Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Phân tích, đánh giá chất lượng tăng trưởng Bắc Ninh giai đoạn 2006 đến 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.64 KB, 32 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong 5 năm qua, nhìn trên mặt lượng, bức tranh kinh tế Việt Nam dường
như ngày càng sáng sủa, đẹp đẽ hơn, tăng trưởng kinh tế đạt ở mức cao so với
các nước trong khu vực, thế nhưng những dấu hiệu yếu kém như tốc độ tăng
trưởng kinh tế giảm vào năm 2007-2008, thậm chí giảm sút về chất lượng kinh
tế ngày càng rõ rệt. Có thể nói tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua chưa đáp
ứng được yêu cầu gay gắt của cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế, của mục
tiêu đòi hỏi thoát khỏi tình trạng tụt hậu và tăng trưởng bền vững.
Nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế là mục tiêu lớn chung của Việt
Nam trong nhiều năm qua, là đề tài nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu, công
trình khoa học. Nhưng để có thể nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam nói chung, thì nhất thiết phải đưa ra những giải pháp nâng cao chất
lượng tăng trưởng kinh tế cuả những hạt nhân kinh tế được coi là tế bào đóng
góp trực tiếp cho chất lượng tăng trưởng kinh tế, đó chính là nâng cao chất
lượng tăng trưởng kinh tế của các tỉnh, thành phố trong cả nước. Nằm trong
vùng kinh tế trọng điểm - tam giác tăng trưởng: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng
Ninh; gần các khu, cụm công nghiệp lớn của vùng trọng điểm Bắc bộ. Bắc Ninh
có các tuyến trục giao thông lớn, quan trọng chạy qua; nối liền tỉnh với các trung
tâm kinh tế, văn hoá và thương mại của phía Bắc: đường quốc lộ 1A-1B, quốc lộ
18 (Thành phố Hạ Long - sây bay Quốc tế Nội Bài), quốc lộ 38, đường sắt
xuyên Việt đi Trung Quốc. Bắc Ninh có nhiều điều kiện rất thuận lợi cho phát
triển kinh tế xã hội. Là một người sinh ra và lớn lên ở Bắc Ninh, em muốn tìm
hiểu sau hơn về sự phát triển của quê hương, vì thế em chọn đề tài: “Phân tích,
đánh giá chất lượng tăng trưởng Bắc Ninh giai đoạn 2006-2010”
1
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHẤT LƯỢNG
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
I.1. Khái niệm chất lượng tăng trưởng kinh tế
I.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế
a. Khái niệm


Tăng trưởng phản ánh sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một giai
đoạn nhất định (thường là 1 năm). Sự gia tăng phản ánh qua quy mô và tốc độ.
Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng
được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối phản ánh sự gia tăng nhanh hay
chậm giữa các thời kỳ. Thu nhập của nền kinh tế có thể biểu hiện dưới dạng hiện
vật hoặc giá trị.
b. Nội hàm của tăng trưởng kinh tế
Bản chất của tăng trưởng kinh tế là phản anh sự thay đổi về lượng của nền
kinh tế, thể hiện qua:
- Quy mô: ∆Yt = Yt- Yt-1 (Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch
quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần so sánh.)
- Tốc độ: g= dY/Yt× 100(%) (Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng
cách lấy chênh lệch giữa quy mô kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ
trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước.) trong đó Y là qui mô của nền kinh tế,
và g là tốc độ tăng trưởng. Nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP)
danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hoặc GNP) danh nghĩa. Còn nếu
quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng
trưởng GDP (hay GNP) thực tế. Thông thường, tăng trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu
thực tế hơn là các chỉ tiêu danh nghĩa.
Thu nhập: - Đo bằng hiện vật: lương thực bình quân/đầu người/ năm.
- Đo bằng giá trị : ∑ GDP, tốc độ tăng GDP, thu nhập bình
quân/đầu người/ năm
Tóm lại : Tăng trưởng là thước đo định lượng
2
I.1.2. Khái niệm chất lượng tăng trưởng kinh tế
Chất lượng tăng trưởng phản ánh nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao,
duy trì trong một thời gian dài, gắn với đó là quá trình nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và đảm bảo quyền tự do cho mỗi người.
Có thể tiếp cận chất lượng TTKT trên nhiều giác độ khác nhau như: theo nhân tố
đầu vào, theo kết quả đầu ra, theo cấu trúc ngành kinh tế, theo năng lực cạnh

tranh,…
I.2. Đo lường tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng kinh tế
I.2.1. Các thước đo tăng trưởng kinh tế
Có rất nhiều các thước đo tăng trưởng kinh tế, có thể đo lường tăng
trưởng qua các chỉ tiêu sau:
1.GO: Tổng giá trị sản xuất
2. GDP: Tổng sản phẩm quốc nội ( giá trị gia tăng của nền kinh tế)
3. GNI: Tổng thu nhập quốc dân
4. NI: Thu nhập quốc dân sản xuất
5. DI: Thu nhập quốc dân sử dụng
Trong số các tiêu thức trên đáng tin cậy nhất nhằm đo lường đánh giá kết
quả sản xuất và dịch vụ trong nước là GDP
- Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products, GDP) hay tổng sản
sản phẩm trong nước là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối
cùng được sản xuất, tạo ra trong phạm vi một nền kinh tế trong một thời gian
nhất định (thường là một năm tài chính).
Trong đó thường dùng hai chỉ số chủ yếu là: phần tăng hoặc giảm quy mô nền
kinh tế (tính theo GDP), tốc độ tăng trưởng tính qua các thời kỳ (tính theo GDP)
I.2.2. Các thước đo chất lượng tăng trưởng kinh tế
Như đã trình bày ở trên có rất nhiều cách tiếp cận đánh giá và đo lường
chất lượng tăng trưởng kinh tế và trên thế giới cũng có rất nhiều quan điểm về
chất lượng tăng trưởng kinh tế và đúc kết lại chất lượng tăng trưởng kinh tế tập
trung ở một số tiêu chuẩn chính sau đây:
3
* Về kinh tế:
I.2.2.1. Các chỉ tiêu phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Đánh giá thông qua:
- cơ cấu ngành kinh tế
- cơ cấu vùng kinh tế
- cơ cấu thành phần kinh tế

I.2.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế
- Phản ánh nền kinh tế tăng trưởng theo chiều sâu, thể hiện là sự đong góp
yếu tố năng suất nhân tố tổng hợp TFP cao và không ngừng gia tăng
I.2.2.3. Các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh tăng trưởng
- Đánh giá thông qua chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh PCI
* Về xã hội:
I.2.2.4. Các thước đo chất lượng tăng trưởng kinh tế liên quan đến
phúc lợi xã hội
- Đảm bảo nhu cầu cơ bản con người:
+ GDP/ đầu người
+ Y tế
+ Giáo dục
- Đánh giá thông qua lao động, thất nghiệp
- Đánh giá tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo
* Về đảm bảo môi trường:
I.2.2.5. Các thước đo chất lượng tăng trưởng kinh tế liên quan đến bảo
vệ và cải thiện môi trường
- Hạn chế và xử lý chất thải và ô nhiễm môi trường
- Khai thác và sử dụng tài nguyên môi trường hợ lý có quy hoạch
I.3. Các nhân tố tác động đến chất lượng tăng trưởng kinh tế
I.3.1. Các yếu tố nội tại của nền kinh tế
- Nguồn nhân lực: chất lượng đầu vào của lao động tức là kỹ năng, kiến
thức và kỷ luật của đội ngũ lao động là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng
kinh tế. Hầu hết các yếu tố khác như tư bản, nguyên vật liệu, công nghệ đều có
4
thể mua hoặc vay mượn được nhưng nguồn nhân lực thì khó có thể làm điều
tương tự. Các yếu tố như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu hay công nghệ sản
xuất chỉ có thể phát huy được tối đa hiệu quả bởi đội ngũ lao động có trình độ
văn hóa, có sức khỏe và kỷ luật lao động tốt.
- Nguồn tài nguyên thiên nhiên: là một trong những yếu tố sản xuất cổ điển,

