Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

TÌM HIỂU ĐỊA LÍ ĐỊA PHưƠNG TỈNH AN GIANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.59 MB, 73 trang )

ĐẠI HỌC SÀI GÒN Đề tài ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG TỈNH AN GIANG

SV thực hiện:
Vũ Thúy An – Phan Thanh Phong – Nguyễn Thị Thu Thủy (1985) – Phạm Thị Thanh Nga
1
Lớp DDI3091


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN





MÔN ĐỊA LÍ ĐỊA PHƢƠNG

ĐỀ TÀI:
TÌM HIỂU ĐỊA LÍ ĐỊA PHƢƠNG
TỈNH AN GIANG



LỚP: DDI3091
GVHD: Tạ Quang Trung
SV thực hiện:
1. Vũ Thúy An
2. Phan Thanh Phong
3. Nguyễn Thị Thu Thủy (1985)
4. Phạm Thị Thanh Nga




THÁNG 3 NĂM 2011
ĐẠI HỌC SÀI GÒN Đề tài ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG TỈNH AN GIANG

SV thực hiện:
Vũ Thúy An – Phan Thanh Phong – Nguyễn Thị Thu Thủy (1985) – Phạm Thị Thanh Nga
2
Lớp DDI3091

MỤC LỤC

Bìa 1
Mục lục 2
Bảng phân bố thời gian – nội dung tìm hiểu 5
Phần 1 VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH AN GIANG 7
1.1. Vị trí địa lý 7
1.2. Các đơn vị hành chính 8
Phần 2 CÁC NHÂN TỐ TỰ NHIÊN 9
2.1. Địa hình 9
2.1.1 Khái quát 9
2.1.2 Đặc điểm của địa hình 9
2.1.2.1 Địa hình đồng bằng 9
2.1.2.2 Địa hình đồi núi 10
2.2. Địa chất và khoáng sản 12
2.2.1 Địa chất 12
2.2.2 Khoáng sản 16
2.2.2.1 Nhóm vật liệu xây dựng 16
a) Đá xây dựng 16
b) Cát xây dựng 17
c) Đất sét gạch ngói 17

2.2.2.2 Nhóm vật liệu trang trí 17
a) Đá ốp lát 17
b) Đá aplite 18
c) Vỏ sò 18
d) Đất sét 18
2.2.2.3 Đá quí, ngọc và quặng mỏ 19
a) Đá quí và ngọc 19
b) Than bùn 19
c) Diatomite 19
d) Quặng kim loại 19
2.2.2.4 Nƣớc khoáng thiên nhiên 20
2.3. Khí hậu 20
2.3.1 Khái quát khí hậu 20
2.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến khí hậu 20
2.3.2.1 Vị trí địa lý 21
2.3.2.2 Địa hình 21
2.3.2.3 Hoàn lưu khí quyển 21
2.4. Thuỷ văn 22
2.4.1 Khái quát 22
ĐẠI HỌC SÀI GÒN Đề tài ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG TỈNH AN GIANG

SV thực hiện:
Vũ Thúy An – Phan Thanh Phong – Nguyễn Thị Thu Thủy (1985) – Phạm Thị Thanh Nga
3
Lớp DDI3091
2.4.2 Các sông chính 22
2.4.3 Các kênh, rạch, hồ 23
2.4.3.1 Hệ thống rạch tự nhiên 23
2.4.3.2 Mạng lƣới kênh đào đƣợc khai mở qua các thời kỳ 23
2.4.3.3 Hồ 23

2.5. Thổ nhƣỡng 24
2.5.1 Khái quát 24
2.5.2 Các nhóm đất 24
2.5.2.1 Nhóm đất phèn 25
a) Nhóm đất phèn tiềm tàng 25
b) Đất phèn nhiều 25
c) Đất phèn ít 25
d) Đất than bùn chứa phèn 25
2.5.2.2 Nhóm đất phù sa 26
a) Đất phù sa trên đồng lũ 26
b) Đất cồn bãi 26
2.5.2.3 Nhóm đất đồi núi 28
a) Đất sƣờn tích tại chỗ 29
b) Đất yếm phù sa 29
c) Đất thềm cao 29
2.6. Sinh vật 29
2.6.1. Thực vật 30
2.6.2. Động vật 31
Phần 3. 34
3.1. Dân 34
3.2. 35
35
3.2. 37
3.2.3 38
3.3 38
38
38
38
3.4 38
3.4.1 38

3.4.1.2 39
3.4.1.2 40
3.4.2 K ô 40
40
41
41
3.5 Sự phát triển văn hóa- xã hội ở địa phƣơng 43
ĐẠI HỌC SÀI GÒN Đề tài ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG TỈNH AN GIANG

SV thực hiện:
Vũ Thúy An – Phan Thanh Phong – Nguyễn Thị Thu Thủy (1985) – Phạm Thị Thanh Nga
4
Lớp DDI3091
3.5.1 Văn hóa 43
3.5.1.1 Dấu tích văn hoá cổ Óc Eo 43
3.5.1.2 Đặc trƣng văn hóa ngƣời Chăm ở An Giang 44
3.5.1.3 Đặc trƣng văn hóa ngƣời Khmer ở An Giang 46
3.5.1.4 Đặc trƣng văn hóa ngƣời Hoa ở An Giang 47
3.5.1.5 Đặc trƣng văn hóa ngƣời Kinh ở An Giang 48
3.5.2 Y tế 49
3.5.3 Giáo dục 50
3.6. Danh nhân 51
3.6.1 Về chính trị 51
3.6.2 Về văn học, nghệ thuật 51
3.6.3 Về giáo dục 52
3.6.4 Về tôn giáo 52
3.6.5 Về quân sự 53
Phần 4. CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CÁC NGÀNH KINH TẾ 54
4.1. Tổng quan về An Giang 54
4.2. Tình hình phát triển kinh tế An Giang 60

4.2.1 Ngành nông nghiệp 60
4.2.2 Ngành công nghiệp 65
4.2.3 Dịch vụ - thương mại - xuất nhập khẩu - du lịch 67
Hoạt động xuất nhập khẩu 67
Du lịch tỉnh An Giang 68
Hoạt động của khách sạn- nhà hàng và dịch vụ 70
Các công ty lữ hành 70
Đầu tư du lịch vào tỉnh An Giang 70
4.4 Các dự án kêu gọi đầu tƣ 71
4.5. Các khu công nghiệp – chế xuất 72
4.6. Giới thiệu khu kinh tế cửa khẩu 73
Kết thúc
ĐẠI HỌC SÀI GÒN Đề tài ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG TỈNH AN GIANG

SV thực hiện:
Vũ Thúy An – Phan Thanh Phong – Nguyễn Thị Thu Thủy (1985) – Phạm Thị Thanh Nga
5
Lớp DDI3091

BẢNG PHÂN BỐ THỜI GIAN – NỘI DUNG TÌM HIỂU

Thời
gian
Nội dung
Địa chỉ website
Kết quả
3-1-2010




3-1-2011


3-1-2011

4-1-2011

5-1-2011

6-1-2011


7-1-2011

8-1-2011

18-1-2011


20-1-2011


21-1-2011

22-1-2011




24-1-2011


8-2-2011
- Vị trí địa lý
- Giới hạn
- Đơn vị hành chính

Địa hình


Địa chất

Khoáng sản

Khí hậu

Thuỷ văn


Bản đồ hành chính

Bản đồ tự nhiên

-


-


- h n dân


- Một số chỉ tiêu
kinh tế vĩ mô trong
những năm qua
-

-Văn hóa – y tế -
giáo dục
-Danh nhân


o/hlv/uploads/bandoangiang.
gif




















Quốc triều chính biên toát yếu của Quốc sử
quán triều Nguyễn











Tìm được
Tìm được
Tìm được


Tìm được

Tìm được

Tìm được

Không có

Tìm được
Tìm được


Không có



















ĐẠI HỌC SÀI GÒN Đề tài ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG TỈNH AN GIANG

