Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

TIỂU LUẬN CƠ SỞ KINH TẾ NĂNG LƯỢNG THỦY ĐIỆN VÀ MÔI TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.41 KB, 37 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Điện năng được tạo ra từ các dạng năng lượng khác tiềm tàng trong tự nhiên nhờ
công nghệ biến đổi năng lượng. Chẳng hạn, nhiệt năng tiềm tàng trong các loại nhiên liệu
(than đá,dầu mỏ,khí đốt,…) được giải phóng qua phản ứng cháy, biến đổi thành cơ năng
và cuối cùng thành điện năng ở các nhà máy nhiệt điện. Cơ năng của dòng nước
(sông,suối,thủy triều,…) được biến thành điện năng ở các nhà máy thủy điện.Tại các nhà
máy điện nguyên tử, năng lượng giải phóng từ phản ứng hạt nhân (của các nguyên tố có
nguyên tử lượng lớn) cũng được biến thành điện năng qua các quá trình biến đổi nhiệt →
cơ → điện từ. Ngoài các công nghệ quan trọng nó trên những công nghệ năng lượng mới
đang được nghiên cứu áp dụng như: Năng lượng mặt trời, năng lượng đia nhiệt, năng
lượng gió, năng lượng sinh khối, sinh khí,…
Vào những năm 50 của thế kỷ trước, tuyệt đại đa số điện năng được sản xuất ra là
ở các nhà máy nhiệt điện (trên 90%). Tuy nhiên theo thời gian tỉ lệ điện năng do các nhà
máy nhiệt điện phát ra có xu hướng giảm dần, thủy điện tăng dần và có sự phát triển
nhanh của phần điện năng do các nhà máy điện nguyên tử sản xuất. Điều này có thể được
giải thích bởi sự cạn dần của các loại nhiên liệu và nhu cầu ứng dụng của nó vào lĩnh vực
kinh tế khác ngày càng có giá trị hơn. Trong khi đó kỹ thuật xây dựng và khai thác thủy
năng lại có những bước thay đổi vượt bậc, cho phép lắp đặt những tổ máy công suất lớn,
đắp đập ngăn sông xây dựng những nhà máy thủy điện khổng lồ làm cho giá thành xây
dựng (tính trên một đơn vị công suât lắp máy) ngày càng giảm
Nhìn ra thế giới, chúng ta đã thấy sự phồn vinh kinh tế toàn cầu đã làm chuyển
động mạnh mẽ tiêu thụ năng lượng ở mức kỷ lục. Tuy nhiên hậu quả đáng kể về môi
trường ở nhà máy nhiệt điện đã đặt ra nhiệm vụ quan trọng của chính sách năng lượng
bền vững là phát triển mạnh mẽ nguồn năng lượng phục hồi. Trong đó nguồn năng lượng
phục hồi lớn nhất đã được công nghệ chứng minh là thủy điện. Đây chính là lời khẳng
định to lớn về giá trị thực của thủy điện, như nguồn năng lượng phục hồi,sạch và bền
vững.
Chính vì những lí do trên, trong khuôn khổ bài tiểu luận này, nhóm sẽ tìm hiểu
sâu hơn về thủy điện và những vấn đề liên quan đến sự phát triển thủy điện trên thế giới
cũng như ở Việt Nam.
1


Tuy nhiên, vấn đề chúng em đề cập đến có nội dung lý luận rất lớn nên bài tiểu
luận không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót nhất định, vì thế chúng em mong nhận
được ý kiến đóng góp từ giảng viên và tất cả các bạn sinh viên.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
2
Mục lục
3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ THỦY ĐIỆN
1.1 Khái niệm về thủy điện
Thuỷ điện là nguồn điện có được từ năng lượng nước. Đa số năng lượng
thuỷ điện có được từ thế năng của nước được tích tại các đập nước làm quay một
tuốc bin nước và máy phát điện. Kiểu ít được biết đến hơn là sử dụng năng lượng
động lực của nước hay các nguồn nước không bị tích bằng các đập nước như năng
lượng thuỷ triều. Thuỷ điện là nguồn năng lượng có thể hồi phục.
Năng lượng lấy được từ nước phụ thuộc không chỉ vào thể tích mà cả vào sự
khác biệt về độ cao giữa nguồn và dòng chảy ra. Sự khác biệt về độ cao được gọi là
áp suất. Lượng năng lượng tiềm tàng trong nước tỷ lệ với áp suất. Để có được áp
suất cao nhất, nước cung cấp cho một turbine nước có thể được cho chảy qua một
ống lớn gọi là ống dẫn nước có áp (penstock).
1.2 Phân loại nhà máy thủy điện
1.2.1 Phân loại theo công suất lắp máy
• Nhà máy thủy điện lớn: N
ln
≥ 1000 (MW).
• Nhà máy thủy điện vừa: 15 (MW) ≤ N
ln
< 1000 (MW)
• Nhà máy thủy điện nhỏ: N
ln
< 15 (MW).

1.2.2 Phân loại theo cột nước
• Nhà máy thủy điện cột nước cao: H
max
> 400 (m).
• Nhà máy thủy điện cột nước trung bình: 50 (m) ≤ H
max
≤ 400 (m).
• Nhà máy thủy điện cột nước thấp: H
max
< 50 (m)
1.2.3 Phân loại theo kết cấu của nhà máy
• Nhà máy thủy điện kiểu đập
Với những sông có lưu lượng nước lớn nhưng độ dốc nhỏ để tạo ra sự chênh
lệch cột nước ∆H lớn, có thể xây dựng đập chắn, từ đó xây dựng nhà máy thủy
điện gọi là nhà máy thủy điện kiểu đập. Đập càng cao thì công suất càng lớn tuy
4
nhiên cột nước do đập tạo nên có thể bị hạn chế do điều kiện kinh tế và kĩ thuật
không cho phép.
 Phân loại
o Nhà máy thủy điện kiểu ngang đập: nhà máy nằm ngay trong đập do
đó có kết cấu phức tạp, để đảm bảo điều kiện kinh tế kĩ thuật cột nước
khoảng (35 - 40)m.
o Nhà máy thủy điện sau đập: nhà máy nằm sau đập dâng nước. Khi cột
nước cao vì lý do ổn định nhà máy phải nằm sau đập, đôi khi đường
dẫn nước không đi qua đập mà bố trí đi vòng ra ngoài đập ( Hòa Bình)
cột nước khoảng (35 – 40)m.
 Phân tích
o Ưu điểm: Có công suất lớn do tận dụng được toàn bộ lưu lượng dòng
sông, tạo được hồ chứa nước để điều tiết và vận hành tối ưu nhà máy
thủy điện trong hệ thống.

o Nhược điểm: Vốn đầu tư cao, đập không thể xây dựng quá cao vì điều
kiện kinh tế kĩ thuật, đập quá cao có thể làm ngập một vùng rộng lớn, ảnh
hưởng đến sinh thái môi trường.
• Nhà máy thủy điện đường dẫn
Nhà máy thủy điện có thể xây dựng nối tiếp trên cùng một dòng sông gọi là
hệ thống khai thác bậc thang, trong trường hợp đó công suất của mỗi nhà máy tăng
lên do khả năng điều tiết năng lượng của dòng chảy tốt hơn.
 Phân loại
o Xây dựng ở những nơi cột nước được tạo thanh một cách tự nhiên từ các
thác nước, lợi dụng độ cao của thác nước ta đặt đường ống dẫn nước vào
nhà máy tạo cột áp.
o Xây dựng ở những nơi có lưu lượng nước ít, nhưng độ dốc lớn. Kênh
trong được cấu tạo bởi 2 phần: phần đầu được xây dựng dưới dạng kênh
dẫn hở với độ dốc rất nhỏ. Có nhiệm vụ đưa nước đi xa không làm thay
đổi nhiều mức nước đến vị trí thuận lợi tạo thành cột nước cao để xây
dựng nhà máy thủy điện. Phần cuối được xây dựng dưới dạng các ống
5
dẫn kín có nhiêm vụ đưa nước từ trên cao xuống thấp giữ nguyên cột áp
vào các tuabin của nhà máy.
 Phân tích
o Ưu điểm: Có cột nước lớn trong khi vốn đầu tư nhỏ, do đó có thể xây
dựng được nhà máy có công suất lớn ngay cả khi lưu lượng của dòng
chảy rất nhỏ.
o Nhược điểm: Không có hồ chứa nước, do đó không có khả năng điều tiết
và vận hành tối ưu, lưu lượng nước không lớn do đó công suất hạn chế.
Trường hợp đặc biệt con sông lượn vòng được một đoạn dài tạo thành một sự
chênh lệch lớn về mức nước. Kênh dẫn ở đây ngắn nên không tốn nhiều cộng xây
dựng
Trường hợp hai con sông ở gần nhau có mức độ chênh lệch nhau nhiều.
Nước chảy vào kênh dẫn lấy từ con sông có mức nước cao và chảy vào một dòng