những tài nguyên quan trọng nhất là đất đai, khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ,
rừng và nguồn nước.
- Tư bản: là một trong những nhân tố sản xuất, tùy theo mức độ tư bản mà
người lao động được sử dụng những máy móc, thiết bị nhiều hay ít (tỷ lệ tư bản
trên mỗi lao động) và tạo ra sản lượng cao hay thấp. Để có được tư bản, phải
thực hiện đầu tư nghĩa là hy sinh tiêu dùng cho tương lai. Điều này đặc biệt quan
trọng trong sự phát triển dài hạn, những quốc gia có tỷ lệ đầu tư tính trên GDP
cao thường có được sự tăng trưởng cao và bền vững.
- Công nghệ: trong suốt lịch sử loài người, tăng trưởng kinh tế rõ ràng
không phải là sự sao chép giản đơn, là việc đơn thuần chỉ tăng thêm lao động và
tư bản, ngược lại, nó là quá trình không ngừng thay đổi công nghệ sản xuất.
Công nghệ sản xuất cho phép cùng một lượng lao động và tư bản có thể tạo ra
sản lượng cao hơn, nghĩa là quá trình sản xuất có hiệu quả hơn. Công nghệ phát
triển ngày càng nhanh chóng và ngày nay công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, công nghệ vật liệu mới có những bước tiến như vũ bão góp phần gia tăng
hiệu quả của sản xuất.
I.3.2. Phúc lợi và tiến bộ xã hội
Các chỉ số xã hội là thước đo mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh tế và
luôn gắn liền với chất lượng tăng trưởng, được thể hiện trên các khía cạnh: đảm
bảo nhu cầu của con người, mức độ nghèo đói và bất bình đẳng kinh tế cũng như
xã hội. Các nghiên cứu kinh tế cho thấy đảm bảo phúc lợi và tiến bộ xã hội và
tăng trưởng kinh tế không phải lúc nào cũng vận động đồng biến với nhau, nó
phụ thuộc vào trình độ phát triển, chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế và
chính sách trong phân phối thu nhập.
5
Chất lượng tăng trưởng cần phải gắn chặt với đảm bảo phúc lợi và tiến bộ
xã hội. Nâng cao phúc lợi và tiến bộ xã hội là động lực lớn cho tăng trưởng thể
hiện:
- Nâng chất nguồn nhân lực cho tăng trưởng cao và bền vững trong dài hạn.
- Trong quá trình phát triển, xã hội luôn nảy sinh các mâu thuẫn. Khi một

lớp mâu thuẫn được giải quyết hoặc dịu đi thì một lớp mâu thuẫn khác xuất hiện,
lớp nọ kế tiếp lớp kia đòi hỏi giải quyết. Giải quyết mâu thuẫn chính là động lực
của sự phát triển và phải đạt mục tiêu hài hòa về lợi ích giữa các nhóm, giai tầng
xã hội chứ không phải triệt tiêu lợi ích của bất cứ nhóm, giai tầng nào.
I.3.3. Môi trường với phát triển kinh tế
Thứ nhất, môi trường không những chỉ cung cấp “đầu vào” mà còn chứa
đựng “đầu ra” cho các quá trình sản xuất và đời sống.
Hoạt động sản xuất là một quá trình bắt đầu từ việc sử dụng nguyên, nhiên liệu,
vật tư, thiết bị máy móc, đất đai, cơ sở vật chất kỹ thuật khác, sức lao động của
con người để tạo ra sản phẩm hàng hóa. Những dạng vật chất trên không phải gì
khác, mà chính là các yếu tố môi trường.
Như vậy chính các yếu tố môi trường (yếu tố vật chất kể trên - kể cả sức
lao động) là “đầu vào” của quá trình sản xuất và các hoạt động sống của con
người. Hay nói cách khác: Môi trường là “đầu vào” của sản xuất và đời sống.
Ngược lại môi trường tự nhiên cũng lại là nơi chứa đựng, đồng hóa “đầu
ra” các chất thải của các quá trình hoạt động sản xuất và đời sống. Quá trình sản
xuất thải ra môi trường rất nhiều chất thải (cả khí thải, nước thải, chất thải rắn).
Trong các chất thải này có thể có rất nhiều loại độc hại làm ô nhiễm, suy thoái,
hoặc gây ra các sự cố về môi trường. Quá trình sinh hoạt, tiêu dùng của xã hội
loài người cũng thải ra môi trường rất nhiều chất thải. Những chất thải này nếu
không được xử lý tốt cũng sẽ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Vấn đề ở đây là phải làm thế nào để hạn chế được nhiều nhất các chất thải, đặc
biệt là chất thải gây ô nhiễm, tác động tiêu cực đối với môi trường.
6
Thứ hai, môi trường liên quan đến tính ổn định và bền vững của sự phát
triển KT-XH. Phát triển KT-XH là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất
và tinh thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ
xã hội, nâng cao chất lượng văn hóa. Phát triển là xu thế chung của từng cá nhân
cũng như của cả loài người trong quá trình sống. Giữa môi trường và sự phát
triển có mối quan hệ chặt chẽ: Môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát

triển, còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường.
Tác động của con người đến môi trường thể hiện ở khía cạnh có lợi là cải
tạo môi trường tự nhiên hoặc tạo ra kinh phí cần thiết cho quá trình cải tạo đó,
nhưng có thể gây ra ô nhiễm môi trường tự nhiên hoặc nhân tạo
Yêu cầu cấp thiết đặt ra là tăng trưởng kinh tế gắn với bền vững về môi
trường để có chất lượng tăng trưởng trong dài hạn, tạo bàn đạp cho tăng trưởng.
I.4. Bài học kinh nghiệm nâng cao chất lượng tăng trưởng
Một số bài học kinh nghiệm đã được rút ra như, trước hết phải chủ động
trong công tác dự báo, phân tích đánh giá tình hình kinh tế thế giới và trong
nước tác động đến sự phát triển của nền kinh tế. Kịp thời đưa ra các giải pháp
chính sách phù hợp với diễn biến của tình hình; đồng thời tăng cường công tác
chỉ đạo điều hành một cách tập trung, quyết liệt, bảo đảm chính sách sớm đi vào
cuộc sống, phát huy tác dụng, nhất là các giải pháp chính sách quan trọng, cấp
bách cần triển khai ngay trong thời gian ngắn.Bảo đảm sự ổn định kinh tế vĩ mô,
đặc biệt là các cân đối lớn về thu chi NS, tiền tệ, tín dụng, các thanh toán quốc
tế…Phải gắn các giải pháp chính sách ngăn chặn suy giảm kinh tế với việc đảm
bảo an sinh xã hội.
I.5. Sự cần thiết nâng cao chất lượng tăng trưởng
Tăng trưởng kinh tế cao và có khi nền kinh tế được gọi là tăng trưởng
“nóng”, tuy nhiên suy thoái kinh tế toàn cầu và suy giảm kinh tế trong nước là
cơ hội để nhìn lại, thấy rõ hơn nhưng khuyết điểm lớn trong nền kinh tế thiếu độ
bền. Tăng trưởng nhanh nhưng đi đôi với đó là những bất cập và cản trở lớn cho
sự phát triển bền vững.
7
Tăng trưởng kinh tế nước ta trong nhưng năm qua và đặc biệt là trong 10
năm trở lại đây vẫn là tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng. Sự gia tăng của yếu
tố năng suất tổng hợp còn quá nhỏ. Ðiều đó chứng tỏ chất lượng tăng trưởng
chưa cao, chưa tăng trưởng theo chiều sâu. Sự gia tăng của chất lượng lao động,
chất lượng máy móc, công nghệ, vai trò quản lý và tổ chức sản xuất chưa tương
xứng trong mức tăng trưởng kinh tế (GDP). Trình độ công nghệ ở Việt Nam

