Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

nghiên cứu các phương pháp phát huy khả năng tìm tòi chủ động phát hiện sáng tạo trong việc học môn sinh học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.66 KB, 12 trang )

PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Lý do chọn đề tài: (Lý do lý luận, thực tiễn, tính cần thiết)
Trong lòch sử phát triển giáo dục của nhân loại đã có nhiều kiểu giáo
dục liên tục được xuất hiện. Mỗi kiểu giáo dục đều phù hợp với điều kiện
kinh tế xã hội đã sản sinh ra nó.
Lòch sử giáo dục đã chứng minh giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc
biệt, giáo dục luôn là thành phần trong cơ cấu thiết chế xã hội và gắn liền
với sự thoả mãn nhu cầu phát triển và tiếùn bộ của xã hội. Bất cứ xã hội nào
muốn duy trì và phát triển được, xã hội đó phải tổ chức thực hiện việc giáo
dục liên tục đối với các thế hệ con người.
Vấn đề có tính quy luật về mối tương quan xã hội và giáo dục ở đây
chính là: Giáo dục là một nhu cầu tất yếu của xã hội trong tiến trình phát
triển, xã hội sẽ tìm ra phương thức thích hợp để đáp ứng nhằm thoả mãn các
yêu cầu về giáo dục để duy trì sự tồn tại và phát triển theo hướng ngày càng
cao hơn, hoàn thiện hơn.
Ở trường trung học cơ sở, môn sinh học là một trong những bộ môn góp
phần đắc lực vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường xã hội chủ
nghóa Việt Nam, là tạo nên những con người mới; những con người lao động
làm chủ tập thể. Những con người lao động mới này cần được chuẩn bò hành
trang kiến thức trước khi vào đời, phần lớn họ sẽ được hướng nghiệp vào các
ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, … Bên cạnh đó môn sinh học ở
trường trung học cơ sở còn phản ánh được sự tiến hoá, sự phát triển thế giới
và phù hợp với lôgic của sự phân thức, nghóa là đi từ đơn giản đến phức tạp,
từ thấp đến cao, từ gần đến xa, … Trình tự đó quy đònh trước hết học giới thực
vật rồi đến động vật và cuối cùng là con người. Điều đó rất có cơ sở khoa
học vì thực vật trực tiếp liên hệ với giới vô cơ, giới động vật liên hệ giới thực
vật, là sản phẩm cao nhất của giới hữu cơ. Do đó; bộ môn sinh học trong nhà
trường trung học cơ sở có một vò trí quan trọng.
Ở trường trung học cơ sở môn sinh học được chia thành bốn mảng cho
bốn khối lớp học:


- Lớp 6: Nghiên cứu về thực vật (hình dạng ngoài và giải phẫu)
- Lớp 7: Nghiên cứu về động vật (hình dạng ngoài và giải phẫu)
- Lớp 8: Nghiên cứu sinh lý người
- Lớp 9: Di truyền học và môi trường
Như vậy, bước vào lớp 7 học sinh sẽ được nghiên cứu về thế giới động
vật từ cấu tạo đơn giản cho đến cấu tạo phức tạp. Để giúp cho học sinh lãnh
hội kiến thức được đầy đủ, chuẩn xác thì các bài thực hành đóng vai trò rất
quan trọng. Đặt biệt khi học sinh được quan sát giải phẫu trên vật thật.
Ở chương trình sinh học lớp 7, bài thực hành giải phẫu đầu tiên mà học
sinh được làm quen là bài thực hành: “Mổ và quan sát giun đất”. Bài thực
hành giải phẫu đầu tiên này để lại cho các em ấn tượng rất sâu sắc, tạo đà
cho các em có hứng thú với môn học, luôn tìm tòi, nghiên cứu để lónh hội
kiến thức, nội dung những bài học sinh học tiếp theo. Chính vì thế phải chuẩn
bò cho tiết thực hành giải phẫu này thật tốt.
Nhưng thực tế cho thấy một số tiết thực hành giải phẫu ở trường trung
học cơ sở chưa được chẩn bò chu đáo, một phần do cơ sở vật chất thiếu thốn,
một phần do quan niệm đơn giản hóa vấn đề của một số thầy cô. Đặc biệt là
những tiết thực hành bắt đầu của chương trình động vật, do kiến thức còn đơân
gỉan nên ít được chú ý.
Mặt khác các em học sinh ở lứa tuổi 13 → 15 rất hiếu động, thích quan
sát những hiện tượng thực tế. Các em ưa thích sự tìm tòi. Có khi các em đã
được nghe cô thông báo giờ sau có thực hành mổ và quan sát giun đất; thái
độ các em rất hào hứng. Chính vì thế mà tôi luôn suy nghó làm thế nào đễ
thực hiện bài này được tốt.
Đó là lý do tôi chọn đề tài: Làm thế nào để thực hiện bài thực hành “Mổ
và quan sát giun đất” của chương trình sinh học 7 được tốt
2. Mục đích nghiên cứu:
+ Nhằm nghiên cứu các phương pháp phát huy khả năng tìm tòi, chủ
động phát hiện. Sáng tạo trong việc học môn sinh học.
+ Rèn kỹ năng sử dụng dụng cụ giải phẫu trong thực hành.