sông có mức nước thấp hơn.
Một ví dụ điển hình cho nhà máy thủy điện kênh dẫn là nhà máy thủy điện
Đa Nhim. Nhà máy được xây dựng từ những năm 60 của thế kỉ trước. Kênh gồm 2
ống kín dài gần 3 km dẫn nước từ thung lũng trên đỉnh cao nguyên Đà Lạt xuống
vùng đất thấp tạo ra cột nước tới 1020 m. Nhờ cột nước rất lớn nên chỉ với lưu
lượng nhỏ, công suất nhà máy đã rất đáng kể.
• Nhà máy thủy điện kiểu hỗn hợp
Áp dụng hỗn hợp 2 cách trên để tạo thành cột nước, tạo thành một phần do
đập, một phần do kênh dẫn.
• Nhà máy thủy điện kiểu tích năng:
Là nhà máy thủy điện có hồ chứa được xây dựng bao gồm 2 quá trình:
 Vào những giờ cao điểm của phụ tải hệ thống điện thì nhà máy thủy điện
tích năng sử dụng nước của hồ chạy tuabin nước quay máy phát điện để
cung cấp cho lưới.
 Vào những giờ thấp điểm của phụ tải hệ thống điện thì nhà máy thủy điện
tích năng sử dụng điện của hệ thống chạy bơm để bơm nước lên hồ.
6
Nhà máy thủy điện tích năng có tác dụng san phẳng đồ thị phụ tải do đó
giảm được tổn thất công suất và nâng cao hiệu quả làm việc của nhà máy điện
trong hệ thống.
Trên thế giới đang có một số lượng lớn các nhà máy thủy điện tích năng vận
hành. Ở hệ thống điện thuộc Liên xô cũ nhiều nhà máy thủy điện tích năng được
xây dựng ngay ngoại ô các thành phố lớn như Matxcova (1200MW), Litva
(1600MW), Đnhep (2200MW). Ở Pháp hàng chục nhà máy thủy điện tích năng
được phát triển đồng thời với quá trình xây dựng các nhà máy nguyên tử nhằm đảm
bảo nhu cầu điều chỉnh công suất và tích lũy điện năng.
• Nhà máy thủy điện thủy triều
Nhà máy thủy điện thủy triều làm việc dưa trên sự thay đổi mức nước khi
thủy triều lên xuống được xây dựng tại các vịnh và biển bằng các đập ngăn vịnh với
biển. Khi thủy triều lên mức nước ngoài biển cao hơn mức nước trong vịnh, ta được

độ chênh lệch cột nước và có thể cho nước chảy qua tuabin từ biển vào vịnh để phát
điện. Khi thủy triều rút nước mức nước trong vịnh cao hơn mức nước ngoài biển
tạo nên độ chênh cột nước và có thể cho nước qua tuabin từ vịnh vào biển để phát
điện. Mỗi ngày thủy triều lên xuống 2 lần nên trong vịnh cũng trư nước 2 lần. Khi
chuyển chiều làm việc, nhà máy phải ngừng làm việc một thời gian để có đủ độ
chênh mức nước cần thiết. Như vậy mỗi ngày nhà máy phải nghỉ làm việc 4 lần và
cột nước chỉ là một phần của mức chênh lệch thủy triều. Do đó nhà máy được xây
dựng nối liền với hệ thống và ở những nơi có chênh lệch thủy triều cao (8-10)m.
Tại Việt Nam do sự chênh lệch thủy triều nhỏ nên nhà máy thủy điện thủy triều
không được quan tâm
1.3 Các đặc điểm của nhà máy thủy điện
1.3.1 Sử dụng nguồn thủy năng dồi dào của thiên nhiên
Nhà máy thủy điện sử dụng năng lượng của các dòng nước tự nhiên để biến
đổi thành điện năng. Đó là nguồn năng lượng vô tận của thiên nhiên. Nhiên liệu
không phải vận chuyển, nguồn nước thiên nhiên rất phong phú. Trái lại nhiên liệu
của các nhà máy nhiệt điện( than, dầu, hơi đốt,…) đều có hạn và rất cần cho nhiều
nghành kinh tế quốc dân khác. Sử dụng nguồn thủy năng tiết kiệm được các nhiên
7
liệu trên ngoài ra còn tiết kiệm được chi phí khai thác và vận chuyển dẫn đến giá
thành điện năng giảm mang lại lợi ích lớn đối với nền kinh tế quốc dân.
1.3.2 Vận hành đơn giản, an toàn, dễ dàng tự động hóa, chi phí cho quản lý lao
động nhỏ
Thời gian mở máy 2 và ngừng máy 1 nhỏ. Hiệu suất cao ( 80-90)% và ít phụ
thuộc vào tình trạng làm việc. Thiết bị ở nhà máy thủy điện tương đối đơn giản so
với nhiệt điện nên có thể thực hiện tự động hóa cao hơn. Ở các nhà máy thủy điện
năng suất lao động thường cao hơn nhà máy nhiệt điện vì không phải khai thác vận
chuyển, bảo quản, chế biến nguyên liệu cũng như vào việc đốt lò, cung cấp nước
cho lò hơi,
1.3.3 Giá thành điện năng ở nhà máy thủy điện thường thấp hơn nhiều so với nhà
máy nhiệt điện

Nước là một loại nhiên liệu không phải khai thác, vận chuyển, chế biến, bảo
quản do khả năng thực hiện tự động hóa cao, nhân công phục vụ ít. Khối lượng
thiết bị ít nên chi phí cho thiết bị, khấu hao nhỏ.
1.3.4 Vốn đầu tư lớn, thời gian xây dựng lâu hơn nhà máy nhiệt điện
Các công trình thủy điện đòi hỏi một khối lượng xây dựng lớn, chi phí
nhiều, thời gian thăm dò xây dựng lâu.
1.3.5 Nhà máy thủy điện thường lợi dụng tổng hợp
Khi xây dựng nhà máy thủy điện thường lợi dụng tổng hợp các nhiệm vụ
sau:
• Thủy lợi:
Xây dựng những trạm thủy điện kiểu đập tạo nên những hồ chứa nước lớn,
giữ một khối lượng lớn nước trong mùa nước lũ để tưới cho các vùng đồng bằng
hay đồi núi rộng lớn vào mùa khô đảm bảo việc tăng năng suất.
• Chống lũ:
Xây dựng các nhà máy thủy điện kiểu đập tạo thành những hồ chứa nước lớn
có khả năng trữ phần lớn lượng nước trong mùa lũ và hạn chế mức nước lũ phía hạ
lưu, tránh được các hiểm họa do lũ lụt gây ra.
• Giao thông:
8
Xây dựng các nhà máy thủy điện với những hồ chứa nước lớn tạo điều kiện
cho thuyền bè đi lại dễ dàng. Ngoài ra, khi xây dựng đập qua sông thường kết hợp
xây dựng đường sắt, đường bộ, cầu qua sông.
• Phát triển chăn nuôi: Những hồ chứa nước lớn là những hồ nuôi cá rất tốt.
1.3.6 Nguồn nước thay đổi ngẫu nhiên và biến động mạnh theo thời gian
Vận hành nhà máy thủy điện cần đặc biệt chú ý đến tính chất luôn biến đổi
của dòn chảy. Vì vậy cần đề ra các phương án điều tiết và vận hành hợp lý kết hợp
với các nhà máy điện khác trong hệ thống điện.
1.3.7 Ảnh hưởng đến môi trường sinh thái
Xây dựng hồ chứa lớn sẽ làm ngập một vùng rộng lớn làm ảnh hưởng mạnh
đến sinh thái môi trường

9
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỦY ĐIỆN VÀ TÁC
ĐỘNG CỦA THỦY ĐIỆN ĐẾN MÔI TRƯỜNG
2.1 Khái quát tiềm năng phát triển thủy điện trên Thế giới và ở Việt Nam
Việc đánh giá tiềm năng thủy điện trên thế giới dựa trên sự hiểu biết về vòng
tuần hoàn nước
Hình 7.1: Chu kỳ tuần hoàn nước
Chu kỳ tuần hoàn nước là dòng chuyển động liên tục của nước từ đại dương,
sông, hồ bốc hơi vào không khí hoặc thấm vào đất rồi từ đó lại quay trở lại sông,
hồ và đại dương tạo thành một chu trình kín. Mặt trời hun nóng bề mặt trái đất
khiến nước bốc hơi. Hơi nước bốc lên tầng khí quyển, hạ nhiệt và ngưng tụ lại
thành giọt nước. Các giọt này tụ lại với nhau, phát triển rộng ra cho đến khi quá
nặng và rơi xuống mặt đất dưới dạng mưa tuyết. Nước được giữ tạm thời ở các hồ,
các tảng băng, dưới long đất. Từ đó nước có thể di chuyển từ nơi này sang nơi khác
dưới dạng các dòng chảy, suối, sông ngòi để trở lại đại dương hoặc được hấp thụ
bởi cây cối và động vật hoặc bốc hơi trực tiếp trở lại khí quyển. Thủy điện là dạng
khai thác năng lượng dòng di chuyển của nước từ đất liền về đại dương.
10
Trên toàn bề mặt Trái Đất, tổng lượng nước hấp thụ bằng lượng nước quay
trở lại khí quyển thông qua quá trình bốc hơi. Trên đất liền, lượng hấp thu vượt quá
lượng nước bốc hơi. Tuy nhiên sự chênh lệch này được bù trừ bởi lượng nước sông
(và nước ngầm) đổ lại ra biển. Ngoài đại dương, quá trình ngược lại diễn ra. Tiềm
năng thủy điện được đánh giá dựa theo khối lượng và độ dài quãng đường chảy của
nước sông (nước ngầm) ra biển.
Tuy nhiên, một điểm cần chú ý là các quá trình hấp thu, bốc hơi và nước
sông đổ ra biển (runoff) không được phân bố đồng đều trên các lục địa khác nhau.
Ví dụ như giá trị trung bình của độ hấp thu, bốc hơi và nước sông đổ ra biển tại
Nam Mỹ lớn gấp hai lần các lục địa còn lại, hoặc Châu Á là lục địa có các tổng
lượng nước sông đổ ra biển lớn nhất.
Tiềm năng năng lượng thủy điện được đánh giá dựa vào khối lượng nước