SV thực hiện:
Vũ Thúy An – Phan Thanh Phong – Nguyễn Thị Thu Thủy (1985) – Phạm Thị Thanh Nga
6
Lớp DDI3091

9-2-2011



10-2-2011


14-2–2011


16-2-2011

- Tổng quan về An
Giang

- Nông nghiệp An
Giang

- Công nghiệp An
Giang

- Dịch vụ-thương
mại-xuất nhập
khẩu-du lịch













/>giang-tong-quan.html













ĐẠI HỌC SÀI GÒN Đề tài ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG TỈNH AN GIANG

SV thực hiện:
Vũ Thúy An – Phan Thanh Phong – Nguyễn Thị Thu Thủy (1985) – Phạm Thị Thanh Nga
7
Lớp DDI3091

Phần 1
VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH
AN GIANG

3.536.800 Km
2
(2009)


1.1 VỊ TRÍ ĐỊA LÝ:
- An Giang là tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, nằm về phía Tây Nam
Tổ Quốc
+ Điểm cực Bắc: 10
o
54'B Xã Khánh An, huyện An Phú
+ Điểm cực Nam: 10
o
31'B Xã Thoại Giang, huyện Thoại Sơn
+ Điểm cực Đông: 105
o
12'Đ Xã Bình Phước Xuân, huyện Chợ Mới
+ Điểm cực Tây: 104
o
46'Đ Xã Vĩnh Gia, huyện Tri Tôn.
- Giới hạn:
+ Phía tây bắc giáp Campuchia (104 km)
+ Phía tây nam giáp tỉnh Kiên Giang (69,789 km)
+ Phía nam giáp thành phố Cần Thơ (44,734 km)
+ Phía đông giáp tỉnh Đồng Tháp (107,628 km).
 Khả năng phát triển:
- Thuận lợi giao lưu, buôn bán với nước láng giềng, bên cạnh đó cũng gây khó
khăn trong việc bảo vệ lãnh thổ quốc gia.
- Tiếp thu khoa học – kỹ thuật từ thành phố Cần Thơ để phát triển kinh tế - xã
hội…
- Dù không giáp biển nhưng có sông lớn chảy qua nên thuận lợi nuôi - trồng
thủy sản
1.2 CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH:
ĐẠI HỌC SÀI GÒN Đề tài ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG TỈNH AN GIANG


SV thực hiện:
Vũ Thúy An – Phan Thanh Phong – Nguyễn Thị Thu Thủy (1985) – Phạm Thị Thanh Nga
8
Lớp DDI3091
- Tỉnh An Giang có Thành phố trực thuộc (Long Xuyên) và 2 thị xã (Châu
Đốc, Tân Châu) và 8 huyện là:
+ Thành phố Long Xuyên: 11 phường và 2 xã
+ Thị xã Châu Đốc: 4 phường và 3 xã
+ Thị xã Tân Châu: 5 phường và 9 xã
+ Huyện An Phú: 2 thị trấn và 12 xã
+ Huyện Châu Phú: 1 thị trấn và 12 xã
+ Huyện Châu Thành: 1 thị trấn và 12 xã
+ Huyện Chợ Mới: 2 thị trấn và 16 xã
+ Huyện Phú Tân: 2 thị trấn và 16 xã
+ Huyện Thoại Sơn: 3 thị trấn và 14 xã
+ Huyện Tịnh Biên: 3 thị trấn và 11 xã
+ Huyện Tri Tôn: 3 thị trấn và 12 xã
- Tỉnh An Giang có 156 xã, phường và thị trấn

Hình 1. Bản đồ hành chính tỉnh An Giang

ĐẠI HỌC SÀI GÒN Đề tài ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG TỈNH AN GIANG

SV thực hiện:
Vũ Thúy An – Phan Thanh Phong – Nguyễn Thị Thu Thủy (1985) – Phạm Thị Thanh Nga
9
Lớp DDI3091

Phần 2

CÁC NHÂN TỐ TỰ NHIÊN

2.1. ĐỊA HÌNH:
2.1.1 Khái quát:
Có 2 dạng địa hình chính ở An Giang là đồng bằng và đồi núi. Đồng bằng ở
đây do phù sa sông Mê Kông trầm tích tạo nên, bao gồm đồng bằng phù sa khá
bằng phẳng, có độ nghiêng nhỏ và độ cao tương đối thấp; và đồng bằng ven núi có
nhiều bậc thang ở những độ cao khác nhau.
2.1.2 Đặc điểm của địa hình:
2.1.2.1 Địa hình đồng bằng:

Hình 2. Địa hình đồng bằng ở An Giang
Đồng bằng chiếm khoảng 87% diện tích tự nhiên của tỉnh, là nơi sinh sống
của khoảng 89% dân cư toàn tỉnh. Đồng bằng cũng được phân thành hai loại là
đồng bằng phù sa và đồng bằng ven núi.
- Đồng bằng phù sa do phù sa của sông Cửu Long bồi đắp, gồm 2 khu vực:
ĐẠI HỌC SÀI GÒN Đề tài ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG TỈNH AN GIANG

SV thực hiện:
Vũ Thúy An – Phan Thanh Phong – Nguyễn Thị Thu Thủy (1985) – Phạm Thị Thanh Nga
10
Lớp DDI3091
+ Khu vực 1: Là dãy đất nằm kẹp giữa sông Tiền và sông Hậu, bao gồm một
phần huyện An Phú và các huyện Tân Châu, Phú Tân và Chợ Mới. Địa hình có
dạng lòng chảo, cao ở hai bờ sông và thấp dần ở giữa. Độ cao trung bình ở ven sông
là 3 - 4 m, ở khu lòng chảo là 1,5 - 3 m. Đất chủ yếu là loại cát pha, thích hợp với
việc trồng lúa, ngô, cây ăn quả.
+ Khu vực 2: Là dãy đất nằm ở hữu ngạn sông Hậu, bao gồm một phần
huyện An Phú, các huyện Châu Phú, Châu Thành, Thoại Sơn, thị xã Châu Đốc và
thành phố Long Xuyên. Địa hình hơi nghiêng, thấp dần về phía Tây - Tây Nam.

Nơi thấp nhất chỉ cao khoảng 0,7 - 1,0 m so với mực nước biển. Đất chuyển từ thịt
nhẹ đến đất sét, thích hợp cho cây lúa, cây công nghiệp ngắn ngày và cây ăn quả.
- Đồng bằng ven núi thuộc kiểu sườn tích (Deluvi) và phù sa cổ. Kiểu sườn
tích hình thành trong quá trình phong hóa và xâm thực từ các núi đá, độ cao trung
bình từ 5 - 10 m, hẹp, độ dốc nhỏ.
2.1.2.2 Địa hình đồi núi:

Hình 3. Núi Cô Tô
Vùng đồi núi chiếm khoảng 13% diện tích tự nhiên và 11% dân cư toàn tỉnh.
Các dãy núi phân bố thành hình vòng cung kéo dài gần 100 km, khởi đầu từ xã Phú
Hữu, huyện An Phú, qua xã Vĩnh Tế, thị xã Châu Đốc, bao trùm lên gần hết diện
tích huyện Tịnh Biên và huyện Tri Tôn, về tận xã Vọng Thê và Vọng Đông rồi
dừng lại ở thị trấn Núi Sập, huyện Thoại Sơn, gồm các cụm núi chính:
ĐẠI HỌC SÀI GÒN Đề tài ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG TỈNH AN GIANG

SV thực hiện:
Vũ Thúy An – Phan Thanh Phong – Nguyễn Thị Thu Thủy (1985) – Phạm Thị Thanh Nga
11
Lớp DDI3091
- Cụm núi Sập: gồm 4 núi là núi Sập, núi Nhỏ, núi Bà và núi Cậu đều
thuộc địa bàn huyện Thoại Sơn. Núi Sập có độ cao 85 m với chu vi
3.800m.
- Cụm Ba Thê: có 5 núi cũng nằm trên huyện Thoại Sơn là: núi Ba Thê,
núi Nhỏ, núi Tượng, núi Trọi và núi Chóc. Lớn nhất là núi Ba Thê với độ
cao 221 m và chu vi khoảng 4.220m.
- Cụm núi Phú Cƣờng: có 13 núi nằm trên địa bàn huyện Tịnh Biên gồm
núi Phú Cường, núi Dài Năm Giếng, núi Két, núi Rô, núi Trà Sư, núi Bà
Vải, núi Đất Lớn, núi Bà Đắt, núi Cậu, núi Đất Nhỏ, núi Mo Tấu, núi
Chùa và núi Tà Nung. Cao nhất là núi Phú Cường 282 m với chu vi
khoảng 9.500m.

