Tải bản đầy đủ (.doc) (192 trang)

Nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa, điều tra, xử lý TP XHTDTE trên địa bàn tỉnh An Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (632.64 KB, 192 trang )

Mở ĐầU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em là nguồn hạnh phúc của gia đình, là tương lai của dân tộc, là lớp
người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cần được ưu tiên bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục.
Sự nghiệp chăm lo, giáo dục thiếu niên và nhi đồng là việc làm thường
xuyên có tính chiến lược của Đảng và Nhà nước ta. Ngay từ khi mới ra đời,
trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn xác định các em thiếu
niên, nhi đồng ngày nay sẽ là người xây dựng Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa
cộng sản sau này. Quan tâm đến thiếu niên, nhi đồng là quan tâm đến việc đào
tạo, bồi dưỡng một lớp người mới, không những phục vụ cho sự nghiệp xây
dựng Chủ nghĩa xã hội ngày nay mà còn chính cho sự nghiệp xây dựng Chủ
nghĩa cộng sản sau này.
Pháp luật Nhà nước ta ngày càng hoàn chỉnh các quy định về sự quan
tâm chăm sóc, bảo vệ trẻ em. Trong Hiến pháp của Nước ta, tại Điều 40 ghi
rõ: “Nhà nước, xã hội, gia đình và công dân có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc
bà mẹ và trẻ em v.v...” và tại Điều 65 cũng ghi rõ: “Trẻ em được gia đình,
Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục”. Luật bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em, tại Điều 8 quy định: “1. Trẻ em được Nhà nước và xã hội tôn
trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự; được bày tỏ ý kiến,
nguyện vọng của mình về những vấn đề liên quan; 2. Nghiêm cấm việc ngược
đãi, làm nhục, hành hạ, ruồng bỏ trẻ em; bắt trộm, bắt cóc, mua bán, đánh
tráo trẻ em; kích động lôi kéo, ép buộc trẻ em thực hiện những hành vi vi phạm
pháp luật hoặc làm những việc có hại đến sự phát triển lành mạnh của trẻ
em”.
1
Qua hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, với những
thành tựu to lớn đã đạt được trên tất cả các lĩnh vực, bộ mặt kinh tế – xã hội
của Nước ta đã có nhiều khởi sắc. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, trong đó có trẻ em được cải thiện rõ rệt, văn hoá xã hội không ngừng
tiến bộ, an ninh chính trị và TTATXH được giữ vững, vị thế và uy tín của


Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Đất nước ta từ một
nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã vượt ra khỏi khủng hoảng, vươn lên bước
vào thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tuy nhiên, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, mặc dù đã phát huy được nhiều
tác dụng tốt, thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Song, nó cũng bộc lộ
những mặt tiêu cực như tệ tham nhũng, nạn buôn lậu, các loại TPHS và tệ
nạn xã hội v.v… Đặc biệt là TP XHTDTE.
Trong những năm gần đây, tình trạng trẻ em bị ngược đãi, xâm hại,
nhất là bị xâm hại tình dục đã trở nên đáng báo động. Các loại TP XHTDTE
như hiếp dâm trẻ em, cưỡng dâm trẻ em, giao cấu với trẻ em, dâm ô đối với
trẻ em v.v… diễn ra ngày càng nghiêm trọng.
Sự phát triển của các loại TPHS, trong đó có TP XHTDTE luôn là mối
đe dọa gây ảnh hưởng xấu đến xu thế phát triển chung của nền TTATXH. Do
đó, đấu tranh phòng, chống TPHS cũng như TP XHTDTE luôn là nhiệm vụ
vừa có tính cấp bách, vừa có tính chiến lược lâu dài. Đồng thời, đó cũng là
một mặt trận nóng bỏng, đòi hỏi phải có sự tham gia của tất cả các ngành, các
cấp và của mọi công dân. Trong đó, lực lượng CSĐT TP về TTXH là một
trong những lực lượng đóng vai trò nòng cốt, xung kích.
An Giang là một tỉnh có đặc thù về địa lý tự nhiên và dân cư, có biên
giới, vùng núi, vùng sâu, vùng xa v.v… với nhiều dân tộc, có nhiều tín ngưỡng,
tôn giáo cùng sinh sống. Trong những năm qua, tình hình phạm pháp hình sự
2
trên địa bàn tỉnh An Giang diễn biến rất phức tạp, với nhiều thủ đoạn mới đa
dạng, tinh vi, xảo quyệt, xâm phạm nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân và tài sản Nhà nước. Đặc biệt, đáng
chú ý là TP XHTDTE có nhiều vụ xảy ra với thủ đoạn hết sức trắng trợn và táo
bạo v.v… Thực trạng trên đã tác động rất xấu đến thuần phong mỹ tục, đạo đức
xã hội, gây hoang mang, bất bình trong quần chúng nhân dân và gây ảnh hưởng
rất xấu đến TTATXH của tỉnh An Giang.

Trước tình hình đó, dưới sự lãnh, chỉ đạo tập trung, sâu sát của Bộ
Công an, Tỉnh ủy, UBND tỉnh và được sự lãnh, chỉ đạo trực tiếp, chặt chẽ của
Đảng ủy, Ban Giám đốc Công an tỉnh, lực lượng CSĐT TP về TTXH Công
an tỉnh An Giang đã nghiên cứu, quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết của ngành Công
an, chủ động xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện các hoạt động nghiệp vụ
để phòng ngừa, liên tục tấn công TPHS nói chung, TP XHTDTE nói riêng và
đã thu được nhiều kết quả đáng kể. Tuy nhiên, trong hoạt động của lực lượng
CSĐT TP về TTXH Công an tỉnh An Giang vẫn còn bộc lộ những tồn tại,
thiếu sót v.v… Hiệu quả hoạt động phòng ngừa, điều tra, xử lý TP XHTDTE
vẫn còn bị hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, TP XHTDTE tuy có
giảm nhưng chưa ổn định, trong từng lúc, ở từng nơi vẫn còn diễn biến rất
phức tạp. Từ đó đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, luận giải một cách khoa học,
tìm ra nguyên nhân và đề ra những phương hướng, giải pháp hữu hiệu để
nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh
An Giang.
Là một cán bộ lãnh đạo, chỉ huy đã nhiều năm công tác trong lực lượng
CSĐT TP về TTXH, tác giả luôn có suy nghĩ phải làm thế nào để khắc phục
được những tồn tại, thiếu sót, tìm ra phương hướng và các giải pháp tăng
cường nghiệp vụ, nâng cao tính chiến đấu cho toàn lực lượng nhằm làm cho
3
hoạt động phòng ngừa, điều tra, xử lý TP XHTDTE ở tỉnh An Giang của lực
lượng CSĐT TP về TTXH Công an tỉnh An Giang đạt hiệu quả cao nhất. Vì
vậy, tác giả chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa, điều tra,
xử lý TP XHTDTE trên địa bàn tỉnh An Giang” làm đề tài luận văn Thạc sĩ
luật học là có tính cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
TP XHTDTE là vấn đề đã được nghiên cứu, thảo luận, trao đổi ở nhiều
góc độ khác nhau. Nhiều báo cáo khoa học, bài báo đã nghiên cứu TP
XHTDTE nhưng chỉ mới đề cập chung về thực trạng, nguyên nhân, điều kiện