sông đổ ra biển, khoảng cách và độ cao trước khi chúng đổ ra biển. Chính do tổng
lượng nước sông đổ ra biển không được phân bố đồng đều trên các lục địa, việc
tính toán giá trị lý thuyết tiềm năng thủy điện dựa vào giá trị trung bình của độ cao
địa hình dẫn đến sai số lớn. Sự dao động theo mùa của lượng nước sông đổ ra biển
cũng tác động đến tiềm năng lý thuyết.
Giá trị ước tính tiềm năng trên thế giới dao động trong khoảng 36.000-
44.000 TWh. Tuy nhiên giá trị này lớn hơn rất nhiều so với khả năng khai thác lý
thuyết theo các tính toán kỹ thuật, và giá trị thật sự của tiềm năng còn nhỏ hơn
nhiều lần. Sự bất ổn về tiềm năng kinh tế tăng lên cao khi tính đến các yếu tố như
hạn chế về địa chất và các yếu tố về môi trường và môi sinh.
Do đó, tuy rằng với nguyên lý kỹ thuật tương đối đơn giản, thủy điện đôi lúc
là một nguồn tài nguyên tương đối rất khó tiên đoán. Việc đánh giá tiềm năng thủy
điện ngày càng đòi hỏi yêu cầu một loạt các khảo sát chi tiết. Đây là một vấn đề mà
các nước đang phát triển cần chú trọng hơn khi đánh giá phân tích trong kế hoạch
từ ngắn hạn đến dài hạn.
Theo thống kê của World Energy Council (WEC) vào năm 2001, thủy điện
cung cấp 19% (~2.650 TWh/năm) sản lượng điện toàn cầu. Theo tính toán của
WEC và các dữ liệu khác, tiềm năng thủy điện có tính khả thi kỹ thuật đạt đến
14.400 TWh/năm, trong đó 8.000 TWh/năm được xem là hoàn toàn có khả năng
11
khai triển mang lại lợi tức kinh tế. Cũng theo số liệu năm 2001 thì tổng công suất
lắp đặt thủy điện toàn cầu là 692 GW và các dự án đang khai triển đạt công suất lắp
đặt 100 GW. Vậy là so với con số thống kê năm 2001, tiềm năng khả thi kinh tế
của thủy điện có thể còn được khai triển là 5.400 TWh, tức là tương ứng với mức
công suất lắp đặt cần thiết là 1.400 GW (tương ứng với khoảng 20 ngàn nhà máy
thủy điện công suất từ 50-100 MW), đòi hỏi một vốn đầu tư là 1.500 tỷ USD.
Về tiềm năng thủy điện ở Việt Nam. Nước ta có diện tích 330.991 km
2
, trong
đó đồi núi và cao nguyên chiếm 4/5 diện tích. Nước Việt Nam hình chữ S chạy dài

1630 km từ cực bắc đến cực nam, chiều rộng lớn nhất ở miền Bắc là 600 km, ở
miền Nam là 370 km, chỗ hẹp nhất ở miền Trung tại tỉnh Quảng Bình (thị xã Đồng
Hới) là 50 km.
Việt Nam nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa, mưa nhiều, nóng và ẩm. Lượng
mưa trung bình hàng năm khoảng 2000 mm. Lượng mưa rơi nhiều nhất đạt tới
4000 - 5000 mm, nơi mưa thấp nhất cũng đạt trên 1000 mm. Mùa mưa trong năm
thường từ 3 - 5 tháng. Ở miền Bắc, miền Nam và Tây Nguyên, mùa mưa thường
bắt đầu từ tháng 5, 6 và kết thúc vào tháng 10, 11. Ở khu vực Đông Trường Sơn và
vùng duyên hải miền Trung mùa mưa bắt đầu chậm hơn 2, 3 tháng và vùng khu 4
cũ (từ Quy Nhơn - Nghệ Tĩnh), mùa mưa bắt đầu chậm hơn 1, 2 tháng. Lượng mưa
tập trung vào 3 tháng có mưa nhiều nhất, chiếm khoảng 70 - 80% tổng lượng mưa
trong năm. Hệ thống sông ngòi Việt Nam có mật độ cao. Tổng số các con sông có
chiều dài lớn hơn 10 km là 2400. Hầu hết sông ngòi Việt Nam đều đổ ra biển
Đông. Hàng năm, mạng lưới sông suối Việt Nam vận chuyển ra biển lượng nước
870 km
3
/năm, tương ứng với lưu lượng bình quân khoảng 37.500 m
3
/s.
Tiềm năng lý thuyết về thuỷ điện Việt Nam xác định khoảng 300 tỷ kWh
(tính cho những con sông dài hơn 10 km). Tiềm năng kỹ thuật xác định khoảng 123
tỷ kWh, tương đương với công suất lắp máy khoảng 31.000 MW. Tiềm năng kinh
tế, kỹ thuật hiện được xác định khoảng 75 - 80 tỷ kWh, tương đương với công suất
lắp máy khoảng 18.000 - 20.000 MW.
Theo tài liệu quy hoạch các dòng sông do các công ty tư vấn xây dựng điện
1,2 lập đã được phê duyệt và Quy hoạch thủy điện Quốc gia do hãng SWECO -
12
STATKRAFT lập cho 9 hệ thống sông chính (năm 2005), trữ năng kinh tế kỹ thuật
của các hệ thống sông chính theo thứ tự từ Bắc vào Nam như sau:
STT Tên sông Công suất lắp

máy NLM
(MW)
Điện lượng TB
hằng năm (E0
năm) (triệu kWh)
1 Sông Lô - Gâm – Chảy 1.089 4.025
2 Sông Đà 6.756 30.690
3 Sông Mã 1.087 4.000
4 Sông Cả 416 1.484
5 Sông Hương 284 1.315
6 Sông Vũ Gia – Thu Bồn 1.359 4.965
7 Sông Trà Khúc 135 625
8 Sông Ba 669 2.600
9 Sông Sê San 1.796 7.320
10 Sông Serepok 650 2.850
Một phần không nhỏ trong trữ năng kinh tế kỹ thuật nêu trên là thủy điện
nhỏ và vừa. Theo quy hoạch thủy điện nhỏ toàn quốc đã được Bộ Công nghiệp phê
duyệt năm 2005 thì số dự án thuỷ điện có công suất từ 1 MW đến dưới 30 MW ở
31 tỉnh thành khoảng 300 dự án. Tổng công suất lắp máy khoảng 2000 - 2500 MW
tương ứng với điện lượng trung bình hàng năm khoảng 8 - 10 tỷ kWh. Các tỉnh có
tiềm năng thủy điện nhỏ lớn là Lào Cai (23 dự án, tổng công suất 500 MW), Yên
Bái (29 dự án với tổng công suất 240 MW), Nghệ An (18 dự án với tổng công suất
150 MW), Sơn La (19 dự án với tổng công suất 115 MW)…
13
Về thuỷ điện tích năng, theo tài liệu quy hoạch của cơ quan hợp tác quốc tế
Nhật Bản (JICA) lập, đã được Bộ Công nghiệp phê duyệt tháng 11 năm 2005 thì
trên cơ sở nghiên cứu 38 địa điểm và kiến nghị 10 dự án có tính khả thi với tổng
công suất lắp máy khoảng 10.000 MW (Sơn La: 7 dự án, Hoà Bình: 1 dự án, Ninh
Thuận: 1 dự án, Bình Thuận: 1 dự án).
2.2 Lịch sử phát triển thủy điện ở Việt Nam

