Tải bản đầy đủ (.pdf) (145 trang)

đề tài “VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO DỰ ÁN VÀO GIÁO DỤC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU CHO HỌC SINH THPT QUA MÔN ĐỊA LÍ Ở THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT - TỈNH LÂM ĐỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 145 trang )



1

PHẦN MỘT: MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Trong thời gian qua, vấn đề biến đổi khí hậu (BĐKH) đã trở thành một đề tài nóng
bỏng và cấp thiết khi biểu hiện của nó ngày càng một rõ rệt hơn, tác động trực tiếp tới
đời sống mọi sinh vật trên trái đất mỗi ngày.
Sự thay đổi nghiêm trọng về khí hậu đã khiến cho các nhà khoa học phải vào cuộc.
Chúng ta đã biết đến hội nghị Copenhagen diễn ra tại Đan Mạch, hội thảo nâng cao
nhận thức và năng lực ứng phó với những thách thức của BĐKH tại Việt Nam,…hay
những tác phẩm như ”Khí hậu biến đổi thảm kịch vô tiền khoáng hậu” của S.rahmstorf
và Hans J.schellnhuber, “ nóng, phẳng, chật” của Thomas L.friedman,… tất cả chúng
đều xuất phát từ một thực tế là khí hậu đang biến đổi, trái đất đang nóng lên, cuộc sống
của hàng triệu con người đang bị đe dọa một cách nghiêm trọng.
Trong những năm gần đây, bão lũ, hạn hán, núi lửa, sóng thần …diễn ra với cường
độ mạnh, nhanh và rất thường xuyên đã lấy đi tính mạng của hàng ngàn người, có nơi
thì nóng lên như thiêu, như đốt, có nơi thì lạnh đến buốt da thịt. Chất lượng cuộc sống
bị ảnh hưởng vô cùng nghiêm trọng.
Từ thực tế đó có rất nhiều tổ chức được thành lập để thực hiện và kêu gọi mọi người
có ý thức hơn đối với môi trường sống để giảm bớt sự BĐKH. Tuy nhiên, để có thể đối
phó với hiện tượng này không chỉ một người, một tập thể hay một quốc gia nào đó có
thể thực hiện được, nó là vấn đề của mọi quốc gia cần liên hiệp lại để có một biện pháp
thống nhất và khả thi.
Là một người con của mảnh đất Tây Nguyên, nơi tương đối cao so với mực nước
biển, khí hậu quanh năm mát mẻ, ôn hòa từ ngàn xưa. Song thời gian khoảng hơn 10
năm trở lại đây, tôi nhận thấy thành phố hoa Đà Lạt - tỉnh Lâm Đồng - đã có những
biến đổi sâu sắc và rõ rệt về thời tiết, khí hậu. Nét đặc trưng bao đời làm nên cái rất
riêng của xứ sương mù đang dần trở nên mờ nhạt và mất dần đi. Có lẽ du khách thập
phương tới nơi đây cũng vì muốn trở lại với cuộc sống thiên nhiên, được hưởng cái




2

không khí trong lành, mát mẻ. Mỗi sáng thức giấc được ngắm nhìn lớp sương phủ kín
là là mặt đất, mỗi tối ngắm nhìn thành phố với ánh điện le lói từ những căn nhà mang
màu sắc bản địa núp dưới những rừng thông bạt ngàn, không có vẻ xa hoa, tráng lệ,
cũng chẳng ồn ào như chốn Sài thành,…và cũng có thể họ đến để được ngắm nhìn,
mặc kiểu trang phục ấm áp và dễ thương từ hàng len như áo len, mũ len, bao tay len,
khăn len,…
Song bởi rất nhiều lí do mà giờ đây thành phố Đà Lạt đã không còn được như xưa
nữa, bàn tay con người can thiệp quá nhiều và đang làm mọi thứ trở nên hiện đại, khô
cứng đi theo từng khối xi măng, gạch cát, sắt thép,…mất đi cái hoang sơ, dân dã và rất
tự nhiên của vùng cao nguyên này. Không chỉ thế, với hệ quả” quýt làm cam chịu”, sự
hiện đại hóa chưa đúng cách ấy đã vô hình chung làm khí hậu nơi đây cũng biến đổi
theo, việc trồng các loại rau quả ôn đới, việc kinh doanh các mặt hàng len, các dịch vụ
từ những hoạt động thiên nhiên (như xe ngựa để du khách đi ngắm cảnh),…đang dần
mất đi chỗ đứng.
Trước sự thay đổi với tốc độ rất nhanh và những thiệt hại thấy được, cũng như
những thiệt hại ẩn mà nếu không nhìn cận cảnh sẽ không thấy được ở Đà Lạt, tôi ấp ủ
sẽ làm một điều gì đó để ý thức ở mỗi người đối với môi trường sống của mình tốt hơn.
Nhưng bằng cách nào đây? Để tất cả mọi người cùng hiểu và hưởng ứng? Thiết nghĩ
trước tiên phải có một lực lượng tiên phong trong vấn đề này. Lực lượng này cần phải
là những người trẻ, năng động, nhiệt tình và sẵn sàng thử thách sức mình. Và nếu như
lực lượng tiên phong này có thể hiểu được vấn đề một cách sâu sắc, cặn kẽ, có năng lực
phân tích và đánh giá vấn đề, có khả năng đề ra những biện pháp hiệu quả và phương
hướng giải quyết thì tính khả thi trong việc thực hiện nội dung này càng cao. Và học
sinh sẽ là một lực lượng đáp ứng đủ tất cả những yếu tố trên. Nhưng với thời lượng 45
phút trong một tiết học, giáo viên lại là người đóng vai trò chủ đạo thì việc truyền thụ
một lượng kiến thức về BĐKH trong quá trình lồng ghép với nội dung đơn vị bài học

là điều vô cùng khó khăn và tính khả thi không cao trong thực tế. Chính vì vậy, với
những định hướng căn bản và súc tích của giáo viên, học sinh sẽ đóng vai trò là người


3

tự tìm hiểu, tự nghiên cứu dưới sự dẫn dắt và hỗ trợ của giáo viên và cuối cùng là đưa
ra một sản phẩm thể hiện kết quả quá trình tìm hiểu ấy. Cùng với sự có mặt của công
nghệ thông tin, làm việc nhóm, học sinh sẽ có cơ hội tốt nhất trong việc tự chiếm lĩnh
tri thức, hình thành những kĩ năng cần thiết của thế kỉ 21.
Bắt đầu từ suy nghĩ ấy, ý tưởng ấy, tôi đã chọn đề tài “VẬN DỤNG PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC THEO DỰ ÁN VÀO GIÁO DỤC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU CHO
HỌC SINH THPT QUA MÔN ĐỊA LÍ Ở THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT - TỈNH LÂM
ĐỒNG ”.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI.
2.1. Mục đích nghiên cứu đề tài.
Đối với đề tài này, sau khi thực hiện tôi mong mỏi nó sẽ là một phương tiện hữu
hiệu để giúp học sinh tiếp cận và có một phương thức mới trong con đường tiếp nhận
kiến thức, độc lập sáng tạo, phát huy thế mạnh cá nhân. Và phương pháp dạy học theo
dự án sẽ trở nên quen thuộc, gần gũi, thiết thực đối với người giáo viên, nhất là trong
vấn đề giáo dục BĐKH nói chung, và BĐKH ở Đà Lạt nói riêng qua môn Địa Lí. Dự
án tiến hành làm cho sự hiểu biết về BĐKH tại thành phố Đà Lạt sẽ rõ ràng, cụ thể hơn
đối với các em học sinh. Giúp học sinh Đà Lạt có nhận thức đúng đắn, cái nhìn thực tế
đối với nơi mình đang sinh sống.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
- Nêu được thực trạng BĐKH chung của trên thế giới, ở Việt Nam và đặc biệt làm rõ
thực trạng thay đổi khí hậu ở thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
- Chứng minh được Địa Lí là một trong những môn học rất quan trọng có khả năng để
giáo dục vấn đề BĐKH cho học sinh một cách sâu sắc và cụ thể.
- Trình bày những giải pháp thiết thực có thể mang lại hiệu quả cao đối với việc giáo

dục BĐKH tại thành phố Đà Lạt.