phạm tội mà chưa đưa ra được những giải pháp phòng ngừa, điều tra, xử lý
thích hợp. Một số công trình khoa học, luận văn nghiên cứu TP XHTDTE chỉ
ở góc độ bộ phận riêng lẻ như tội phạm hiếp dâm trẻ em, tội phạm giao cấu
với trẻ em v.v… có thể kể một số công trình tiêu biểu như “Tài liệu bồi dưỡng
quản lý các đề án Chương trình phòng ngừa và giải quyết trẻ em lang thang,
trẻ em bị xâm hại tình dục và trẻ em lao động nặng nhọc trong điều kiện độc
hại, nguy hiểm từ năm 2005 – 2010” của Uỷ ban dân số gia đình và trẻ em
(2006); “Quy chế số 02/2007/QC/CA-BP ngày 13 tháng 03 năm 2007 về việc
phối hợp giữa lực lượng Công an và Bộ đội biên phòng tỉnh An Giang trong
đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em”; “Tội phạm học
hiện đại và phòng ngừa tội phạm” của GS,TS. Nguyễn Xuân Yêm ( 2000);
“Phòng ngừa tội phạm do người nước ngoài gây ra ở Việt Nam” của PGS,TS.
Trần Phương Đạt (2002); “Phòng chống tội phạm trong giai đoạn mới” của
GS,TS. Nguyễn Phùng Hồng (2001) v.v…
Cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học, đề tài nghiên cứu nào đề
cập tới việc nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa, điều tra, xử lý TP
XHTDTE trên địa bàn cụ thể như tại tỉnh An Giang.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
4
Đề tài được thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu những vấn đề lý luận,
phân tích thực trạng hoạt động phòng ngừa, điều tra, xử lý TP XHTDTE ở
tỉnh An Giang. Trên những cơ sở lý luận và thực tiễn, đề ra được những
phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa, điều tra,
xử lý TP XHTDTE ở tỉnh An Giang của lực lượng CSĐT TP về TTXH Công
an tỉnh An Giang.
Để đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài phải thực hiện các nhiệm vụ
sau đây:
- Nghiên cứu những quy định của pháp luật về TP XHTDTE; quan
điểm của Đảng, Nhà nước ta về công tác đấu tranh phòng, chống TP
XHTDTE.

- Nghiên cứu hệ thống lý luận về hoạt động phòng ngừa, điều tra, xử lý
TP XHTDTE.
- Phân tích, đánh giá thực trạng; nguyên nhân và điều kiện của tình
trạng phạm tội XHTDTE ở tỉnh An Giang; làm rõ đặc điểm hình sự của TP
XHTDTE ở tỉnh An Giang.
- Phân tích, đánh giá kết quả các mặt công tác, các biện pháp điều tra,
các biện pháp nghiệp vụ mà lực lượng CSĐT TP về TTXH Công an tỉnh An
Giang đã sử dụng trong hoạt động phòng ngừa, điều tra, xử lý TP XHTDTE ở
tỉnh An Giang.
- Đưa ra những dự báo, đề xuất những phương hướng, giải pháp để
nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa, điều tra, xử lý TP XHTDTE ở tỉnh
An Giang của lực lượng CSĐT TP về TTXH Công an tỉnh An Giang trong
thời gian tới.
4. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những lý luận cơ bản về trẻ em, TP
XHTDTE; tình hình TP XHTDTE ở tỉnh An Giang; thực trạng hoạt động
5
phòng ngừa, điều tra, xử lý TP XHTDTE ở tỉnh An Giang của lực lượng
CSĐT TP về TTXH Công an tỉnh An Giang.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài “Nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa, điều tra, xử lý TP
XHTDTE trên địa bàn tỉnh An Giang” là một vấn đề vừa có tính lý luận, vừa
có tính thực tiễn sâu sắc, cần phải được nghiên cứu một cách toàn diện, đầy
đủ và khoa học. Nhưng trong phạm vi và điều kiện cho phép, tác giả chỉ tập
trung nghiên cứu những vấn đề sau đây:
- Những lý luận chung – nhận thức cơ bản về trẻ em, TP XHTDTE; cơ
sở pháp lý về hoạt động phòng ngừa, điều tra, xử lý TP XHTDTE.
- Nghiên cứu về tình hình TP XHTDTE ở tỉnh An Giang; thực trạng
hoạt động phòng ngừa, điều tra, xử lý TP XHTDTE ở tỉnh An Giang của lực
lượng CSĐT TP về TTXH Công an tỉnh An Giang từ năm 2002 đến nay.