Phát triển điện lực nói chung và phát triển của thủy điện nói riêng là căn cứ
vào sự phát triển kinh tế xã hội đất nước.
• Năm 1913, Lable, một kỹ sư người Pháp nghiên cứu khai thác nguồn nước
tự nhiên thác Trị An khoảng 3000kw nhưng không được xét duyệt.
• Năm 1943, đưa vào vận hành thủy điện Auhroet (suối vàng) – nhà máy thủy
điện đầu tiên của Việt Nam với công suất 500kw cung cấp điện cho thành
phố Đà Lạt (Lâm Đồng)
• Năm 1944, hoàn thành nhà máy thủy điện Ankroet (xã Lát, huyện Lạc
Dương, Lâm Đồng) với công suất 2300kw
• Từ đó đến trước năm 1954, Việt Nam xuất hiện các thủy điện nhỏ: Ta Sa
(250kw), Nà Ngầu (300kw)
• Từ 1954 – 1975: thời kỳ đầu nghiên cứu toàn diện về khai thác thủy năng, cả
2 miền nam bắc đều xuất hiện thêm nhiều nhà máy thủy điện có công suất
lớn hơn Đaricha 160kw, Suối Vàng nâng cấp lên 3900kw, Thác Bà 108kw,
Cấm Sơn 3900kw, Bản Thạch 960kw.
• Từ 1975 – 1980: giai đoạn sau khi thống nhất đất nước, là thời kỳ khôi phục
kinh tế. Nhà máy thủy điện Hòa Bình được chính thức đưa vào thi công
(năm 1979) dưới sự giúp đỡ của Liên Xô, mặc dù được chuẩn bị từ đầu
những năm 1970. Đến năm 1994, nhà máy thủy điện Hòa Bình được khánh
thành với công suất 1920MW, gồm 8 tổ máy, đây là nhà máy thủy điện lớn
nhất Việt Nam tính đến thời điểm đó.
• Từ 1981 – 1985: thủy điện Hòa Bình – Trị An vẫn trong giai đoạn xây dựng
nên nguồn cung cấp điện năng chủ yếu vẫn là thủy điện Thác Bà – Đa Nhim.
14
• Từ 1986 – 1990: 2 tổ máy Hòa Bình (480MW) và Trị An (400MW) được
đưa vào hoạt động, làm nâng sản lượng điện của thủy điện lên 5368,7 GWh
chiếm 61.86% tổng sản lượng điện cả nước. Đây quả là con số không nhỏ.
• Từ 1991 – 1994: hàng loạt các nhà máy thủy điện được đưa vào hoạt động
như: Hòa Bình với đủ 8 tổ máy (1920MW), Trị An (400MW), Thác Mơ
(150MW), Vĩnh Sơn (66MW), An Điểm (5,4MW), Dray Linh (12MW), làm

nâng sản lượng điện năng từ thủy điện lên 10581,8 GWh, chiếm 72.29%
tổng sản lượng điện cả nước.
• Từ 1995 – 2000: có sự tham gia thêm của 2 thủy điện Yaly với 2 tổ máy
(360MW), Sông Ninh (70MW) làm nâng cao sản lượng điện năng từ thủy
điện, tuy nhiên do sự phát triển của các lĩnh vực sản xuất điện khác mà tỷ lệ
điện năng từ thủy điện chỉ chiếm 58. 35% tổng điện năng sản xuất.
• Từ 2001 – 2005: một chương trình phát triển thủy điện “đại qui mô” được
phát động. Từ 2001 các thủy điện được đưa vào vận hành thêm là Hàm
Thuận – Đa Mi (475 MW), Yaly vận hành bốn tổ máy (720 MW). Do năm
2005 là năm ít nước, thủy điện Đa Nhim sửa chữa nâng cấp, nên điện lượng
sản xuất thủy điện giảm sút so với các năm trước.
2001 2002 2003 2004 2005
i n s n xu tĐ ệ ả ấ
28,433 32,680
39,244 40,243 41,185
Th y i nủ đ ệ
18,169
18,205 19,005 17,713 16,173
Ph n tr mầ ă
63.90
54.05 48.43 44.01 39.27
• Từ 2006 đến nay: nhiều nhà máy thủy điện đã được đưa vào vận hành như:
Đại Ninh (300MW), Tuyên Quang (342MW), Se San (260MW),
Theo dự kiến năng lượng phát của thủy điện trong những năm 2010 – 2015 - 2020 - 2025
như sau : 40,083Gwh – 61,912Gwh – 65,921Gwh – 66,480Gwh. Đây thực là con số rất ấn tượng. Để đưa ra
được các con số rất ấn tượng này là công lao rất lớn của các công ty tư vấn phát triển điện, những người tiên
phong khám phá ra tiềm năng thủy điện, ở những dòng sông, con suối của đất nước. Và cũng từ khám phá ấy,
các nhà tư vấn thủy điện đã dày công nghiên cứu, tìm ra các phương án tối ưu để khai thác các dòng sông, con
suối đó. Đó là công tác qui hoạch thủy năng nguồn nước.
2.3 Công tác qui hoạch nguồn thủy năng

Qui hoạch nguồn thủy năng là một phần quan trọng, đôi khi quyết định trong qui hoạch nguồn nước.
Đồng thời qui hoạch nguồn thủy năng cũng là phần quan trọng trong qui hoạch phát triển nguồn điện quốc gia,
15
bởi vì chỉ có những công trình thủy điện nằm trong qui hoạch thủy năng lưu vực sông được duyệt, mới được
đưa vào qui hoạch phát triển nguồn điện quốc gia ở từng giai đoạn.Chính vì vậy, qui hoạch thủy năng các lưu
vực sông là bước đi đầu tiên và quyết định trình tự đưa các dự án thủy điện vào khai thác.
Qui hoạch nguồn thủy năng có thể là qui hoạch lưu vực sông hay qui hoạch liên lưu vực sông, khi có nhu cầu
chuyển nước lưu vực. Như đã thực hiện ở qui hoạch sông Đồng Nai và vùng phụ cận khi có nhu cầu chuyển
nước từ sông Đồng Nai sang Ninh Thuận và Bình Thuận. Công tác qui hoạch nguồn thủy năng quan trọng như
vậy, nên ngay từ 1954, kể từ khi Nam Bắc tạm thời chia cắt, cho đến khi thống nhất đất nước và thực sự phát
triển từ 1975 đến nay. Từ 1975, qui mô phát triển thủy điện ngày càng lớn nên công tác qui hoạch nguồn thủy
năng ngày càng đẩy mạnh.
Cho đến nay, tất cả các dòng sông của Việt Nam đều có qui hoạch nguồn thủy năng, các dòng sông lớn
được các cơ quan tư vấn trong nước thực hiện và tùy từng thời gian theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền,
các cơ quan tư vấn nước ngoài tham gia nghiên cứu các qui hoạch nguồn thủy năng. Theo thông tin chúng tôi
có được, đã có tám qui hoạch nguồn thủy năng do cơ quan nước ngoài thực hiện, từ qui hoạch về sử dụng
tổng hợp nguồn nước sông Đà, do Phân viện Bacu (Liên Xô cũ) thực hiện khi đề xuất thủy điện Hòa Bình
là công trình đợt đầu của bậc thang sông Đà; đến các qui hoạch tổng thể sông Đồng Nai về dự án thủy
điện, do EPDC (Nhật Bản) thực hiện năm 1993 phục vụ đề xuất dự án thủy điện Hàm Thuận – Đa Mi – Đại
Ninh; rồi qui hoạch tổng thể phát triển nguồn nước sông Đồng Nai và phụ cận, do Jica – Nippon
Koci lập năm 1996 phục vụ đề xuất Đồng Nai 3&4, Srok Phu Miêng; qui hoạch tổng thể phát triển điện
năng nước CHXHCN Việt Nam do EPDC – IEE (Nhật Bản) lập năm 1994 phục vụ TSĐ4 (1996-
2000); qui hoạch tổng thể phát triển thủy điện Việt Nam dưới tên các dự án thủy điện Đại Ninh, do
New – Jec (Nhật Bản) lập 1996-1997; nghiên cứu kế hoạch thủy điện quốc gia Việt Nam do liên doanh
tư vấn Sweco – StarKraft – Norplan thực hiện 1999-2001 phục vụ TSĐ5, Việt Nam đánh giá tổng quan
ngành thủy lợi Việt Nam, do WB – ADB – UNDP - FAO phối hợp với viện qui hoạch thủy lợi Việt Nam
thực hiện năm 1996; qui hoạch thủy điện tích năng Việt Nam do Jica thực hiện. Tất cả các qui hoạch thủy
năng do cơ quan tri văn nước ngoài thực hiện, đều sử dụng các tài liệu cơ bản và các nghiên cứu của tư vấn
Việt Nam đã làm.
Với sự thẩm tra rất cẩn thận của các cơ quan trong nước, đồng thời được rà soát lại bởi các cơ quan tư