- Cụm núi Cấm: có 7 núi nằm giáp ranh giữa huyện Tri Tôn và huyện
Tịnh Biên gồm: núi Cấm, núi Bà Đội, núi Nam Quy, núi Bà Khẹt, núi Tà
Lọt, núi Ba Xoài và núi Cà Lanh. Núi Cấm cao nhất 705 m với chu vi
28.600m.
- Cụm núi Dài: thuộc huyện Tri Tôn có 4 núi: núi Dài, núi Tượng, núi
Nước và núi Sà Lôn. Trong đó núi Dài cao 554 m và chu vi là 21.625m.
- Cụm núi Tô: có 2 núi là Cô Tô và Tà Pạ, đều thuộc huyện Tri Tôn. Cao
nhất là núi Cô Tô 614 m với chu vi 14.375m.
- Núi Nổi: nằm độc lập ở huyện An Phú độ cao 10m và chu vi khoảng
320m.
- Núi Sam: cũng nằm độc lập ở thị xã Châu Đốc, có độ cao 228m và chu vi
khoảng 5.200m.
Trong đó, khu vực Bảy Núi hay còn gọi là Thất Sơn gồm các ngọn núi:
núi Cấm (cụm núi Cấm), núi Dài (cụm núi Dài), núi Dài Năm Giếng (cụm
núi Phú Cường), núi Cô Tô (cụm núi Cô Tô), núi Nước (cụm núi Dài), núi
Tượng (cụm núi Dài). Núi Sam ở thị xã Châu Đốc và núi Nổi ở huyện An
Phú là các núi lẻ nổi lên giữa cánh đồng lúa xanh rờn, tạo nên vẻ đẹp sinh
động. Đất đai vùng núi chủ yếu là đất xám, nghèo dinh dưỡng, giữ nước
ĐẠI HỌC SÀI GÒN Đề tài ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG TỈNH AN GIANG

SV thực hiện:
Vũ Thúy An – Phan Thanh Phong – Nguyễn Thị Thu Thủy (1985) – Phạm Thị Thanh Nga
12
Lớp DDI3091
kém, dễ bị khô hạn và xói mòn. Sản xuất nông nghiệp chỉ được một vụ
vào mùa mưa, chủ yếu là trồng cây ăn quả và trồng rừng.
2.2. ĐỊA CHẤT VÀ KHOÁNG SẢN:
2.2.1 Địa chất:
An Giang là 1 trong 2 tỉnh ĐBSCL có đồi núi, hầu hết đều tập trung ở phía
Tây Bắc của tỉnh, thuộc 2 huyện Tịnh Biên và Tri Tôn. Đây là cụm núi cuối

cùng của dãy Trường Sơn, nên đặc điểm địa chất cũng có những nét tương
đồng với vùng Nam Trường Sơn, bao gồm các thành tạo trầm tích và
magma.
 Các thành tạo magma:
Trên địa bàn An Giang, loại đá núi lửa có tuổi Jura thượng lộ ra ở phía Đông
núi Dài, phía tây vồ Bồ Hong của núi Cấm, phía Nam núi Phú Cường (Tà Péc), phía
Bắc đồi Sà Lôn. Thành phần chủ yếu của loại đá này là andesit và những mảnh vỡ
được kết dính lại. Đá andesit có màu xám đen, xám xanh đôi khi phối lục. Đá có
cấu tạo dòng chảy, đôi khi có cấu tạo hạt nhân được lấp đầy bởi carbonat và thạch
anh thứ sinh. Khoáng vật phụ trong đá có apatit và ít quặng. Về thành phần thạch
học, đá có hàm lượng oxyt silie(SiO2) là 57-78%, độ kiềm trung bình nhưng thường
tăng cao dọc theo ranh giới tiếp xúc với các đá xung quanh.
Loại đá granitoit tuổi Jura thượng:
Các hoạt động mạnh mẽ của vỏ trái đất trong thời kỳ tạo sơn đã hình thành
nên các khối núi Cô Tô, núi Cấm, bao gồm 2 pha. Pha đầu là nhóm đá có thành
phần thạch học: diorit, diorit-pyrocene. Pha 2 có các loại đá granite màu xám trắng,
chứa nhiều mica và horblem, đặc biệt trong đá này chứa nhiều khoáng vật biotite có
màu đen tuyền khi bị phong hóa sẽ chuyển sang thành plogopite (mica vàng) có
màu vàng lấp lánh.
Loại đá granite hồng tuổi Créta:
Đây là pha xâm nhập được xếp vào phức hệ Đèo Cả có tuổi địa chất là Créta.
Chúng được chia thành 3 pha xâm nhập khác nhau .
- Pha 1: có diện tích lộ hẹp, hình thành từng dải có chiều ngang từ 700m
đến 800m, phân bổ ở sườn phía Đông của núi Cấm, từ khu Lâm Viên đến
tiếp giáp với phía Bắc núi Nam Qui. Đá có màu phớt hồng.
ĐẠI HỌC SÀI GÒN Đề tài ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG TỈNH AN GIANG

SV thực hiện:
Vũ Thúy An – Phan Thanh Phong – Nguyễn Thị Thu Thủy (1985) – Phạm Thị Thanh Nga
13

Lớp DDI3091
- Pha 2: xâm nhập chính ở khu vực núi Dài, phía tây Bắc núi Cấm,núi
Tượng và các khối núi nhỏ như núi Két, Trà Sư, Ba Thê, Bà Đội. Đá có
màu hồng.
- Pha 3: phân bổ ở các khối núi nhỏ cô lập như núi Sập, thành phần chủ yếu
là granite hạt nhỏ chứa biotite.
- Pha đá mạch: thường gặp là ở các mạch aplite, pecmatite có kích thước
nhỏ với bề ngang từ vài cm đến vài mét phân bổ rải rác xen kẹp trong các
núi Bà Đội, Bà Khẹt, đặc biệt có mạch aplite ở núi Két có bề rộng đến vài
mươi mét và là nguồn cung cấp nguyên liệu quan trọng cho kỹ nghệ gạch
ceramic.
Loại đá micro-granite tuổi Créta:
Các loại đá này được xếp vào phức hệ Cà Ná, phân bổ chủ yếu ở các núi cô
lập như núi Sam, núi Trà Sư, núi Nổi. Đá có màu xám sáng, hạt nhỏ. Nhiều nơi tập
trung thành mỏ như mỏ molipdenite ở núi Sam.
 Các thành tạo trầm tích:
Ở tỉnh An Giang được phân chia thành các phân vị địa tầng sau:
Loại trầm tích có tuổi Trias-hệ tầng DầuTiếng:
Nó lộ ra ở địa hình đồi núi thấp như các núi Nam Qui,Tà Pạ, Phú Cường với
thành phần từ dưới lên trên gồm:
- Phần dƣới chủ yếu là cát kết thạch anh, màu xám hoặc đỏ, phân lớp dày.
- Phần trên cát kết hạt vừa và hạt thô, thành phần đa khoáng, đôi khi chứa
cuội với các thấu kính cuội kết.
Loại trầm tích có tuổi Créta-hệ tầng Phú Quốc:
Các loại này xuất hiện ở Tri Tôn, phần cao của núi Nam Qui. Thành phần
chủ yếu của hệ tầng là cát kết thạch anh –fenspath màu trắng, đôi khi phớt hồng,
phân lớp trung bình đến dày, xen kẽ với những cuội kết.
Loại trầm tích có tuổi Pleistocene:
Trên diện tích tỉnh An Giang được chia thành các phân vị địa tầng:
Pleistocene thƣợng có nguồn gốc trầm tích biển, tồn tại 2 kiểu mặt cắt như sau:

- Kiểu mặt cắt thềm biển cổ: tồn tại dưới dạng dải hẹp (chiều ngang từ 1m-
2m) viền quanh các khối núi thuộc các xã An Cư, Thới Sơn (huyện Tịnh
ĐẠI HỌC SÀI GÒN Đề tài ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG TỈNH AN GIANG

SV thực hiện:
Vũ Thúy An – Phan Thanh Phong – Nguyễn Thị Thu Thủy (1985) – Phạm Thị Thanh Nga
14
Lớp DDI3091
Biên). Thành phần trầm tích chủ yếu là cát hạt thô có độ lựa chọn kém lẫn
ít bột và tảng lăn đá gốc.
- Kiểu mặt cắt trầm tích biển nông ven bờ: lộ trên mặt dọc kênh Vĩnh Tế, từ
An Phú đến Lạc Quới. Thành phần trầm tích chủ yếu là bột, sét và 1 ít sạn
sỏi ở phần giáp đáy.
Loại trầm tích có tuổi Holocene:
- Holocene trung có nguồn gốc trầm tích biển: Địa bàn An Giang, các
trầm tích xếp vào phân vị này lộ trên mặt dưới dạng các dải thềm hẹp với
bề ngang thay đổi từ 1-2km đến 4-5km viền quanh các khối núi ở khu vực
Tri Tôn, Ba Thê, núi Sập. Chúng được chia thành 2 kiểu mặt cắt như sau:
+ Mặt cắt kiểu thềm biển có thành phần chủ yếu là cát hạt trung-mịn
lẫn bột sét và chứa ít sỏi sạn.
+ Mặt cắt kiểu trầm tích biển nông, cửa sông, vũng vịnh chỉ gặp trong
các lỗ khoan độ sâu từ 2-3m và thay đổi từ 2-3m đến hơn 10m. Trầm tích
chủ yếu là bột, cát, sét, mịn, không nhiều sỏi, sạn ở đáy, có nơi vỏ sò tập
trung dạng dải (ám tiêu) như ở khu vực Vọng Thê (huyện Thoại Sơn).
- Holocene trung có nguồn gốc trầm tích sông - biển: Nhóm trầm tích này
thường lộ ra rộng rãi trên mặt,chiếm phần lớn diện tích tỉnh An Giang
dưới dạng đồng bằng. Trầm tích này có quan hệ chuyển tiếp với các trầm
tích biển tuổi Holocene giữa, thành phầnchủ yếu là sét, sét bột, bột có màu
xám xanh đến nâu, vàng…
- Holocene trung-thượng phần dưới có nguồn gốc trầm tích biển: Nó lộ

ra ở khu vực Ba Chúc, Vĩnh Gia ở dạng đồng bằng thấp (có độ cao 1,5-
2m) tạo thành dãy uốn lượn kéo dài theo hướngTây Bắc-Tây Nam. Thành
phần trầm tích gồm sét, cát mịn và không nhiều sạn,sỏi ở đáy.
- Holocene trung-thượng phần trên có nguồn gốc trầm tích sông- đầm
lầy: Nhóm này phân bố dạng dải trũng thấp, kéo dài theo hướng gần Bắc-
Nam từ núi Sam tới Cô Tô, với bề ngang thay đổi từ 4-5km đến cả chục
km. Ngoài ra, chúng còn có mặt không nhiều ở Ba Chúc và Lương Phi.
Thành phần trầm tích gồm sét, bột, mùn thực vật phân hủy kém, than bùn.
- Holocene thượng: được phân thành 2 dạng trầm tích khác nhau:
o Trầm tích sông-đầm lầy: Chủ yếu phân bổ ở Vĩnh Gia, Ba Chúc, An
Tức, Tà Đảnh, trên độ cao địa hình 1-2m tạo thành các dải kéo dài theo
hướng Tây Bắc-Đông Nam hoặc hướng kênh tuyến.Thành phần chủ
ĐẠI HỌC SÀI GÒN Đề tài ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG TỈNH AN GIANG

SV thực hiện:
Vũ Thúy An – Phan Thanh Phong – Nguyễn Thị Thu Thủy (1985) – Phạm Thị Thanh Nga
15
Lớp DDI3091
yếu của tầng này là than bùn, xác thực vật, rất ít sét … lấp đầy lòng
sông cổ.
o Trầm tích sông: Trầm tích sông còn gọi là trầm tích phù sa mới. Chúng
phân bố phổ biến dọc theo 2 bên bờ sông Tiền, sông Hậu và một số
sông rạch khác. Dải bồi tích có bề rộng không đồng nhất mà thay đổi
phụ thuộc vào sự uốn khúc của sông. Đặc biệt là những nơi dòng sông
đang có sự dời lòng như ởcác xã Phú Hữu, Vĩnh Trường, Vĩnh Hòa
(Tân Châu), xã Đa Phước (An Phú), xã Khánh Hòa (Châu Phú) …
Chúng tạo nên những bãi bồi được ngăn cách bằng những trũng nhỏ
dưới dạng những con rạch (xép). Thành phần trầm tích chủ yếu là bột
sét và cát mịn. Tùy thuộc vào điều kiện và môi trường thành lập mà
chúng được chia thành các kiểu trầm tích:

 Trầm tích đê tự nhiên: Là dải đất khá cao, phát triển dọc 2 bên
bờ sông, rạch lớn do vật liệu các trận lũ bồi đắp nên. Bề ngang
các dải đê tự nhiên từ vài chục mét, có nơi đến vài km, do sự
chuyển dịch liên tục của dòng sông như ở Thạnh Mỹ Tây (Châu
Phú), rạch Cỏ Lau ở Vĩnh Hòa (Tân Châu). Đê tự nhiên trở
thành đất thổ cư, khu đô thị, đường giao thông.
 Trầm tích bƣng sau đê: Thường xuất hiện ngay sau đê hoặc giữa
các đê tự nhiên,là nơi có địa hình hơi trũng, vật liệu trầm tích
chủ yếu là sét, bột. Bưng sau đê thường được dùng cho trồng
lúa; dễ bị lầy hóa, ngập úng.
 Trầm tích đồng lụt (hay là đồng phù sa): Đây là diện tích bị
ngập lũ hàng năm. Do mặt đất trải rộng, thời gian ngập lũ lâu
nên đồng lụt là một bồn khổng lồ để phù sa mịn hạt của sông
trầm lắng. Càng xa sông, lớp phù sa trầm lắng càng mịn hạt và ít
dần.
 Trầm tích bƣng lầy và trấp: Là các trũng nhỏ, dạng nằm cách xa
sông, đất không có điều kiện thấm nước và thoát nước, nên độ
ẩm duy trì suốt năm. Đây là nơi tiếp giáp giữa đồng lụt thấp và
thềm bồi tích chân núi. Trầm tích chủ yếu là xác bã thực vật sinh
sống trong môi trường đầm lầy, khi chết tạo thành lớp hữu cơ
dày 1-2m, vượt quá 20% trong đất. Bưng lầy lúc đó gọi là đất
trấp. Ở An Giang, bưng lầy và trấp phân bố thành đai kéo dài ở
phía Đông của vùng Bảy Núi…
ĐẠI HỌC SÀI GÒN Đề tài ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG TỈNH AN GIANG