- Đưa ra những dự báo về TP XHTDTE; xác định phương hướng, giải
pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa, điều tra, xử lý
TP XHTDTE ở tỉnh An Giang của lực lượng CSĐT TP về TTXH Công an
tỉnh An Giang trong thời gian tới.
6. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan
điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước ta về công tác giữ gìn TTATXH, phòng
chống tội phạm nói chung và TP XHTDTE nói riêng.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, tổng
hợp, so sánh, tổng kết thực tiễn, thống kê, điều tra khảo sát, tọa đàm v.v…
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6
Kết quả nghiên cứu đề tài có thể góp phần bổ sung, hoàn thiện những
vấn đề lý luận về hoạt động phòng ngừa, điều tra, xử lý TP XHTDTE và các
loại tội phạm khác.
Đề tài còn là kết quả nghiên cứu, tổng kết thực tiễn hoạt động phòng
ngừa, điều tra, xử lý TP XHTDTE ở tỉnh An Giang. Đề tài giúp cán bộ, chiến sĩ
của lực lượng CSĐT TP về TTXH Công an tỉnh An Giang nhận thức rõ hơn về
những vấn đề lý luận và thực tiễn trong hoạt động phòng ngừa, điều tra, xử lý
loại tội phạm này. Từ đó, áp dụng một cách khoa học, hiệu quả các mặt công
tác, các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa, điều tra, xử
lý TP XHTDTE ở địa phương mình.
8. Những đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Trên cơ sở khoa học đưa ra những dự báo và xây dựng hệ thống
những phương hướng, giải pháp mang tính khả thi, thích hợp với điều kiện
đặc trưng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa, điều tra, xử lý TP
XHTDTE ở tỉnh An Giang của lực lượng CSĐT TP về TTXH Công an tỉnh
An Giang trong thời gian tới.
- Đóng góp một số vấn đề lý luận về hoạt động phòng ngừa, điều tra,

xử lý TP XHTDTE.
- Kết quả nghiên cứu đề tài có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu
chuyên sâu dành cho cán bộ, chiến sĩ làm công tác thực tiễn và học viên các
nhà trường CAND, các nhà trường pháp lý.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ
lục, luận văn được cấu trúc thành 03 chương như sau:
Chương 1: Nhận thức cơ bản về hoạt động phòng ngừa, điều tra, xử lý
TP XHTDTE.
7
Chương 2: Thực trạng hoạt động phòng ngừa, điều tra, xử lý TP
XHTDTE ở tỉnh An Giang.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
phòng ngừa, điều tra, xử lý TP XHTDTE ở tỉnh An Giang.
8
Chương 1
NHậN THứC CƠ BảN Về HOạT ĐộNG PHòNG NGừA,
ĐIềU TRA, Xử Lý TộI PHạM XÂM HạI TìNH DụC TRẻ EM
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Khái niệm trẻ em
Nói đến trẻ em, theo Điều 1 Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ
em được thông qua ngày 20/11/1989 tại Viên (Áo) và có hiệu lực từ ngày
02/9/1990 thì: “Trong phạm vi công ước này trẻ em có nghĩa là người dưới 18
tuổi. Trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó có quy định tuổi thành
niên sớm hơn”. Các quốc gia, trong đó có Việt Nam phê chuẩn hoặc tham gia
công ước này đều phải tuân thủ theo quy định về tuổi trẻ em là dưới 18 tuổi.
ở Việt Nam cũng chưa có sự thống nhất về độ tuổi của trẻ em và người
chưa thành niên, cụ thể trong Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được
Quốc hội Khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15/6/2004, tại Điều 1 quy
định: “Trẻ em quy định trong luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”;

Luật lao động quy định trẻ em là người dưới 15 tuổi; trong BLHS được Quốc
hội khóa X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21/12/1999, theo quy định ở
Chương X thì người chưa thành niên là người từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Khi
nói đến các tội phạm xâm hại trẻ em nói chung, luật quy định là người dưới
16 tuổi, còn các văn bản quy định quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam
thì giới hạn tuổi trẻ em là dưới 18 tuổi như quyền bầu cử, quyền kết hôn,
nghĩa vụ quân sự v.v…
Khi nghiên cứu về khái niệm trẻ em, cần hiểu rõ các đặc điểm về độ
tuổi, đặc điểm về mặt xã hội, đặc điểm về phát triển sinh lý và đặc điểm về
tâm lý của trẻ em.
Có thể nêu khái niệm về trẻ em ở Việt Nam như sau:
9
Trẻ em là người dưới 16 tuổi, còn non nớt, chưa phát triển đầy đủ về
tinh thần và thể chất, cần có sự bảo hộ chăm sóc, giáo dục của mỗi gia đình,
nhà trường, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và của mỗi công dân.
1.1.2. Khái niệm TP XHTDTE
Từ khái niệm về tội phạm được quy định tại Điều 8 BLHS năm 1999 và
khái niệm về trẻ em như trên có thể nói khái niệm về TP XHTDTE như sau:
TP XHTDTE là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
bằng các điều luật cụ thể trong BLHS của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm hại đến
tình dục, nhân phẩm, danh dự và sức khỏe của trẻ em.
Theo khái niệm trên, loại tội phạm này được quy định tại Chương XII
BLHS năm 1999 của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Cụ thể là các điều
luật sau:
- Điều 112 quy định về “Tội hiếp dâm trẻ em”.
- Điều 114 quy định về “Tội cưỡng dâm trẻ em”.
- Điều 115 quy định về “Tội giao cấu với trẻ em”.
- Điều 116 quy định về “Tội dâm ô đối với trẻ em”.
Những tội phạm trên là những tội phạm cụ thể, do những con người cụ

thể trong xã hội có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, xâm hại trực
tiếp đến tình dục, nhân phẩm, danh dự và sức khỏe của trẻ em, hành vi xâm
hại của họ đều được thực hiện bằng lỗi cố ý và nạn nhân của tội phạm này –
người bị xâm hại tình dục ở đây là trẻ em gái.
Việc tìm hiểu khái niệm trẻ em và TP XHTDTE có ý nghĩa nhận thức
lý luận và thực tiễn vô cùng quan trọng đối với toàn bộ hoạt động phòng
ngừa, điều tra, xử lý TP XHTDTE.
1.1.3. Khái niệm phòng ngừa TP XHTDTE
10
- Phòng ngừa là một trong hai phương diện cơ bản của cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm. Vấn đề này được ghi nhận rõ trong Điều 12 Hiến
pháp năm 1992 của Nước ta: “Các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị
vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp
và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến
pháp và pháp luật”.
- Phòng ngừa tội phạm có thể hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng,
phòng ngừa tội phạm bao hàm, một mặt không để cho tội phạm xảy ra, thủ
tiêu nguyên nhân và điều kiện của tình trạng phạm tội; mặt khác, bằng mọi
cách để ngăn chặn tội phạm, kịp thời phát hiện tội phạm, xử lý nghiêm minh
các vụ phạm tội và cuối cùng là cải tạo, giáo dục người phạm tội, tạo điều
kiện cho họ trở thành những công dân có ích cho xã hội. Theo nghĩa hẹp,
phòng ngừa tội phạm là không để cho tội phạm xảy ra, không để cho tội phạm
gây ra hậu quả cho xã hội, không để cho thành viên của xã hội phải chịu hình
phạt của pháp luật, tiết kiệm được những chi phí cần thiết cho Nhà nước trong
hoạt động điều tra, xét xử, thi hành án và giam giữ, cải tạo, giáo dục người
phạm tội.
Từ đó có thể nói khái niệm về phòng ngừa TP XHTDTE như sau:
Là việc áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp khác nhau hướng vào việc
thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện của tình trạng phạm tội XHTDTE nhằm từng
bước ngăn chặn, hạn chế, đẩy lùi và tiến tới loại bỏ chúng trong đời sống xã