vấn nước ngoài, nên chất lượng công tác qui hoạch nguồn thủy năng được đảm bảo. Hơn nữa, được sự chỉ đạo
của cơ quan Bộ Điện lực, Bộ Năng lượng và EVN, các qui hoạch thủy năng các lưu vực sông, thường được
triển khai một số dự án ở mức sâu hơn, báo cáo tiền khả thi hay khả thi, nên tài liệu cơ bản là đáng tin cậy, chất
lượng dự án đạt yêu cầu. Hiệu quả rõ nét nhất của công tác qui hoạch nguồn thủy năng là sự hiện
diện các công trình thủy điện đã, đang và sẽ xây dựng, trong các qui hoạch phát triển điện các
giai đoạn.
Sự hiện diện của các công trình thủy điện ở các giai đoạn phát triển điện lực, không chỉ là
nguồn năng lượng phục hồi, sạch và bền vững, mà còn mang lại hiệu quả to lớn cho phát triển
công, nông nghiệp và dân sinh, đồng thời là nguồn quan trọng giảm nhẹ thiên tai (chống lũ,
chống hạn) góp phần giảm khí thải hiệu ứng nhà kính gây ra sự thay đổi khí hậu toàn cầu.
16
2.4 Thực trạng của chiến lược phát triển thủy điện hiện nay
2.4.1 Về quy hoạch
Hầu hết quy hoạch hồ chứa mới chỉ có đánh giá tác động môi trường mà chưa đánh giá
môi trường chiến lược như quy định của pháp luật. Việc đánh giá tác động môi trường của đa số
các dự án thủy điện, thủy lợi chưa tốt, chưa đánh giá hết được tác động môi trường mà dự án gây
ra, chưa quan tâm đánh giá đầy đủ, đúng mức ảnh hưởng tới các tài nguyên và môi trường tự
nhiên và môi trường xã hội, đặc biệt là các tác động đến nguồn nước (cả về số lượng, chất lượng
và chế độ), đến các nhu cầu khai thác, sử dụng nước khác, đến nhu cầu nước cần thiết để đẩy
mặn trong mùa kiệt, bảo đảm duy trì đời sống bình thường của dòng sông ở hạ du.
UBND các tỉnh phê duyệt quy hoạch hồ chứa vừa và nhỏ, nhưng thường thiếu sự phối
hợp kiểm tra, giám sát của các ngành ở TW nên thường được điều chỉnh, bổ sung liên tục chạy
theo cách nhìn nhận địa phương cục bộ, không phải cách nhìn mang tính tổng thể lưu vực (thay
đổi vị trí, qui mô công trình, công suất, các hạng mục công trình, ), trong khi lại thiếu phân tích
đánh giá toàn diện các phương án điều chỉnh trên từng hệ thống bậc thang và toàn lưu vực.
Các quy hoạch liên tục được điều chỉnh theo hướng tăng số lượng, tăng quy mô các hồ
chứa ở hầu hết các địa phương đang là “báo động” về tình trạng quy hoạch tùy tiện, thiếu kiểm
soát từ cơ quan quản lý cấp trên. Tình trạng để xây dựng hàng trăm hồ chứa trên một lưu vực
sông có nguyên nhân từ sự bất cập của quy hoạch đang dẫn tới tàn phá vùng rừng đầu nguồn sinh
thủy, tàn phá môi trường và tài nguyên, rõ ràng là không thể chấp nhận được.

Việc quy hoạch các công trình thủy điện do các cấp có thẩm quyền quyết định mà không
tham vấn ý kiến của địa phương nơi sẽ xây dựng công trình, chỉ đến khi công trình được phê
duyệt đầu tư thì địa phương mới biết, nên rất khó thay đổi để đạt mục đích hài hòa các lợi ích
trong xây dựng, quản lý vận hành công trình, làm tăng nguy cơ tác động đến các cộng đồng dân
cư vùng hồ, nhất là các cộng đồng dân tộc thiểu số.
2.4.2 Về thiết kế, thi công xây dựng công trình
Đa số các hồ chứa thủy điện vừa và nhỏ do tư nhân hoặc các công ty cổ phần là chủ đầu
tư dẫn đến chủ đầu tư chỉ chú ý đến lợi ích phát điện, hoàn toàn không chú ý đến lợi dụng tổng
hợp công trình, không “đếm xỉa” đến bảo đảm các lợi ích khác, thậm chí khi họ xây dựng đã kéo
theo việc phá luôn rừng là nguồn sinh thủy bảo đảm tính bền vững của chính công trình thủy
điện của họ.
Mặt khác, do chỉ chú ý đến hiệu quả phát điện nên trong nhiệm vụ thiết kế, xây dựng
công trình, phần lớn công trình hồ chứa không có dung tích phòng, chống lũ cho hạ du (nhất là
các công trình thủy điện vừa và nhỏ ở khu vực miền Trung), các tuyến đập không có giải pháp kỹ
thuật (cống, tràn xả sâu, tràn sự cố ), quy trình không có biện pháp kỹ thuật bảo đảm vận hành
cắt giảm lũ vào mùa mưa và cấp nước trong mùa khô nên nếu vận hành không hợp lý đều gây gia
17
tăng lũ trong mùa ngập lụt ở hạ du hoặc không bảo đảm duy trì dòng chảy tối thiểu cho hạ du
trong mùa cạn làm các sông suối “khô héo” dần.
Ngoài ra, thực tế cho thấy, việc tận thu rừng trong lòng hồ, khu vực công trình cũng luôn
kéo theo sự lợi dung để khai tác, tàn phá rừng đầu nguồn các lưu vực sông. Hâu quả là thủy điện
làm mất dần “bình phong” điều tiết lũ tự nhiên trên lưu vực, gián tiếp làm gia tăng lũ, đồng thời
cũng làm gia tăng nguy cơ mất bền vững của công trình (giảm tuối thọ và tăng các chi phí khác
của vận hành hồ chứa theo quy định).
Hiện nay việc cấp phép khai thác sử dụng tài nguyên nước mặt cho phát điện chủ yếu là
cấp phép cho các công trình đã đi vào hoạt động từ nhiều năm nay, việc thay đổi kết cấu công
trình để đảm bảo các điều kiện trong giấy phép (trong đó có thực hiện nhiệm vụ cắt giảm lũ; duy
trì dòng chảy tối thiểu) là rất khó khăn, thậm chí nhiều công trình không có biện pháp để thực
hiện điều kiện của Giấy phép. Gần đây, nói về sự cố thấm ở đập thủy điện Sông Tranh 2, GS.TS
Nguyễn Văn Liên, Phó chủ tịch Hội đồng nghiệm thu Nhà nước nhận định, chất lượng thi công

xây dựng các khe nhiệt ở con đập chưa đảm bảo, chưa tổ chức kiểm tra, nghiệm thu chặt chẽ.
Thiết bị quan trắc chưa được lắp đặt đầy đủ trong quá trình thi công xây dựng, một số thiết bị hư
hỏng chưa kịp thời khắc phục. "Việc này ngoài trách nhiệm của nhà thầu thi công xây dựng còn
có trách nhiệm của tổ chức giám sát", GS.TS Liên khẳng định.
2.4.3 Về quản lý vận hành hồ chứa
Nhìn chung, nhiều ý kiến của các chuyên gia về tài nguyên nước, thủy lợi, thủy điện và
liên quan đến phòng chống thiên tai, khai thác, sử dụng nguồn nước; của các cơ quan quản lý tài
nguyên nước và liên quan về nội dung, giải pháp kỹ thuật trong vận hành các hồ chứa thủy điện
cũng như các ý kiến thẩm định các quy trình vận hành công trình hầu như các chủ công trình và
nhất là các cơ quan quản lý cấp trên liên quan không hoặc rất ít khi tiếp thu, sửa chữa. Nhiều ý
kiến của Bộ Tài nguyên và Môi trường liên quan đến bổ sung các nhiệm vụ vận hành công trình
(như chế độ vận hành phòng, chống lũ; điều tiết nước bảo đảm duy trì dòng chảy tối thiểu ở dưới
hạ du, ) chưa được xem xét đúng mức trong quá trình hoàn chỉnh, thẩm định phê duyệt quy
trình vận hành.
Nhiều công trình chưa thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của quy trình vận hành nên
đã gây những hậu quả xấu cho hạ du và bản thân công trình. Trong xây dựng cũng như quản lý
vận hành công trình, các chủ đầu tư hoặc chủ công trình đề không thực hiện việc thu thập thông
tin khí tượng thủy văn cần thiết nên thường vận hành không hợp lý, có trường hợp gây lũ về
sớm, lên quá nhanh, làm gia tăng mức độ ngập lụt như trong lũ lụt năm 2009 ở hạ lưu sông
Hương-Bồ (do sự cố vận hành cửa van công trình thuy điện Bình Điền), sông Vu Gia – Thu Bồn
(do xả nước từ công trình A Vương), sông Ba (do vận hành xả lũ của công trình sông Ba Hạ);
trong lũ lụt lịch sử ở Hà Tĩnh, Quảng Bình (do sự cố công trình thủy điện Hố Hô, Kẻ Gỗ). Việc
xây dựng công trình không bảo đảm phương án chống lũ cần thiết hoặc công trình không an toàn
18
dẫn đến vỡ đập gây hậu quả nghiêm trọng cho hạ du (như trường hợp vỡ đập Cửa Đạt năm 2007
khi đang thi công, vỡ đập Khe Mơ năm 16/10/2010 khi đang sửa chữa; vỡ đập Z20, đập Thầu
Dầu năm 2008,
2.5 Tác động của thủy điện đến môi trường tự nhiên
Thủy điện không còn là nguồn năng lượng rẻ và ít ô nhiễm như mọi người lầm
tưởng… Nếu tính theo quan điểm tài chính, nghĩa là đồng vốn bỏ vào đầu tư xây đập,