4

- Đưa ra cách vận dụng dạy học theo dự án vào giáo dục BĐKH cho học sinh THPT
qua môn Địa Lí.
- Xây dựng dự án chứng minh cho đề tài.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm để thấy được kết quả thực tế.
3. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
- Đề tài không đi sâu nghiên cứu vấn đề về phương pháp dạy học dựa trên dự án một
cách chi tiết và sâu sắc mà đi sâu vào khả năng ứng dụng PBL và những hiệu quả thiết
thực mà nó mang lại trong việc giáo dục BĐKH ở thành phố Đà Lạt thông qua kết quả
thực nghiệm từ thực tế.
- Trình bày những cách đánh giá, tiêu chí đánh giá học sinh khác với trước đây khi có
tính đến đánh giá thành phần, đánh giá tổng thể và việc hình thành những kĩ năng của
thế kỉ 21.
- Bằng cách vận dụng phương pháp dạy học theo dự án, bước đầu tìm hiểu khả năng
giáo dục BĐKH trong chương trình sách giáo khoa Địa lí ở bậc THPT.
- Đối tượng để tiến hành thực nghiệm ở đề tài này sẽ là các em học sinh lớp11và 12
trường THPT chuyên Thăng Long - thành phố Đà Lạt - .
4. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Phương pháp dạy học dự án đã được các nhà nghiên cứu lí luận giáo dục Việt Nam
tiếp cận và giới thiệu trong một số cuốn sách, luận văn, các tài liệu tập huấn cũng như
các bài báo. Ngoài ra phương pháp dạy học theo dự án còn được phổ biến và nhận
được sự quan tâm sâu sắc của các bạn sinh viên, các nghiên cứu sinh, cụ thể:
Phương pháp DHDA đã được trình bày trong giáo trình “Lí luận dạy học Địa lý đại
cương” và trong cuốn sách “Phương pháp dạy học địa lí theo hướng tích cực” của
PGS.TS. Đặng Văn Đức. Trong tài liệu Dạy học Project hay dạy học theo dự án và
một số tài liệu tập huấn về Lí luận giáo dục dạy học hiện đại các tác giả Nguyễn Văn

Cường và Bernd Meier đã đề cập khá rõ vấn đề DHDA.


5

Các tài liệu tập huấn của các dự án đào tạo kĩ năng cho giáo viên của Bộ Giáo Dục
và các tập đoàn lớn như: Chương trình dạy học Intel của tập đoàn Intel Việt Nam,
chương trình Partners in learning của tập đoàn Microsoft, dự án Việt – Bỉ áp dụng cho
17 tỉnh miền núi phía bắc…đã đề cập ở mức độ khác nhau đến DHDA. Các tài liệu này
tập trung bồi dưỡng kĩ năng và năng lực ứng dụng CNTT và thực hành áp dụng
phương pháp dự án vào quá trình dạy học.
Ngoài ra còn có một số đề tài luận văn tốt nghiệp cũng đã đi sâu tìm hiểu vấn đề
DHDA ví dụ như : Tổ chức dạy học dự án một số kiến thức chương chất rắn và chất
lỏng, sự chuyển thể trong SGK Vật lí 10 BCB (Nguyễn Thị Phương Dung); Vận dụng
phương pháp dự án trong dạy học tiếng việt 4 cho học sinh khá giỏi (Châu Thị Lan
Chi); Tổ chức dạy học dự án “sử dụng năng lượng mặt trời” cho học sinh lớp 11
(Nguyễn Cao Cường); Tổ chức DHDA các nội dung kiến thức chương “Mắt – các
dụng cụ quang học” trong SGK vật lí 11 (Trần Thị Hải); Tổ chức DHDA giáo dục vì
sự phát triển bền vững trong chương trình SGK Địa lí lớp 10 (Nguyễn Thị Thúy
Hường).
Trên các báo, tạp chí và kỷ yếu hội thảo khoa học đã xuất hiện một số bài viết về
DHDA, đáng chú ý là bài viết Sử dụng sơ đồ tư duy trong DHDA các nội dung kiến
thức chương từ trường môn Vật lí 9 của tác giả Trần Văn Thành; Vận dụng DHDA
trong ứng dụng kĩ thuật của Vật lí của Đỗ Hương Trà, Phạm Văn Ngọc; Sử dụng
phương pháp DHDA có ứng dụng CNTT ở trường phổ thông của tác giả Trần Thị
Thanh Thủy.
Riêng đối với vấn đề môi trường và BĐKH thì cũng đã có những đề tài thể hiện mối
quan tâm và bắt đầu manh nha đến việc tác động ý thức của con người như vận dụng
phương pháp dạy học dựa trên dự án vào việc giáo dục môi trường cho học sinh THPT
trong dạy học Địa Lí (Lê Thị Hương); hay tổ chức cho học sinh thực hiện các dự án về

biến đổi khí hậu với sự hỗ trợ của internet trong dạy học đỊa lý lớp 6 thcs (Hà Văn
Thắng). Điều đáng nói ở đây là trong thời gian qua vấn đề về BĐKH đã trở thành vấn
đề toàn cầu được đưa ra bàn thảo trên phạm vi toàn thế giới, chính vì vậy mà mối quan


6

tâm và sự hiểu biết của xã hội cũng đã phần nào được tác động. Bản thân sinh viên
khoa Địa Lí nói riêng và sinh viên trường Đại Học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh
nói chung, trong khoảng thời gian 1 năm qua đã có điều kiện để tìm hiểu sâu sắc hơn
vấn đề này thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học. Các bài viết như: BĐKH và đa
dạng sinh học (sinh viên Trần Văn Thương, K35), ảnh hưởng của BĐKH đối với
KTXH vùng ngọt hóa Gò Công – Tiền Giang (sinh viên Ngô Vũ Hoàng K33a), nỗ lực
và giải pháp cứu Trái Đất trước hiểm họa BĐKH – cái nhìn từ sinh viên (sinh viên
Dương Quang Phú, K34a),…đã thể hiện được thực tế đó.
Giáo dục BĐKH hiện nay là một vấn đề đang nhận được sự quan tâm sâu sắc của
chính phủ, các ban ngành lãnh đạo, vì khí hậu biến đổi đang tác động trực tiếp đến
cuộc sống mỗi cá nhân, nhất là khi Việt Nam trở thành một trong những quốc gia gánh
chịu hậu quả BĐKH lớn nhất. Tuy chỉ mới ở mức độ tiếp cận và học hỏi nhưng những
bài viết và các bài khóa luận tốt nghiệp đã thể hiện một cách cụ thể cái nhìn của chính
mỗi tác giả về vấn đề DHDA, cũng từ đó các tác giả đã thể hiện tính thực tiễn của
DHDA trong thực tế giáo dục. Hơn thế nữa, thông qua chương trình DHDA mà bài học
về BĐKH cũng được đề cập đến ở một mức độ nhất định.
Dẫu thế, dù cho tới nay có rất nhiều các tác giả có đề tài nói về DHDA, về BĐKH
nhưng trên thực tế thì chỉ mới có đề tài của Thầy Hà Văn Thắng có vận dụng DHDA
vào giáo dục BĐKH. Tuy nhiên, nó chỉ dừng lại ở mức độ là học sinh cấp II và chưa có
một phạm vi lãnh thổ nhất định. Ngoài ra, vẫn chưa có một đề tài nào kết hợp vận dụng
DHDA vào GDBĐKH ở một địa phương cụ thể, một phạm vi cụ thể đối với học sinh
trung học phổ thông.
Vì những lí do trên, đề tài” VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO DỰ ÁN

VÀO GIÁO DỤC VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU CHO HỌC SINH THPT Ở
THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT – TỈNH LÂM ĐỒNG” là một vấn đề tương đối mới mẻ và
mang tính hấp dẫn mà bản thân tôi muốn thực hiện.