hội.
1.1.4. Khái niệm điều tra TP XHTDTE
Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự tiếp sau khởi tố
vụ án của cơ quan tiến hành tố tụng. Trong giai đoạn này, CQĐT áp dụng mọi
biện pháp do BLTTHS quy định để xác định sự thật của vụ án một cách khách
11
quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ tội phạm và người thực hiện hành vi phạm
tội cũng như những tình tiết khác có liên quan đến vụ án.
Để có kết luận chính xác, làm cơ sở cho việc giải quyết đúng đắn vụ án,
xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, phù hợp với nội dung, tính chất,
mức độ của hành vi phạm tội. Đồng thời, phục vụ tốt cho yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm, CQĐT phải thực hiện hàng loạt các biện pháp, chiến
thuật điều tra và công việc phức tạp theo một trình tự do pháp luật hình sự quy
định nhằm chứng minh tội phạm.
Do TP XHTDTE là những tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS
và lực lượng CSĐT TP về TTXH là một bộ phận của CQĐT nói chung,
CQCSĐT nói riêng. Vì vậy, hoạt động điều tra TP XHTDTE của lực lượng
CSĐT TP về TTXH cũng là hoạt động điều tra vụ án hình sự.
1.1.5. Khái niệm xử lý TP XHTDTE
Xử lý TP XHTDTE là việc các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét, giải
quyết các vụ phạm tội XHTDTE, buộc người phạm tội phải chịu những chế tài
theo quy định của BLHS, BLTTHS (các biện pháp ngăn chặn, hình phạt) và
các hình thức xử lý khác theo quy định của pháp luật nhằm đạt được mục đích
trong cuộc đấu tranh phòng, chống TP XHTDTE.
Đối với lực lượng CSĐT TP về TTXH là một bộ phận của CQCSĐT
thì việc xử lý TP XHTDTE được tiến hành đồng thời hai nội dung sau đây:
* Xử lý vụ phạm tội:
Xử lý TP XHTDTE nếu chỉ dừng lại ở việc xử lý người phạm tội thì
chưa toàn diện, đầy đủ mà ngay sau khi phát hiện và xác định có vụ phạm tội
xảy ra, từ giai đoạn ra quyết định khởi tố vụ án hình sự đến khi kết thúc điều

tra, lực lượng CSĐT TP về TTXH phải tiến hành các biện pháp cần thiết theo
luật định để xác định sự thật của vụ án, chứng minh tội phạm và người phạm
tội. Từ đó, có cơ sở giải quyết đúng đắn vụ phạm tội và những vấn đề có liên
12
quan như đề nghị truy tố, đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ điều tra v.v… Đồng
thời, khắc phục hậu quả do tội phạm gây ra, xây dựng kế hoạch và áp dụng
các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh v.v… Hoạt động trên của lực lượng
CSĐT TP về TTXH cũng được xem là một trong những hình thức xử lý TP
XHTDTE nói chung.
* Xử lý người phạm tội:
Căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã thu thập được, chứng minh rõ
về nội dung, tính chất, mức độ hành vi phạm tội, những tình tiết tăng nặng,
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm v.v… của người phạm tội, lực lượng CSĐT TP
về TTXH áp dụng các biện pháp ngăn chặn phù hợp như bắt, tạm giữ, tạm
giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lãnh v.v… hoặc có kết luận điều tra chính
xác. Trên cơ sở đó Viện kiểm sát truy tố, Tòa án xét xử công minh đối với
người phạm tội, áp dụng hình phạt thích đáng. Ngoài ra, lực lượng CSĐT TP
về TTXH còn có thể áp dụng các hình thức xử lý khác đối với người phạm tội
theo quy định của pháp luật.
1.2. Nhận thức về hoạt động phòng ngừa, điều tra, xử lý TP XHTDTE
của lực lượng CSĐT TP về TTXH
1.2.1. Những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
Sự nghiệp chăm lo, giáo dục thiếu niên và nhi đồng là việc làm thường
xuyên có tính chiến lược của Đảng và Nhà nước ta. Trong di chúc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là
điều rất quan trọng và cần thiết”. Ngay từ khi Nhà nước ta mới ra đời trong
suốt quá trình cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn xác định: “Các em thiếu
niên, nhi đồng ngày nay sẽ là người xây dựng Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa
cộng sản sau này. Quan tâm đến thiếu niên, nhi đồng là quan tâm đến việc đào
tạo, bồi dưỡng một lớp người mới, không những phục vụ cho sự nghiệp xây