+ Qua việc nghiên cứu sẽ tích luỹ cho bản thân những kinh nghiệm q
báu trong công tác, giảng dạy mà phương pháp dạy học chủ yếu là phát huy
tính tích cực của học sinh.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống các cơ sở lý luận liên quan đến đề bài nghiên cứu.
- Làm thế nào để thực hiện bài thực hành: “Mổ và quan sát giun đất”
cho tốt.
- Đề xuất một số ý kiến để thực hành: Mổ và quan sát giun đất, đạt chất
lượng và hiệu quả cao.
4. Đối tượng nghiên cứu: học sinh
- Thời gian nghiên cứu: 3 năm
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: CƠ SỞ NGHIÊN CƯÚ LÝ LUẬN
I. Hệ thống các phương pháp giáo dục:
1. Khái niệm về phương pháp giáo dục:
+ Là cách thức hành động phối hợp thống nhất giữa người dạy và người
học. Đó là sự kết hợp hữu cơ và thống nhất biện chứng giưã hoạt động dạy
và học trong quá trình dạy học
+ Phươg pháp dạy học là tổ hợp cách thức hoạt động của giáo viên và
của học sinh trong quá trình dạy học. Được tiến hành dưới vai trò chủ đạo
của giáo viên và sự hoạt động tích cực, tự giác của học sinh nhằm thực hiện
tốt các nhiệm vụ dạy học theo hướng của mục tiêu đề ra
2. Chức năng của phương pháp:
- Phương pháp dạy học có chức năng nhận thức, chức năng phát triển
năng lực hoạt động trí tuệ và chức năng giáo dục.
Thật vậy, trong quá trình dạy học nhờ có sự lựa chọn, vận dụng hợp lý
các phương pháp dạy học, người học nắm vững hệ thống trí thức, kỹ năng, kỹ
xảo ở mức độ từ thấp đến cao.
- Mức độ nhận biết: Người học nhận biết được các đối tượng đã được học
tập và phân biệt được chúng với hàng loạt các đối tượng khác.

