các em. Không giúp HS
nắm vững kiến thức LS thì không thực hiện được mục tiêu môn học.
Thành tựu của CNTT đã và đang được ứng dụng rộng khắp trong nhiều
lĩnh vực, nhiều hoạt động, trong đó có HĐ DHLS. Đây là một trong các điều
kiện quan trọng để đối mới PPDH; là nhân tố đảm bảo cho HĐ DHLS đạt hiệu
quả; là cơ sở quan trọng để hình thành những phẩm chất và năng lực, hình
thành nhân cách người GV trong thời đại mới - thời đại của khoa học kĩ thuật.
5. Mức độ nghiên cứu đề tài
Năm học 2008-2009 là năm học thứ ba trường THPT áp dụng chương
trình SGK mới cho HS THPT trong lộ trình cải cách GD. Vì thế đề tài “Áp
dụng công nghệ dạy học dự án qua bài giảng lịch sử” là đề tài bản thân tôi tiếp
tục nghiên cứu thực hiện nhân cơ hội được dự lớp tập huấn chương trình Dạy
học theo dự án do Sở GD&ĐT Bình Dương kết hợp Microsoft Việt Nam tổ
chức trong hè 2008 vùa qua.
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài nầy, mức độ nghiên cứu chỉ giới hạn
trong vấn đề lớn : Áp dụng công nghệ dạy học dự ánqua bài giảng lịch sử ở
trường THPT

6. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu : “Áp dụng công nghệ dạy học dự án qua bài giảng
lịch sử”.
+ Khách thể nghiên cứu : Môn lịch sử ở trường THPT.
+ Phạm vi nghiên cứu : Áp dụng công nghệ dạy học dự án trong một tiết dạy
lịch sử lớp 10 ban cơ bản.
12
Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận
7. Cơ sở lý luận thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Công nghệ mới có một số đặc trưng phù hợp với các nguyên tắc của PP
học tập mới.
Các kết luận cơ sở :
Do tính chất tương tác của công nghệ mới, hiện nay người ta có thể dễ
dàng hơn trong việc tạo ra các môi trường cho HS có thể học tập thông qua
thực hành, tiếp thu các ý kiến phản hồi, liên tục nâng cao vốn hiểu biết và tiếp
nhận các tri thức mới.
Các công nghệ có thể giúp mọi chúng ta hình dung được những khái
niệm khó hiểu. HS có thể sử dụng các phần mềm mẫu như các công cụ trong
môi trường học tập ngoài trường học để tăng cường vốn hiểu biết dựa trên các
khái niệm và những vấn đề có thể xảy ra trong quá trình chuyển từ môi trường
trong ra môi trường ngoài trường học.
Các công nghệ mới cho phép chúng ta tiếp xúc với hàng loạt các thông
tin qua các thư viện điện tử, tài liệu của thế giới thực để tiến hành phân tích và
kết nối với những người sẽ cung cấp thông tin, ý kiến phản hồi và nguồn cảm
hứng, tất cả những gì có thể tăng cường khả năng học tập của GV, cũng như
quản lí HS.
Có nhiều cách sử dụng công nghệ để tạo ra môi trường học tập như vậy,
dành cho cả GV và HS. Tuy nhiên có nhiều vấn đề đặt ra nhằm xem xét để
hướng dẫn GV áp dụng công nghệ vào giảng dạy thế nào sao cho hiệu quả.
Đầu tư công nghệ tích hợp trong GD có thể đưa những người hoạch