làm hồ, xây nhà máy, đền bù cho dân phải dời nơi sinh sống từ lâu đời tới một nơi xa lạ
để tái định cư thì giá thủy điện rẻ gấp nhiều lần so với nhiệt điện hoặc các dạng điện năng
khác. Thế nhưng, còn một số mất mát khác chưa được tính tới. Nếu tính thêm mất rừng
nhiệt đới, mất đa dạng sinh học do đập thủy điện gây ra, làm giảm sút hệ thủy hải sản,
mất những loài cá di cư đẻ trứng vùng thượng nguồn, sói lở ở dòng sông, mất những
vùng đất ngập nước do sông biến đổi gây ra, hạ mực nước ngầm ở những nơi lòng sông
bị đào sâu, sức khỏe cộng đồng và nhất là những khó khăn về xã hội do di dân thì chắc
chắn là không hề rẻ chút nào.
2.5.1 Ảnh hưởng đến môi trường đất:
Xét vể mặt tích cực, thủy điện cũng có những tác động tốt đến môi trường đất.
Trước hết, lợi dụng mực nước dâng cao trong hồ có thể xây dựng hệ thống nông giang
phục vụ tưới tiêu ( nếu xung quanh nhà máy có khu vực hạn hán, không phát triển được
nông nghiệp). Nhiều trường hợp thực tế đã gặp, lợi ích này có ý nghĩa kinh tế rất lớn. Ví
dụ điển hình thường nêu cho NMTĐ xây dựng ở Ai Cập (với đập Aswan ngăn sông
Nile). Nhờ xây dựng nhà máy này mà một diện tích lớn đất đai khô cằn ở Sudan và Ai
Cập được tưới nước. Nền nông nghiệp phát triển dài lâu đã nhanh chóng thu hồi vốn đầu
tư cho cả nhà máy. Tuy nhiên những tác động xấu của thủy điện đến môi trường đất là
không hề nhỏ.
Việc xây dựng các hồ chứa làm mất đi một diện tích lớn đất đai và thông thường
có cả đất rừng. Theo tính toán, để có 1 MW điện phải mất ít nhất 7,5 – 10 ha rừng. Hồ
chứa nước của các công trình thuỷ điện chiếm một diện tích rất đáng kể đất ngập nước, đã làm
mất đi hệ quần thể thực vật, vốn là thức ăn nuôi sống động vật. Hậu quả là nhiều loại động vật
cũng bị tiêu diệt hoặc phải di cư đến nơi khác sinh sống. Giải pháp: Khi thiết kế xây dựng hồ
chứa nước bắt buộc phải có các tính toán về thiệt hại đối với thế giới động vật, tính toán thiệt hại
về kinh tế. Và phải tính đến các biện pháp hoàn bù đất, cải tạo, tăng độ phì nhiêu của đất, cải
thiện điều kiện cho thực vật phát triển và áp dụng các biện pháp công nghệ sinh học khác để cải
tạo đất.
19
Khi xây dựng hồ chứa nước và nhà máy thuỷ điện, Nhà nước sẽ phải trưng dụng
vùng đất để ngập nước, gia cố bờ chắn sóng, đưa một số công trình và khu vực sinh hoạt

cho cán bộ, công nhân xây dựng, xây dựng khu tái định cư cho người dân sinh sống từ
trước ở khu vực hồ chứa nước Hiện nay, diện tích các hồ chứa nước các công trình thuỷ
điện ở Nga chiếm khoảng 0,3% quỹ đất của nước này, ở Canada 0,6% và ở Mỹ là 0,8%.
Tỷ lệ diện tích đất ngập nước trên 1 triệu kWh thuỷ điện hiện nay ở Nga là 6 ha, ở Mỹ là
6,5 ha và ở Canada là 6,9 ha/1 triệu kWh. Chỉ số này có xu thế còn tiếp tục giảm xuống
Các biện pháp giảm tác động đến nguồn lợi đất trong xây dựng và vận hành các công trình thuỷ
điện bao gồm:
• Chia nhỏ kênh xả nước theo mức sử dụng năng lượng.
• Xây dựng công trình đầu mối nước dân mức thấp và trung bình thay cho một đầu mối
mức nước cao. Biện pháp này cho phép giảm được diện tích ngập nước nhiều lần.
• Xây dựng hệ thống xả/thoát nước, giảm lưu lượng xử nước, đảm bảo chế độ tối ưu nước
– không khí trong đất tạo tiền đề cho những vụ thu hoạch nông sản lượng cao, bảo vệ an
toàn các đô thị gần công trình.
• Xây dựng đập bảo vệ công trình.
Xây dựng đập trên dòng chính sông sẽ dẫn tới việc lắng đọng phần lớn phù sa trong lòng
hồ mới hình thành, dẫn đến giảm lượng chất dinh dưỡng bổ sung cho đồng bằng châu thổ và
lượng trầm tích ven biển. Hậu quả là độ phì của đất ngập nước bị suy giảm. Một số vùng ven
biển như rừng ngập mặn thiếu trầm tích bổ sung có thể bị xói lở và tiếp tục bị thu hẹp diện tích
Những phương án chặn nước đổi dòng, nhằm tập trung lưu lượng và dâng cao cột nước
đôi khi lại gây ra hạn hán khô cằn cho cả những khu vực rộng lớn. Trong những trường hợp như
vậy, thường cách khắc phục là phải thay đổi lại toàn bộ phương án nhà máy ( giảm công suất
hoặc ngừng hẳn) để trả lại điều kiện tự nhiên ban đầu cho dòng sông.
Trong một số trường hợp còn phải chú ý cả đến các ảnh hưởng gián tiếp với những công
trình có sẵn xung quanh nhà máy thủy điện. Chẳng hạn, ảnh hưởng làm tăng cấp động đất cục bộ
( còn gọi là động đất thứ cấp) do xây dựng nhà máy thủy điện. Hiện tượng này thường xảy ra với
các nhà máy thủy điện lớn, kiểu đập. Khối nước của hồ đè nặng trên mặt đất, khi bắt đầu tích
nước đưa nhà máy vào vận hành, có thể làm tăng cấp động đất (lâu dài sau đó, hoặc trong một
thời gian). Hiện tượng này rất cần được quan tâm đối với khu vực thường xuyên có động đất và
có những công trình lớn đã được xây dựng trước khi có nhà máy thủy điện.
2.5.2 Ảnh hưởng đến môi trường nước

Suy giảm do lượng phù sa không còn đủ để cung cấp các chất dinh dưỡng hữu cơ và vô
cơ quan trọng cho các loài sinh vật do một lượng lớn phù sa trong nước bị giữ lại khi chảy qua
tua-bin
20
Khi phù sa lắng đọng ở đằng sau con đập, xảy ra một hiệu ứng gọi là “thừa mứa dinh
dưỡng” có thể làm cho lượng ôxy cung cấp bị suy giảm.
Giảm sự chuyển dịch của sỏi cuội về hạ du tác động đến các điều kiện sinh cảnh quan
trọng, như: các bãi đẻ trứng cho cá . Xây dựng công trình thuỷ điện sẽ hạn chế các luồng di cư và
bán di cư của các loài cá, làm thay đổi điều kiện sinh sản, có nguy cơ làm kiệt quệ nguồn thức ăn
của cá tại các công trình lấy nước tại nhà máy thuỷ điện. Kết quả là nguồn thuỷ sản bị giảm, đặc
biệt là các loại cá quý hiếm, trong một số trường hợp còn bị tuyệt chủng. Để ngăn ngừa các hậu
quả tiêu cực này, trong các dự án thuỷ điện hiện nay, người ta cho áp dụng các biện pháp đặc
biệt, trong đó có biện pháp xây dựng công trình bảo vệ cá, cho cá qua lại và tạo lập cơ sở thức ăn
cho cá.
Tác động của các hồ chứa nước và hoạt động của nhà máy thuỷ điện sẽ làm thay đổi hệ
sinh thái dưới nước ở khu vực có công trình thuỷ điện. Hệ sinh thái sông sẽ phải nhường vị trí
cho hệ sinh thái hồ tại khu vực hồ chứa nước.
Trong các dự án hiện nay về hồ chứa nước, người ta đều tiến hành dự báo chất lượng
nước, trong đó phải tính đến các đặc điểm thoát nước tự nhiên, ảnh hưởng của các nguồn gây ô
nhiễm môi trường, các quá trình lưu chuyển nước trong vùng. Kết quả dự báo chất lượng được
trình bày dưới dạng các chỉ tiêu thuỷ hoá và thuỷ sinh học. Việc đánh giá chất lượng nước được
thực hiện bằng cách so sánh kết quả dự báo với nồng độ giới hạn cho phép các thành phần khác
nhau, quy định trong các tài liệu tiêu chuẩn – quy phạm
2.5.3 Ảnh hưởng đến môi trường không khí
Với sự thay đổi của mức nước làm ảnh hưởng đến độ ẩm và khí hậu các khu vực ven
sông. Các hồ chứa nước lớn sẽ tác động đến vi khí hậu các vùng lân cận, có thể giảm nhiệt độ
cực trị của khí quyển. Nhiệt độ cao nhất về mùa hè có thể giảm xuống 2-3
o
C, mùa đông tăng lên
1- 2