SV thực hiện:
Vũ Thúy An – Phan Thanh Phong – Nguyễn Thị Thu Thủy (1985) – Phạm Thị Thanh Nga
16
Lớp DDI3091
 Cồn sông (hay là cù lao sông), doi sông mới là phần đất phát

triển ngang được nhô ra do dòng sông dịch chuyển hướng dòng
chảy đi nơi khác, vật liệu thô thường được bẫy lại. Thành phần
chủ yếu là cát thô và bột. Đây là phần trầm tích đáy của lòng
sông Hậu và sông Tiền. Cồn sông có địa hình không bằng
phẳng, nó được bao bọc bởi gờ cao chung quanh, ở giữa cồn
thường có địa hình lồi lõm, dấu vết của quá trình gắn liền những
cồn sông cổ lại với nhau. Nơi có cơ cấu cây trồng rất đặc biệt,
gồm các loại cây ăn trái và màu.
2.2.2 Khoáng sản:
Tỉnh An Giang phong phú về khoáng sản.
- Nhóm vật liệu xây dựng
- Nhóm vật liệu trang trí
- Nhóm đá quí, ngọc và quặng mỏ
- Nước khoáng thiên nhiên

2.2.2.1 Nhóm vật liệu xây dựng:
a) Đá xây dựng:
Có nhiều chủng loại, bao gồm các loại đá trầm tích và magma, phân bố tại
các khu vực núi Tà Pạ, Nam Qui, Phú Cường, Cô Tô, Trà Sư… Phạm vi sử dụng
cũng đa dạng như: đá trải đường, đá xây, đổ bêtông.
- Loại đá granit: Đá granit ở An Giang có 2 nhóm:
o Nhóm sáng màu mịn hạt: phân bố ở
núi Trà Sư, núi Két, núi Bà Đội
(Tịnh Biên), núi Sập, núi Ba Thê
nhỏ, núi Tượng, núi Chóc, núi Trọi
(Thoại Sơn).Khai thác đá Granit.
o Nhóm sậm màu hạt thô: phân bố ở
núi Cô Tô, núi Ba Thê. Trữ lượng dự
báo ước tính khoảng 11 triệu m3.
- Loại đá phun trào: Ở khu vực phía

Hình 4. Khai thác đá Granit
ĐẠI HỌC SÀI GÒN Đề tài ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG TỈNH AN GIANG

SV thực hiện:
Vũ Thúy An – Phan Thanh Phong – Nguyễn Thị Thu Thủy (1985) – Phạm Thị Thanh Nga
17
Lớp DDI3091
Nam của núi Dài, núi Phú Cường, núi Sà Lôn và phía Nam núi Cấm. Đá có màu
xanh đen, cường độ chịu lực không cao (700-1000kg/cm2) nhưng lại khó vỡ và sử
dụng tốt cho các công trình dân dụng.
b) Cát xây dựng: Có 2 nhóm:
- Cát núi: nằm theo triền hoặc trong
các trũng giữa núi Cấm và núi Dài thuộc các
xã An Cư, Thới Sơn, là sản phẩm trầm tích
do dòng nước mang cát từ trên triền cao của
các thềm cổ tích tụ mà thành. Thường có
màu trắng tương đối thô hạt và độ chọn lựa
yếu.Khai thác cát trên sông Hậu.
- Cát sông: Cát vàng phục vụ cho xây
dựng ở Tân Châu (sông Tiền) đã nổi tiếng.
Những bãi cát sông có khả năng khai thác
xuất hiện trên sông Tiền và sông Hậu với tổng lượng khai thác hàng năm gần 2 triệu
khối. Trên sông Tiền có 4 khu vực và sông Hậu có 8 khu vực.
c) Đất sét gạch ngói:
Các vùng đất nông nghiệp ở Châu
Thành, Châu Phú đều thích hợp cho sản xuất
gạch ngói. Đất có nguồn gốc từ phù sa sông
hiện tại. Chỉ cần khai thác ở lớp đất bề mặt
dày 0,2 - 0,3m là có thể đủ để cung cấp cho
hơn 400 nhà máy sản xuất gạch ngói lớn nhỏ

trong toàn tỉnh. Sau đó, chỉ trong vòng 2 - 3
mùa ngập lũ phù sa lại lấp đầy như cũ. Sét
gạch gốm ở An Giang dùng làm gạch ống,
gạch thẻ, ngói lợp, gạch tàu.
2.2.2.2 Nhóm vật liệu trang trí:
a) Đá ốp lát:
Ở An Giang chủ yếu là các nhóm đá
granite, granodiorite, rhyolite có nhiều màu sắc
rất được ưa chuộng trong trang trí cao cấp. Cụ
thể có các loại đá ốp lát như: granite hồng xen
đốm đen, hoa văn nhỏ, granodiorite con tằm có
Hình 5. Khai thác cát trên sông Hậu
Hình 7. Sản xuất đá ốp lát
xuất khẩu
Hình 6. Phơi gạch
ĐẠI HỌC SÀI GÒN Đề tài ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG TỈNH AN GIANG

SV thực hiện:
Vũ Thúy An – Phan Thanh Phong – Nguyễn Thị Thu Thủy (1985) – Phạm Thị Thanh Nga
18
Lớp DDI3091
màu xám xanh, hoa văn dạng đốm lớn hình da báo, granite hồng ở khu mỏ Ô Mai…
Ngoài ra, còn có đá phiến đen ở núi Phú Cường, núi Nam Qui. Những mỏ đá có thể
khai thác làm đá ốp lát:
+ Mỏ đá núi Cấm, chủ yếu nằm trên sườn Đông Nam núi Cấm, xen giữa dãy
núi Cấm và núi Nam Qui.
+ Mỏ đá Gập Ghềnh: ở phía Bắc núi Dài nhỏ và là 1 phần rất nhỏ khối
granite thuộc pha 2 phức hệ Đèo Cả tuổi kareta thuộc xã An Phú (Tịnh Biên).
b) Đá aplite:
Đá aplite ở An Giang đã được khai thác cung cấp cho các nhà máy sản xuất

gạch ceramic Đồng Tâm, An Giang và Thành phố HCM. Bên cạnh aplite, những
mạch pecmatic chứa tràn kali và natri rất quí cho công nghiệp gốm sứ, sành sứ được
tìm thấy ở núi Sập và khu vực Bảy Núi.
c) Vỏ sò:
Mỏ vỏ sò ở An Giang được hình thành trong vùng cửa sông, nằm trong cảnh
quan chung miền Tây - Tây Nam sông Hậu và những khối vỏ sò nằm rải rác, kéo
dài theo hướng Tây Nam - Đông Bắc. Khối lượng mỗi mảnh sò có thể là 0,2 -
0,5kg. Càng xuống sâu vỏ sò càng lớn. Chúng phân bố thành những khối với bề mặt
đáy bằng phẳng, vách dốc. Chiều dày trung bình lớp phủ của các khối thay đổi từ
0,69 đến 1,55m, chiều dày trung bình của khối vỏ sò từ 6,83 đến 7,55m. Các di tích
vỏ sò này được hình thành trong điều kiện cửa sông vào Holocene giữa
muộn.Thành phần hóa học vỏ sò chủ yếu là oxyt canxi (CaO) chiếm 54,20 -
54,91%. Ngoài ra trong vỏ sò còn chứa 1 ít hàm lượng oxytmahe (MgO) và oxit
silic (SiO2), được sử dụng vào công nghệ sản xuất xi-măng trắng và làm phối liệu
trong phân NPK.
d) Đất sét:
- Đất sét cao-lanh An Giang: chủ yếu tập trung ở vùng Bảy Núi do quá trình
phong hóa của các đá mang khoáng này ở núi Cấm, núi Dài, núi Cô Tô, núi Nam
Qui, núi Tà Pạ… Đây là nguồn vật liệu làm sứ cách điện cao cấp. Cao-lanh ở đây
có 2 nguồn gốc tạo thành:
+ Nguồn gốc phong hoá tại chỗ của các đá cát kết, bột kết giàu fenspath
thuộc trầm tích Créta hệ tầng Phú Quốc và của granit sáng màu, giàu fenspath.
+ Nguồn gốc trầm tích: của các đá giàu fenspath bị phá hủy do các điều kiện
lý hóa, rửa trôi và trầm tích trong các trũng giữa núi. Đất sét cao-lanh không chỉ
dùng trong sản xuất sành sứ, mà còn nhiều công dụng như: làm khung xương gạch
ĐẠI HỌC SÀI GÒN Đề tài ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG TỈNH AN GIANG