định chính sách vào thế khó. Phần lớn họ đều đồng ý rằng trong thế giới hiện
đại ngày nay, công nghệ không phải là bộ phận trang trí, mà ngược lại, nó đóng
vai trò quan trọng trong bất kì quy trình giảng dạy nào. Tuy nhiên, phí tổn cho
nó cũng là một vấn đề quan trọng. Máy vi tính nói riêng là một mặt hàng đắc
tiền, GV và HS ngày cần có nó nhiều hơn. Trong vòng một thập kỷ vừa qua,
chi phí bỏ ra để trang bị cho các trường khối phổ thông tại Mĩ tăng gấp ba lần
trước đó, cho đến nay, chi phí đó đã lên đến hơn 6 tỉ USD. Với thực tế này,
13
Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận
những nhà hoạch định ở cấp quốc gia và địa phương đang đặt ra một câu hỏi
có thể dự đoán trước : Liệu tiêu tốn một số tiền khổng lồ để đầu tư cho công
nghệ như vậy có thể làm thay đổi quá trình và kết quả học tập của HS hay
không ?
Câu trả lời có được từ các công trình nghiên cứu cũng không mấy bất
ngờ. Tuy nhiên nó cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Các trường học hiện nay
đang sử dụng hàng loạt công nghệ theo các cách khác nhau và cho các mục
đích khác nhau. Giữa các GV trong ngành có sự chênh lệch lớn về vốn kiến
thức và kĩ năng, cũng như khả năng tổ chức để lên kế hoạch và thực hiện áp
dụng công nghệ một cách toàn diện và theo định hướng nhằm đạt được kết quả
như đã định. Thông thường các trường đều có những phương pháp riêng để
đánh giá về mức độ ảnh hưởng của công nghệ tới hiệu quả dạy và học cả trong
trường hợp chúng được sử dụng đúng và sử dụng mục đich. (Nếu không đạt
được hiệu quả như mong muốn thì đó là do công nghệ hay do HS tiếp xúc và
sử dụng công nghệ còn ít). Tại những nơi công nghệ được sử dụng như một
công cụ hỗ trợ phương pháp giảng dạy đạt tiêu chuẩn về cách tư duy phức tạp
và giải quyết vấn đề, cùng với các phương pháp phù hợp để đánh giá sự tiến bộ
của HS, thì hiệu quả thu được mới thực sự gây ấn tượng.
Khi đó, người ta sẽ không còn đặt câu hỏi về việc công nghệ có thực sự
làm thay đổi quy trình dạy và học hay không, mà thay vào đó sẽ là các thay đổi
sẽ diễn ra như thế nào và trong trường hợp nào? Một số nghiên cứu điển hình

đã cho rằng cần phải tập trung xây dựng các chính sách phát triển lớn để đạt
được hiệu quả trong GD hơn là mất nhiều thời gian cho việc quyết định đầu tư
về trang thiết bị.
Vậy việc học “từ” máy vi tính khác với việc học “bằng” máy vi tính như
thế nào? Sử dụng công nghệ theo kiểu nào và chúng sẽ ảnh hưởng đến việc
giảng dạy của GV và học tập của HS như thế nào?
Phần lớn các nghiên cứu hiện tại về ứng dụng công nghệ máy vi tính
vào chương trình giảng dạy của khối phổ thông đều đưa đến một thông điệp :
14
Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận
công nghệ chỉ là phương tiện chứ không phải là kết quả, chỉ là một công cụ hỗ
trợ đạt được mục tiêu học tập chứ bản thân nó không phải là mục tiêu. Tuy thế
vẫn có nhiều trường học và vùng miền thực hiện đầu tư về trang thiết bị trước
cả khi xây dựng những kế hoạch rõ ràng về sử dụng công nghệ hỗ trợ giảng
dạy.
Một vấn đề chính trong việc thực thi kế hoạch sử dụng công nghệ là xác
định rõ mục đích của nó, HS sẽ được học “từ” máy vi tính hay “bằng” máy vi
tính? Nói theo cách khác, máy vi tính có nhất thiết phải thực hiện vai trò giảng
dạy, nhằm tăng thêm tri thức và các kĩ năng sử dụng? Hay chính công nghệ sẽ
là một phương tiện giúp HS phát triển các khả năng như tư duy trình độ cao,
năng lực sáng tạo và kĩ năng nghiên cứu?
Máy vi tính đóng vai trò giảng dạy : Những cách sử dụng máy vi tính
thông thường để xây dựng các kĩ năng cơ bản bao gồm phương pháp giảng dạy
sử dụng máy vi tính và được hỗ trợ bởi máy vi tính, sử dụng các phần mềm rèn
luyện và thực hành, các hướng dẫn chung về máy vi tính. Kết quả của một
nghiên cứu nổi tiếng đã cho rằng việc hoàn toàn sử dụng máy vi tính trong rèn
luyện và thực hành môn Toán có ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả học tập. Tuy
nhiên 2 nghiên cứu quy mô lớn keo dài xuyên suốt những năm 1990 cùng với
những thành tựu đạt được từ một vài phép phân tích cao cấp trong khoảng thời
gian từ năm 1895 đến 2000 lại cho thấy việc sử dụng phần mềm công nghệ vào