dựng Chủ nghĩa xã hội ngày nay mà còn chính cho sự nghiệp xây dựng Chủ
13
nghĩa cộng sản sau này” (Chỉ thị 197/CT-TW ngày 19/3/1960 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng về công tác thiếu niên nhi đồng) và “Trẻ em là nguồn hạnh
phúc của gia đình, là tương lai của dân tộc, là lớp người kế tục sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc cần được ưu tiên bảo vệ, chăm sóc và giáo dục”. (Chỉ
thị 38/CT-TW ngày 30/5/1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác
trẻ em).
1.2.2. Các quy định của pháp luật về quyền trẻ em và TP XHTDTE
Cơ sở pháp lý về quyền trẻ em; hoạt động phòng ngừa, điều tra, xử lý
TP XHTDTE bắt nguồn từ pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Cụ thể là:
1.2.2.1. Công ước quốc tế về quyền trẻ em
Các văn bản quốc tế về quyền trẻ em đã được xác lập và khẳng định từ
năm 1924 trong Tuyên ngôn về quyền trẻ em tại Giơneve. Năm 1959 đã có
Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Năm 1989 Công ước quốc tế
về quyền trẻ em được Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua và cho tới nay
đã có 192 nước phê chuẩn. Công ước đã thể hiện toàn diện và đầy đủ về các
quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của trẻ em và mang tính toàn
cầu.
Công ước quy định 4 nhóm quyền cơ bản của trẻ em, gồm:
- Quyền được sống, tồn tại và sống khỏe mạnh.
- Quyền được phát triển.
- Quyền được phát biểu ý kiến, được tham gia.
- Quyền được bảo vệ khỏi bị mọi hình thức lạm dụng, bị sao lãng và
bóc lột.
1.2.2.2. Pháp luật quốc gia về quyền trẻ em và TP XHTDTE
Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên cam kết thừa nhận tính
pháp lý về các quyền trẻ em. Quyền trẻ em được ghi nhận và cụ thể hóa trong
nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước ta. Trên những lĩnh vực
14

khác nhau của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, Nhà nước ta đều
quan tâm đến quyền của trẻ em và quy định cụ thể cho tất cả những chủ thể có
liên quan đến trẻ em phải thực hiện. Đồng thời, pháp luật của Việt Nam cũng
quy định các chế tài đối với những ai xâm phạm các quyền của trẻ em.
- Hiến pháp năm 1992 phần quy định về quyền trẻ em không còn là
những quy định riêng lẻ mà đã trở thành một chế định pháp lý hoàn chỉnh,
đồng bộ và chặt chẽ đặt trong khuôn khổ, mối quan hệ trực tiếp với chế định
quyền công dân. Tại Điều 65 của Hiến pháp ghi rõ: “Trẻ em được gia đình,
Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục”.
- Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được Quốc hội khóa XI, kỳ
họp thứ 5 thông qua ngày 15/6/2004, gồm 5 chương, 60 điều, đã quy định
tương đối đầy đủ các quyền cơ bản của trẻ em… Luật quy định trẻ em là công
dân Việt Nam dưới 16 tuổi; mọi trẻ em không phân biệt đều được bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục; đó là trách nhiệm của gia đình, nhà trường, các cơ quan
Nhà nước và công dân; mọi hành vi xâm hại trẻ em đều bị nghiêm trị; nghiêm
cấm việc dụ dỗ, lừa dối, dẫn dắt, chứa chấp, ép buộc trẻ em hoạt động mại
dâm; XHTDTE.
- BLHS quy định các tội phạm cụ thể về TP XHTDTE như sau:
+ Điều 112 quy định về “Tội hiếp dâm trẻ em”.
+ Điều 114 quy định về “Tội cưỡng dâm trẻ em”.
+ Điều 115 quy định về “Tội giao cấu với trẻ em”.
+ Điều 116 quy định về “Tội dâm ô đối với trẻ em”.
1.2.3. Tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng CSĐT TP
về TTXH trong hệ thống CQĐT
Trong hệ thống CQĐT, lực lượng CSĐT TP về TTXH bao gồm:
- Cục CSĐT TP về TTXH (C14).
15
Cục CSĐT TP về TTXH thuộc Tổng cục CSND – Bộ Công an. Cục
CSĐT TP về TTXH gồm có 10 phòng.
- Phòng CSĐT TP về TTXH (PC14).

Phòng CSĐT TP về TTXH thuộc Công an cấp tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương.
- Đội CSĐT TP về TTXH.
Đội CSĐT TP về TTXH thuộc Công an cấp huyện, thị xã, thành phố
trực thuộc tỉnh.
Lực lượng CSĐT TP về TTXH có chức năng tham mưu, chỉ đạo,
hướng dẫn và tiến hành các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ, phát hiện, điều
tra, xử lý các loại tội phạm về trật tự xã hội; trực tiếp điều tra những vụ án về
trật tự xã hội theo quy định của pháp luật và của Bộ trưởng Bộ Công an, góp
phần bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn TTATXH.
Lực lượng CSĐT TP về TTXH có nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
- Tổ chức công tác nắm tình hình hoạt động của tội phạm về trật tự xã
hội, công tác phòng ngừa, điều tra, khám phá, bắt giam giữ, xử lý tội phạm về
trật tự xã hội; đề xuất chủ trương, kế hoạch, biện pháp phòng ngừa, điều tra,
xử lý với từng loại tội phạm theo quy định của pháp luật để lãnh đạo có thẩm
quyền quyết định và tổ chức thực hiện các quyết định đó.
- Tổ chức chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn và trực tiếp tiến hành các công
tác nghiệp vụ cơ bản gồm điều tra cơ bản, sưu tra và xác minh hiềm nghi, xây
dựng và sử dụng mạng lưới bí mật, đấu tranh chuyên án, đáp ứng yêu cầu đấu
tranh phòng, chống tội phạm về trật tự xã hội. Chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn
các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của
lực lượng CAND trong hoạt động điều tra tố tụng và kiểm tra việc chấp hành
các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến công tác đấu tranh phòng,
16
chống tội phạm về trật tự xã hội theo quy định của pháp luật và của Bộ trưởng
Bộ Công an.
- Tiến hành điều tra những vụ án liên quan đến tội phạm về trật tự xã
hội, trong đó có TPXHTDTE; tiếp nhận điều tra theo tố tụng những vụ án do
các đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra chuyển
giao theo quy định của pháp luật và của Bộ trưởng Bộ Công an.