thấp so với nhiều nước trong khu vực. Yếu tố đóng góp chủ yếu cho tăng trưởng
kinh tế là vốn và lao động. Tuy vậy chất lượng nguồn lao động thấp và thu hút
vốn cho phát triển đang rất nghèo nàn đang là một bức tường ngăn lớn cho tăng
trưởng và phát triển. Trong suy thoái kinh tế, các yếu kém của nền kinh tế khi
không thể dứt ra khỏi vòng xoáy của khủng hoảng toàn cầu. Nền kinh tế chủ yếu
là hướng ngoại chưa phát huy được yếu tộ nội tại trong nước dẫn đến rủi ro rất
lớn.
Không những vậy tăng trưởng nhưng chưa thể hiện tác động lớn đến phúc
lợi xã hội và môi trường. Dưới góc độ xã hội – môi trường, cùng với quá trình
tăng trưởng kinh tế, sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ nét và có chiều hướng
gia tăng; chất lượng nguồn nhân lực cũng chưa theo kịp yêu cầu tăng trưởng và
phát triển của nền kinh tế; tỷ lệ thời gian lao động không được sử dụng ở nông
thôn vẫn còn cao; tốc độ xoá đói giảm nghèo bắt đầu chững lại; tốc độ suy thoái
và ô nhiễm môi trường diễn ra nhanh chóng Đây là những biểu hiện đáng báo
động về chất lượng tăng trưởng kinh tế
Vấn đề đặt ra cấp bách là cần nâng cao chất lượng tăng trưởng, giúp ổn
định nền kinh tế non yếu trong tương lai.
8
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG VÀ CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ CỦA TỈNH BẮC NINH GIAI ĐOẠN 2006-2010
II.1. Tiềm năng kinh tế xã hội của tỉnh Bắc Ninh
II.1.1. Giới thiệu chung
A. Điều kiện địa lý tự nhiên
1. Vị trí địa lý
Bắc Ninh là tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ, phía Bắc giáp Bắc Giang, phía
Đông và Đông Nam giáp Hải Dương, Tây và Tây Nam giáp Hà Nội và Hưng
Yên. Bắc Ninh có trục tuyến giao thông lớn, quan trọng chạy qua, nối liền tỉnh
với các trung tâm kinh tế, văn hoá và thương mại của phía Bắc: quốc lộ 1A nối
Hà Nội - Bắc Ninh - Bắc Giang - Lạng Sơn; quốc lộ 18 từ Nội Bài - Bắc Ninh -

Hạ Long – Móng Cái; quốc lộ 38 nối Bắc Ninh với quốc lộ 5 đi Hải Dương -
Hải Phòng, đi Hưng Yên, Thái Bình…
Trong tỉnh có nhiều sông lớn như sông Cầu, sông Đuống, sông Thái Bình
nối liền với Hải Phòng, Quảng Ninh và các tỉnh lân cận.
2. Đặc điểm địa hình
Địa hình Bắc Ninh tương đối bằng phẳng. Tuy dốc từ Bắc xuống Nam và từ
Tây sang Đông nhưng độ dốc không lớn. Vùng đồng bằng chiếm gần hết diện
tích tự nhiên toàn tỉnh, có độ cao phổ biến 3 – 7 m so với mặt biển. Do được bồi
đắp bởi các sông lớn như sông Đuống, sông Cầu, sông Thái Bình nên vùng đồng
bằng chủ yếu là đất phù sa màu mỡ. Vùng gò đồi trung du chỉ chiếm 0,5% diện
tích tự nhiên và phần lớn đồi núi thấp, cao nhất là núi Hàm Long 171m.
3. Khí hậu
Khí hậu đặc trưng của tỉnh là nhiệt đới gió mùa, mùa hè nắng nóng nhiệt độ
trung bình 30 - 36°C, mùa đông lạnh, từ 15 - 20°C. Lượng mưa trung bình trong
năm 1.800 mm, số giờ nắng khoảng 1.700 giờ/năm, thích hợp cho trồng lúa và
các cây công nghiệp, cây thực phẩm khác.
9
B. Tài nguyên thiên nhiên
1. Tài nguyên đất
Tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh là 803,87 km², trong đó đất nông
nghiệp chiếm 64,7%, đất lâm nghiệp 0,7%, đất chuyên dùng và đất ở chiếm
23,5%, đất chưa sử dụng còn 11,1%. Cả tỉnh còn 12.750 ha đất trũng ngập ở các
huyện: Gia Bình, Quế Võ, Lương Tài, Yên Phong, đất mặt nước chưa sử dụng là
3.114,5 ha, diện tích một vụ còn 7.462,5 ha. Tiềm năng đất đai của tỉnh còn lớn,
có thể khai thác sử dụng hợp lý để nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế.
2. Tài nguyên rừng
Bắc Ninh không có rừng tự nhiên, chủ yếu là rừng trồng với 607 ha phân bổ
tập trung ở hai huyện Quế Võ và Tiên Du, có thể phát triển thành rừng cảnh
quan sinh thái.
3. Tài nguyên khoáng sản

Bắc Ninh là một tỉnh nghèo về tài nguyên khoáng sản, chủ yếu là nguồn
nguyên liệu phục vụ trong ngành sản xuất vật liệu xây dựng như: đất sét làm
gạch ngói, trữ lượng 4 triệu tấn ở hai huyện Quế Võ, Từ Sơn và thị xã Bắc Ninh,
đất cát kết khoảng 1 triệu tấn ở Thị Cầu, đá sa thạch ở Vũ Ninh với trữ lượng 3
triệu m³, than bùn ở Yên Phong khoảng 6 – 20 vạn tấn.
C. Dân cư–lao động: Theo số liệu thống kê mới nhất năm 2009, Bắc Ninh có
1.026.300 người. Trong đó dân cư nông thôn chiếm 82.29%, dân số thành thị
chiếm 17,71%.
D. Cơ sở hạ tầng
1. Giao thông
Bắc Ninh là tỉnh có điều kiện thuận lợi để phát triển giao thông vận tải.
Mạng lưới giao thông bao gồm đường sắt, đường bộ, đường thủy đã được hình
thành từ lâu. Hơn nữa, đây là cửa ngõ của thủ đô Hà Nội trong khu vực tam giác
kinh tế trọng điểm Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh nên được Chỉnh phủ quan
tâm đầu tư cho phát triển các tuyến đường huyết mạch: Quốc lộ 1, quốc lộ 18,
10
quốc lộ 38 và tuyến đường sắt Hà Nội – Bắc Ninh – Lạng Sơn. Tính đến nay
trên địa bàn tỉnh đã có 375km đường quốc lộ trải nhựa, 290km đường tỉnh lộ
phần lớn được trải nhựa và hơn 3000km đường huyện, đường xã, đường thôn
xóm trong đó có gần 2000 km được trải bê tông và lát gạch. Song song với việc
phát triển mạng lưới giao thông, các hoạt động vận tải cũng liên tục phát triển,
hoàn thiện cả về số lượng và chất lượng. Nếu như năm 1997, toàn tỉnh chỉ có 1
doanh nghiệp nhà nước trung ương, 1doanh nghiệp nhà nước địa phương, 5 hợp
tác xã và 3103 hộ cá thể hoạt động vận tải thì đến năm 2007 đã có thêm 4 hợp
tác xã và 1610 hộ cá thể hoạt động trong lĩnh vực này. Các phương tiện vận tải
chuyển dần từ xe thô sơ sang các phương tiện hiện đại có năng lực vận tải lớn,
đồng thời xuất hiện thêm nhiều loại dịch vụ vận tải mới như xe buýt, tắc xi, xe
cho thuê. Theo đó khối lượng vận chuyển, luân chuyển hàng hóa và hành khách
ngày càng tăng, tốc độ phát triển bình quân năm 1997-2007 là: 21,57%/năm
khối lượng hàng hóa vận chuyển, 29,45%/năm khối lượng hàng hóa luân