rèn luyện và thực hành đem lại cho HS những tiến bộ vượt bậc. Và kết quả đó
đã ủng hộ việc sử dụng máy vi tính hỗ trợ giảng dạy từ cấp trước tiểu học cho
tới cấp GD cao hơn. Một vài nghiên cứu còn tranh luận rằng việc đào tạo các
kĩ năng về sử dụng CNTT còn mang lại hiệu quả về kinh tế, bởi nó chỉ đòi hỏi
đào tạo GV ở mức tối thiểu và thường vẫn có thể được thực hiện ở các công
nghệ ở mức độ thấp.
Máy vi tính là các công cụ giúp giải quyết vấn đề, phát triển về mặt
nhận thức và tư duy : Tuy nhiên chỉ là thiển cận nếu chỉ sử dụng máy vi tính
như là trợ giúp nâng cao các kĩ năng cơ bản. Sức mạnh của công nghệ được thể
15
Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận
hiện rõ ràng nhất khi cả HS và GV có thể tận dụng được các chức năng tinh vi
và đa dạng của nó để hỗ trợ tư duy nâng cao và khái niệm hoá. Ví dụ như các
ứng dụng đa dạng có thể thể hiện các chức năng thực tiễn của các khái niệm
toán học, hoặc cung cấp các công cụ phục vụ nghiên cứu, phân tích dữ liệu và
viết báo cáo.
Việc khai thác sử dụng công nghệ theo các cách này được minh hoạ sâu
sắc và rõ nét nhất thông qua hình thức tổ chức lớp học trong quá trình thực
hiện các dự án – đó là khi các nhóm HS phải tiếp xúc với thực tiễn, các vấn đề
phức tạp như ảnh hưởng của mưa axit đối với nguồn nước hay tham gia bảo vệ
các loài vật bị đe doạ ở các khu vực. Trong quá trình này, HS phải học và áp
dụng đa dạng các nguyên tắc, kiến thức thuộc nhiều môn học khác nhau từ
toán học, văn học cho tới các nghiên cứu xã hội, khoa học và nghệ thuật. Các
nhóm thực hiện dự án phải biết sử dụng thư điện tử và internet để liên tục cập
nhật các tri thức cần thiết, các bảng tính, các bảng biểu, bản đồ và các dụng cụ
vẽ biểu đồ để tổ chức, phân tích dữ liệu và vạch ra phương hướng giải quyết,
PowerPoint và máy quay phim để tạo ra dữ liệu phục vụ bài thuyết trình – Và
chính các đề án đó sẽ tạo điều kiện cho HS thực hành các kĩ năng giao tiếp và
tiếp thu ý kiến từ các bạn trong nhóm.
Đánh giá sự tiến bộ về khả năng tư duy và giải quyết vấn đề từ các cách