-Mức độ tái hiện: Người học nhớ lại những điều kiện đã họcvà có thể
nhớ lại chúng 1 cách đầy đủ, chính xác :
-Mức độ kỹ năng: Người học có thể vận dụng trí thức mà mình đã
họcvào các tình huống quen thuộc tương tự như các tình huống đã học trước
đo.
-Mứcđùộâ biến hoá (sáng tạo): Trên cơ sở nắm vững trí thức, kỹ năng; kỹ
xảo họ có thể vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo trong các tình huống.
- Mặt khác phương pháp dạy học còn tạo khả năng hình thành, phát triển
những phẩm chất tốt đẹp cho người học.
3.Ưu điểm của nhóm phương pháp dạy học thực hành.
Nói chung các phương pháp dạy học rất phong phú và đa dạng có hàng
trăm phương pháp đã được mô tả và hàng chục cách phân loại khác nhau,
nhưng trong chương trình sinh học 7, nhóm phương pháp dạy học thực hành
đóng vai trò rất quan trọng. Chưa kể đến những bài dạy học theo phương
pháp thực hành mà những bài thực hành đã chiếm số lượng đáng kể (10 bài).
Trong đó, bài thực hành giải phẫu đầu tiên là bài: “Mổ và quan sát giun đất”.
Chúng ta đã từng nghe dân gian có câu:
Trăm nghe không bằng một thấy
Trăm thấy không bằng một sờ
Nhờ có phương pháp dạy học thực hành mà người giáo viên hướng dẫn
học sinh lónh hội được những trí thức q báu về trí thức sinh học, về kỹ năng,
kỹ xão thực hiện thực hành giải phẫu. Từ đó đúc kết những kinh nghiêïm của
bản thân. Ghi nhớ kiến thức 1 cách sâu sắc.
II. Thực trạng dạy học thực hành sinh 7 ở trường phổ thông cơ sở
1. Cơ sở vật chất:
- Trừ một số trường chuẩn, còn lại chưa có phòng bộ môn. Mặc dù dụng
cụ giải phẫu thực hành rất đầy đủ, nhưng cứ mỗi giờ thực hành gi phẫu.
Giáo vên phải chuẩn bò để đem đến lớp. Sau khi ổn đònh lớp, phát dụng cụ
giải phẫu cho các nhóm xong thì đã chiếm một khoảng thời gian trong 45
phút của tiết học

- Trong quá trình giải phẫu sinh học, với nội dung quan sát, vẽ sơ lược
hình ảnh quan sát được … học sinh và giáo viên phải vội vội vàng vàng để
làm sao hoàn tất trong mộtt tiết học, sau đó còn dọn dẹp để chuẩn bò cho tiết
học tiếp theo của lớp
2. Nhận thức tầm quan trọng của bài thực hành ở học sinh
Từ thực trạng cơ sở vâït chất và cách tiến hành một tiết thưc hành như
trên; dẫn đến học sinh chưa nhận thức được tầm quan trọng của một tiết thực
hành trong quá trình lónh hội tri thức. Trong một thời gian hạn hẹp như vậy
của tiết học thực hành tất cả học sinh sẽ không được rèn luyện kỹ xảo thực
hành mà chỉ tập trung một số học sinh. Từ đó, học sinh cũng chưa nhận ra
được tầm quan trọng của kỷ xão thực hành.
3. Đối với bản thân giáo viên:
Cũng từ điều kiện cơ sở vật chất, như trên, nên bản thân mỗi giáo viên
cũng không chuẩn bò dụng cụ giải phẫu thực hành cho nhiều nhóm nhỏ, mà
phải chia lớp thành những nhóm lớn.
Giáo viên không thể hướng dẫn tỷ mỉ, cụ thể cho nhiều học sinh được
mà chỉ hướng dẫn cho 1 số em.
III. Thực trạng dạy học bài thực hành giải phẫu sinh 7: “Mổ và quan sát
giun đất”
Qua một số năm dạy học bộ môn sinh học 7 ở trường trung học cơ sở; tôi
nhận thấy thực trạng dạy học bài thực hành giải phẫu: “Mổ và quan sát giun
đất” Như sau:
Vì đây là bài thực hành giải phẫu đầu tiên trong chương trình sinh học
nghiên cứu về động vật, nên đối với học sinh rất quan trọng. Sự thành công
hay thất bại của tiết học này có ảnh hưởng lớn đến các bài thực hành giải
phẫu tiếp theo.
- Về mẫu vật: Nếu là thời gian khô hạn kéo dài; thì khó kếm được giun
đát to:
- Về chuẫn bò kiến thức sử dụng dụng cụ giải phẫu của học sinh; giờ nào
giành để giới thiệu và hướng dẫn cách sử dụng dụng cụ giải phẫu sinh học 7.