chuyển, 11,15%/năm khối lượng hành khách vận chuyển và 14.74%/năm khối
lượng hành khách luân chuyển.
2. Thông tin liên lạc
Năm 1997, toàn tỉnh mới có 19 cơ sở bưu điện, 15 tổng đài điện tử các loại
với dung lượng 14912 số, tỷ lệ bình quân số cố định đạt trên 100 dân đạt 1,1
máy. Đến năm 2007 con số đó đã tăng lên 28 cơ sở bưu điện, 48 tổng đài điện tử
với dung lượng 163.168 số tỷ lệ bình quân số điện thoại cố định trên 100 dân đạt
13,9 máy. Mạng lưới bưu cục trên toàn tỉnh đã phát triển đều khắp ở 8 huyện/thị,
100% các xã/phường/thị trấn đều có điểm bưu điện văn hóa xã. Ngành bưu
chính viễn thông đã góp phần nâng cao dân trí, rút ngắn khoảng cách về không
gian, thời gian giữa các vùng trong tỉnh, trên toàn quốc và thế giới.
II.1.2. Các tiềm năng phát triển
1. Tiềm năng phát triển nông nghiệp
Với địa hình tương đối bằng phẳng, thì tiết khí hậu ôn hoà nguồn nước phong
phú, đất đai màu mỡ do được bồi đắp phù sa của hệ thống sông Hồng và sông
11
Thái Bình, rất phù hợp cho sự sinh trưởng phát triển của nhiều loại cây trồng.
Đây là tiền đề quan trọng, tạo thuận lợi để ngành nông nghiệp Bắc Ninh phát
triển toàn diện. Về nông nghiệp, phát triển nông nghiệp phục vụ công nghiệp và
đô thị; cung cấp lương thực, thực phẩm rau sạch, chất lượng cao cho các thị
trường lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, nhất là rau xanh, hoa tươi, cây
cảnh, thuỷ sản, thịt lợn nạc, bò sữa…
2.Tiềm năng phát triển công nghiệp
Dựa vào lợi thế về địa lý, kinh tế, gần thủ đô Hà Nội, nằm trong vùng kinh
tế trọng điểm Bắc Bộ, có hệ thống giao thông phát triển, kết cấu hạ tầng đang
được hoàn chỉnh, dựa vào nguồn tài nguyên sẵn có và các ngành nghề truyền
thống của tỉnh, công nghiệp, nông nghiệp Bắc Ninh đang có lợi thế phát triển
mạnh, gồm: cơ khí, kỹ thuật điện, vật liệu xây dựng, chế biến lâm sản đặc biệt
đồ gỗ cao cấp, chế biến lương thực thực phẩm, dệt may.
3. Tiềm năng phát triển thương mại, dịch vụ

Bắc Ninh là tỉnh có vị trí địa lý thuận lợi, là tỉnh tiếp giáp và cách Thủ đô
Hà Nội 30km: Cách sân bay Quốc tế Nội Bài 45km; cách cảng biển Hải Phòng
110km. Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm - tam giác tăng trưởng: Hà Nội - Hải
Phòng - Quảng Ninh; gần các khu, cụm công nghiệp lớn của vùng trọng điểm
Bắc bộ. Bắc Ninh có các tuyến trục giao thông lớn, quan trọng chạy qua; nối
liền tỉnh với các trung tâm kinh tế, văn hoá và thương mại của phía Bắc: đường
quốc lộ 1A-1B, quốc lộ 18 (Thành phố Hạ Long - sây bay Quốc tế Nội Bài),
quốc lộ 38, đường sắt xuyên Việt đi Trung Quốc. Trong tỉnh có nhiều sông lớn
nối Bắc Ninh với các tỉnh lân cận và cảng Hải Phòng, cảng Cái Lân. Vị trí địa lý
của tỉnh Bắc Ninh là một trong những thuận lợi để giao lưu, trao đổi với bên
ngoài, tạo ra nhiều cơ hội to lớn cho việc phát triển kinh tế - xã hội và khai thác
các tiềm năng hiện có của tỉnh.
4. Tiềm năng phát triển về du lịch
Con người Bắc Ninh mang trong mình truyền thống văn hoá, hiếu khách,
cần cù và sáng tạo, với những bàn tay khéo léo mang đậm nét dân gian của vùng
12
trăm nghề như tơ tằm, gốm sứ, đúc đồng, trạm bạc, khắc gỗ, làm giấy, tranh vẽ
dân gian đặc biệt là những làn điệu dân ca quan họ trữ tình nổi tiếng trong và
ngoài nước.
Bắc Ninh có tiềm năng du lịch rất lớn. Là một tỉnh có bề dày lịch sử, có
một nền văn hoá nhân văn đặc sắc với 204 di tích lịch sử - văn hoá đã được Nhà
nước công nhận như: Văn Miếu, Đền Đô…, một vùng quê văn hiến Bắc Ninh –
Kinh Bắc có nhiều di tích lịch sử văn hoá, lễ hội dân gian, làng nghề truyền
thống…là những điểm hấp dẫn thu hút khách, tạo cho du lịch Bắc Ninh những
tiềm năng hết sức phong phú.
5. Tiềm năng về nguồn nhân lực
Theo số liệu thống kê mới nhất năm 2007, Bắc Ninh có 1.028.844 người.
Trong đó dân cư nông thôn chiếm trên 76,5%, dân số thành thị chiếm 23,5%.
Thành phần dân số này có xu hướng chuyển dịch theo cơ cấu tăng dân số thành
thị và giảm dân số nông thôn.