7

5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Phương pháp sưu tầm - tổng hợp tài liệu
Phương pháp này được vận dụng nhiều nhất và hiệu quả nhất trong quá trình tìm kiếm
thông tin về BĐKH, thu thập và xử lí chúng từ các nguồn tài nguyên khác nhau: tạp
chí, sách báo, intenet, thực tế, …. để làm tư liệu cho đề tài.
5.2. Phương pháp so sánh
Sử dụng phương pháp này nhằm mục đích chỉ ra những tính năng nổi bật và sự vượt
trội của phương pháp dạy học dựa trên dự án trong nội dung BĐKH. Khi sử dụng
phương pháp này, sẽ chứng minh được ưu điểm và hiệu quả thực sự được kiểm chứng
qua quá trình thực nghiệm của việc giáo dục bằng phương pháp dạy học dựa trên dự án
so với các phương pháp khác. Lý giải được một cách thuyết phục vì sao phương pháp
dạy học dựa trên dự án trở thành lựa chọn số một trong GDBĐKH thành phố Đà Lạt.
5.3. Phương pháp thực nghiệm
Đây là phương pháp quan trọng nhất, khẳng định sự thành công hay thất bại của đề tài
thông qua những gì học sinh nắm bắt được, học hỏi thêm và thành phẩm các em tạo ra.
.Kết quả sản phẩm của học sinh sẽ kiểm chứng, bổ sung, chỉnh sửa cho phần lý thuyết
đã xây dựng từ trước đó.
5.4. Phương pháp phân tích hoạt động
Phương pháp này có thể được vận dụng trước và sau khi học sinh kết thúc dự án.
Trước khi tiến hành dự án, giáo viên có thể phân tích một sản phẩm của hoạt động
trước đây làm tiền đề để dẫn nhập vào dự án, làm nổi bật được những ưu điểm của sản
phẩm đó và hiệu quả các em học sinh đạt được trong quá trình làm dự án để kích thích

tính tò mò và lòng nhiệt tình ở các em.
Phương pháp này sẽ được sử dụng một cách sâu sắc, triệt để khi các em học sinh cho
ra thành phẩm cuối dự án. Giáo viên sẽ phân tích kết quả hoạt động thông qua sản
phẩm các em làm ra để học sinh thấy rõ được cái mình đã đạt được sau khi dự án hoàn


8

tất và cái cần hoàn thiện. Quan trọng nhất có lẽ vẫn là thêm một lần nữa giáo viên có
điều kiện nhấn mạnh đến mục đích của dự án, hướng các em tiếp cận với những gì thực
tế nhất và gợi mở cho các em học sinh tiếp tục tìm hiểu vấn đề cũng như định hướng
cho những hành động đúng đắn và thân thiện với môi trường sống của các em.
5.5. Phương pháp tích hợp công nghệ - thông tin
Thực hiện đề tài vận dụng PBL vào giáo dục không thể không nói tới sự tích hợp
công nghệ thông tin, bởi PBL luôn song hành cùng nó. Giả sử không có công nghệ
thông tin thì tôi vẫn hoàn toàn có thể tiến hành dự án, song công nghệ thông tin thực sự
giúp bản thân tôi và học sinh rất nhiều trong quá trình thực hiện, nếu không có sự góp
mặt của công nghệ thông tin có lẽ dự án của tôi tiến hành sẽ kém sâu sắc hơn, đặc biệt
là hình thức trình bày và sự đa chiều về tài liệu sẽ bị hạn. Phải khẳng định rằng công
nghệ thông tin là điều kiện cần thiết để tiến hành dự án này.
Còn đối với học sinh, khi các em tiến hành thực hiện dự án thì công nghệ thông tin hỗ
trợ tích cực và trở thành một tiêu chí đánh giá trong quá trình làm dự án.














9

PHẦN HAI:NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Biến đổi khí hậu và giải pháp ứng phó
1.1.1. Khái niệm về BĐKH
Trước tiên, ta cần hiểu khái niệm khí hậu là gì? Khí hậu là mức độ trung bình của
thời tiết trong một khoảng thời gian và không gian nhất định. Trong vòng 1.000 năm
qua, nhiệt độ bề mặt trái đất có tăng, giảm không đáng kể và có thể nói là ổn định. Thế
nhưng trong vòng 200 năm trở lại đây, đặc biệt là trong mấy chục năm vừa qua khi
công nghiệp hoá phát triển, nhân loại bắt đầu khai thác than đá, dầu lửa, sử dụng các
nhiên liệu hoá thạch Cùng với các hoạt động công nghiệp tăng lên, con người bắt
đầu thải vào bầu khí quyển một lượng khí CO
2
, nitơ ôxít, mêtan khiến cho nhiệt độ
bề mặt trái đất nóng lên.
Hầu hết giới khoa học đều công nhận BĐKH là do nồng độ của khí hiệu ứng nhà
kính tăng lên trong khí quyển ở mức độ cao. Bản thân nó đã làm cho Trái đất ấm lên,
nhiệt độ bề mặt trái đất nóng lên, nhiệt độ nóng lên này đã tạo ra các biến đổi trong các
vấn đề thời tiết hiện nay.
Theo báo cáo mới nhất của Liên hiệp quốc, nguyên nhân của hiện tượng BĐKH
90% do con người gây ra, 10% là do tự nhiên.
BĐKH là một khái niệm không mới nhưng chỉ thật sự được biết khá rộng rãi, liên
ngành chỉ trong thời gian gần đây khi mà các cá nhân, tổ chức liên minh thế giới nhận
thấy hậu quả ghê gớm của nó và có những cuộc họp lớn bàn bạc về vấn đề này. Chúng

ta có thể hiểu khái niệm này như sau:
" BĐKH trái đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thuỷ quyển, sinh
quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự nhiên và nhân
tạo trong một giai đoạn nhất định từ tính bằng thập kỉ hay hàng triệu năm. Sự biển đổi
có thế là thay đổi thời tiết bình quân hay thay đổi sự phân bố các sự kiện thời tiết
quanh một mức trung bình. Sự BĐKH có thế giới hạn trong một vùng nhất định hay có