Nên trước khi vào tiết thực hành giải phẫu này, học sinh chưa hề có khái
niệm gì về sử dụng các dụng cụ giải phẫu. Mà chỉ được giáo viên dặn về
xem trước trong sách giáo khoa để chuẩn bò thực hành.
- Kiến thức về mổ động vật không xương sống học sinh cần phải biết
tầm quan trọng của việc mổ giun ngập trong nước.
- Về mẫu vật:
Chưa chủ động để có được giun to. Vì càng to thì càng dễ quan sát và dễ
mổ.
CHƯƠNG II: NỘI DUNG
1. Qua một số năm trực tiếp giảng dạy chương trình sinh học 7, tôi nhận
thấy: Sau khi đọc xong bài “Giun đất”
Để chuẩn bò cho tiết thực hành “Mổ và quan sát giun đất” giáo viên
thường dặn:
- Các em về chuẩn bò giun đất đem lên lớp để giờ sau thực hành
- Các em về nhà xem trước phần “Cch mổ”
Nếu học sinh về nhà có đọc bài thực hành đó rất kỹ nhưng các em cũng
không mường tượng ra cách thức sử dụng những dụng cụ thực hành như thế
nào? Có em không biết cái kẹp là các gì? Không biết cách lắp dao mổ … Học
sinh không hiểu tại sao phải mổ giun ngập trong nước mà không mổ khô.
Chính vì vậy, khi làm thực hành các em rất lúng túng. Các em không
biết lắp dao mổ như thế nào Không biết cách thao tác cầm kéo, cầm kẹp cho
phù hợp để mổ cho dễ dàng
Các em không biết thao tác bước nào trước bước nào sau. Nếu giáo viên
đi từng nhóm để hướng dẫn thì sẽ mất rất nhều trời gian; dẫn đến thời gian
mổ và quan sát không còn nhiều. Nếu giáo viên không hướng dẫn, để học
sinh thao tác tự do sẽ dẫn đến mẫu mổ không thành công, học sinh không ghi
nhận được kiến thức của bài thực hành
Sự hướng dẫn thao tác lắp, tháo dụng cụ giải phẫu cách thức sử dụng
chúng rất quan trọng. Nó giúp cho học sinh ghi nhận được kỷ năng kỷ xảo
thao tác trong khi thực hành; hổ trợ cho quá trình làm vệ sinh dụng cụ thực

hành sau tiết thực hành được tốt. Mặt khác, các em đang ở lứa tuổi hiếu
động, nghòch ngợm. Nếu khi cầm một dụng cụ thực hành lên mà chưa biết
phải làm gì với dụng cụ ấy, có thể sẽ làm ảnh hưởng đến các bạn khác.
Theo tôi học sinh sử dụng nhuần nhuyễn các loại dụng cụ giải phẫu rất
là quan trọng. Đó là một trong những yếu tố quyết đònh sự thành công hay
thất bại của giờ thực hành giải phẫu.
Chính vì thế nên khi hướng dẫn bài thực hành “Mổ và quan sát giun đất”
giáo viên thực sự vất vã mà hiệu quả không cao. Có ngươiø thì chắc lưỡi:
“Thôi thì lớt phớt cho rồi” từ đó dẫn đến thực tế là học sinh lớp 7 bước đầu
nghiên cứu về thế giới động vật ít có ấn tượng sâu sắc với bài thực hành này.
2. Nếu chúng ta đi sâu vào nội dung của từng tiết thực hành trong chương
trình sinh học 7 ta thấy như sau:
- Bài thực hành 1: Quan sát một số động vật nguyên sinh
Yêu cầu của bài này là quan sát và vẽ được hình dạng ngoài của 1 số
động vật nguyên sinh là trùng giây và trùng roi.
- Bài thực hành 2: “Mổ và quan sát giun đất”
Nội dung cần đạt được trong bài này là:
+ Trình bày cấu tạo ngoài.
+ Chú thích được hình vẽ cấu tạo ngoài.
+ Chú thích được cơ quan tiêu hoá, cấu tạo hệ thần kinh, xác đònh được
cơ quan sinh dục lưỡng tính.
Bài thực hành 2 mang tính chất kiểm chứng
- Bài thực hành 3: Mổ và quan sát tôm sông:
Nội dung cần đạt được trong bài này là.
Nhận biết được và chú thích hình vẽ về hệ tiêu hoá, hệ thần kinh, hệ
tuần hoàn, cơ quan hô hấp.
Bài thực hành 3 mang tính chất tìm tòi, nghiên cứu.
- Bài thực hành 4: Xem băng hình về tập tính của sâu bọ.
Nội dung cần tìm hiểu ở bài thực hành này là: Tìm hiểu về sự phát triển
của giác quan và hệ thần kinh, là cơ sở quan trọng của tập tính.