Dân số Bắc Ninh là dân số trẻ, trên 60% trong độ tuổi lao động. Với chất lượng
ngày càng được nâng cao, đội ngũ dân số trẻ này là lực lượng lao động hùng hậu
trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển kinh tế - văn hóa-xã hội của
tỉnh.
Trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện có 8 trường đại học, cao đẳng, trung học dạy
nghề và nhiều cơ sở giáo dục có quy mô lớn, chất lượng khá. Trong tỉnh hiện có
hơn 600.000 lao động trong đó đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, công nhân
lành nghề phát triển khá nhanh phù hợp với nền kinh tế mở cửa. Đội ngũ lao
động trong tỉnh có khả năng tham gia hợp tác lao động quốc tế, đồng thời cũng
là cơ hội cho các nhà đầu tư khai thác lao động khi đến Bắc Ninh đầu tư.
6. Tiềm năng về thu hút vốn đầu tư
Thực hiện Luật ĐTNN tại Việt Nam đã được Quốc hội thông qua ngày
12/11/1996 và Luật sửa đổi, bổ sung, một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam năm 2002/QH10 và nhiệm vụ phát triển kinh tế đối ngoại trong
thời gian tới; tỉnh Bắc Ninh đã chuẩn bị các điều kiện về đất đai, lao động, cơ sở
13
hạ tầng kỹ thuật, cải cách các thủ tục hành chính về đầu tư nhằm tạo ra một môi
trường đầu tư thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến đầu tư tại
Bắc Ninh.
- Hình thành và phát triển mạnh hai khu công nghiệp tập trung Tiên Sơn và
Quế Võ với tổng diện tích 796ha (khu công nghiệp Tiên Sơn 600 ha; Khu công
nghiệp Quế Võ 196 ha), đã có 46 dự án đăng ký đầu tư với tổng vốn đăng ký là
174,5 triệu USD và 1.264,2 tỷ VNĐ. Tỉnh đã quy hoạch 18 cụm công nghiệp
làng nghề và đa nghề, trong đó 4 cụm công nghiệp chuyên sản xuất hàng thủ
công mỹ nghệ xuất khẩu. Các khu công nghiệp, cụm công nghiệp vừa và nhỏ,
cụm công nghiệp làng nghề đã được đầu tư hạ tầng kỹ thuật, sẵn sàng mời đón
các nhà đầu tư vào thực hiện đầu tư.
Tỉnh Bắc Ninh thực hiện cơ chế "Một cửa" trong quản lý nhà nước về đầu
tư nước ngoài theo quy định của Nhà nước. Sở Kế hoạch và Đầu tư và Ban
Quản lý các khu công nghiệp Bắc Ninh là cơ quan đầu mối giúp UBND tỉnh và

Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đầu tư nước
ngoài trên địa bàn tỉnh. Tại các cơ quan đầu mối, các nhà đầu tư sẽ được giúp
đỡ, cung cấp các thông tin, giải quyết công việc có liên quan với thủ tục đơn
giản và thời gian nhanh nhất.
II.1.3. Các thành tựu về kinh tế - xã hội
+ Tăng trưởng kinh tế: Nhìn lại chặng đường hơn 10 năm xây dựng và
phát triển, mặt dù còn không ít khó khăn thử thách, song nhịp độ tăng trưởng
kinh tế luôn giữ ở mức cao. Tốc độ tăng trưởng bình quân tổng sản phẩm xã hội
của tỉnh giai đoạn năm 1997 – 2007 là 13,68% /năm. Trong đó khu vực nông
lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,49%; khu vực công nghiệp – xây dựng tăng
21,5%; khu vực dịch vụ tăng 13,4%; kim nghạch xuất khẩu tăng 8,49%, nhập
khẩu tăng 9,36%.
+ Cơ cấu kinh tế: Cơ cấu kinh tế của tỉnh từng bước chuyển dịch theo
hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây
dựng cơ bản tăng nhanh từ 23,77% năm 1997 lên 51,01% năm 2007. Tỷ trọng
14
khu vực dịch vụ tăng từ 31,18% năm 1997 lên 30,34% năm 2007 trong khi đó tỷ
trọng khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 45,05% năm 1997 xuống
còn 18,65% năm 2007.
+ Y tế - giáo dục: Công tác y tế và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân luôn
được tỉnh đặc biệt chú trọng. Thể hiện ở mạng lưới các bệnh viện, phòng khám
đa khoa khu vực rải rác đều khắp các huyện/thị, 100% các xã/phường/thị trấn có
trạm y tế. Cơ sở vật chất và đội ngũ y sỹ, bác sỹ tăng dần qua các năm. Số
giường bệnh trên 1 vạn dân không ngừng tăng, năm 1997 là 16,9; năm 2000 là
17,5; năm 2007 là 21. Số y sỹ, bác sỹ trên một vạn dân năm 1997 là 15,1; năm
2000 là 16,5; năm 2007 là 21,2. Công tác tiêm chủng mở rộng cho trẻ em được
đặc biệt chú trọng, năm 2007 đã thực hiện tiêm chủng cho 19.986 trẻ em trên
toàn tỉnh. Bắc Ninh là một trong 3 tỉnh hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học
đúng tuổi đầu tiên trong cả nước vào năm 2000, đến năm 2002 đã hoàn thành
phổ cập THCS , và đang tiến hành phổ cập THPT.

- Mạng lưới quy mô : Mạng lưới trường lớp của tỉnh Bắc Ninh phát triển
đa dạng và phong phú. Đến nay mỗi xã/ phường/ thị trấn của tỉnh đều có từ 1
đến 2 trường mầm non, trường tiểu học và THCS. Mỗi huyện/ thị xã đều có 1
trường THCS chất lượng cao và từ 3 đến 5 trường THPT. Công tác kiên cố hoá
trường lớp đầu năm học 2005-2006 đạt 82,7% . Công tác xây dựng trường
chuẩn quốc gia được thực hiện tốt, đến nay toàn tỉnh đã có 217 trường (tăng 38
trường) ở các ngành học, bậc học được kiểm tra công nhận đạt chuẩn quốc gia,
trong đó số trường đạt chuẩn ở bậc học Mầm non và Tiểu học có tỷ lệ bình quân
cao nhất trong cả nước.
+ Xóa đói – giảm nghèo: Cùng với tăng trưởng kinh tế, mức sống của
người dân ngày càng được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 15,24% năm 2005
xuống còn 9,6% năm 2007 (theo tiêu chuẩn số 1751/LĐTBXH)
15
II.2. Thực trạng và một số đanh giá tăng trưởng kinh tế của tỉnh Bắc Ninh
giai đoạn 2006-2010
II.2.1. Thực trạng tốc độ tăng trưởng kinh tế tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2006-
2010
II.2.1.1. Tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế
Tổng hợp GDP theo giá thực tế Bắc Ninh 2006-2010
Năm 2006 2007 2008 2009 Ước đạt 2010
Giá trị tuyệt đối
(tỷ đồng)
10504,2 15506,6 22080,0 28030,4 34502,8
Tốc độ tăng (%) 15.05 15.80 15.64 12.54 17.86
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân cho 5 năm là 15.1%, cao so với cả nước
và đứng thứ 2 trong 11 tỉnh phía Bắc (sau Vĩnh Phúc 16.7%).
II.2.1.2. Tốc độ tăng trưởng của các nhóm ngành kinh tế
Tổng hợp GDP theo nhóm ngành
Năm 2006 2007 2008 2009 Ước 2010
Tốc độ tăng (%)

Nông nghiệp -5.13 -0.76 2.49 5.05 4.40
Công nghiệp 19.75 20.57 18.91 12.99 24.86
Thương mại - dịch vụ 25.32 19.54 17.87 15.44 16.37
Tốc độ tăng trưởng các nhóm ngành kinh tế cũng có chuyển biến đặc biệt là
công nghiệp với giá trị GDP cao và liên tục tăng.
II.2.2. Nhận xét chung về tăng trưởng kinh tế của Bắc Ninh
16
Trong 5 năm (2006-2010) mặc dù bối cảnh kinh tế thế giới cũng như trong
nước gặp nhiều khó khăn, nhưng Đảng bộ và nhân dân Bắc Ninh đã đoàn kết,
sáng tạo, nỗ lực phấn đấu hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII đề ra.
Kinh tế tăng trưởng nhanh, chuyển biến tích cực về chất lượng. Bình quân
5 năm đạt 15,1%; Quy mô nền kinh tế tăng nhanh, ước 2010 GDP đạt 9.633 tỷ
đồng, gấp 2 lần so với năm 2005. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch tích cực
theo hướng CNH, HĐH. Đến năm 2010, tỷ trọng CN-XD đạt 64,8%, dịch vụ
24,2%, nông nghiệp chỉ còn 11%; GDP bình quân đầu người đạt 1.800 USD,
vượt 38% so với kế hoạch và tăng 3,4 lần so với năm 2005.
Lĩnh vực nông nghiệp phát triển ổn định, chuyển mạnh sang sản xuất hàng
hóa, đảm bảo an ninh lương thực và ổn định xã hội ở khu vực nông thôn. Việc
chuyển giao ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, nhất là tăng tỷ lệ lúa lai, lúa hàng hóa,
thực hiện công tác dồn điền đổi thửa gắn với quy hoạch hạ tầng và vùng sản
xuất tập trung đã góp phần đưa giá trị trồng trọt đạt 71 triệu đồng/ha canh tác.
Công nghiệp tăng trưởng cao, công nghệ ngày càng hiện đại thu hút nhiều
tập đoàn kinh tế lớn, thương hiệu mạnh. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2010
ước đạt 23.000 tỷ đồng, vượt 11,4% so kế hoạch, tăng 27,9%/năm. Các ngành
công nghiệp điện, điện tử, cơ khí chính xác, công nghiệp phụ trợ phát triển đưa
quy mô công nghiệp từ vị trí thứ 19 năm 2004 lên thứ 10 năm 2009 so toàn
quốc.
Dịch vụ phát triển với tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ năm 2010 ước
đạt 13 nghìn tỷ đồng, tăng 3,2 lần so với 2005. Hoạt động ngoại thương phát