- Chủ trì việc tổ chức điều tra tại hiện trường các vụ án về trật tự xã hội.
Tổ chức việc truy tìm tung tích nạn nhân, vật chứng; ra quyết định truy nã và
truy bắt người phạm tội về trật tự xã hội; kiểm tra, đôn đốc, thực hiện, theo
dõi kết quả thực hiện công tác truy nã theo quy định.
- Tổ chức chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ và trực tiếp tham gia công tác
quản lý các đối tượng về trật tự xã hội bị quản chế, cấm cư trú, cư trú bắt
buộc, cải tạo không giam giữ, án treo, cư trú tại địa bàn dân cư và phối hợp
tham gia lập hồ sơ đưa đối tượng vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng; thực
hiện công tác xử phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực trật tự xã hội theo quy
định.
- Thông qua công tác đấu tranh phòng, chống TPHS nói chung, TP
XHTDTE nói riêng, phát hiện nguyên nhân, điều kiện làm nảy sinh tội phạm
để đề xuất, kiến nghị với các ngành chủ quản, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã
hội có kế hoạch chấn chỉnh kịp thời nhằm góp phần phòng ngừa, đấu tranh
đạt hiệu quả cao.
- Tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm công tác để đề xuất các chế
độ và quy trình công tác, cải tiến chế độ làm việc và phương pháp công tác
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác, chiến đấu góp phần xây dựng
lý luận nghiệp vụ của lực lượng CSĐT TP về TTXH.
- Thực hiện kế hoạch hợp tác quốc tế về công tác điều tra TPHS nói
chung, TP XHTDTE nói riêng theo quy định của Bộ trưởng Bộ Công an.
17
- Phối hợp với các đơn vị chức năng nghiên cứu, đề xuất việc bổ nhiệm,
miễn nhiệm Phó thủ trưởng, ĐTV CQCSĐT và ĐTV thuộc lực lượng CSĐT
TP về TTXH theo quy định.
- Quản lý tổ chức cán bộ và thực hiện công tác hậu cần của lực lượng
CSĐT TP về TTXH theo quy định.
- Thực hiện những nhiệm vụ khác thuộc chức năng của lực lượng
CSĐT TP về TTXH do Bộ trưởng Bộ Công an, Tổng Cục trưởng Tổng cục
Cảnh sát và Giám đốc Công an cấp tỉnh giao.

Lực lượng CSĐT TP về TTXH có vai trò đặc biệt quan trọng, là lực
lượng nòng cốt, xung kích trong hoạt động phòng ngừa, điều tra, xử lý TPHS
nói chung, TP XHTDTE nói riêng.
NHẬN THỨC CHUNG VỀ TỘI PHẠM HỌC
1. Khái niệm, đối tượng nghiên cứu, nhiệm vụ, mối quan hệ giữa tội
phạm học và các môn khoa học khác.
1.1 Khái niệm.
Để đáp ứng nhu cầu nhận thức và cải tạo thế giới phục vụ lợi ích xã
hội, loài người đã không ngừng tìm tòi nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và
xã hội. Điều đó là cơ sở nảy sinh và phát triển nhiều ngành khoa học khác
nhau.
Đã từ lâu, vấn đề đấu tranh ngăn chặn tiến tới làm giảm và loại trừ tội
phạm đã trở thành một trong những mối quan tâm chú ý của các Nhà nước
dưới mọi chế độ chế độ xã hội khác nhau. Để đấu tranh có hiệu quả đối với
các loại tội phạm – hiện tượng xã hội tiêu cực và phức tạp, đòi hỏi con người
cần phải không ngừng nghiên cứu để nhận thức đầy đủ về hiện tượng này. Tội
phạm là gì? Nó được hình thành phát triểnvà tồn tại theo những quy luật nào?
Để đấu tranh với nó cần phải tiến hành bằng những phương pháp tác động ra
sao?...Công việc đó được tiến hành gắn liền với thực tế đấu tranh chống tội
18
phạm ở mỗi quốc gia, qua mỗi giai đoạn phát triển của xã hội. Kết quả của
quá trình đó đem laị cho loài người những tri thức phong phú cần thiết về hiện
tượng tội phạm và những kinh nghiệm quý báu trong đấu tranh chống tội
phạm.
Những tri thức và kinh nghiệm về tội phạm và phương pháp phòng
chống tội phạm ngày càng được tích luỹ đầy đủ. Bước đầu được phản ánh tản
mạn riêng lẻ, sau đó được đúc rút hệ thống lại và được nghiên cứu tỉ mỉ sâu
sắc hơn trong các tài liệu chuyên khảo của các ngành khoa học pháp lý, khoa
học xã hội. Trong điều kiện các lĩnh vực khoa học phát triển, mạnh mẽ theo
hướng chuyên sâu, vấn đề nghiên cứu về tội phạm và biện pháp đấu tranh

chống tội phạm được nâng lên và tách riêng thành bộ môn khoa học độc lập
chuyên nghiên cứu về những quy luật hình thành, phát sinh phát triển của tội
phạm cùng với các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn nhằm loại bỏ và hạn chế
sự tác động của hiện tượng này. Như vậy, ngành khoa học nghiên cứu về tội
phạm đã ra đời và phát triển.
Xem xét về thuật ngữ, các nhà nghiên cứu thấy rằng: “Tội phạm học”
là một cụm từ ghép bao gồm: Crimin: tội phạm (theo ngôn ngữ la tinh) và
Logos có nghĩa là: Học thuyết hoặc khoa học (theo tiếng Hy Lạp). Vậy tội
phạm học có nghĩa là “học thuyết về tội phạm” hay “khoa học nghiên cứu về
tội phạm”. Tuy nhiên, nếu nói là “nghiên cứu về tội phạm” thì nhiều ngành
khoa học nghiên cứu về vấn đề này, như: khoa học luật hình sự, khoa học luật
tố tụng hình sự, Điều tra hình sự, tâm lý học, xã hội học…Vì vậy, cá nhà
nghiên cứu tội phạm học xác định phạm vi nghiên cứu của tội phạm học được
giới hạn bởi đối tượng nghiên cứu chủ yếu của nó là:
- Tình trạng tội phạm.
- Nguyên nhân, điều kiện của tội phạm.
- Nhân thân người phạm tội
19
- Biện pháp phòng ngừa tội phạm.
Trên cơ sở đó, có thể nêu khái niệm về Tội phạm hộc như sau:
Tội phạm học là ngành khoa học, nghiên cứu về tội Tình trạng tội
phạm, nguyên nhân và điều kiện phát sinh phát triển của tình trạng tội phạm
và các loại tội phạm cụ thể, nghiên cứu nhân thân người phạm tội và các biện
pháp phòng ngừa ngăn chặn nhằm hạn chế, tiến tới loại trừ tội phạm ra khỏi
đời sống xã hội.
Trong điều kiện phát triển của sự nghiệp cách mạng hiện nay ở nước ta,
Đảng và Nhà nước đã xác định vị trí quan trọng đặc biệt của công cuộc bảo vệ
vững chắc nền an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, đấu tranh kiên quyết
và triệt để chống các loại tội phạm hình sự. Điều đó đang đặt ra những nhiệm
vụ nặng nề cho các nhà nghiên cứu và cán bộ thực tế trong nghiên cứu tội