tiếp cận như vậy cũng đặt ra nhiều thách thức. Mặc dù các nghiên cứu vẫn
chưa đem lại kết quả cuốc cùng, song một vài nghiên cứu dài hạn – trong đó
một số được thiết kế đặc biệt, đánh giá dựa trên quá trình thực hiện – đã cho
thấy rằng dưới môi trường phù hợp, đối với các HS hàng ngày sử dụng các
công cụ kĩ thuật tinh vi thì có thể thấy sự phát triển rõ rệt trong kĩ năng làm
việc. Hơn thế nữa, những tiến bộ đó không hề gây ảnh hưởng xấu tới các kĩ
năng cơ bản. Đồng thời các báo cáo nghiên cứu cho thấy HS ngày càng có
nhiều động lực thúc đẩy học tập, cũng như ngày càng đi học đầy đủ hơn, ít
trường hợp bỏ học nửa chừng hơn.
8. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
16
Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận
+ Đối với cấp lãnh đạo quốc gia
Bộ GD&ĐT đã có các công văn chỉ đạo hướng dẫn cho ngành GD triển
khai thực hiện : “Bộ GD&ĐT lấy năm học 2008-2009 là “Năm học công nghệ
thông tin”.
Ảnh hưởng của công nghệ đối với lớp học, trường học và khu vực :
Nếu được sử dụng đúng cách, công nghệ có thể có tầm ảnh hưởng làm
biến đổi hệ thống GD bởi nó có xu hướng đánh giá lại vai trò của GV và HS và
sự tín nhiệm đối với PPDH cũ. Mỗi GV trở thành người hướng dẫn và cộng tác
viên (với HS và các GV khác) không còn đơn thuần là người truyền đạt kiến
thức. Và HS dựa trên các đề án sẽ tự học, tự tìm hiểu, phải tự quản lí và có
trách nhiệm đối với chất lượng học tập của mình. Như vậy HS sẽ tự xây dựng
nên vốn tri thức của mình chứ không chỉ đơn thuần chỉ nghe và tiếp nhận.
Những thay đổi cũng chính là mục tiêu mà cải cách GD hướng tới, trong đó
nhằm chuyển đổi PP học tập truyền thống và mở rộng không gian học tập ra
ngoài phạm vi lớp học.
+ Đối với cấp lãnh đạo cơ sở
Năm học 2008-2009 Sở GD-ĐT Bình Dương tiếp tục đầu tư kinh phí
xây dựng CSVC trường học , mua sắm TBDH trang bị cho các trường, tổ chức

cuộc thi giải thưởng “Võ Minh Đức” cho tất cả các trường tham dự, tổ chức
các lớp bồi dưỡng tin học và thi tin học chứng chỉ A cho CBGV toàn ngành, tổ
chức các buổi giới thiệu các phần mềm ứng dụng CNTT vào việc đổi mới
PPDH để chuẩn bị bước vào năm học mới “Năm học công nghệ thông tin”.
Cấp đơn vị trường học :
Kiến thức và trình độ của GV là yếu tố then chốt để đạt được thành
công, vì vậy công tác đào tạo GV sẽ chiếm phần lớn trong ngân sách phát triển
công nghệ (theo quy tắc 30/70). Trong công tác đào tạo GV, người ta đã nhận
thấy một mô hình đạt hiệu quả cao đó là tạo lớp học mẫu trong đó GV sẽ trực
tiếp tiếp thu sáng kiến và PPDH mới của những đồng nghiệp có kĩ năng tốt về
công nghệ và thường xuyên áp dụng công nghệ vào bài giảng.
17
Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận
BGH trường THPT Dĩ An thiết kế 3 phòng nghe nhìn (trong đó có một
phòng sử dụng di động GV có thể dạy ngay tại lớp học), 2 phòng vi tính nối
mạng internet, tổ chức các lớp bồi dưỡng tin học trình độ A cho CBGV của
đơn vị, luôn động viên khuyến khích GV ứng dụng CNTT để đổi mới PPDH.
Trong năm học 2008-2009 có 100% các tổ đều có GV sử dụng phòng nghe
nhìn để giảng dạy bằng GAĐT.
9. Kết cấu của đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 3 phần :
-Phần I : Nêu thực trạng của vấn đề.
-Phần II : Mô tả và giới thiệu các nội dung, biện pháp chính.
-Phần III : Kết quả và kinh nghiệm đạt được từ SKKN.
-Phần IV : Khả năng ứng dụng và triển khai SKKN.
NỘI DUNG
Phần I . Nêu thực trạng của vấn đề
1. Thuận lợi khi thực hiện đề tài SKKN
1.1. Tình hình giảng dạy môn LS ở đơn vị
Trong hè 2006, 2007, 2008 GVLS được bồi dưỡng chuyên đề thay sách