SV thực hiện:
Vũ Thúy An – Phan Thanh Phong – Nguyễn Thị Thu Thủy (1985) – Phạm Thị Thanh Nga
19

Lớp DDI3091
men cao cấp, tinh chế làm chất mang trong dược liệu, làm thủy tinh đục, bột sơn,
chất mang của thuốc trừ sâu.
- Đất sét bentonite: một loại đất chứa nhiều khoáng montmorillonite. Nguyên
liệu rất thông dụng trong công nghiệp, đặc biệt dùng làm chất tẩy rửa và hút nhờn,
nên chúng được sử dụng làm chất tẩy rửa dầu nhớt và làm dung dịch trong các
giếng khoan dầu nhớt. Bentonite ở An Giang được tìm thấy tại xã Lê Trì huyện Tri
Tôn, với trữ lượng khá lớn.
2.2.2.3 Đá quí, ngọc và quặng mỏ:
a) Đá quí và ngọc:
Ở núi Nam Qui và núi Tà Pạ, thỉnh thoảng người dân địa phương nhặt được
những viên đá quí lộ ra ở những đoạn đường trải đá núi, đó là các loại mã não, các
cây hóa thạch.Một số vùng rìa tiếp xúc giữa đá granit với đá xung quanh phát sinh 1
số loại đá quí khác như hồng ngọc . Một số loại thạch anh ám khói, thạch anh tím
được tìm thấy trong các mạch pecmatic ở Ba Thê, núi Két…
b) Than bùn:
Các mỏ than bùn ở An Giang được phân bố chủ yếu ở khu vực Bảy Núi
thuộc 2 huyện Tịnh Biên, Tri Tôn. Trữ lượng dự báo của các mỏ than bùn của tỉnh
khoảng 7.632.430 tấn (cấp A + B + C1) và tổng tiềm năng là 16.886.730 tấn. Hầu
hết các mỏ đều có chất lượng than bùn tốt, đáp ứng được yêu cầu sản xuất phân hữu
cơ vi sinh và acid humic.Có 2 loại than bùn khác biệt nhau: Than bùn dạng vỉa ở
các mỏ Núi Tô, Tà Đảnh, Ba Chúc, và than bùn dạng dải theo các lòng sông cổ ở
An Tức, Vĩnh Gia.
c) Diatomite:
Ở An Giang, diatomite được phát hiện ở Lê Trì (Tri Tôn) nằm cách mặt đất
từ 1,8-2,2m. Bề dày bình quân khoảng 1,7-2m, trữ lượng dự báo khoảng từ 800.000
đến 1.000.000 tấn. Các loại diatomite có ở đây đều lẫn sắt hoặc chất hữu cơ rất cao,
nên thường có màu xám đen hoặc vàng. Do vậy, màu trắng và tính ròng của
diatomite An Giang là vô cùng đặc sắc; có thể sử dụng rộng rãi trong công nghiệp
lọc hoạt tính, đặc biệt là lọc bia, rượu, dầu ăn.

d) Quặng kim loại:
- Quặng molipden: Đã được người Nhật khai thác từ hơn 40 năm trước mà
miệng hầm mỏ vẫn còn ở núi Sam. Mạch quặng molipdenit có màu xám đen đi kèm
với đá pecmatic. Ngoài ra, molipden còn được phát hiện trong 1 số mạch đá ở núi
Trà Sư, núi Két nhưng không nhiều.
ĐẠI HỌC SÀI GÒN Đề tài ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG TỈNH AN GIANG

SV thực hiện:
Vũ Thúy An – Phan Thanh Phong – Nguyễn Thị Thu Thủy (1985) – Phạm Thị Thanh Nga
20
Lớp DDI3091
- Quặng mangan: Là lớp bột màu tím đỏ hoặc tím đen (MnO
2
), phân bố ở
Tà Lọt . Loại khoáng này đã được khai thác từ năm 1936. Quặng mangan thường đi
kèm với sắt ở trong đá trầm tích bị biến chất.
2.2.2.4 Nƣớc khoáng thiên nhiên:
Ở An Giang, đặc biệt là ở vùng Bảy Núi, các khu mội nước khoáng thường
tìm thấy dọc theo các đới đứt gãy tân kiến tạo.
- Dọc theo trục đứt gãy phân cắt núi Phú Cường và núi Dài, núi Cấm và núi
Dài hình thành nơi thung lũng Ô Tà Sóc (Tri Tôn) có 6 điểm lộ nước khoáng: núi
Cậu, An Cư-nằm về phía Bắc núi Phú Cường, Soài Chết, Suối Vàng, Sà Lôn và Tà
Pạ. Tại các điểm này, nước có tổng độ khoáng hóa từ 500mg/l đến 2.750mg/l.
- Hệ thống thứ hai nằm dọc theo trục đứt gãy chia cắt núi Két và núi Dài (dọc
theo trục tỉnh lộ Nhà Bàn-Tri Tôn) gồm các điểm lộ:
+ Điểm lộ Nhà Bàn, xuất hiện phía dưới Bắc núi Két.l Điểm lộ Vĩnh Trung,
xuất hiện nhiều giếng đào chứa nước khoáng .
+ Điểm lộ Chi Lăng, nước khoáng xuất hiện trong nhiều giếng cạn ở trung
tâm thị trấn Chi Lăng.
+ Khu mội Tri Tôn, xuất hiện phía Bắc thị trấn Tri Tôn.

+ Khu mội Cô Tô, không tìm thấy điểm lộ thiên nhưng qua các giếng khoan
đã tìm ra nước khoáng ở độ sâu 123m.

2.3. KHÍ HẬU:
2.3.1 Khái quát khí hậu:
Mang tính chất nhiệt đới gió mùa nóng ẩm
2.3.2 Các nhân tố ảnh hƣởng đến khí hậu:
2.3.2.1 Vị trí địa lý:
Quyết định tính chất nhiệt đới gió mùa nóng ẩm của tỉnh An Giang
2.3.2.2 Địa hình:
Do là đồng bằng nên khí hậu đồng nhất trên toàn tỉnh
An Giang nằm sâu trong đất liền nên ít chị ảnh hưởng của gió bão.
2.3.2.3 Hoàn lưu khí quyển:
ĐẠI HỌC SÀI GÒN Đề tài ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG TỈNH AN GIANG

SV thực hiện:
Vũ Thúy An – Phan Thanh Phong – Nguyễn Thị Thu Thủy (1985) – Phạm Thị Thanh Nga
21
Lớp DDI3091
An Giang chịu ảnh hưởng của 2 mùa gió là: gió mùa Tây Nam và gió mùa
Đông Bắc. Gió Tây Nam mát và ẩm nên gây ra mùa mưa. Gió mùa Đông Bắc thổi
vào An Giang xuất phát từ biển nhiệt đới phía Trung Quốc, nên có nhiệt độ cao hơn
vùng băng tuyết Si-bê-ri và có độ ẩm lớn hơn, không tạo ra rét, mà chỉ hanh khô, có
phần nắng nóng.
Các yếu tố khí tượng:
a. Mây:
Lượng mây ở An Giang tương đối ít. Trong mùa khô, có khi trời có mây
nhưng vẫn nắng. Trong mùa mưa, lượng mây thường nhiều hơn. Lượng mây trung
bình tháng của các tháng mùa khô là 3,1/10 và của các tháng mùa mưa là 6,9/10.N
b. Nắng:

An Giang có mùa nắng chói chang, trở thành địa phương có số giờ nắng
trong năm lớn kỷ lục của cả nước. Bình quân mùa khô có tới 10 giờ nắng/ngày ;
mùa mưa tuy ít hơn nhưng cũng còn tới gần 7 giờ nắng/ngày. Tổng tích ôn cả năm
lên trên 2.400 giờ.
c. Nhiệt độ:
Nhiệt độ trung bình ở An Giang không những cao mà còn rất ổn định. Chênh
lệch nhiệt độ giữa các tháng trong mùa khô chỉ hơn kém nhau khoảng 1,5° đến 3° ;
còn trong các tháng mùa mưa chỉ vào khoảng trên dưới 1° . Nhiệt độ cao nhất năm
thường xuất hiện vào tháng 4, dao động trong khoảng 36°- 38° ; nhiệt độ thấp nhất
năm thường xuất hiện vào tháng 10 dưới 18° (năm 1976 và 1998).
d. Gió:
An Giang, mùa khô gió thịnh hành là Đông Bắc, còn mùa mưa là gió Tây
Nam – gió Tây Nam là gió có tần suất xuất hiện lớn nhất.Tốc độ gió ở đây tương
đối mạnh, trung bình đạt tới trên 3m/giây. Trong năm, tốc độ gió mùa hè lớn hơn
mùa Đông. An Giang là tỉnh nằm sâu trong đất liền Nam Bộ nên ít chịu ảnh hưởng
gió bão.
e. Mưa:
Ở An Giang, mùa mưa thường bắt đầu vào tháng 5 và kết thúc vào tháng 11.
Tổng lượng mưa mùa mưa chiếm 90% tổng lượng mưa năm. Lượng mưa mùa mưa
lớn lại trùng vào mùa nước lũ của sông Mê Kông dồn về hạ lưu nên đã gây ra tình
trạng úng tổ hợp với ngập lụt, chi phối đến nhiều hoạt động sản xuất và đời sống.
f. Bốc hơi:
ĐẠI HỌC SÀI GÒN Đề tài ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG TỈNH AN GIANG

SV thực hiện:
Vũ Thúy An – Phan Thanh Phong – Nguyễn Thị Thu Thủy (1985) – Phạm Thị Thanh Nga
22
Lớp DDI3091
Trong mùa khô do nắng nhiều, độ ẩm không khí thấp nên lượng bốc hơi lớn,
bình quân 110mm/tháng (vào tháng 3 có tới 160mm) . Trong mùa mưa, lượng bốc

hơi thấp hơn, bình quân 85mm/tháng, nhỏ nhất khoảng 52mm/tháng xuất hiện vào
tháng 9 hoặc tháng 10, là thời kỳ có mưa nhiều, độ ẩm cao.
g. Độ ẩm:
Ở An Giang, mùa có độ ẩm thấp (nhỏ hơn 80%) thường bắt đầu từ tháng 12
và kéo dài đến tháng 4 năm sau. Nghĩa là mùa có độ ẩm thấp trùng với mùa khô.
Mùa khô độ ẩm ở thời kì đầu là 82%, giữa 78%, và cuối còn 72%.Mùa mưa ở đây
thật sự là một mùa ẩm ướt . Độ ẩm trung bình trong những tháng mùa mưa đều
84%, cá biệt có tháng đạt xấp xỉ 90%.
Ngoài các yếu tố khí tượng nói trên, An Giang còn có các hiện tượng thời tiết
cần lưu ý như: lốc xoáy-vòi rồng-mưa đá, hạn Bà Chằn, ảnh hưởng của Elnino và
Lanina.
2.4. THUỶ VĂN:
2.4.1 Khái quát:
An Giang nằm ở thượng nguồn sông Cửu Long, đoạn hạ lưu của sông Mê
Kông, có nhiều sông lớn chảy qua. Ngoài ra, tỉnh còn có một hệ thống rạch tự nhiên
và các kênh đào nằm rải rác khắp nơi, tạo thành mạng lưới giao thông thủy lợi
chằng chịt với mật độ sông ngòi là 0,72 km/km
2
.
2.4.2 Các sông chính:
- Sông Tiền
- Sông Hậu
- Sông Vàm Nao.
- Ngoài ra còn có sông Bình Di và sông Châu Đốc. Sông Bình Di là một
nhánh của sông Hậu, tách ra tại xã Khánh Bình, huyện An Phú, chảy đến xã Vĩnh
Hội Đông, dài khoảng 10 km. Sông Châu Đốc là một phụ lưu của sông Hậu, bắt đầu
từ xã Vĩnh Hội Đông, nơi giao nhau giữa sông Tà Keo (chảy từ Campuchia qua) và
sông Bình Di, chảy qua xã Đa Phước, đến thị xã Châu Đốc thì nhập vào sông Hậu,
dài khoảng 18 km.
Chế độ thủy văn của An Giang phụ thuộc chặt chẽ vào chế độ nước sông Mê

Kông. Hằng năm, có khoảng 70% diện tích tự nhiên bị ngập lụt với mức nước phổ
biến từ 1 - 2,5 m, thời gian ngập lụt từ 2,5 - 4 tháng. Điều này gây khó khăn cho
việc phát triển kinh tế - xã hội và ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của người dân.
ĐẠI HỌC SÀI GÒN Đề tài ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG TỈNH AN GIANG

SV thực hiện:
Vũ Thúy An – Phan Thanh Phong – Nguyễn Thị Thu Thủy (1985) – Phạm Thị Thanh Nga
23
Lớp DDI3091
2.4.3 Các kênh, rạch, hồ:
Ngoài các con sông lớn, An Giang còn có hệ thống các kênh, rạch, hồ nằm rải
rác khắp bề mặt lãnh thổ.
2.4.3.1 Hệ thống rạch tự nhiên:
Có độ dài từ vài km đến 30 km, bề rộng từ vài m đến 100 m, độ uốn khúc
quanh co khá lớn. Các rạch nằm giữa sông Tiền và sông Hậu thường lấy nước từ
sông Tiền chuyển sang sông Hậu. Các rạch ở phía Tây sông Hậu thì lấy nước từ
sông Hậu dẫn vào nội đồng. Xưa kia, số lượng các rạch tự nhiên khá nhiều. Trải
qua một thời gian dài, nhiều rạch đã bị phù sa sông Tiền và sông Hậu bồi đắp thành
ruộng, hoặc bị cải tạo thành các kênh đào, vì vậy, số còn lại ngày nay không nhiều.
Một số rạch lớn như: Mương Khai, Cái Đầm, Cái Tắc (huyện Phú Tân); Ông
Chưởng, Cái Tàu Thượng (huyện Chợ Mới); Long Xuyên (thành phố Long Xuyên);
Chắc Cà Đao, Mặc Cần Dưng (huyện Châu Thành); Cần Thảo (huyện Châu Phú).
Trong đó rạch Ông Chưởng và rạch Long Xuyên là quan trọng nhất.
2.4.3.2. Mạng lưới kênh đào được khai mở qua các thời kỳ:
Hệ thống kênh trên địa bàn tỉnh được phân thành 3 cấp, với chiều dài tổng
cộng khoảng 5.171 km, đạt mật độ 1,5 km/km
2
. Năng lực giao lưu nước lớn nhất
vào mùa lũ khoảng 7.500 m
3