phạm, xây dựng phương pháp đấu tranh ngăn chặn một cách có hiệu quả với
chúng. Nghiên cứu và phát triển hoàn thiện khoa học tội phạm là vấn đề có ý
nghĩa to lớn trong sự nghiệp đấu tranh chống các loại tội phạm hình sự, giữ
vững an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
1.2 Đối tượng nghiên cứu của Tội phạm học.
Mỗi ngành khoa học có đối tượng nghiên cứu riêng của mình. Đó là
những quy luật tác động trong lĩnh vực mà ngành khoa học đó cần nghiên
cứu. Tội phạm học với tư cách là môn khoa học độc lập, vì vậy cũng có đối
tượng nghiên cứu riêng. Đó là những sự vật hiện tượng liên quan đến hoạt
động tội phạm và phòng ngừa tội phạm.
Trong các tài liệu Tội phạm học của nhiều nước trên thế giới đã được
xác định và phân loại thành những nhóm đối tương nghiên cứu như: nghiên
cứu tội phạm là hiện tượng của xã hội; nguyên nhân, điều kiện phạm tội, nhân
thân người phạm tội và phòng ngừa tội phạm. Có thể xác nhận rằng việc định
ra đối tượng nghiên cứu của tội phạm như vậy là đúng đắn, bởi vì điều đó
20
phản ánh được khái quát nội dung nghiên cứu của vấn đề về tội phạm theo
một trình tự hệ thống bao hàm được đầy đủ những vấn đề phản ánh quy luật
hoạt động nhận thức về hiện tượng tội phạm, từ việc xác định khái niệm tội
phạm, phạm vi tình trạng, cấu trúc tội phạm và diễn biến của nó, đến việc đi
sâu nghiên cứu nguyên nhân, điều kiên của tình trạng này, cúng như về nhân
thân người phạm tội, tất cả điều đó nhằm đến mục đích là nghiên cứu tìm tòi
biện pháp, phương tiện phòng ngừa tội phạm. Cách xác định như trên còn cho
thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa nội dung của các nhóm đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu vấn đề này có tác dụng ảnh hưởng với vấn đề khác trong hệ
thống các đối tượng đã nêu, vì vậy để thấy rằng các nhóm đối tượng nghiên
cứu trên có mối quan hệ chặt chẽ, ảnh hưởng tác động lẫn nhau và không cho
phép người nghiên cứu coi nhẹ đối tượng nghiên cứu nào trong việc nghiên
cứu soạn thảo các vấn đề về Tội phạm học. Trong lý luận Tội phạm học người
ta gọi bốn nhóm đối tượng nghiên cứu đó là bốn bộ phận cấu thành cơ bản

hoặc bốn nhóm hiện tượng xã hội cần phải nghiên nghiên cứu trong khoa học
tội phạm.
Các đối tượng nghiên cứu và nội dung cơ bản của Tội phạm học bao
gồm:
2.1.1 Tình trạng tội phạm.
Tình trạng tội phạm là hệ thống các sự kiện phạm tội cụ thể được diễn
ra trong hệ thống quốc gia hoặc khu vực trong một thời gian nhất định. Như
vậy có nghĩa là xem xét mhư một hiện tượng xã hội nhằm nắm vững bản chất
của nó cũng như các yếu tố cấu thành có tính đặc trưng của hiện tượng xã hội
này.
Đối với nhóm đối tượng này cần phải xoay quanh các nội dung cơ bản
sau:
21
- Nghiên cứu tình trạng hoạt động của tội phạm, cấu trúc và động thái
của Tình trạng tội phạm nói chung cũng như từng loại tội phạm cụ thể trong
phạm vi cả nước và ở mỗi vùng dân cư. Những nội dung này phản ánh số
lượng và tính chất hoạt động của tội phạm nói chung và các loại tội phạm cụ
thể trong mỗi thời kỳ, mỗi địa phương khác nhau.
- Nghiên cứu các mối quan hệ tác động qua lại giữa Tình trạng tội
phạm với các hiện tượng và các quá trình xã hội khác (CT,KT, VH, GD…)
hoặc với những hình thức khác nhau của hành vi tiêu cực (lười biếng, suy
thoái về đạo đức, tệ nạn xã hội ).
Nghiên cứu làm rõ những nội dung đã chỉ ra trong nhóm đối tượng
nghiên cứu trên cho phép chúng ta đánh giá một cách khái quát về Tình trạng
tội phạm nói chung trong phạm vi cả nước và ở mỗi địa phương cụ thể, đồng
thời có thể đề ra phương hướng chung, biện pháp tổng hợp trong việc phòng
ngừa ngăn chặn tội phạm.
1.2.2. Nguyên nhân nảy sinh tình trạng tội phạm và điều kiện tạo thuận
lợi cho việc thực hiện hành vi phạm tội là một trong những nội dung tất yếu
của sự phát triển và tồn tại trong mỗi thời kỳ phát triển của xã hội.

- Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm là tổng hợp các sự vật hiện
tượng tiêu cực xã hội tác động đến con người và là hành vi phạm tội. Vì vậy
cần phải xem xét phân loại một cách khoa học các loại nguyên nhân, điều
kiện khách quan, chủ quan, trực tiếp, dán tiếp, chủ yếu thứ yếu, bên trong, bên
ngoài…điều đó có ý nghĩa quan trọng trong việc nhận thức tội phạm và sử
dụng biện pháp phòng ngừa chúng.
- Cần thiết phải có quan điểm rõ ràng trong phân biệt giữa nguyên nhân
và điều kiện, mối quan hệ tác động giữa nguyên nhân và điều kiện trong quá
trình tác động đến hành vi phạm tội.
22
- Nghiên cứu tìm ra cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện tội
phạm đối với hành vi của con người phạm tội (các yếu tố tiêu cực về kinh tế,
tư tưởng, tâm lý, giáo dục…tác động đến con người như thế nào trong quá
trình đãn đến việc phạm tội).
Trong điều kiện trình độ lý luận về tội phạm ở nước ta hiện nay chưa
được phát triển hoàn hảo, trong việc nghiên cứu và xác định nguyên nhân,
điều kiện của Tình trạng tội phạm nói chung và tội phạm cụ thể còn nhiều vấn
đề cần phải xem xét để đi đến thống nhất quan điểm. Chẳng hạn còn có sự
nhầm lẫn giữa nguyên nhân và điều kiện phạm tội, giữa nguồn gốc tội phạm
và nguyên nhân, điều kiện tội phạm…điều đó dẫn đến việc xem xét đánh giá
vấn đề nguyên nhân và điều kiện tội phạm còn có sự khác nhau. Từ đó cho
thấy, tính cấp bách của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tội phạm
trong khoa học Tội phạm học ở nước ta.
1.2.3. Nhân thân người phạm tội.
Nhân thân người phạm tội là đối tượng nghiên cứu quan trọng của Tội
phạm học. Có thể hiểu khái niệm nhân thân người phạm tội là “những đặc
điểm dấu hiệu thể hiện bản chất xã hội của con người phạm tội”. Con người
có thể có nhiều loại phẩm chất tính cách khác nhau như tính cách sinh vật
(giới tính, lứa tuổi, chiều cao , cân nặng, màu tóc, màu da…) bản năng động
vất và những phẩm chất tính cách xã hội (quan điểm, trình độ học vấn, tình

trạng gia đình, quan hệ xã hội …)
Tội phạm học nghiên cứu nhân thân người phạm tội theo các nội dung
sau:
- Nghiên cứu các đặc điểm về xã hội – nhân khẩu học bao gồm giới
tính, lứa tuổi, trình độ học vấn, hoàn cảnh gia đình, nghề nghiệp….
- Nghiên cứu về phẩm chất đạo đức và tâm lý cá nhân kể phạm tội. Ơ
đây cần đề cập đến các đặc điểm về thái độ đối xử của kể phạm tội và các tổ
23
chức chính quyền, tổ chức xã hội và những con người xung quanh, đối với
các giá trị tinh thần, đạo đức xã hội …cũng như các yếu tố về trí tuệ, tình
cảm…đặc biệt, nghiên cứu các biểu hiện của nhân cách kẻ phạm tội trong
quá trình sống; hoạt động lao động, công tác xã hội , vai trò cá nhân trong xã
hội , trong đơn vị công tác,trong các nhóm người và với những con người cụ
thể khác, các cơ quan, đơn vị khác.
Nghiên cứu các đặc điẻm cá nhân kẻ phạm tội mang tính pháp luật hình
sự. Tính chất hành vi tội phạm, mục đích, động cơ phạm tội, hoạt động cá
nhân hay tổ chức, vai trò trong các tổ chức phạm tội, các tiền án, tiền sự…
- Phân loại nhân thân người phạm tội phục vụ cho công tác phòng ngừa
ngăn chặn hoặc giáo dục người phạm tội.
Tất cả những nội dung trên tạo thành hệ thống các đặc tính thể hiện bản
chất xã hội của con người phạm tội. Nghiên cứu những vấn đề trên có ý nghĩa
quan trọng trong việc xác định nguyên nhân và điều kiện tội phạm nói chung
và các loại tội phạm cụh thể, con người cụ thể. Mặt khác nghiên cứu nhân
thân người phạm tội giúp ta đề ra biện pháp phòng ngừa, giáo dục và nâng
cao hiệu quả biện pháp phòng ngừa tội phạm nói chung và các tội phạm cụ
thể.
1.2.4. Phòng ngừa tội phạm.
Phòng ngừa tội phạm là hệ thống các biện pháp của Nhà nước và xã hội
hướng đến việc xoá br, hạn chế nguyên nhân, diều kiện tội phạm, ngăn ngừa
kịp thời những hành vi sai lệch của những người có ý định phạm tội. Ơ nhiều

nước trên thế giới cũng như ở nước ta hiện nay phòng ngừa tội phạm đã và
đang trở thành một hoạt động thức tế, có sự tham gia đông đảo của cơ quamn
nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân. Hoạt động này cần thiết phải được
xem xét nghiên cứu một cách khoa học nhằm mục đích ngày càng hoàn thiện
24
hơn về mật lý luận và các biện pháp tiến hành cụ thể, nâng cao chất lượng của
công tác phòng ngừa tội phạm.
Về mặt lý luận, theo quan điểm hệ thống, phòng ngừa tội phạm được
phân tích, xem xét trên các khía cạnh sau:
- Khái niệm, phạm vi phòng ngừa tội phạm.
- Mục đích, nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm cụ thể.
- Nôi dung phòng ngừa tội phạm.
- Chủ thể tham gia phòng ngừa tội phạm.
- Phương pháp, biện pháp, phương tiện tiến hành hoạt động phòng
ngừa tội phạm.
- Những hoạt động khác nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng
ngừa tội phạm: Dự báo tội phạm, thông tin tội phạm, kế hoạch hoá, yếu tố nạn
nhn .
Những bộ phận cấu thành nêu trên tạo nên đối tượng nghiên cứu của
khoa học tội phạm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động ảnh hưởng lẫn
nhau. Những loại đối tượng nghiên cứu này phản ánh nội dung nghiên cứu tội
phạm nói chung, cúng như khi nghiên cứu từng nhóm, từng loại tội phạm cụ
thể ở mỗi địa phương và trong mỗi thời gian nhất định.
Nếu xem xét các loại đối tượng nghiên cứu của tội phạm học trong một
tổng thể thì có thể nhận thấy rằng: các loại dối tượng nghiên cứu như Tình
trạng tội phạm, nguyên nhân và điều kiện tội phạm và nhân thân người phạm
tội cho phép xác định tính chất, mức độ tội phạm, nguyên nhân điều kiện của
nó, các quy luật phát sinh, phát triển và tồn tại của tội phạm. Còn đối tượng
nghiên cứu cuói cùng, phòng ngừa tội phạm, là cách thức tác động với tội
phạm, nguyên nhân, điều kiện của nó nhằm hạn chế, tiến tới loại bỏ hiện

tượng này kỏi đời sống xã hội, đó cũng là mục đích nghiên cứu của khoa học
Tội phạm học.
25

×