cải cách môn LS lớp 10, 11 và 12. Trong tổ có 3 GV dạy LS, tôi được phân
công dạy sử lớp 10 và lớp 11 (14 tiết/tuần) nên có thời gian đầu tư nghiên cứu
áp dụng công nghệ dạy học dự án vào bài giảng lịch sử.
1.2. Tình hình trường, lớp, học sinh
Chất lượng học tập của HS khá đồng đều ở các bộ môn, kết quả tuyển
sinh vào các trường đại học, cao đẳng đạt tỉ lệ khá cao.
18
Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận
Năm học 2008-2009 điểm tuyển sinh vào lớp 10 của trường THPT Dĩ
An cao nhất huyện, các em được BGH quan tâm nhắc nhở động viên kịp thời
về việc học tập nên tinh thần học tập và đạo đức của các em rất tốt, đa số HS
chăm ngoan, lễ phép, vâng lời thầy cô, chấp hành nội quy nhà trường.
Công tác GVCN, công tác giám thị được BGH có kế hoạch chỉ đạo
thường xuyên gặp gỡ trao đổi với phụ huynh khi có vấn đề liên quan đến HS.
Hàng tuần và cuối đợt thi đua BGH kết hợp các đoàn thể đã sơ kết đánh giá
khen thưởng, kịp thời động viên nêu gương tốt hoặc nhắc nhở kịp thời những
HS vi phạm nội quy nhà trường.
Đơn vị được Sở GD&ĐT Bình Dương trang bị đầy đủ các TBDH và
phương tiện nghe nhìn có đầy đủ cán bộ chuyên trách sẵn sàng giúp đỡ GV
trong các tiết giảng dạy khi cần sử dụng dụng cụ trực quan dạy học.
1.3. Ưu điểm khi thực hiện đề tài SKKN
GV có thể sử dụng các hình ảnh, tư liệu, sự kiện LS từ các nguồn phim
ảnh đa dạng từ internet, băng ghi hình, tranh ảnh trong sách báo mà không phải
mang theo đồ dùng DH cồng kềnh khi lên lớp.
Các tư liệu LS được chuyển thể thành phim theo chủ đề bài học được
các đài truyền hình trong cả nước đưa lên màn ảnh và phổ biến rộng rãi trên
phương tiện thông tin đại chúng, GV có thể tìm từ trên mạng internet để phục
vụ minh họa cho bài giảng sinh động hơn.
GV có thể trình chiếu các sơ đồ, bài tập nhóm, các câu hỏi trắc nghiệm
khách quan khi kiểm tra bài cũ hay kết thúc bài học để HS tiện theo dõi. Việc

sơ đồ hóa, hệ thống hóa toàn bộ kiến thức bài học cũ theo từng chương, từng
chủ đề cũng thuận lợi hơn khi giảng dạy.
Khi soạn một GAĐT, GV có thể lưu lại để giảng dạy ở nhiều lớp khác
nhau. GV có thể bổ sung hoặc sửa đổi giáo án sau phần rút kinh nghiệm ở các
tiết dạy tiếp theo hoặc những năm học sau.
2. Khó khăn khi thực hiện đề tài SKKN
19
Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận
GV phải thực sự yêu thích ứng dụng CNTT vào đổi mới PPDH, cần có
thời gian và kinh phí để thực hiện.
Sự chuẩn bị trước lúc đầu sẽ gặp nhiều khó khăn vì cần có sự đầu tư
nhiều công sức của GV, nhưng bù lại tiết học sẽ thuận lợi hơn, giờ học sẽ trở
nên sôi nổi hơn, hiệu quả hơn. HS sẽ thực sự chủ động quá trình DH, GV có
thể hoàn thành vai trò hướng dẫn HS tiếp thu kiến thức bền vững hơn.
Phần II . Mô tả và giới thiệu các nội dung, biện pháp chính
“Áp dụng công nghệ dạy học dự án vào bài giảng lịch sử”
1. Phương pháp làm việc theo nhóm
Làm việc theo nhóm là một trong những PPDH được áp dụng trong đổi
mới PPDH : phát huy tính tích cực của người học, dạy học hướng về người
học.
20
Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận
Giảng dạy dựa trên phương pháp làm việc theo nhóm là một phương
pháp sư phạm mà theo đó, lớp được chia thành nhiều nhóm, mỗi nhóm được
phân công giải quyết một công việc cụ thể hướng tới một nội dung công việc
chung lớn hơn; kết quả của từng nhóm sẽ được trình bày để thảo luận chung
trước khi GV đi đến kết luận cuối cùng.
1.1. Phương pháp làm việc theo nhóm có những ưu điểm:
+ Làm việc theo nhóm là một cách học cho phép tất cả các thành viên trong
nhóm giải quyết một cam kết làm việc được mô tả rõ ràng, không được GV