triển mạnh với mức lưu chuyển 2,4 tỷ USD năm 2010, gấp 9,4 lần so với 2005;
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng mạnh, trong 5 năm ước đạt 63 nghìn tỷ đồng,
tăng bình quân 33,4%/năm; Thu ngân sách Nhà nước tăng nhanh, chi ngân sách
Nhà nước đảm bảo các nhiệm vụ chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển.
II.3. Thực trạng chất lượng tăng trưởng kinh tế tỉnh Bắc Ninh giai đoạn
2006-2010
II.3.1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
17
Tỷ trọng nhóm ngành kinh tế theo GDP
(%)
Năm 2006 2007 2008 2009 Ước đạt 2010
Nông nghiệp 21.3 16.6 13.9 12.70 11
Công nghiệp 49.5 57.2 61.7 63.50 64.80
Thương mại - dịch vụ 29.2 26.2 24.4 23.80 24.20
Cơ cấu kinh tế tỉnh đã có nhưng chuyển biến nhanh theo hướng công
nghiệp hóa – hiện đại hóa, thấy rõ dấu hiệu tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế
tỉnh, tăng dần tỷ trọng khu vực công nghiệp, dịch vụ và giảm dần tỷ trọng khu
vực nông lâm – ngư nghiệp. Tỷ trọng khu vực công nghiệp liên tục tăng và tăng
nhanh với con số ấn tượng từ 49.5% năm 2006 thì đến nay con số đã là 64.8%
mặc dù ảnh hưởng khủng hoảnh kinh tế năm 2009 nhưng công nghiệp vẫn
khẳng định đóng vai trò chủ đạo trong tăng trưởng của tỉnh, tỷ trọng khu vực
nông lâm ngư nghiệp giảm đáng kể từ 21.6% năm 2006 xuống còn 11% (ước
tính năm 2010) giảm gấp 2 lần chỉ trong vòng 5 năm, tỷ trọng khu vực dịch vụ
có xu hướng giảm nhẹ nhưng vẫn có tăng trưởng, 2 năm trở lại đây đã có dấu
hiệu tăng trở lại vào năm 2010 con số là 24.2%, tuy vậy chuyển dịch chậm.
18
II.3.2. Thực trạng hiệu quả kinh tế
I.3.2.1. Năng suất lao động của nền kinh tế
Năm 2006 2007 2008 2009
ước tính

2010
GDP giá thực tế
10504,
2 15506,6 22080,0
28030,
4 34502,8
Dân số lao động
(người) 570.26 582.16 590.60 613.01 638.52
NSLĐ (triệu/người) 18.420 26.636 37.386 45.726 54.036
Năng suất lao động tăng dần và cao hơn mức bình quân cả nước là 34.7
triệu/người năm 2009
II.3.2.2. Hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế
Năm 2006 2007 2008 2009
Ước tính
2010
GDP theo giá 1994
(tỷ đồng)
5483.3 6349.6 7342.5 8263.1 9634.3
Tổng vốn đầu tư
(tỷ đồng)
5985.0 9738.3 12694.0 16529.0 19573.8
Chỉ số ICOR 4.33 2.98 4.17 2.22
Chỉ số icor phản ánh hiệu quả sử dụng vốn đang có dấu hiệu tăng lên, đây
là một dấu hiệu không tích cực và là nút thắt của tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên
vẫn thấp hơn mức chung cả nước giai đoạn 2000-2008 là 4,5. Vấn đề đặt ra cho
nền kinh tế tỉnh là tiếp tục cải thiện hiệu quả sử dụng vốn. Thu hút vốn rất ấn
tượng nhưng hiệu quả thì chưa thật sự cao 1.041,86 triệu USD vốn FDI năm
2008, giá trị sản xuất công nghiệp khoảng hơn 12 nghìn tỷ đồng
II.3.3. Thực trạng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
Bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Bắc Ninh qua các năm

Năm 2006 2007 2008 2009 Trung bình
Điểm PCI 54.74 58.96 59.57 65.7 59.74
Xếp hạng 22 20 15 10 15
Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh Bắc Ninh tăng nhanh và khẳng định được vị
trí trong các tỉnh thành, năm 2006 chỉ xếp vị trí thứ 22 nhưng đến năm 2009 đã
19
đứng trong top 10 tỉnh thành có chỉ số PCI cao nhất với thế mạnh là chính sách
với khu vực kinh tế tư nhân và những thành tịu ấn tượng từ khu vực này.
II.3.4. Thực trạng chất lượng tăng trưởng thông qua tiến bộ và công bằng
xã hội.
II.3.4.1. Lao động, thất nghiệp
Bằng những động thái tích cực như mở rộng ưu đãi đầu tư thu hút doanh
nghiệp vào tỉnh, nâng cấp, mở rộng quy mô các trường dạy nghề và các loại
hình đào tạo nghề…, nhằm tạo cơ hội việc làm tốt nhất cho tất cả lao động trong
tỉnh. Đây có thể coi là một trong những thành tựu nổi bật trong chiến lược phát
triển kinh tế-xã hội chung của tỉnh nhiệm kỳ qua.
Trong 5 năm qua, 2006-2010, toàn tỉnh đã giải quyết việc làm cho 108.250
lao động, đạt 108,2% kế hoạch đề ra và tăng 42% so giai đoạn 2001-2005.
Trong đó, lao động ở lĩnh vực công nghiệp, xây dựng là 64.251 người, nông
nghiệp 9.718 người, dịch vụ 20.084 người, góp phần hạ tỷ lệ thất nghiệp khu
vực thành thị từ 3,8% năm 2006 xuống còn khoảng 3,5% năm 2010. Điều này
khẳng định sự quan tâm và chỉ đạo sâu sát của các cấp lãnh đạo tỉnh đối với vấn
đề giải quyết việc làm.
Từ chỗ chỉ có hơn 1.400 doanh nghiệp sử dụng 61.730 lao động của tỉnh
năm 2006 đã lên hơn 2000 doanh nghiệp sử dụng hơn 110.000 lao động năm
2010. Những con số này cho thấy số doanh nghiệp sử dụng lao động và số lao
động được tuyển dụng đều tăng gần gấp đôi. Đặc biệt, tỉnh đang triển khai, thực
hiện Quyết định 57 về hỗ trợ các doanh nghiệp đào tạo và sử dụng lao động
trong tỉnh sẽ tạo cơ hội việc làm tốt nhất cho người lao động.
Thực tế cho thấy cùng với tăng trưởng ấn tượng của kinh tế tỉnh (bình quân