o
C, độ ẩm không khí cũng có thể thay đổi. Ví dụ: Vùng hạ lưu của các công trình thuỷ điện
lớn ở Sibiri đã chịu tác dụng tiêu cực về vi khí hậu. Tại khu vực này về mùa đông, nước nóng
chảy dài trong một không gian lớn đã không đóng băng hoàn toàn, là nguyên nhân gây ra hiện
tượng sương mù, gây khó khăn cho sinh hoạt của nhân dân trong vùng và làm thay đổi theo
hướng tiêu cực hệ sinh thái khu vực. Để đối phó với hậu quả tiêu cực về thay đổi vi khí hậu, xuất
hiện ở vùng hạ lưu các hồ chứa nước ở Sibiri, người ta đã nghiên cứu xây dựng kết cấu đặc biệt
cho các công trình lấy nước, cho phép điều hoà được chế độ nhiệt của nước ở vùng hạ lưu bằng
cách làm tường vây che nước ở các độ sâu khác nhau trong hồ chứa nước, do đó làm giảm được
khoảng cách không gian ảnh hưởng của nước nông. Trong tương lai, kết cấu đặc biệt của công
trình dẫn nước nóng này có thể được áp dụng cho các công trình thuỷ điện trên các sông miền
Đông Sibiri và Viễn Đông.
Một điểm đặc điểm quan trọng của thủy điện là nó hầu như không đốt nhiên liệu
hoá thạch, do đó không trực tiếp tạo nên khí nhà kính dioxit cacbon làm nóng khí hậu trái
21
đất. Một công trình nghiên cứu xếp thuỷ điện vào vị trí phát khí nhà kính ít nhất, tiếp đến
là điện gió, điện hạt nhân và thứ tư là điện mặt trời. Do đó, có thể coi đây là dạng năng
lượng sạch. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu sâu hơn thì thủy điện lại gián tiếp thải ra khí gây
hiệu ứng nhà kính. Việc thu dọn lòng hồ trước khi tích nước lần đầu nếu không tốt sẽ ô
nhiễm nước hồ do quá trình phân huỷ thực vật trong lòng hồ. Nó còn thải ra khí mêtan
gây hiệu ứng nhà kính mạnh gấp 21 lần so với CO2. Chúng ta đều biết, hiện tượng trái
đất nóng lên gây biến đổi khí hậu một phần là do phát thải khí nhà kính. Thủy điện từng
được cho là nguồn năng lượng sạch nhưng quan điểm này đã sai vì chúng góp phần làm
tăng phát thải khí nhà kính- khí mêtan (CH4), một loại khí nhà kính rất mạnh. Xét ở khía
cạnh phát thải khí mêtan, đôi khi thủy điện còn ô nhiễm hơn là nhiệt điện. Hồ chứa đập
thủy điện có thể sản sinh ra một lượng đáng kể khí mêtan và đioxit cacbon (CO2). Khí
mêtan được sinh ra chủ yếu do vi khuẩn phân hủy chất hữu cơ trong điều kiện ít hoặc
không có oxy. Xác động thực vật chết bị ngập chìm dưới lòng hồ, phân hủy trong môi
trường yếm khí và hình thành nên khí mêtan. Do hệ thống ống dẫn nước cho các tua - bin
thủy điện thường được đặt sâu dưới đáy hồ, dưới điều kiện áp suất cao, khí mêtan trong

nước dễ dàng thoát ra ngoài. Theo Ủy hội Đập thế giới, ở nơi nào mà hồ chứa khá lớn so
với năng lực của đập (dưới 10W/m2 diện tích bề mặt) và không có sự phát triển trở lại
của bất cứ loại thực vật nào đã bị phát quang thì lượng khí thải nhà kính phát thải từ đập
khi sản xuất điện cũng ngang như việc đốt dầu mỏ để sản xuất cùng một lượng điện. Năm
1990, các nhà khoa học đã ước tính được lượng phát thải khí nhà kính của đập Curua-
Una ở Para (Braxin) là cao hơn 3,5 lần so với cùng lượng điện được tạo ra từ dầu mỏ hay
chỉ với 52.000 con đập lớn của thế giới đã đóng góp hơn 4% tác động gây nóng lên toàn
cầu do hoạt động của con người. Nghiên cứu của Viện Nghiên cứu không gian Quốc gia
Braxin (INPE) chỉ ra rằng, các đập thủy điện lớn có thể tạo ra lượng khí mêtan hàng năm
trên toàn cầu tương đương khoảng 800 triệu tấn khí CO2. Các hồ thủy điện hình thành
trên các con đập làm ngập chìm các khu rừng nhiệt đới cũng đồng nghĩa với việc mất đi
những bể chứa CO2 hữu hiệu, hay nói cách khác chúng làm tăng phát thải CO2 vào khí
quyển. Hiện nay, dù chưa có thống kê về diện tích rừng bị mất do làm thủy điện trên toàn
thế giới cũng như ở Việt Nam nhưng từ con số ước tính về lượng CO2 phát thải vào khí
quyển trên một đơn vị diện tích rừng bị mất (16,1 triệu ha rừng trên thế giới bị mất giải
phóng 1,6 Giga tấn cacbon đioxit/năm) hay căn cứ trên khả năng của rừng nhiệt đới có
thể hấp thu CO2 (là 9,62 tấn/ha/năm) người ta có thể hình dung phần nào về sự đóng góp
22
vào sự biến đổi khí hậu thông qua việc gián tiếp làm tăng phát thải CO2 của thủy điện ở
các nước nhiệt đới, trong đó có Việt Nam
2.5.4 Ảnh hưởng đến môi trường sống của chính con người
Con người sống trong môi trường thiên nhiên, dù ít dù nhiều cũng đều chịu ảnh hưởng
tác động khi môi trường thiên nhiên bị biến đổi. Tất cả những tác động đến môi trường đất,
nước, không khí đều ảnh hưởng đến cuộc sống của chính con người chúng ta nên việc nghiên
cứu vấn đề này là hết sức quan trọng.
Việc mất đi diện tích đất lớn, trong đó có cả khu vực sinh sống của các dân tộc thiểu số
đã làm biến dạng cấu trúc của nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số. Chính sách đền bù, tái định cư
mới chỉ dừng ở việc đền bù sử dụng đất và các tài sản bị thiệt hại trực tiếp. Các thiệt hại gián tiếp
và vô hình khác, về thu nhập, về kinh tế như lợi thế từ vị trí kinh doanh, đánh bắt cá, từ sản phẩm
rừng… chưa được tính đến. Nhiều quy định chồng chéo và thay đổi liên tục, không căn cứ vào

các quy định pháp luật khiến cho đời sống của người dân bị xáo trộn. Làm mất đất canh tác của
người dân. Thực trạng điều tiết nước không hợp lý gây nên lũ lụt ảnh hưởng đến đời sống của
người dân. Thay đổi dòng chảy của các con sông ảnh hưởng đến người dân chủ yếu hoạt động
kinh tế trên các con sông này. Vấn đề di dân -tái định cư cho dân cư nông nghiệp sống
trong vùng hồ chứa không đơn giản, tác động về mặt xã hội sẽ rất lớn và lâu dài. Vấn đề
là phải dành một diện tích canh tác rất lớn để phân chia và xây chỗ ở cho các người tái
định cư. Đối với trường hợp người nông dân sau định cư sẽ phải kiếm sống bằng những
ngành nghề phi nông nghiệp nếu không có chính sách hỗ trợ dạy nghề, kiếm việc làm thì
thất nghiệp là chắc chắn và Nhà nước lại phải tiếp tục hỗ trợ đời sống lâu dài. Trong
nhiều trường hợp không một khoản bồi thường nào có thể bù đắp được sự gắn bó của họ
về tổ tiên và văn hoá gắn liền với địa điểm đó vì chúng có giá trị tinh thần đối với họ.Với
các công trình thủy điện, do mất rất nhiều đất ở và đất canh tác để làm hồ chứa nên sản
xuất nông nghiệp và đời sống của người dân có thể gặp khó khăn. Đặc biệt, có trường
hợp chôn vùi vĩnh viễn cả một nền văn hoá dưới lòng hồ. Có thể kể ra các trường hợp
điển hình đã xảy ra ở các đập thuỷ điện sau đây: Đập Tam Hiệp (Trung Quốc), Clyde ở
New Zealand, Ilisu ở Thổ Nhĩ Kỳ v.v Theo một đề án nghiên cứu của cơ quan chuyên ngành,
hồ thủy điện Hoà Bình làm ngập 6.609 héc ta, tương đương với dung tích điều tiết 5 tỉ m
3
nước,
bình quân ngập 1,3 héc ta/1 triệu m
3
; hồ Thác Bà ngập 16.629 héc ta, ứng với dung tích điều tiết
1,8 tỉ m
3
, trung bình ngập 9,2 héc ta/1 triệu m
3
. Tổng diện tích ngập lụt quy về đất nông nghiệp
của các hồ chứa trên sông Đà, sông Lô tham gia chống lũ cho đồng bằng sông Hồng là 47.534
héc ta. Tổng số dân phải di chuyển 174.607 người, với tổng chi phí đền bù khoảng 622 triệu đô
la Mỹ.