dẫn dắt trực tiếp mà chỉ nhờ vào sự hợp tác chặt chẽ và phân công công việc
trong nhóm nhỏ.
Phương pháp này thích hợp cho việc trao đổi trong nhóm, đưa ra những cách
thức giải quyết đầy tính sáng tạo; kích thích sự hợp tác của tất cả các thành
viên trong nhóm cùng tham gia vào việc giải quyết một vấn đề.
+ Làm việc theo nhóm thỏa mãn nhu cầu học tập cá nhân, phù hợp với việc
học hướng tới người học; khuyến khích sự độc lập tự chủ, người học có thể
đưa ra những giải pháp, cách biểu đạt riêng cho vấn đề nào đó. Nếu trong
phương pháp thuyết trình, người học chỉ có thể trao đổi với nhau được rất ít thì
trong làm việc theo nhóm các thành viên tham gia có cơ hội đưa ra quan điểm
của mình đối với chủ đề thảo luận, mặt khác ở đó cũng đòi hỏi tăng cường tư
duy độc lập và trao đổi lẫn nhau trong nhóm.
+ Trong khi thực hiện phương pháp làm việc theo nhóm, GV đóng vai trò là
người chuyển giao kiến thức và hiểu biết, chuẩn bị, tổ chức, theo dõi việc thực
hiện và đánh giá tổng kết kết quả làm việc của các nhóm. Như vậy công việc
của GV trong làm việc theo nhóm không bao giờ là thừa, trái lại đó là một sự
cần thiết để giúp cho các nhóm đạt được kết quả trong việc tìm ra những giải
pháp, câu trả lời cho vấn đề được đưa ra.
1.2. Những mục tiêu cần đạt trong làm việc theo nhóm
+ Làm việc theo nhóm cần động viên tất cả các thành viên tham dự và kích
thích sự suy nghĩ của HS.
+ Các thành viên tham dự trong nhóm cần bám vào một chủ đề và tìm ra giải
pháp giải quyết vấn đề đó.
1.3. Các bước tiến hành phương pháp làm việc theo nhóm
Bước 1: GV giao nhiệm vụ:
21
Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận
- Nêu và giải thích rõ ràng mục tiêu làm việc, giao nhiệm vụ một cách rõ ràng
cho từng nhóm làm việc để mỗi thành viên trong nhóm hiểu được công việc
cần phải làm và mô tả một cách cụ thể cách thực hiện các nhiệm vụ đó. Cần

lưu ý là nếu không đề ra nhiệm vụ rõ ràng thì không có được kết quả thuyết
phục. Những mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung làm việc theo nhóm có thể được
viết ra giấy và phát cho mỗi nhóm
- Định thời gian làm việc của mỗi nhóm kể cả giờ giải lao
- Ấn định thời gian họp lại sau khi thảo luận nhóm ( để báo cáo kết quả làm
việc ở nhóm )
- Dự kiến địa điểm và chuẩn bị những điều kiện tối thiếu cho nơi làm việc của
mỗi nhóm.
- Nêu cách thức làm việc của nhóm
- Cung cấp các thông tin liên quan với chủ đề.
- Thông báo công việc của GV trong thời gian các nhóm làm việc.
Bước 2: Chia nhóm
- Xác định số lượng người của mỗi phù hợp với yêu cầu làm việc. Thực hiện
việc chia nhóm theo những cách: ngẫu nhiên ( phát bìa, thẻ, điểm số ),theo
sự chỉ định của GV hoặc theo sở thích của người học.
- Cung cấp những câu hỏi định hướng quá trình làm việc của nhóm.
Bước 3: Làm việc trong nhóm
- Các nhóm tiến hành làm việc theo nhóm
- GV tham gia quản lý và định hướng làm việc cùng các nhóm, hỗ trợ cho các
nhóm khi cần thiết.
Bước 4:Đại diện các nhóm trình bày kết quả làm việc của nhóm. Các nhóm
khác đóng góp ý kiến và tham gia tranh luận.
Bước 5: GV tổng kết và rút ra kết luận về đề tài đã đưa ra.
1.4. Có 2 dạng nhóm làm việc
22
Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận
+ Nhóm đồng việc: Tất cả các nhóm đều cùng một chủ đề ( chung một công
việc ) mà vấn đề hay nhiệm vụ đó có thể được giải quyết theo nhiều cách thức
khác nhau tùy theo cách tiếp cận vấn đề khác nhau.
+ Làm việc nhóm theo vị trí công việc: được áp dụng khi một nhiệm vụ