10

thế xuất hiện trên toàn Địa Cầu. (nguồn: , ngoài ra khái niệm
này còn được thể hiện thông qua trang 63 của cuốn “nóng, phẳng, chật” Thomas
L.Friedman).
1.1.2. Nguyên nhân BĐKH
Nguyên nhân làm cho khí hậu thay đổi được xác định một phần đến từ tự nhiên
nhưng chủ yếu vẫn do con người (tới 90%), cụ thể:
Khí hậu trái đất thường xuyên thay đổi trong quá trình lịch sử địa chất, sau một chu
kì nóng lại là một chu kì lạnh đi có tên là chu kì băng hà. Hiện nay, chúng ta đang sống
trong chu kỳ nóng lên của Trái Đất, bắt đầu khoảng 10000 năm trước đây. Nguyên
nhân của các thay đổi lớn của khí hậu bao gồm: Thay đổi vị trí của trái đất so với mặt
trời, thay đổi cường độ hoạt động của mặt trời, sự gia tăng hoạt động của tro bụi và hơi
nước.
Tuy nhiên, kể từ thời kỳ tiền công nghiệp (khoảng từ năm 1750), con người đã sử
dụng ngày càng nhiều năng lượng, chủ yếu từ các nguồn nguyên liệu hóa thạch (than,
dầu, khí đốt), qua đó đã thải vào khí quyển ngày càng tăng các chất khí gây hiệu ứng
nhà kính của khí quyển, dẫn đến tăng nhiệt độ của trái đất. Việc tăng khí nhà kính sẽ
làm tăng hiệu ứng nhà kính, phá vỡ cân bằng nhiệt, làm tăng nhiệt độ khí quyển trái đất
và kèm theo đó là làm biến đổi một loạt những đặc trưng khí hậu khác.
1.1.3. Biểu hiện của BĐKH
Đó là sự nóng lên và cả lạnh đi ở một số nơi nhưng nhìn chung là có sự nóng lên của

khí quyển và trái đất nói chung.
Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống của con
người và các sinh vật trên trái đất.
Sự dâng cao mực nước biển do tan băng dẫn tới sự ngập úng của các vùng đất thấp, các
đảo nhỏ trên biển.


11

Sự di chuyển bất thường của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng khác
nhau của trái đất dẫn tới nguy cơ đe doạ sự sống của các loài sinh vật, các hệ sinh thái
và hoạt động của con người.
Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần hoàn
nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hoá khác.
Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của thuỷ
quyển, sinh quyển, các địa quyển.
1.1.4. Hậu quả của BĐKH
Trái đất nóng lên là hậu quả của một quá trình tích lũy lâu dài của khí nhà kính, chủ
yếu là CO2 và metan. Những khí này khi được thải vào bầu khí quyển sẽ "nhốt” hơi
nóng của ánh mặt trời bên trong bầu khí quyển, vì vậy làm cho nhiệt độ trái đất tăng
lên.
Khi nói đến hiện tượng trái đất nóng lên, ta không nói đến việc nhiệt độ mùa hè năm
nay nóng hơn năm ngoái, mà ta nói về BĐKH, những thay đổi lớn làm ảnh hưởng đến
môi trường sống, bầu khí quyển và khí hậu nói chung. BĐKH làm ảnh hưởng đến các
hệ sinh thái trên trái đất và tác động trực tiếp đời sống hàng ngày của con người.
1.1.4.1. Các hiện tượng tự nhiên thay đổi khác thường
Mực nước biển đang dâng lên: Nhiệt độ ngày càng cao trên trái đất khiến mực
nước biển đang dần dâng lên. Nhiệt độ tăng làm các sông băng, biển băng hay lục địa
băng trên trái đất tan chảy và làm tăng lượng nước đổ vào các biển và đại dương. Các
nhà khoa học đã tiến hành quan sát, đo đạc và nhận thấy rằng băng ở đảo băng

Greenland đã mất đi một số lượng lớn, gây ảnh hưởng trực tiếp đến các đảo quốc hay
các quốc gia nằm ven biển. Theo ước tính, nếu băng tiếp tục tan thì nước biển sẽ dâng
thêm ít nhất 6m nữa vào năm 2100. Với mức này, phần lớn các đảo của Indonesia, và
nhiều thành phố ven biển khác sẽ hoàn toàn biến mất.
Các núi băng và sông băng đang teo nhỏ: Không cần tới những thiết bị đặc biệt để
thấy rằng các sông băng và núi băng trên thế giới đang nhỏ dần. Những lãnh nguyên


12

bao la từng được bao phủ bởi một lớp băng vĩnh cữu rất dày giờ đây được cây cối bao
phủ.
Lấy một ví dụ như các núi băng ở dãy Hy Mã Lạp Sơn cung cấp nước ngọt cho sông
Hằng – nguồn nước uống và canh tác của khoảng 500 triệu người – đang co lại khoảng
37m mỗi năm.
Những đợt nắng nóng gay gắt: Đợt nắng nóng quét qua Châu Âu hồi năm 2003 đã
làm thiệt mạng khoảng 35 ngàn người. Đó thật sự là dấu hiệu đáng báo động của
những thay đổi ngày càng tồi tệ của khí hậu. Các đợt nắng nóng khủng khiếp đang diễn
ra thường xuyên hơn gấp khoảng 4 lần so với trước đây, và dự đoán trong vòng 40 năm
tới, mức độ thường xuyên của chúng sẽ gấp 100 lần so với hiện nay.
Bão lụt: Chưa cần đến những thiết bị hiện đại cũng thấy được những cơn bão khốc
liệt đang ngày một nhiều hơn. Trong vòng chỉ 30 năm qua, số lượng những cơn giông
bão cấp độ mạnh đã tăng gần gấp đôi. Chỉ riêng ở Mỹ, trong vòng 100 năm qua (từ
1905 đến 2005), số lượng những cơn bão mạnh đã tăng không ngừng. Nếu từ 1905 –
1930 chỉ có khoảng trung bình 3,5 cơn/năm thì con số này là 5,1 trong khoảng 1931-
1994, và lên đến 8,4 từ 1995-2005, ở Việt Nam theo thống kê trong 45 năm gần đây có
395 trận bão trong khu vực biển Đông có ảnh hưởng đến thời tiết nước ta, như vậy
trung bình mỗi năm có gần 8,8 cơn bão. Mức độ thiệt hại về sinh mạng và vật chất do
các cơn bão và các trận lụt lội gây ra cũng đang ở mức kỷ lục.
Hạn hán: Một số nơi trên thế giới hứng chịu những đợt hạn hán khốc liệt kéo dài.

Hạn hán làm cạn kiệt nguồn nước sinh hoạt và tưới tiêu, gây ảnh hưởng nghiêm trọng
đến nền nông nghiệp của nhiều nước. Các vùng như Ấn Độ, Pakistan, và Châu Phi
hứng chịu những đợt hạn hán, lượng mưa ở các khu vực này ngày càng thấp, và tình
trạng này còn tiếp tục kéo dài trong vài thập kỷ tới. Theo ước tính, đến năm 2020, sẽ có
khoảng 75 triệu đến 250 triệu người dân châu Phi thiếu nguồn nước sinh hoạt và canh
tác, dẫn đến sản lượng nông nghiệp của lục địa này sẽ giảm khoảng 50%.
(nguồn:


13

1.1.4.2. Hệ quả bất lợi cho con người
Dịch bệnh: Nhiệt độ tăng cùng với lũ lụt và hạn hán đã tạo điều kiện thuận lợi cho
các con vật truyền nhiễm như muỗi, ve, chuột,… sinh sôi nảy nở, truyền nhiễm bệnh
gây nguy hại đến sức khỏe của nhiều bộ phận dân số trên thế giới. Tổ chức WHO đưa
ra báo cáo rằng các dịch bệnh nguy hiểm đang lan tràn ở nhiều nơi trên thế giới hơn
bao giờ hết. Những vùng trước kia có khí hậu lạnh giờ đây cũng xuất hiện các loại
bệnh nhiệt đới. Hàng năm có khoảng 150 ngàn người chết do các bệnh có liên quan
đến BĐKH, từ bệnh tim do nhiệt độ tăng quá cao, đến các vấn đề hô hấp và tiêu chảy.
Các tác hại đến kinh tế: Các thiệt hại về kinh tế do BĐKH gây ra cũng ngày càng
tăng theo nhiệt độ trái đất. Các cơn bão lớn làm mùa màng thất bát, tiêu phí nhiều tỉ đô
la; ngoài ra, để khống chế dịch bệnh phát tán sau mỗi cơn bão lũ cũng cần một số tiền
khổng lồ. Khí hậu càng khắc nghiệt càng làm thâm hụt các nền kinh tế (trong đợt bão
hồi năm 2005, bang Louisiana (Mỹ) bị thiệt hại đến 135 tỉ đô la, và trong mấy tháng
tiếp theo, thu nhập của toàn bang giảm đến 15%). Ở Việt Nam chúng ta theo Báo cáo
phát triển con người 2007/2008 của ông Christophe Bahuet cảnh báo rằng nếu nhiệt độ
tăng lên 3
0
C - 4
0

C và nước biển dâng lên khoảng 1 m, VN sẽ có khoảng 22 triệu người
bị mất nhà cửa.Các tổn thất về kinh tế ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống. Người dân
phải chịu cảnh giá cả thực phẩm và nhiên liệu leo thang, các chính phủ phải đối mặt
với việc lợi nhuận từ các ngành du lịch và công nghiệp giảm sút đáng kể, nhu cầu thực
phẩm và nước sạch của người dân sau mỗi đợt bão lũ rất cấp thiết, chi phí khổng lồ để
dọn dẹp đống đổ nát sau bão lũ, và các căng thẳng về đường biên giới.
Chiến tranh và xung đột: Lương thực và nước ngọt ngày càng khan hiếm, đất đai
dần biến mất nhưng dân số cứ tiếp tục tăng, đây là những yếu tố gây xung đột và chiến
tranh giữa các nước và vùng lãnh thổ. Do nhiệt độ trái đất nóng lên và BĐKH theo
chiều hướng xấu đã dần làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Một cuộc xung
đột điển hình do BĐKH là ở Darfur (Sudan). Xung đột ở đây nổ ra trong thời gian một
đợt hạn hán kéo dài, suốt 20 năm vùng này chỉ có một lượng mưa nhỏ giọt và thậm chí
nhiều năm không có mưa, làm nhiệt độ vì thế càng tăng cao.


14

Theo phân tích của các chuyên gia, các quốc gia thường xuyên bị khan hiếm nước và
mùa màng thất bát thường rất bất ổn về an ninh.
Mất đa dạng sinh học: Nhiệt độ trái đất hiện nay đang làm cho các loài sinh vật
biến mất hoặc có nguy cơ tuyệt chủng. Khoảng 50% các loài động thực vật sẽ đối mặt
với nguy cơ tuyệt chủng vào năm 2050 nếu nhiệt độ trái đất tăng thêm từ 1,1 đến 6,4
độ C nữa. Sự mất mát này là do mất môi trường sống vì đất bị hoang hóa, do nạn phá
rừng và do nước biển ấm lên. Các nhà sinh vật học nhận thấy đã có một số loài động
vật di cư đến vùng cực để tìm môi trường sống có nhiệt độ phù hợp. Ví dụ như là loài
cáo đỏ, trước đây chúng thường sống ở Bắc Mỹ thì nay đã chuyển lên vùng Bắc cực.
Và dĩ nhiên con người cũng không nằm ngoài tầm ảnh hưởng. Tình trạng đất hoang
hóa và mực nước biển đang dâng lên cũng đe dọa đến nơi cư trú của chúng ta. Và khi
cây cỏ và động vật bị mất đi cũng đồng nghĩa với việc nguồn lương thực, nhiên liệu và
thu nhập của chúng ta cũng mất đi.

Nông nghiệp và an toàn lương thực: BĐKH ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông
nghiệp và qua đó lương thực cho nhân loại. Kết quả là nạn đói ngày càng trầm trọng,
sản lượng và nguồn cung cấp lương thực bị đe dọa, một lượng lớn dân số trên trái đất
đang và sẽ chịu cảnh đói khát. Trái đất nóng lên sẽ tác động mạnh mẽ hơn đến những
vùng có khí hậu nhiệt đới hay những vùng hiện nay đất đai đã bị khô (phần lớn là các
nước nghèo châu Phi, châu Á…) các sa mạc sẽ được mở trên diện rộng, đồng thời mực
nước biển dâng do băng tan chảy sẽ nhấn chìm những vùng đất duyên hải, khiến một
diện tích lớn đất nông nghiệp bị mất. BĐKH không chỉ thu hẹp đất canh tác mà còn
làm suy giảm năng suất nông nghiệp.
1.1.5. Giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu
BĐKH gây ra những hậu quả nặng nề với sự phát triển KT – XH với tất cả các nước
và khu vực. Trong cuộc chiến với BĐKH không một ai có thể đứng ngoài cuộc. Để
giảm nhẹ những thiệt hại nặng nề do BĐKH gây ra người ta nghiên cứu áp dụng tổng
hợp các biện pháp hướng tới sống chung với BĐKH với nhận thức BĐKH là một quá


15

trình không thể đảo ngược. Chúng ta chỉ có thể giảm nhẹ chúng và nỗ lực thích ứng với
chúng.
Tác động của BĐKH giống như một lỗ nhỏ trên con đê. Nếu chúng ta phát hiện sớm
và sữa chữa kịp thời thì lỗ hỏng được lấp lại, với chi phí và thiệt hại là rất nhỏ; ngược
lại đợi cho đến khi lổ hỏng lớn hơn và đê yếu đi thì các chi phí và thiệt hại lớn. BĐKH
cũng tương tự, cần sớm thích nghi để tránh được rất nhiều tác động tiêu cực. Vì vậy
hướng đi chính hiện nay là nghiên cứu áp dụng những biện pháp phù hợp với tình hình
và khả năng của mỗi đối tượng, mỗi ngành, mỗi cộng đồng trong từng thời điểm sao
cho giảm được sự tổn thương do BĐKH.
Hiện tại, có hai giải pháp mà người ta đưa ra cho vấn đề BĐKH đó là:
Giảm nhẹ – giảm phát thải khí nhà kính bằng những cam kết có thực của các quốc gia.
Thích ứng – tác động tiêu cực của các yếu tố khí hậu được giảm xuống bằng các biện

pháp giảm thiểu những mặt trái của chúng, cần phải thích nghi, sống chung với BĐKH
1.2. Tiền đề và vấn đề giáo dục BĐKH
1.2.1. Tiền đề cho vấn đề GDBĐKH - Hội nghị thế giới về BĐKH -
Cho tới nay không ai còn phủ nhận BĐKH và những hậu quả mà nó gây ra. Chính vì
vậy, trên thế giới đã diễn ra những cuộc họp tầm cỡ quốc tế để bàn thảo và thống nhất
biện pháp hạn chế và thích nghi với BĐKH. Đây chính là cơ sở cho các quốc gia đề ra
chương trình GDBĐKH một cách rộng rãi và cấp thiết. Vấn đề nói trên có thể nói tóm
gọn trong các cuộc họp sau :
Đầu tiên, đó là các quốc gia trên thế giới đã họp tại New York ngày 9/5/1992 và đã
thông qua Công ước Khung về BĐKH của Liên Hợp Quốc. Mục đích cuối cùng là ổn
định các nồng độ khí nhà kính trong khí quyển ở mức có thể ngăn ngừa được sự can
thiệp nguy hiểm của con người đối với hệ thống khí hậu.
Tiếp đó Nghị định thư Kyoto được tổ chức vào năm 1997 tại Kyoto – Nhật Bản
Đến tháng 11 năm 2007 đã có 175 nước và đại diện chính phủ các nước tham gia kí kết