5 năm đạt 15.1%) vấn đề giải quyết việc làm cho lao động tỉnh đạt được những
thành tịu to lớn, giảm tỷ lệ thất nghiệp thành thị xuống còn 3,4% năm 2009.
Bên cạnh đó tỷ lệ thất nghiệp giảm mạnh và có nhưng chính sách hỗ trợ
tích cực, đặc biệt chính sách bảo hiểm thất nhiệp đi vào hoạt động được hơn một
năm.
20
Tính đến thời điểm này, BHTN đã triển khai được một năm 6 tháng. Theo
thông tin từ cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh, số người tham gia BHTN khoảng
68.000 người; số doanh nghiệp tham gia BHTN khoảng 930, chiếm tỷ lệ 54,7%.
Theo thông tin của Phòng BHTN- Trung tâm Giới thiệu việc làm tỉnh, số người
đến đăng ký BHTN tăng dần theo từng tháng. Đến hết tháng 6 năm 2010, số lao
động đến đăng ký BHTN ở Bắc Ninh là 308 người; trong số này có 50 lao động
chuyển BHTN từ các địa phương khác. Trong thời gian này có 187 lượt lao
động được Trung tâm Giới thiệu việc làm Bắc Ninh tư vấn và giới thiệu việc
làm. Cho đến nay đã có 86 người đã nhận được quyết định hưởng BHTN hàng
tháng của Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh, chiếm tỷ lệ 28% tổng số lao
động đã đăng ký thất nghiệp. Trong số lao động trên, có 43 lao động được hỗ trợ
học nghề từ quỹ BHTN.
Tuy nhiên một thực trạng lao động tỉnh có chất lượng thấp và rủi ro thất
nghiệp còn cao. Thực tế ở Bắc Ninh cũng đang đặt ra những vấn đề bất cập đó
là: Việc làm đối với nông dân sau thu hồi đất, nhất là lao động nông nghiệp nữ
trên 35 tuổi, trình độ văn hóa thấp. Các chính sách chưa đủ mạnh và chưa đồng
bộ, đặc biệt còn thiếu nhiều chính sách hỗ trợ đặc thù với lao động nông thôn
vùng phải thu hồi đất. Tổ chức bộ máy và cán bộ theo dõi,đề xuất vấn đề an sinh
xã hôịcho nông dân diện phải thu hồi đất còn rất mỏng, năng lực chuyên môn
hạn chế…
II.3.4.2. Xoá đói giảm nghèo
Bắc Ninh đã có những chính sách tích cực nhằm thực hiện xóa đói giảm
nghèo cho người dân. Tỉ lệ hộ nghèo của tỉnh Bắc Ninh giảm từ 11.33% năm
2006 xuống còn 4.5% năm 20010(theo chuẩn nghèo 2005), trung bình mỗi năm

giảm được hơn 3.300 hộ. 100% con em hộ nghèo được miễn giảm học phí,
100% người nghèo được thẻ bảo hiểm y tế. Qua 5 năm đã có 142.316 lượt người
nghèo được khám chữa bệnh miễn phí, 121.118 lượt hộ nghèo được vay vốn
phát triển kinh tế (tổng số 406,021 tỉ đồng), 60.000 lượt nông dân nghèo được
tập huấn chuyển giao khoa học kĩ thuật. Riêng 19 xã khó khăn được đầu tư 130
tỉ đồng phát triển các công trình hạ tầng kỹ thuật. Thu nhập bình quân của người
21
nghèo tăng từ 65.000 đồng lên 90.000 đồng/người/tháng. Toàn tỉnh đã xây dựng
637 nhà đại đoàn kết tặng các gia đình khó khăn. Vừa qua, Bắc Ninh được Uỷ
ban TW MTTQ Việt Nam công nhận là một trong 6 tỉnh, thành dẫn đầu về xoá
nhà tranh tre, dột nát.
Theo chuẩn nghèo mới được Chính phủ thông qua (thu nhập bình quân
dưới 200.000 đồng/người/tháng đối với khu vực nông thôn, dưới 260.000
đồng/người/tháng đối với khu vực thành thị), tỉ lệ hộ nghèo của tỉnh Bắc Ninh sẽ
là 15,34%. Đây là tỉ lệ cao đòi hỏi toàn tỉnh phải nỗ lực hơn nữa. Đến nay qua 5
năm thực hiên chính sách xóa đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh không còn hộ
đói, tỷ lệ nghèo giảm xuống còn 5%, thu nhập bình quân người nghèo tăng gấp
1.5 lần.
Toàn tỉnh có 2 chương trình xóa đói giảm nghèo lớn ở Quế Võ và Thuận
Thành. Tại thuận thành giảm tỷ lệ hộ nghèo của huyện từ 7,12% năm 2003
xuống còn 4,24% năm 2004. Năm 2005 số hộ nghèo được điều tra theo tiêu chí
mới đã tăng lên 15,22%, đến năm 2008 giảm xuống còn 7,32%, năm 2009 còn
6,37%, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo trong nông thôn. Nếu như năm 2006,
huyện Quế Võ vẫn còn 13,03% hộ nghèo, thì đến nay, chỉ còn 6,9%, vượt chỉ
tiêu Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVI đã đề ra (còn 7%-8% hộ nghèo trong
năm 2010). Thành tích này ghi nhận sự nỗ lực trong công tác xoá đói, giảm
nghèo của Đảng bộ và nhân dân huyện Quế Võ.
Tuy đã có những thành tịu đáng ghi nhận nhưng tỉnh cần chú trọng hơn nữa
trong công tác xóa đói giảm nghèo để khắc phục những bất cấp cũng như phòng
trừ nguy cơ tái nghèo thường là rất cao, tiếp tục vững bước trên con đường CNH

– HĐH và đến 2015 cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp.
II.3.4.3. Những tiến bộ về phúc lợi xã hội (giáo dục - y tế)
* Về giáo dục:
22
Giáo dục đào tạo tiếp tục phát triển và được đầu tư tập trung, quy mô, chất
lượng đào tạo nguồn nhân lực có chuyển biến tích cực. Chất lượng giáo dục
thực chất ở các cấp học và trình độ đào tạo đã có chuyển biến, đội ngũ giáo viên
cơ bản đạt chuẩn ở tất cả các cấp học. Đổi mới phương pháp giảng dậy; thường
xuyên quan tâm đánh giá kiểm định chất lượng giáo dục. Hàng năm tỷ lệ học
sinh tốt nghiệp trung học phổ thông đạt trên 90%, học sinh thi đỗ và đại học, cao
đẳng 35-40%, luôn nằm trong 1o tỉnh dẫn đầu cả nước. Đẩy mạnh chương trình
phổ cập giáo dục các bậc học, xây dựng trường chuẩn quốc gia, xã hội hóa giáo
dục, huy động các nguồn lực xây dựng cơ sở vật chất trường học, tỷ lệ phòng
học kiên cố đạt 95,5%; 100% các xã, phường, thị trấn đều có Trung tâm học tập
cộng đồng hoạt động có hiệu quả; hình thành các trường đại học, cao đẳng, viện
nghiên cứu trến địa bàn tỉnh. Quan tâm đầu tư phát triển giáo dục, tỷ trọng ngân
sách nhà nước chi cho giáo dục trong tổng chi thường xuyên tăng từ 37% năm
2005, ước đạt 42.8% vào năm 2010. Đào tạo nguồn nhân lực có chuyển biến tích
cực, toàn tỉnh có 48 cơ sở dạy nghề trong đó có 2 trường cao đẳng nghề, chất
lượng học sinh tốt nghiệp trường dậy nghề từng bước đáp ứng yêu cầu thị
trường lao động. Tỷ lệ lao động là người trong tỉnh chiếm tỷ trọng ngày càng
cao trong lao động tại các khu công nghiệp.
Bất cập trong giáo dục vẫn còn nhiều và đặc biệt là vấn đề tiêu cực chạy
đua trường điểm. Tỷ lệ trường chuẩn quốc gia chưa đạt mục tiêu đề ra. Chất
lượng nguồn nhân lực thấp, cơ cấu đào tạo nghề chưa hợp lý, lao động thiếu việc
làm trong khi doanh nghiệp tuyển lao động khó khăn, dự báo để định hướng đào
tạo lao động còn kém chưa sát thực và chưa có sự kết nối giáo dục với doanh
nghiệp.
* Y tế - Sức khỏe: Trong 5 năm qua, tập trung đầu tư nâng cấp các cơ sở y
tế, triển khai xây dựng bệnh viện Đa Khoa 1000 giường, nâng cấp, mở rộng các

