Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

Nghiên cứu cơ sở khoa học đổi mới Viện Khoa học thống kê giai đoạn 2011-2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.21 MB, 136 trang )

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
TỔNG CỤC THỐNG KÊ








BÁO CÁO TỔNG HỢP
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ

Tên đề tài: Nghiên cứu cơ sở khoa học để xây dựng
Đề án đổi mới Viện Khoa học Thống kê giai đoạn 2011 - 2020




Chủ nhiệm: Ths. Nguyễn Văn Đoàn
Thư ký khoa học: Ths. Nguyễn Trí Duy
Thư ký Hành chính: Nguyễn Thị Kim Oanh




9513

HÀ NỘI, 09/2012

2


Mục lục
Danh mục các từ Viết tắt 4
Tổng quan về đề tài 5
Chương I: Cơ sở lý luận để xây dựng đề án đổi mới Viện KHTK 9
I. Tổng quan về đổi mới 9
1.1. Khái niệm về đổi mới
9
1.2. Đặc trưng của Đổi mới 10
II. Quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về Đổi mới 11
2.1.
Quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về đổi mới đất nước 11
2.2. Đổi mới về khoa học, công nghệ của Đảng ta 12
Chương II: Cơ sở thực tiễn để xây dựng Đề án đổi mới Viện KHTK 16
I. Kinh nghiệm trong nước và quốc tế 16
1.1.
Kinh nghiệm trong nước 16
1.2. Kinh nghiệm quốc tế 18
II. Những điểm mạnh và điểm yếu của Viện KHTK 23
2.1.
Kết quả đạt được và những hạn chế 23
2.2. Những điểm mạnh, điểm yếu 27
2.3. Bối cảnh, cơ hội và thách thức 30
III. Xu hướng nghiên cứu và đào tạo thống kê trên thế giới 34
3.1.
Xu hướng nghiên cứu khoa học thống kê trên thế giới 34
3.2. Xu hướng đào tạo thống kê trên thế giới 42
IV. Nhu cầu nghiên cứu và đào tạo thống kê trong nước 44
4.1. Nhu cầu nghiên cứu khoa học thống kê trong nước
44
4.2. Nhu cầu đào tạo thống kê trong nước 45

Chương III: Nội dung đổi mới và giải pháp thực hiện 49
I. Nội dung đổi mới 49
1.1. Quan điểm, sứ mệnh, tầm nhìn và mục tiêu đổi mới
49
1.2. Đổi mới tên gọi, biểu tượng của Viện 52
1.3. Đổi mới hoạt động nghiên cứu khoa học 56
1.4. Đổi mới hoạt động đào tạo và hợp tác quốc tế 59
1.5. Đổi mới hoạt động phổ biến thông tin, tư liệu khoa học thống kê 63

3
1.6. Đổi mới cơ cấu tổ chức, nhân sự 67
II. Giải pháp và lộ trình thực hiện 72
2.1. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện Đề án
72
2.2. Nhóm giải pháp về cơ sở vật chất và nguồn lực 72
2.3. Nhóm giải pháp về hợp tác, liên kết 73
2.4. Lộ trình thực hiện 74
III. Đề án đổi mới Viện KHTK 74
Kết luận và kiến nghị 76
Tài liệu tham khảo 78
Các phụ lục 80
Phụ lục 1: Cơ cấu tổ chức, nhân lực của một số Viện nghiên cứu 80
Phụ lục 2: Danh sách đề tài đã được nghiên cứu (2006-2011) 84
Phụ lục 3: Sứ mệnh, tầm nhìn c
ủa một số Viện nghiên cứu và đào tạo 94
Phụ lục 4: Đề án đổi mới Viện Khoa học thống kê 96
Phụ lục 5: Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện và đơn vị thuộc Viện 128
Phụ lục 6: Danh mục sản phẩm của đề tài 132
Phụ lục 7: Phiếu khảo sát nhu cầu sử dụng sản phẩm/dịch vụ củ
a Viện 133



4
Danh mục các từ Viết tắt
− CQTKQGM: Cơ quan Thống kê quốc gia Malayxia;
− ISI: Viện Thống kê quốc tế;
− SIAP: Viện Thống kê Liên hợp quốc tại khu vực Châu Á, Thái Bình
Dương;
− TCTK: Tổng cục Thống kê;
− Viện KHTK: Viện Khoa học Thống kê;

KHĐT: Bộ Kế hoạch và Đầu tư;

KTQD: Kinh tế quốc dân;

KHCN: Bộ Khoa học và Công nghệ;

IRD: Viện Nghiên cứu phát triển Pháp;