16

đã có đủ 55 quốc gia tham gia kí kết và lượng khí thải của các nước này phải chiếm ít
nhất 55% lượng carbon dioxide do các nước các nước phát triển tham gia kí kết Kyoto
thải ra vào năm 1990.
Sau đó là thông qua cuộc họp giữa các nhà lãnh đạo khu vực Thái Bình Dương đã
diễn ra vào ngày 04/08/2009 tại thành phố Cairns nằm ở phía Đông Bắc nước Úc. Diễn
đàn kết thúc vào tối 6/8/2009 và một bản tuyên bố mới về vấn đề thay đổi khí hậu đã
được đưa ra. Bản tuyên bố kêu gọi các nhà lãnh đạo thế giới đưa ra các giải pháp cụ thể
và thực tế để hỗ trợ những quốc gia đang có nguy cơ biến mất vì nạn thay đổi thời tiết.
Cuộc họp thứ ba đó là Hội nghị về BĐKH tại Copenhagen (Đan Mạch) diễn ra vào
ngày 7-18/12/2009. Mục đích lớn nhất của hội nghị này là cho ra đời một thỏa thuận
khung toàn cầu về vấn đề khí thải cácbon điôxít (CO2), gây hiệu ứng nhà kính để thay
thế cho Nghị định thư Kyoto sẽ hết hạn vào năm 2012. Các nước phát triển đồng ý sẽ

cắt giảm đáng kể lượng khí thải CO2 từ nay đến năm 2020, trong khi các nước đang
phát triển sẽ hạn chế tốc độ gia tăng loại khí thải. Trung Quốc và Ấn Độ đều đã bắt
đầu thảo luận một cách nghiêm túc về các cam kết quốc gia, nhưng họ chưa sẵn sàng
cam kết tuân thủ các mục tiêu quốc tế. Tuy nhiên, cuối cùng thì ngay trước thềm hội
nghị Copenhagen thì Mỹ, Ấn Độ và Trung Quốc, ba nước phát thải lượng khí thải gây
hiệu ứng nhà kính lớn nhất thế giới, lần lượt công bố mục tiêu cắt giảm mạnh lượng
khí CO2 mặc dù kết quả vẫn không được như mong đợi ban đầu.
Sau cuộc họp lớn ở Copenhagen, Đan Mạch, ngày 29-11-2010 gần 200 nước có mặt
ở hội nghị BĐKH Cancun, Mexico. Các bên tham gia nhắm đến mục tiêu là có thể đi
đến đạt được một thoả thuận ràng buộc thay cho Nghị định thư Kyoto sẽ hết hạn hiệu
lực vào năm 2012 tới. Và kết thúc hội nghị, đại diện của 200 quốc gia tham dự Hội
nghị Liên hiệp quốc về BĐKH tại COP16 đã đạt được thỏa thuận về những bước đi
khiêm tốn trong cuộc chiến chống lại xu thế nóng lên của trái đất, bao gồm việc lập
một quỹ mới giúp đỡ các nước nghèo. Thỏa thuận đạt được trong ngày họp thứ 13 về
một kế hoạch thành lập Quỹ Khí hậu Xanh (Green Climate Fund) để xúc tiến những


17

biện pháp bảo vệ rừng mưa nhiệt đới, những cách thức chia sẻ công nghệ năng lượng
sạch giữa các quốc gia và giúp các nước đang phát triển thích nghi với sự BĐKH.
Hội nghị cuối cùng diễn ra vào chiều 5/4/2011, Hội nghị khung về BĐKH lần thứ 2
chính thức khai mạc tại Bangkok, Thái Lan để thảo luận về các mục tiêu cắt giảm khí
thải và đưa ra các kế hoạch hỗ trợ tài chính cho các nước nghèo trong vấn đề BĐKH.
LHQ cho biết, có khoảng hơn 2.270 đại biểu của 175 quốc gia tham dự Hội nghị, trong
đó 1.417 là quan chức Chính phủ. Cản trở lớn nhất để có thể ra đời một hiệp ước mới
về BĐKH là khi các quốc gia phê chuẩn Nghị định thư Kyoto phải cắt giảm lượng khí
phát thải trong một nỗ lực chung nhằm làm giảm độ nóng lên của Trái đất thì, Mỹ và
Trung Quốc, 2 cường quốc có lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính cao nhất thế giới,
lại vẫn đứng ngoài cuộc. (Thông tin chi tiết tại phụ lục 7).

Thực tế trên là cơ sở tiến hành cho vấn đề GDBĐKH trong xã hội ở các khu vực và
quốc gia trên thế giới, từ đó phổ cập ở quy mô nhỏ hơn là tỉnh thành và cuối cùng là
trường lớp cho đối tượng cụ thể là các em học sinh.
1.2.2. Giáo dục BĐKH tại Việt Nam
Ở Việt Nam, quá trình giáo dục về BĐKH bước đầu cũng đã có những hoạt động
thiết thực. Đó là sự kết hợp giữa các tổ chức phi chính phủ trên thế giới và Bộ Giáo dục
Đào tạo nhằm chia sẻ kinh nghiệm và tăng cường hợp tác trong giáo dục về BĐKH tại
Việt Nam, mặt khác là để lồng ghép giáo dục về BĐKH và giảm nhẹ thiên tai vào
chương trình dạy và học tại Việt Nam. Những buổi hội thảo ấy đã lấy tầng lớp thanh
niên, trẻ em làm đối tượng chính nhằm thúc đẩy giới trẻ hiểu, thay đổi ý thức và hành
động vì sự phát triển bền vững.
Ngoài ra trung tâm Hành động vì đô thị đã giới thiệu cách thức thay đổi hành vi của
người dân đô thị. Mạng lưới bắt đầu ở Hà Nội, Đà Nẵng và TPHCM, đến nay đã lan
tỏa ra 12 tỉnh thành trên toàn quốc với hơn 50 câu lạc bộ môi trường. Đồng thời, thông
qua những kinh nghiệm này có thể lôi kéo được sự ủng hộ và hợp tác từ các tổ chức


18

Hơn thế nữa còn có các hoạt động phổ cập kiến thức BĐKH luôn được nhắc tới
một cách thường xuyên và rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng và những
hình thức khác nhau. Hiện nay, GDBĐKH là chủ đề thu hút được rất nhiều sự quan
tâm, của các nhà nghiên cứu và quản lý giáo dục. Trong các hội thảo quốc gia và quốc
tế về GDBĐKH tổ chức tại trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội có hàng trăm báo cáo của
các chuyên gia về BĐKH, chuyên gia giáo dục trong nước và ngoài nước, các báo cáo
này tập trung làm rõ những vấn đề như :những kiến thức về khí hậu, ý nghĩa và tầm
quan trọng của GDBĐKH cho cộng đồng nói chung và các trường học nói riêng, các
phương pháp và cách thức GDBĐKH trong nhà trường phổ thông, sử dụng phương
pháp DHDA, tổ chức các hoạt động ngoại khóa giáo dục về BĐKH, các công cụ sử
dụng để GDBĐKH.