chung cần thực hiện có thể phân ra thành nhiều nhiệm vụ nhỏ mà các giải pháp
của chúng được tập hợp chung lại sau khi kết thúc làm việc theo nhóm. Hình
thức này đòi hỏi GV phải chuẩn bị nhiều hơn để đáp ứng cho các nhóm có
những phần việc riêng cụ thể khác nhau.
1.5. Cần lưu ý một số điều kiện để thực hiện phương pháp làm việc theo
nhóm đạt hiệu quả
+ Chủ đề thích hợp cho làm việc theo nhóm. Người tham dự cần có những
kiến thức cơ sở về đề tài làm việc. Nếu các thành viên tham dự thực sự chưa
có kiến thức, hiểu biết trước về đề tài làm việc thì GV cần bồi dưỡng đầu vào
thông qua một buổi thuyết trình hoặc cung cấp những tài liệu, thông tin về đề
tài.
+ Có đủ điều kiện, phương tiện làm việc cho các nhóm (phòng, các thiết bị,
dụng cụ cần thiết cho buổi làm việc theo nhóm)
+ Các thành viên phải nắm vững nhiệm vụ trong làm việc theo nhóm và tiến
trình, lịch làm việc.Việc giao nhiệm vụ của GV phải rõ ràng, cụ thể và chặt
chẽ và cần có sự chuẩn bị chu đáo về đề tài làm việc.
+ Người học cần có kiến thức, kỹ năng làm việc theo nhóm. Nếu kiến thức, kỹ
năng của các thành viên tham gia làm việc theo nhóm còn hạn chế, GV cần có
sự gợi ý " châm ngòi " cho cuộc thảo luận.
+ Các thành viên tham gia làm việc theo nhóm cần có thái độ làm việc nghiêm
túc, tích cực. Thái độ làm việc thiếu tích cực của một vài thành viên, coi thời
gian làm việc theo nhóm như là một khoảng thời gian xả hơi, làm việc khác
mà không tập trung vào đề tài sẽ làm ảnh hưởng xấu đến kết quả làm việc.
Trong trường hợp này GV cần uốn nắn và đưa ra những yêu cầu, nhiệm vụ cụ
thể hơn.
+ Độ lớn của nhóm: 4 - 6 người cho một nhóm là số lượng tương đối phù hợp
cho buổi làm việc theo nhóm, nếu quá ít hay quá nhiều đều khó phát huy được
sự hợp tác của các thành viên trong giải quyết nhiệm vụ.
Trên đây là một số vấn đề cần quan tâm để áp dụng có hiệu quả phương pháp
làm việc theo nhóm trong dạy học.

23
Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận
1.6. Hướng dẫn HS “đóng vai trò giáo viên”
-Mục đích : tạo cơ hội cho mọi HS dạy một phần của nội dung bài học cho HS
khác.
-Nội dung chính : yêu cầu HS làm việc độc lập để học một phần của bài học,
sau đó đóng vai trò của người GV để dạy phần bài học đó cho bạn mình trong
lớp.
Theo Glasser (1990) : “chúng ta sẽ học được 10% những gì chúng ta đọc, 20%
nghe, 30% nhìn thấy, 50% cả nghe lẫn nhìn thấy, 70% thảo luận, 80% tự hiểu
một cách rõ ràng, 95% giảng dạy cho HS khác”.
Do đó, dạy là cách hiệu quả nhất để học. Khi HS được yêu cầu học một cái gì
đó để chuẩn bị giảng dạy cho HS khác, các em thường làm việc nghiêm túc
hơn với phần bài học của mình. Đây là một điểm mạnh của kĩ năng “đóng vai
trò GV” trong tổ chức nhóm học tập.
Kĩ năng này gồm hai phần :
(1) Tất cả HS đều được đọc tài liệu và chuẩn bị kiến thức để dạy nội dung
đó cho HS khác.
(2) HS được chia thành từng nhóm. GV nói trước lớp : “Các em có 10 phút
để dạy phần bài học đó cho các bạn trong lớp. Các bạn phải giả vờ rằng
mình chưa tự đọc hay học tài liệu này.
Những điều cần lưu ý để thực hiện kĩ năng này :
• Sử dụng kĩ năng này mỗi tiết học để giúp HS học những bài học
trong SGK một cách cẩn thận.
• Chỉ phân mỗi HS trong mỗi nhóm thực hiện vai trò của GV trong
1 tiết học cụ thể. Mặc dù các em không phải là GV nhưng GV
cũng nên bảo HS viết ra những gì HS hiểu biết về bài đọc để dạy.
• Thay vì thông báo trước cho HS ai sẽ thực hiện vai trò GV trong
mỗi nhóm, GV nên dùng cách bóc phiếu để lựa chon một cách
ngẫu nhiên HS nào trong nhóm sẽ dạy.