CLTK11-20: Chiến lược phát triển thống kê Việt Nam giai đoạn 2011-
2020 và tầm nhìn đến năm 2030;


5
Tổng quan về đề tài
i. Sự cần thiết và tính cấp bách của đề tài
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng Đề án Đổi mới Viện
Khoa học Thống kê (KHTK) là rất cần thiết và cấp bách được thể hiện ở những
điểm sau.
Một là, Đổi mới để tồn tại và phát triển là qui luật tất yếu trong đời sống

kinh tế xã hội. Qui luật này đã đượ
c thể hiện trong Học thuyết Mác và tư tưởng
Hồ Chí Minh và được cụ thể trong đường lối phát triển kinh tế, xã hội của
Đảng ta, trong đó có lĩnh vực thống kê. Cũng như các lĩnh vực khác, nghiên
cứu khoa học trong lĩnh vực thống kê là một trong những hoạt động quan trọng
hàng đầu làm nền tảng cho những hoạt động nghiệp vụ của ngành Thống kê.
Nhận thức được t
ầm quan trọng của khoa học đối với phát triển ngành Thống
kê, ngày 03/01/1976 Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê đã ban hành Quyết
định số 02/QĐ-TTg về thành lập Viện Nghiên cứu Khoa học Thống kê và
thông tin kinh tế, tiền thân của Viện Khoa học Thống kê (Viện KHTK) ngày
nay. Trải qua gần 40 năm xây dựng và phát triển, Viện KHTK đã có những
đóng góp xứng đáng trong sự nghiệp phát triển của Thống kê Việt Nam nói
riêng, lĩnh vực khoa học và công nghệ của nước ta nói chung và đã từng được
xếp vào 1 trong 41 Viện nghiên cứu loại I của Nhà nước. Tuy nhiên, trong
nhiều năm qua Viện KHTK không những không duy trì được vị thế quan trọng
nói trên, mà còn giảm sút nghiêm trọng về vị thế của Viện so với các Viện
nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư nói riêng và các viện nghiên cứu của
Nhà nước nói chung. Do đó, đổi mới Viện KHTK để
tồn tại và phát triển là tất
yếu khách quan.
Hai là, trong bối cảnh mới của nền kinh tế Việt Nam và trong xu thế toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, hiện tượng kinh tế - xã hội
mới phát sinh, khoa học thống kê cần nghiên cứu và đo lường được các hiện
tượng này. Cộng đồng thống kê thế giới đã coi nghiên cứu khoa học thống kê là
một trong 4 trụ
cột của thống kê thế giới trong Thế kỷ 21 (Nghiên cứu và ứng
dụng khoa học thống kê; Ứng dụng CNTT và truyền thông để chuyển tải thông
tin thống kê thành tri thức của người dân; Đẩy mạnh phân tích và dự báo; Hợp
tác quốc tế trong lĩnh vực thống kê) [1]. Đối với Việt Nam, các trụ cột của

thống kê thế giới nói trên đã được thể hiện trong Đề án đổi mới đồng b
ộ các hệ
thống chỉ tiêu thống kê đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định
số 312/QĐ-TTg ngày 3/2/2010 (Đề án 312) và Chiến lược phát triển thống kê
Việt Nam giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2030 (CLTK11-20) đã
được Thủ tướng phê duyệt tại Quyết định số 1803/QĐ-TTg ngày 18/10/2011.
Theo đó, một trong các bước đột phá của Chiến lược là “Tăng cường nghiên

6
cứu, ứng dụng phương pháp luận thống kê tiên tiến và xây dựng, chuẩn hóa các
quy trình thống kê theo chuẩn mực quốc tế” [2]. Tổng cục Thống kê đã triển
khai nhiều nhiệm vụ thực hiện Đề án 312 và CLTK11-20, trong đó có nhiệm
vụ “Sớm hoàn chỉnh Đề án đổi mới Viện Nghiên cứu Khoa học Thống kê với
hai nhiệm vụ quan trọng là: (i) Nghiên cứu khoa học; và (ii) Đào tạo, bồi
dưỡng kiế
n thức cho những người làm công tác thống kê [3]
1
”.
Ba là, đứng trước yêu cầu đổi mới trong lĩnh vực khoa học và công nghệ
của nước nhà, Nghị định số 115/2005/NĐ-CP (NĐ115) ngày 05 tháng 09 năm
2005 qui định cơ chế, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công
nghệ công lập và hàng loạt các văn bản của các Bộ, ngành chức năng (Bộ
KH&CN, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ…) hướng dẫn thực hiện Nghị
định này.
Văn bản hướng dẫn gần đây nhất về vấn đề đổi mới trong lĩnh vực khoa học và
công nghệ là Thông tư số 36/2011/TTLT/BKHCN-BTC-BNV ngày 26 tháng
12 năm 2011. Theo đó, yêu cầu các tổ chức khoa học và công nghệ công lập
phải thực hiện chuyển đổi mô hình hoạt động theo một trong 3 loại hình: i)
Doanh nghiệp khoa học và công nghệ; ii) Tổ chức khoa học và công nghệ tự
trang trải kinh phí; iii) Tổ chức khoa h