Như vậy ta thấy rằng, hoạt động GDBĐKH tại Việt Nam đã bắt đầu có sự “khuấy
động”. Các hoạt động ấy đã và sẽ giúp cho mọi tầng lớp, mà đặc biệt là giới trẻ, có
được những thông tin cần thiết nhất về BĐKH, có nhận thức đúng đắn và hành động
thiết thực thân thiện với môi trường. (thông tin chi tiết và cụ thể có thể tham khảo phục
lục 8).
1.2.3. Giáo dục BĐKH trong nhà trường phổ thông
BĐKH đã trở thành một trong những nguy cơ và thách thức lớn nhất của thời đại
chúng ta. Hơn thế, Việt Nam là một trong 5 quốc gia bị đe dọa và sẽ chịu những hậu
quả nặng nề nhất khi mực nước biển không ngừng tăng lên. Chính vì lẽ đó nhận thức
được sâu sắc vấn đề BĐKH (nguyên nhân, hậu quả và giải pháp ứng phó) là hết sức
cần thiết đối với tất cả mọi người, mọi lứa tuổi, mọi thành phần dân cư…để có các
hành động cụ thể thích ứng với BĐKH toàn cầu. Nhà trường phổ thông với sứ mệnh
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; với mạng lưới rộng khắp đất
nước, với hệ thống chương trình, nội dung, kế hoạch và phương pháp giáo dục; với đội
ngũ hùng hậu của những người làm công tác giáo dục đóng một vai trò to lớn và có
tầm ảnh hưởng sâu rộng đến việc nâng cao nhận thức về BĐKH cho học sinh.


19

Giáo dục trong nhà trường đóng vai trò quyết định đối với việc hình thành tư cách
công dân, cách ứng xử đối với xã hội, đối với môi trường, trong đó có cách ứng xử
trước hiện tượng BĐKH của mỗi cá nhân. Một khi học sinh có được những hiểu biết về
hiện tượng BĐKH, nguyên nhân cũng như tác động trực tiếp của nó đối với cuộc sống
của người dân, với sự tồn vong của đất nước, nhân loại, thì trong mọi hành động các
em sẽ cân nhắc để hạn chế nguy cơ dẫn đến BĐKH, chọn lối sống thân thiện với môi
trường. Giáo dục là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất, kinh tế nhất và có tính
bền vững trong các biện pháp để thực hiện mục tiêu bảo vệ môi trường cũng như mục
tiêu của giáo dục về BĐKH.
Việt Nam đã có chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH và đang được

triển khai sâu rộng. Tuy nhiên chúng ta lại còn thiếu các chương trình giáo dục phổ
thông có tính chất lượng và tác động mạnh đến học sinh về BĐKH. GDBĐKH là một
bộ phận của giáo dục phát triển bền vững, chính vì vậy giáo dục về BĐKH vì sự phát
triển bền vững được xem là mục tiêu cao nhất. GDBĐKH không đơn thuần là dạy học
về BĐKH mà thông qua các hoạt động đa dạng của mình phát triển ở người học nhận
thức và năng lực ứng phó với BĐKH, đồng thời giúp cho người học có được những
hành vi thái độ bảo vệ theo những định hướng cơ bản của giáo dục phát triển bền vững.
Giáo dục BĐKH không nên và không cần thiết làm cho người học hoảng sợ, bi quan về
tương lai với những rủi ro và tác động tiêu cực của BĐKH mà cần thiết phải giúp cho
học sinh vững tin về triển vọng tốt đẹp của bảo vệ khí hậu và thích ứng thành công với
BĐKH trong tương lai. Trước thực trạng hiện tại về chương trình GDBĐKH đối với
trường THPT nên thiết nghĩ chương trình GDBĐKH được hoàn chỉnh năm 2013 cần
những mục tiêu là:
Giúp người học quan tâm đến vấn đề bảo vệ khí hậu, hiểu rõ nguyên nhân, hậu
quả của BĐKH: Những nguyên nhân của BĐKH do con người gây ra, liên quan đến
các hoạt động của con người, nên nguyên nhân và hậu quả của BĐKH cần được xác
định và làm sáng tỏ. Chương trình GDBĐKH giúp cho người học nhận dạng và hiểu rõ


20

các nguyên nhân của BĐKH cũng như những khả năng tổn thương mà cá nhân hay
cộng đồng sẽ phải gánh chịu khi BĐKH xảy ra nhằm hạn chế, giảm thiểu với nó.
Giúp người học tiếp cận được với những giải pháp bảo vệ và ứng phó với
BĐKH toàn cầu đặc biệt tại địa phương: Không nên chỉ dừng lại ở việc tiếp cận và
định hướng nguyên nhân và hậu quả, thông qua các hoạt động đa dạng của mình,
GDBĐKH cần chia sẻ, chuyển giao, cung cấp những giải pháp hữu hiệu để bảo vệ và
ứng phó với BĐKH. Đó là các giải pháp: Sử dụng hiệu quả năng lượng, sử dụng năng
lượng tái sinh, tạo ra sự thay đổi trong lối sống, sinh hoạt…
GDBĐKH cần được đổi mới và chuyển hóa theo những định hướng cơ bản sau đây:

Phát triển năng lực hành động: Phát triển năng lực hành động ứng phó với BĐKH
chứ không đơn giản là kiến thức, kĩ năng liên quan đến BĐKH, đó mới là mục tiêu
đích thực của GDBĐKH. Mục tiêu này sẽ đạt được nếu coi trọng yếu tố động cơ, niềm
tin cá nhân trong việc hình thành năng lực hành động và được thiết kế, triển khai thực
hiện bằng tiếp cận liên môn nhằm làm cho việc học tập trở nên sống động hơn, cụ thể
hơn và người học có nhiều cơ hội để trải nghiệm và tiếp cận nhiều hơn với thực tiễn
sinh động của cuộc sống.
Thay đổi hành vi – thái độ: Đây được xem là nội dung và mục tiêu hàng đầu của
GDBĐKH. Sự thay đổi trong kiến thức, kĩ năng cần phải dẫn tới sự thay đổi hành vi –
thái độ của người học theo những định hướng của phát triển bền vững. GDBĐKH sẽ
thành công khi làm cho cá nhân và cộng đồng quan tâm hơn đến vấn đề BĐKH, có
những hành vi và thái độ tích cực để bảo vệ khí hậu và sẵn sàng ứng phó với những
thách thức của BĐKH.
Tăng cường các giá trị và sáng tạo: Trở thành công dân toàn cầu, quan tâm đến
các cộng đồng dân cư bị thiệt thòi do BĐKH, tích cực tuyên truyền và thực hiện bảo vệ
khí hậu, thân thiện và làm bạn với môi trường…được xem là những giá trị cần được
khuyến khích khi tiến hành GDBĐKH.


21

Mặt khác,trong quá trình GDBĐKH trong nhà trường phổ thông Việt Nam cần đảm
bảo các nguyên tắc sau:
Đảm bảo mục tiêu GDBĐKH phải phù hợp với mục tiêu giáo dục của cấp học, góp
phần thực hiện mục tiêu giáo dục nói chung.
Hướng giáo dục về BĐKH tới việc cung cấp cho học sinh những kiến thức liên quan
đến BĐKH và những kĩ năng ứng phó với những thiên tai do BĐKH gây ra, phù hợp
với tâm, sinh lí từng lứa tuổi.
Nội dung GDBĐKH phải chú trọng các vấn đề thực tiễn, gắn với địa phương, đất nước,
trên cơ sở đó hình thành các kĩ năng, phương pháp hành động cụ thể để học sinh có thể