23
Như đã nói ở trên, sự mất mát về các loài động thực vật ở khu vực đất xây đập có
thể gây hiệu quả về mặt sinh thái và thậm chí cả kinh tế, nhiều loài động- thực vật quý
hiếm đã mất đi gây ảnh hưởng đến hệ sinh thái của vùng và khu vực. Ngoài ra, do lượng
phù sa bị giữ lại, không chảy xuống hạ lưu đã khiến cho các vùng đất này không được bồi
lằng, đất giảm dần sự màu mỡ ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp, cùng với đó nước
mặn có cơ hội xâm thực vào từ cửa biến gây những hậu quả xấu cho người dân khu vực
ven biển. Ước tính hàng năm của hồ chứa ở Việt Nam giữ lại trong lòng hồ khoảng 60-70 triệu
m
3
phù sa, trong đó có 1.610 tấn mùn, 1.260 tấn sun phát đạm, 292 tấn lân, 780 tấn kali. Đây là
lượng chất dinh dưỡng khá lớn mà nếu được sử dụng sẽ làm tăng độ phì nhiêu cho đất.
Việc thiếu sự tính toán khi xây dựng các đập thủy điện có thể dẫn đến nguy cơ xảy
ra các thảm họa. Trường hợp xấu nhất sảy ra đối với thủy điện là sự cố vỡ đập, trong
trường hợp đó là bất khả kháng, gây thiệt hại nặng nề về con người và tài sản của toàn bộ
dân cư sinh sống vung hạ lưu con sông có thủy điện. Chính vì vậy, khi xây dựng thủy
điện thì đập là yếu tố kỹ thuật được ưu tiên hàng đầu trong việc tính toán, thiết kế và xây
dựng ở mức độ khắt khe nhất, nghiêm ngặt nhất về đầu tư chất xám con người, kỹ thuật
thi công và sức bền vật liệu.
Thực vậy, với những con đập thuỷ điện lớn, nếu để xảy ra sai sót hoặc cẩu thả
trong quy hoạch, thiết kế hay thi công, hoặc không khảo sát đầy đủ cấu tạo địa chất và
lường định chính xác cấp độ động đất có thể xảy ra trong địa bàn nhà máy, sẽ gây ra thảm
họa khôn lường cho các khu dân cư ở phía hạ lưu. Các đập nước lớn làm thay đổi kết cấu
địa chất dữ dội đến mức đó có thể là nguyên nhân dẫn đến các thảm họa kinh khủng như
động đất hay lũ lụt. Một nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc Đại học Columbia (Mỹ)
cho thấy trận động đất kinh hoàng làm 80.000 người chết và mất tích ở tỉnh Tứ Xuyên,
Trung Quốc tháng 5/2008 có thể khởi nguồn sâu xa từ việc tích trữ 320 triệu tấn nước
ở hồ chứa Zipingpu, cách nơi xảy ra động đất hơn 1,5km. Lời giải thích là việc nén một
lượng nước quá lớn ở một khu vực chật hẹp có thể gây ra những nứt gãy bên dưới các lớp
địa chất mới hình thành. Trong lịch sử ngành thuỷ điện toàn cầu đã từng xẩy ra những

thảm hoạ kinh hoàng. Chẳng hạn, do vị trí địa chất không phù hợp, hồ chứa nước phía
sau đập Vajont, nước Ý vào năm 1963 đã bị một trận lở đất lớn ập xuống, tạo nên đợt
sóng thần quét qua đỉnh đập và lao xuống thung lũng bên dưới. Và kết quả 2000 dân
thường chết. Nhưng nếu tính về thiệt hại nhân mạng đối với một nhà máy thuỷ điện, sự
cố vỡ Đập Bản Kiều, trên sông Ru, tỉnh Hà Nam (Trung Quốc) có thể xếp vào số 1. Với
đập này, nhà máy thuỷ điện đạt công suất khổng lồ đến 18 Gega-oat GW, tương đương 20
24
lò phản ứng hạt nhân. Sự cố xảy ra 2 lần trong năm 1975. Lần đầu, con đập đã bị vỡ và
thiệt hại cũng khá nặng nề. Sau khi vừa sửa chữa và xây lại, 1 cơn lũ lớn đã làm đập vỡ
toang. Hậu quả hết sức nặng nề, mãi đến năm 2005 mới được công bố: 175.000 người
thiệt mạng (26.000 người chết trực tiếp vì lũ lụt và 145.000 người chết do dịch bệnh và
nạn đói sau đó), trên 11 triệu người mất sạch nhà cửa do 5 triệu ngôi nhà bị phá hủy.Hậu
quả đó lớn hơn bất kỳ thảm hoạ nhà máy điện nào trong lịch sử, kể cả nhà máy điên hạt
nhân và chỉ có thể so sánh với các vụ nổ bom nguyên tử Hiroshima, Nakasaki ở Nhật
trong thế chiến II.
Từ những thảm họa trên có nhiều bài học cần được rút ra, vấn đề đó càng quan
trọng hơn khi xảy ra sự việc ở thủy điện Sông Tranh 2 gần đây. Thủy điện Sông Tranh 2
bắt đầu được dư luận cả nước chú ý vào những ngày cuối tháng 3-2012, khi nơi đây xảy
ra sự cố nước tràn qua thân đập, rò rỉ với lưu lượng lớn, sau đó là tình trạng động đất liên
tiếp xảy ra ở huyện Bắc Trà My và dư chấn lan ra nhiều vùng lân cận. Nhiều chuyên gia
cho rằng, sai lầm đáng tiếc nhất của dự án thủy điện Sông Tranh 2 là đã đặt đập vào vị trí
rất nguy hiểm, nơi giao điểm của nhiều đứt gãy và các họng núi lửa đang tái hoạt động.
Thủy điện Sông Tranh 2 có tổng mức đầu tư 5.194 tỉ đồng, xây dựng từ tháng 3-2006, 2
tổ máy với tổng công suất 190 MW, dung tích hồ chứa nước khoảng 730 triệu m3, thiết
kế cao hơn vùng hạ lưu 100 m. Trong khi việc khắc phục sự cố rò rỉ đang tiến hành thì
tình trạng động đất tại khu vực thủy điện Sông Tranh 2 lại gia tăng. Theo Viện Vật lý địa
cầu, trước khi có thủy điện Sông Tranh 2, khu vực này chỉ xảy ra 8 trận động đất. Thế
nhưng, sau khi có thủy điện, từ ngày 3-11-2011 đến 22-10-2012, khu vực này xảy ra 66
trận động đất (trong đó có 2 trận mạnh 4 độ Richter và 4,7 độ Richter; riêng trận động đất
ngày 22-10 có cường độ 4,6 độ Richter). Trong tuần đầu tiên của tháng 11-2012, có 10

trận động đất mức độ nhẹ; đến ngày 15-11, xảy ra động đất 4,7 độ Richter, dư chấn lan ra
đến Đà Nẵng và Quảng Ngãi. Tròn một năm, hơn 70 trận động đất xảy ra, làm sao người
dân có thể yên tâm? Sợ động đất dẫn đến thủy điện vỡ, nhiều hộ dân xã Trà Đốc, huyện
Bắc Trà My nằm phía dưới đập thủy điện Sông Tranh 2 đã dời nhà cửa vào rừng để ở.
Khi người dân đã giảm lòng tin, không thể không nói đến trách nhiệm vì sao có cớ sự này
và cách giải quyết để an dân. Bởi sinh mạng con người là vô giá, những thiệt hại hao tâm
tổn trí, sinh hoạt đảo lộn của người dân khó tính ra bằng tiền. 5.100 tỉ đồng không thể so
được với 40.000 sinh mạng người dân hạ lưu và các xã xung quanh. Dưới chân con đập
cao gần 100m là hàng chục ngàn dân Bắc Trà My, là hơn 1 triệu dân sống ở lưu vực sông
Thu Bồn - hạ lưu sông Tranh. Khi những cơn rung chấn mạnh, đến 4,2 độ richter, cùng
25

×