/s và nhỏ nhất vào mùa khô khoảng 1.650 m
3
/s, có tác
dụng tích cực trong việc khuếch tán dòng chảy lũ - phù sa - triều vào sâu nội đồng
để tiêu lũ trong mùa mưa, chuyển tải ngọt đuổi mặn trong mùa khô, thay nhau rửa
phèn vào đầu và cuối mùa mưa. Sau đây là một vài tuyến kênh chính:
- Kênh Thoại Hà
- Kênh Vĩnh Tế
- Kênh Vĩnh An
- Kênh Trà Sư
- Kênh Thần Nông
- Kênh Vàm Xáng
2.4.3.3 Hồ:
Trên địa bàn An Giang hiện có hai loại hồ là tự nhiên và nhân tạo. Hồ tự
nhiên ở An Giang là dấu tích còn sót lại của quá trình sông - biển tạo lập châu thổ
sông Mê Kông. Điển hình là hai hồ Búng Bình Thiên Lớn và Búng Bình Thiên
Nhỏ, nằm giữa sông Bình Di và sông Hậu, thuộc xã Khánh Bình, huyện An Phú.
Nguồn nước cung cấp cho hai hồ là sông Hậu và sông Bình Di. Vào mùa khô, Búng
ĐẠI HỌC SÀI GÒN Đề tài ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG TỈNH AN GIANG

SV thực hiện:
Vũ Thúy An – Phan Thanh Phong – Nguyễn Thị Thu Thủy (1985) – Phạm Thị Thanh Nga
24
Lớp DDI3091
Bình Thiên Lớn có diện tích mặt nước là 193 ha, độ sâu trung bình khoảng 6 m;
Búng Bình Thiên Nhỏ lần lượt là 10 ha và 5 m. Chung quanh hai hồ là các gò đất
cao từ 3 - 4 m, có các cửa thông với sông. Vào mùa mưa, khi lũ lên cao, nước lũ
tràn bờ, chảy vào lấp đầy hồ, làm chìm ngập hai hồ trong biển nước mênh mông.
Hiện tại, hai hồ chỉ được khai thác nguồn thủy sản tự nhiên, trong tương lai sẽ được
cải tạo để nuôi trồng thủy sản và khai thác du lịch.

Ngoài ra, trên địa bàn thành phố Long Xuyên còn có hồ Nguyễn Du, cũng là
hồ tự nhiên được hình thành từ một nhánh nhỏ của sông Hậu, tạo nên một thắng
cảnh đẹp giữa lòng thành phố. Các hồ nhân tạo được xây dựng ở vùng đồi núi Tri
Tôn - Tịnh Biên vào những năm 1986 - 1994 như: hồ Soài So, hồ Ô Tức Xa, hồ
Cây Đuốc. Ngoài tác dụng cung cấp nước sinh hoạt, các hồ này còn hỗ trợ nước
tưới cho hoa màu và các loại cây trồng khác, phục vụ đắc lực cho công tác trồng
rừng phủ kín đồi trọc, phòng chống cháy rừng và phòng chống sa mạc hóa đất đồng
bằng ven núi, góp phần cải tạo môi trường, tạo cảnh quan hấp dẫn cho du lịch sinh
thái.
2.5. THỔ NHƢỠNG:
2.5.1 Khái quát:
An Giang là một tỉnh đầu nguồn sông Cửu Long, là một trong những tỉnh có
diện tích đất canh tác lớn nhất trong vùng ĐBSCL. Tổng diện tích đất nông nghiệp
là 246.821 ha, trong đó đất trồng lúa chiếm hơn 82%. Đất An Giang hình thành qua
quá trình tranh chấp giữa biển và sông ngòi,nên rất đa dạng. Mỗi một vùng trầm
tích trong môi trường khác nhau sẽ tạo nên một nhóm đất khác nhau, với những
thay đổi về chất đất, địa hình, hệ sinh thái và tập quán canh tác.
2.5.2 Các nhóm đất:
- Nhóm đất phèn
- Nhóm đất phù sa
- Nhóm đất đồi núi

2.5.2.1 Nhóm đất phèn:
Đất phèn là đất chứa nhiều gốc sunphat (SO42-) và có độ pH rất thấp, chỉ
khoảng 2-3.Đất phèn ở An Giang phân bố nhiều ở vùng tiếp giáp với tỉnh Kiên
Giang, thuộc địa phận huyện Tri Tôn, Tịnh Biên và một phần của Châu Phú, với
tổng diện tích khoảng 30.136 ha, trong đó Tri Tôn chiếm 67%. Nhóm đất này được
hình thành do quá trình biển tiến cách đây 6.000 năm để lại, đặc biệt trong môi
ĐẠI HỌC SÀI GÒN Đề tài ĐỊA LÍ ĐỊA PHƯƠNG TỈNH AN GIANG


SV thực hiện:
Vũ Thúy An – Phan Thanh Phong – Nguyễn Thị Thu Thủy (1985) – Phạm Thị Thanh Nga
25
Lớp DDI3091
trường vũng vịnh biển nông, trên đó rừng ngập mặn phát triển mạnh mẽ như đước,
sú, mắm…Các loại thực vật này thường tích lũy chất lưu huỳnh trong thân và rễ
dưới dạng các hợp chất hữu cơ. Khi những khu rừng này bị vùi lấp, xác của chúng
được các vi sinh vật yếm khí phân hủy và thải lưu huỳnh ra môi trường dưới dạng
sunfit. Chúng kết hợp với các ion kim loại sắt, nhôm vừa được dòng nước mang đến
từ lục địa tạo thành những lớp đất chứa nhiều pyrite.Pyrite chứa trong tầng trầm
tích đầm lầy còn gọi là tầng phèn tiềm tàng, nhưng chúng lại dễ bị oxy hóa trong
điều kiện tiếp xúc với không khí.Dựa trên nguồn gốc hình thành và mức độ nhiễm
phèn trong đất, có thể chia đất phèn ở An Giang thành các loại tầng đất sinh phèn
(phèn tiềm tàng), tầng đất than bùn chứa phèn, đất nhiều phèn và đất bị nhiễm phèn.
a) Nhóm đất phèn tiềm tàng:
Ở An Giang xuất hiện chủ yếu ở địa bàn các xã Vọng Thê, Vọng Đông
(Thoại Sơn), Ô Long Vĩ, Thạnh Mỹ Tây (Châu Phú), Tân Tuyến, Tà Đảnh (Tri
Tôn), Tân Lợi (Tịnh Biên)… Tuy nhiên, tùy thuộc vào địa hình, bề dày tầng phủ
bên trên và mức độ sinh phèn khác nhau, ở một xã như Vĩnh Phú, Thoại Giang, Tây
Phú, Vọng Thê tầng sinh phèn xuất hiện ở độ sâu 80-100cm cách mặt đất, càng đi
về hướng Tây Nam bề dày tầng phủ càng giảm, tầng phèn xuất hiện gần mặt đất
hơn.Hầu hết đất phèn tiềm tàng có thành phần chủ yếu là sét (40,83%), bột 45,13%,
cát mịn 4,15%
b) Đất phèn nhiều:
Đây là loại đất chưa phát triển có phèn hoạt động rất mạnh, bên dưới là tầng
sinh phèn. Loại này phân bố ở các thung lũng hẹp phía Tây và Đông của vùng Bảy
Núi. Chúng hình thành một vành đai gần như khép kín vùng đồi núi, bắt đầu từ
kênh Vĩnh Tế qua An Nông, vòng qua thung lũng giữa Lạc Quới và núi Phú Cường
đến kênh Mới, chạy dọc theo kênh Tám Ngàn nối thông qua Tri Tôn.Thành phần
hạt độ chủ yếu là sét chiếm 41,31%, bột 36,68%, cát 4,75%.

c) Đất phèn ít:
Bao gồm đất phù sa phát triển bị nhiễm phèn và đất nhiễm phèn nặng được
thuần thục và rửa trôi. Loại này thường phân bố ở những nơi có địa hình tương đối
cao, có sự bồi đắp khá nhiều của phù sa nên tầng phèn tiềm tàng bên dưới được che
phủ khá dày (80-100cm), khả năng bị nhiễm phèn nhẹ. Bên cạnh đó, những vùng
trước đây bị nhiễm phèn nhưng do có địa hình cao, khả năng rửa trôi tốt nên dần
dần đất trở nên ít nhiễm phèn.Thành phần hạt độ hàm lượng sét trong loại đất này
rất cao (60-63,9%), bột và cát ít, chứng tỏ đất có độ thoát, thấm nước kém và dẻo

×