tham gia có hiệu quả vào các hoạt động phòng chống thiên tai do BĐKH gây ra ở địa
phương, đất nước phù hợp với lứa tuổi học sinh.
Phương pháp GDBĐKH đảm bảo tạo điều kiện cho học sinh chủ động tham gia vào
quá trình học tập, tạo cơ hội cho các em phát hiện các vấn đề liên quan đến BĐKH và
tìm hướng giải quyết vấn đề dưới sự tổ chức và hướng dẫn của giáo viên.
Tận dụng các cơ hội để GDBĐKH nhưng phải đảm bảo kiến thức cơ bản của môn học,
tính logic của nội dung và không làm quá tải lượng kiến thức và tăng thời gian của bài
học.
Ví dụ: Khi giáo viên muốn lồng ghép vấn đề GDBĐKH tại Đà Lạt thông qua bài 31:”
vấn đề phát triển thương mại và du lịch” trong chương trình cơ bản của lớp 12, giáo
viên phải cho học sinh liên hệ tính thực tế ở địa phương đó là Đà Lạt là thành phố du
lịch nổi tiếng vì có nền khí hậu ôn hòa, mát mẻ. Đó là lí do lớn nhất du khách tới đây
tham quan hàng năm, sau đó giáo viên sẽ dẫn dắt học sinh hiểu ra rằng nếu chịu tác
động của BĐKH thì Đà Lạt sẽ không còn dễ chịu với tiết trời se lạnh như bây giờ, cũng
sẽ không còn là một thành phố”sương mờ”, cuốn hút du khách thập phương nữa,…từ
đó hình thành cho học sinh những suy nghĩ gợi mở và hành động thiết thực cho cuộc
sống, cho môi trường. Có những việc làm cụ thể và tích cực trong công cuộc chống và
thích nghi với BĐKH ở Đà Lạt.


22

dân ĐBSCL phải sống chung với lũ từ bao năm qua).
1.3. Khả năng tích hợp giáo dục biến đổi khí hậu ở môn Địa lí trường THPT.
1.3.1. Mối quan hệ giữa Địa Lý và BĐKH.
Như ta biết rằng GDBĐKH có thể được tích hợp thông qua nhiều môn học khác nhau,
đó là sự lồng ghép hoặc thông qua sự liên hệ chương trình GDBĐKH cho học sinh vào
các bài học nội khóa hoặc ngoại khóa. Hầu hết tất cả các môn học đều có khả năng
GDBĐKH. Thế nhưng môn học có khả năng truyền tải một cách nhanh chóng và hiệu
quả về BĐKH là môn Địa Lí bởi những tích chất đặc trưng riêng của phân môn này. Lý

do tại sao lại như vậy thì chúng ta sẽ hiểu rõ hơn thông qua sự so sánh giữa GDBĐKH
và khoa học Địa Lí.
















23

Bảng2.1: So sánh về đối tượng mục tiêu của GDBĐKH và khoa học Địa Lí
Tiêu mục GDBĐKH Khoa học Địa Lí
1.Thời gian xuất hiện

Vài thập niên gần đây khi
mà quá trình BĐKH bắt
đầu diễn ra phức tạp hơn.
Nhiều thế kỉ trước công nguyên,
nhưng được xây dựng lại vào
khoảng giữa thế kỉ 20

2. Đối tượng hướng
đến
Ý thức và hành động của
con người nhằm duy trì
môi trường sống của sinh
vật.
Lớp vỏ Địa Lí, nơi sinh sống và
phát triển của sinh vật.


3. Mục tiêu



GD cho tất cả mọi người
đều có kiến thức về BĐKH
(định nghĩa, nguyên nhân)
từ đó có những hành động
thiết thực trong cuộc sống
hàng ngày để bảo vệ môi
trường sống như việc khai
thác hợp lý nguồn tài
nguyên, chọn loại nguyên
liệu để sử dụng,…
Cung cấp cơ sở khoa học cho
việc sử dụng ngày càng tốt hơn
các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, đáp ứng nhu cầu sử dụng
và phát triển của quá trình sản
xuất, của đất nước và cải thiện

cơ cấu kinh tế của lãnh thổ.
Qua sự so sánh trên, ta nhận thấy rằng: Giữa GDBĐKH và khoa học Địa Lí có những
mối quan hệ khăng khít với nhau. Cả hai đều nhằm vào mục đích duy trì môi trường
sống của con người. Cùng tìm hiểu những quy luật thay đổi, nguyên nhân và tìm biện
pháp khắc phục, ứng phó với sự thay đổi theo chiều hướng tiêu cực.
Tìm hiểu những quan hệ giữa con người với môi trường cụ thể là khí hậu, những tác
động của con người làm cho khí hậu biến đổi.


24

Cùng tìm cách sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên và nâng cao ý thức con người để làm
giảm bớt cường độ BĐKH.
Nếu khoa học Địa Lí cung cấp cho chúng ta những kiến thức căn bản và cụ thể về khái
niệm, quy luật hoạt động và những ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên và xã hội tới khí
hậu thì GDBĐKH làm nhiệm vụ truyền tải thông tin tới tất cả mọi tầng lớp trong xã
hội, qua đó kêu gọi ý thức của con người trước thực trạng khí hậu thay đổi và sự sống
con người đang bị đe dọa mỗi ngày.
Giữa hai khoa học này luôn có sự hỗ trợ tích cực cho nhau, có mối quan hệ mật thiết
với nhau. Các kết quả của ngành này bổ trợ cho ngành kia để cùng hướng tới một mục
tiêu chung là làm cho môi trường sống của con người được duy trì và tốt đẹp hơn.
Chính vì những lý do đó mà Địa Lí là môn học có khả năng GDBĐKH tốt nhất, hiệu
quả nhất. Bởi vì thông qua những đơn vị bài học, chúng ta có thể lồng ghép, đan xen
vào đó những nội dung GDBĐKH một cách tự nhiên, logic nhất.
1.3.2. Khả năng tích hợp giáo dục biến đổi khí hậu qua môn Địa Lí.
Qua phân tích về mối quan hệ giữa khoa học Địa Lí và GDBĐKH ta khẳng định thêm
một lần nữa: Địa Lí là một môn học có khả năng GDBĐKH rất lớn, điều đó thể hiện ở
chỗ:
- Trong Địa Lí học sinh được tiếp xúc với những kiến thức về vũ trụ, tự nhiên, khí hậu
và cơ chế thay đổi của chúng.

Lớp

Bài Tên
10 5
Vũ trụ. Hệ Mặt Trời và Trái Đất. Hệ quả chuyển động tự quay quanh trục
của Trái Đất.
6
Hệ quả chuyển động xung quanh Mặt Trời của Trái Đất
- Những hiện tượng trong tự nhiên, các biến cố của tự nhiên và nguyên nhân dẫn đến
những hiện tượng đó.


25

Lớp

Bài Tên
9
Tác động của ngoại lực tới địa hình bề mặt Trái Đất.
10
11
Khí quyển. Sự phân bố nhiệt độ không khí trên Trái Đất.
13
Ngưng đọng hơi nước trong khí quyển. Mưa.
16
Sóng. Thủy triều. Dòng biển.
17
Thổ nhưỡng quyển. Các nhân tố hình thành thổ nhưỡng.
10
18

Sinh quyển. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển và phân bố sinh vật.
Chương10 Môi trường và sự phát triển bền vững.
- Học sinh có được kiến thức về dân cư xã hội, việc làm, vấn đề kinh tế xã hội.
Lớp

Bài Tên
2
Xu hướng toàn cầu hóa, công nghiệp hóa kinh tế.
11
3
Một số vấn đề mang tính toàn cầu
- Các vấn đề phát triển kinh tế xã hội và địa lí địa phương.
Lớp

Bài Tên
15
Bảo vệ môi trường và phòng chống thiên tai
31
Vấn đề phát triển thương mại và du lịch.
45

12

46
Tìm hiểu địa lí địa phương.

×