• Kết thúc hay bắt đầu mỗi tiết học GV nên sử dụng bài kiểm tra
nhỏ về những gì HS mới vừa học do các bạn đóng vai trò GV dạy
trước lớp.
Những thao tác hay kĩ năng gợi ý cho HS trong quá trình làm việc :
+ Phát thảo những ý chính.
24
Trường THPT Dĩ An Nguyễn Chí Thuận
+ Viết đoạn tóm tắt cho phần đã được phân công.
+ Chuẩn bị các phương tiện nghe nhìn như trang web, bản đồ, biểu đồ, hay các
phương tiện dùng để trình bày các nội dung bài học.
+ Ghi chú kết nối bài học này với các ý tưởng khác.
+ Chuẩn bị những câu hỏi để hỏi các bạn khác.
Những kĩ năng HS cần nhớ khi dạy một phần bài học cho ban mình trong lớp :
• Phải nhìn thẳng vào mắt bạn khi nói.
• Lắng nghe mà không cắt ngang.
• Đặt câu hỏi một cách lịch sự.
• Biết khen bạn khi họ trả lời đúng các câu hỏi.
1.7. “Bước chuyển tiếp nhanh”
Mục đích : tránh để cho HS rơi vào tình trạng xao lãng hay phân tâm khi
quá trình học diễn ra quá chậm.
Hoạt động chính : chú ý khi HS giảm hay mất sự hứng thú vào bài học
thì GV phải có sự thay đổi ngay lập tức về phương pháp dạy, nội dung bài học
hay các hoạt động học tập.
Tốc độ của cuộc sống ngày nay rất nhanh chóng, nhiều HS cũng đã quen
với tốc độ này và ngược lại nhiều HS cũng có tốc độ cuộc sống và học tập rất
chậm. Do đó GV nên cân đối sự khác biệt về tốc độ học tập của các đối tượng
HS trong lớp. Rất nhiều GV đã không chú ý đến vấn đề này. Trong giảng dạy
khi GV giải thích một vấn đề nào đó, GV nhận ra rằng có thể giải thích bằng
một cách khác rồi đưa ra lời giải thích mới cho vấn đề vừa nói và hỏi : “Các
em có thắc mắc gì không?”. Điều này làm cho những HS đã hiểu được bài học

ở lần giải thích thứ nhất không được thư giản và phân vân/thắc mắc rằng
không biết thầy/cô có giải thích vấn đề đó lại ở cách thứ ba không.
Trong lần giải thích thứ hai, nếu vẫn có HS trả lời là có câu hỏi hay thắc
mắc thì GV đứng lớp sẽ bị rơi vào tình trạng khó xử, tiến thoái lưỡng nan : (1)
không thể không giải đáp thắc mắc cho HS, (2) không thể giải thích vấn đề ở
lần thứ ba vì việc này sẽ làm cho những HS đã hiểu bài cảm thấy chán và cũng
không hấp dẫn được những HS không có hứng thú học tập ngay từ những phút
đầu của bài học.
Để tránh gây chán nản cho HS và tăng sự năng động trong học tập, GV
nên tránh đặt câu hỏi “Các em có gì thắc mắc?” hay “Các em có muốn hỏi gì
25

×