Bài này có tính chất quan sát, ghi chép và tổng hợp.
- Bài thực hành 5: Mổ cá.
Đây là bài thực hành mổ động vật có xươmg sống đầu tiên, nên trong bài
này học sinh vừa rèn luyện kỹ năng mổ động vật có xương sống vừa nhận
dạng một số nội quan của cá trên mẫu mổ.
Đây là dạng bài thực hành tìm tòi, nghiên cứu.
- Bài thực hành 6: Quan sát cấu tạo trong của each động tên mẫu mổ.
Bài thực hành này không yêu cầu học sinh mổ thực hành, mà chỉ yêu cầu
học sinh quan sát; tìm tòi kiến thức trên mẫu mổ sẵn.
- Bài thực hành 7: Quan sát bộ xương, mẫu mổ chim bồ câu.
Bài này yêu cầu học sinh quan sát, tìm tòi kiến thực trên mẫu mổ sẵn.
- Bài thực hành 8: Xem băng hình về đời sống và tập tính của chim.
Bài naỳ yêu cầu học sinh quan sát, ghi chép và tổng hợp.
- Bài thực hành 9: Xem băng hình về đời sống và tập tính của thú.
Bài này yêu cầu học sinh quán sát, ghi chép, tổng hợp.
- Bài thực hành 10: (3 tiết) Tham quan thiên nhiên.
Bài này mang tính chất là một bài thực hành tìm tòi, quan sát. Nhưng
thực hiện nghiên cứu động vật trong môi trường sống của chúng.
Như vậy chúng ta thấy, mức độ yêu cầu về nội dung thực hành càng về
sau càng nâng cao. Chính vì thế ta càng thấy được tầm quan trọng khi ta thực
hiện tốt bài thực hành giải phẫu: “Mổ và quan sát giun đất.
3.Qua một số năm giảng dạy sinh 7, với những trăn trở đó tôi đã tự đề ra
cho bản thân một số biện pháp để thực hiện giảng đạy tiết thực hành này.
Tôi đã thử nghiệm như sau:
* Nội dung đã nghiên cứu: (chỉ thực hiện với 1 lớp chủ nhiệm)
a) Để chuẩn bò cho học sinh làm quen với dụng cụ giải phẫu (tôi không
thực hiện được với tất cả các lớp, mà chỉ thực hiện được với lớp chủ nhiệm),
cứ 15 phút đầu giờ của những ngày gần sát với tiết thực hành tôi tranh thủ
vài phút đem bộ dụng cụ giải phẫu lên lớp giới thiệu cho học sinh. Tôi giới
thiệu dụng cụ, tên gọi, và cách cầm, cách thao tác dụng cụ, sau đó tôi cho

học sinh tự gọi tên dụng cụ, tự cầm lấy dụng cụ và thao tác
b) Để chuẩn bò vật mẫu được tốt tôi hướng dẫn học sinh như sau:
- Đào giun trước buổi có giờ thực hành 1 ngày, phải đào giun nơi đát ẩm,
có nhiều mùn và tơi xốp. Như vậy sẽ có nhiều cơ hội bắt được giun to. Ngoài
ra chỉ bắt được giun nhỏ thì cơ hội thành công của tiết thực hành đạt kết quả
thấp.
Sau khi đào được giun phải rữa giun thật sạch bằng cách thả giun vào
chậu nước vài lần. Sau đó gắp giun ra và để giun sống trên bông ẩm 1 ngày
(bông ẩm để trong hũ nhựa đậy nắp có lỗ thông khí)
c) Chuẩn bò một số kiến thức thực hành giải phẫu động vật không xương
sống:
Tôi cũng tranh thủ vài phút đầu giờ đó để chuẩn bò cho học sinh một số
kiến thức về giải phẩu động vật không xương sống. Điều quan trọng là phải
mổ ngập nội quan ở trong nước. Biết rõ điều này để trong quá trình thực
hành, các em tự điều chỉnh lượng nước trong khay mổ cho kòp thời. Đồng thời
học sinh ghi nhớ một số kiến thức xác đònh mặt lưng và mặt bụng của giun
đất, để khi tiến hành mổ các em sẽ thực hiện được nhanh chóng, không bò
lúng túng khi nhận diện, để ghim giun vào bàn mổ.
Tôi nhận thấy khi tôi thực hiện như vậy thì thời gian của tiết thực hành
không bò lấn chiếm nhiều; giáo viên có thời gian để hướng dẫn học sinh thao
tác mổ phanh và ghim 2 bên mép mổ của giun và quan sát nội quan.
* So sánh tỷ lệ mẫu mổ thành công và tỷ lệ mẫu mổ không thành công
giữa lớp được hướng dẫn tỉ mỉ như trên tôi nhận thấy như sau:
Mứcđộ thành
công
Lớp tham gia
Số mẫu
thành công
Đạt tỷ lệ
%