bệnh viện chuyên khoa tuyến tỉnh, bệnh viện đa khoa, trung tâm y tế dự phòng
tuyến huyện. Tỷ trọng chi cho ngành y tế trong tổng chi thường xuyên tăng từ
6,6% năm 2005, ước đạt 8,7% năm 2010 đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, thu hút
các nguồn vốn xây dựng bệnh viện tư nhân, phòng khám tư nhân, tăng đầu tư
23
trang thiết bị, phuong tiện kỹ thuật hiện đại,ứng dụng kỹ thuật tiên tiến trong
chuẩn đoán và điều trị, mở rộng mạng lưới bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho
nhân dân. Thực hiện tốt chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, 100% xã
phường, thị trấn có bác sỹ và đạt chuẩn quốc gia y tế xã, tuổi thọ trung bình đạt
73 tuổi, tỷ lệ trẻ em dươi 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm xuống còn 18% (vượt mục
tiêu đề ra 20%), tỷ lệ trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ đạt trên 98%, tỷ lệ
giường bệnh/vạn dân đạt 20.05; duy trì mức giảm tỷ lệ sinh 0.2-0.3%/năm, tỷ lệ
tăng dân số tự nhiên 11%, đạt mục tiêu.
II.3.5. Thực trạng các vấn đề môi trường
II.3.5.1. Chất thải và ô nhiễm môi trường sinh thái
Bên cạnh những thành tựu về kinh tế đạt được, Bắc Ninh đang phải đối
mặt với hàng loạt vấn đề về ô nhiễm chất lượng môi trường. Kết quả quan trắc
chất lượng môi trường không khí tại một số làng nghề đã ghi nhận nồng độ một
số chất ô nhiễm vượt quy chuẩn cho phép nhiều lần (nồng độ SO2 vượt 4 – 5
lần; nồng độ NO2 vượt 3 – 4 lần). Nồng độ bụi trong không khí tuy đã có xu
hướng giảm nhưng vẫn vượt ngưỡng cho phép. Tại các điểm nút giao thông như
ngã tư Cổng Ô, thành phố Bắc Ninh, thị xã Từ Sơn nồng độ bụi và tiếng ồn luôn
đứng ở mức cao. Bên cạnh ô nhiễm không khí, tình trạng chất thải rắn gây ô
nhiễm trên địa bàn tỉnh cũng đang ở mức báo động. Lượng rác thải sinh hoạt
thải ra trung bình khoảng 533 tấn/ngày và khoảng 2 tấn rác thải y tế; dự báo đến
năm 2020 con số này sẽ tăng lên là 704 tấn/ngày và 4 tấn/ngày. Tỷ lệ thu gom
rác thải sinh hoạt còn thấp, chỉ đạt khoảng 51%. Trong khi đó, trên địa bàn toàn
tỉnh hiện chỉ có 2 bãi chôn lấp rác thải hợp vệ sinh phục vụ cho địa bàn thành
phố Bắc Ninh và thị xã Từ Sơn, các địa phương khác không có hoặc có bãi chôn
lấp rác thải, hoạt động tạm thời, không được khảo sát, thiết kế, xây dựng và vận

hành theo đúng quy định quản lý rác thải nên đang gây ô nhiễm môi trường, ảnh
hưởng đến sức khoẻ người dân. Nước thải tại các khu công nghiệp vừa và nhỏ
trên địa bàn tỉnh hiện cũng đang ở mức báo động. Chỉ tính riêng ở 3 cụm công
nghiệp là Châu Khê, Phong Khê và Phú Lâm, tổng lưu lượng nước thải mỗi
ngày trung bình lên tới 22.000 – 23.000 m3 được xả thẳng ra môi trường bên
24
ngoài không qua bất cứ hệ thống xử lý nào. Nhiều thông số trong nước thải vượt
quy chuẩn cho phép nhiều lần, điển hình như tại cụm công nghiệp Phong Khê,
hàm lượng COD vượt 23 lần, hàm lượng BOD vượt 17 lần.
II.3.5.2. Khai thác và sử dụng tài nguyên môi trường
Bắc Ninh là một tỉnh có trữ lượng tài nguyên khoáng sản rất nhỏ, tuy
nhiên việc quản lý khai thác và sử dụng tài nguyên môi trường rất quan trọng
nhằm tránh lãng phí và suy thoái tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên đất. Trên địa
bàn tỉnh các hoạt động khai thác chủ yếu là tài nguyên đất, cát sỏi ở các bờ sông
và tài nguyên nước. Các hoạt động thường nhỏ lẻ và manh mún lên rất khó trong
công tác quản lý và rà soát, các hoạt động không được quy hoạch cụ thể nên dẫn
đến tình trạng khai thác bừa bãi và không có điểm dừng đặc biệt là hệ thống hút
cát sỏi và lò gạch ngói ở các lưu vực sông gây tình trạng mất an toàn đê che lũ
và ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là hoa màu. Hàng trăm lò gạch
hoạt động không được cấp phép gây thiệt hại hằng năm ước tính 154 triệu đồng
giá trị hoa màu.
II.4. Đánh giá chung chất lượng tăng trưởng kinh tế tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh đang trong quá trình CNH-HĐH và đã thu được những thành tựu
lớn. Kết quả này xuất phát từ kế hoạch ngắn hạn (1 năm), trung hạn (5 năm), dài
hạn (10 năm) hợp lý, cùng với sự nỗ lực cao độ của toàn dân để thực hiện nó.
Tuy nhiên quá trình thực hiện cũng bộc lộ một số khiếm khuyết: Việc phát triển
kinh tế ở tỉnh thường đòi hỏi bức xúc, nhanh, trong khi công việc hoạch định
của quốc gia, của vùng chưa làm trước được. Điều này dễ dẫn đến quá trình phát
triển kinh tế của tỉnh thiếu gắn kết hoặc lệch pha trong cơ cấu kinh tế chung,
trong phân công chung. Áp lực, sự đòi hỏi tiến nhanh, tạo diện mạo mới trong

kinh tế đã nảy sinh khuynh hướng phát triển rộng, thiếu bề sâu, thiếu các căn cứ
khoa học để sàng lọc, chọn chất lượng cao. Các con số phản ánh tăng trưởng
mạnh, tỷ lệ so sánh cao, so với mức tăng chung hoặc so với nghị quyết đã hạn
chế các ý kiến phản biện hợp lý, thêm vào đó những khiếm khuyết không tác
động ngay, khiến cả người quản lý và người thực hiện yên tâm với kết quả thu
được. Có rất nhiều nhà đầu tư kể cả sơ cấp và thứ cấp, nhà đầu tư nào cũng minh
25

×