Số mẫu
không thành
công
Đạt tỷ lệ
%
Lớp không được hướng
dẫn trước
2 50% 2 50%
Lớp được hướng dẫn
trước
4 100% 0 0%
Mỗi lớp được chia 4 tổ, tôi đã chuẩn bò cho mỗi tổ một bộ thực hành giải
phẫu để mổ giun. Như vậy mỗi lớp sẽ thực hiện 4 mẫu mổ giun.
lớp mà học sinh không được hướng dẫn trước, các em rất lúng túng,
mất thời gian, nên thời gian thực hành mổ ngắn, dẫn đến tỷ lệ thành công của
các mẫu mổ là thấp.
Còn ở lớp mà học sinh được hướng dẫn trước, các em rất tích cực làm
thực hành. Giáo viên hướng dẫn mổ được tỷ mỷ hơn cho từng nhóm, dẫn đến
sợ thành công thể hiện trên các mẫu mổ đạt tỷ lệ cao.
BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Qua các thử nghiệm trên và qua kết quả đạt được tôi tự rút ra cho mìng
bài học kinh nghiệm để tổ chức giờ thực hành. Mổ và quan sát giun đất được
tốt hơn.
1. Cho học sinh có thời gian làm quen với dụng cụ thực hành giải phẫu.
2. Chuẩn bò cho học sinh kiến thức về mổ động vật không xương sống,
thấy được tầm quan trọng khi mổ ngập nội quan trong nước.
3. Chuẩn bò giun đất trước 1 ngày, cho sống trên bông ẩm
4. Khi thực hành, hướng dẫn kỹ cách luồn kéo thật khéo léo để không
làm tổn thương hệ tiêu hoá.
* Đồng thời tôi cũng gặp phải một số khó khăn khi thực hiện tiết thực

hành này.
a) Mẫu vật:
Không phải lúc nào tôi cũng hướng dẫn học sinh tìm được giun đất to.
Nếu thời tiết của thời gian có bài thực hành: “Mổ và quan sát giun đất” trong
năm học đó có mưa nhiều, đất ẩm ướt thì dễ tìm giun to. Nhưng lỡ như trúng
vào thời gian mưa ít, thời tiết nắng và khô thì việc tìm giun to rất khó khăn.
b) Cho học sinh làm quen với dụng cụ thực hành giải phẫu:
Nếu như lớp có chủ nhiệm thì tôi tranh thủ ít phút trong khoảng thời gian
của các buổi 15 phút chủ nhiệm (như tôi đã thử nghiệm ở trên). Còn đối với
các lớp khác thì không có thời gian như vậy được.
Trên đây là một số kinh nghiệm tôi rút ra được qua việc thử nghiệm tiết
thực hành: “Mổ và quan sát giun đất”. Và cũng thấy được những khó khăn
gặp phải khi thực hiện như vậy.
Khi viết những kinh nghiệm này, tôi cũng đã trăn trở, suy nghó nhiều.
Nhưng chắc chắn cũng còn nhiều sai sót. Tôi rất mong được các thấy các cô,
các anh chò đi trước có nhiều ý kiến góp ý cho tôi, để tôi tiếp tục phấn đấu,
hoàn thiện mình hơn nữa để phục vụ tốt hơn cho sự nghiệp giáo dục./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tâm lý học đại cương. Lê Văn Hồng
2. Lý luận dạy học sinh học. Nguyễn Trọng Quang
3. Phát triển các phương pháp dạy học tích cực trong môn sinh học. Trần
Bá Hoành.

×