ọc và công nghệ nghiên cứu cơ bản,
nghiên cứu chiến lược, chính sách phục vụ quản lý nhà nước được ngân sách
nhà nước đảm bảo kinh phí hoạt động thường xuyên theo nhiệm vụ được giao.
Với những lý do nói trên, đòi hỏi Viện KHTK phải đổi mới một cách toàn
diện, bài bản mới có thể đáp ứng được những yêu cầu đòi hỏi thực tế hiện nay
cũng như trong tươ
ng lai 10 đến 15 năm tới của ngành Thống kê nói riêng và
nhu cầu của xã hội nói chung. Để thực hiện được nhiệm vụ đổi mới Viện
KHTK, trước hết, cần phải xây dựng một Đề án có căn cứu khoa học, căn cứ
thực tiễn và đảm bảo tính khả thi trình cấp có thẩm quyền phê duyệt làm căn cứ
pháp lý cho việc đổi mới Viện KHTK. Do đó thực hiện đề tài “Nghiên c
ứu cơ
sở khoa học để đổi mới Viện KHTK giai đoạn 2011-2020” là cần thiết và cấp
bách.

ii. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, nhằm đạt được 2 mục tiêu: i) Cung cấp cơ sở khoa
học (cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn) để đổi mới Viện Khoa học Thống kê; và ii)
Xây dựng Đề án Đổi mới Viện Khoa học Thống kê.

iii. Nội dung nghiên c
ứu chính

1
Bài phát biểu của Đồng chí Nguyễn Đức Hòa, Thứ trưởng Bộ KH&ĐT, kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục
Thống kê tại Hội nghị ngành Thống kê ngày 20-21/01/2010 tại Cần Thơ.


7
Những nội dung nghiên cứu chính của đề tài, bao gồm: i) Nghiên cứu cơ

sở lý luận để đổi mới Viện KHTK (một số vấn đề cơ bản về lý thuyết đổi mới;
chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về đổi mới kinh tế, xã hội nói
chung và đổi mới trong quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ ); ii)
Nghiên cứu cơ sở thực tiễn để đổi m
ới Viện KHTK (Kinh nghiệm trong nước
và quốc tế; đánh giá thực trạng Viện KHTK; xu hướng nghiên cứu và đào tạo
thống kê trong nước và quốc tế; tầm nhìn của thống kê Việt Nam đến năm
2030); iii) Xác định các nội dung đổi mới Viện KHTK (đổi mới các hoạt động
của Viện; đổi mới cơ cấu, tổ chức, chức năng, nhiệm vụ); và iv) Dự thảo Đề án
Đổ
i mới Viện KHTK.

iv. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là toàn bộ các hoạt động của Viện
KHTK, bao gồm, nghiên cứu và quản lý khoa học thống kê, thông tin khoa học
thống kê, đào tạo, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thống kê, cơ cấu tổ chức, kế
toán tài vụ, hành chính, quản trị Viện KHTK.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài đồng thời sử dụng các ph
ương pháp
nghiên cứu: Nghiên cứu tài liệu, khảo sát thực tế (thiết kế bảng hỏi, thu thập
thông tin, xử lý tổng hợp, phân tích dữ liệu); phân tích SWOT, phương pháp
chuyên gia (hội thảo, tham vấn). Đề tài sử dụng nguồn số liệu thứ cấp có sẵn
(của Viện KHTK, TCTK) và số liệu sơ cấp (do đề tài thu thập, xử lý).

v. Sản phẩm của đề tài
Đề tài đã hoàn thành được toàn bộ nộ
i dung nghiên cứu đã được phê
duyệt. Các sản phẩm của đề tài đã hoàn thành 15 sản phẩm, bao gồm: 09 Báo
cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu theo các nội dung, chuyên đề; 02 Báo cáo kết
tổng hợp kết quả nghiên cứu (đầy đủ và tóm tắt); 01 bộ số liệu khảo sát nhu cầu

sử dụng sản phẩm, dịch vụ của Viện KHTK; 01 Đề án đổi mới Viện KHTK (dự
thảo); 01 Bài viế
t đã đăng trong Tờ Thông tin KHTK; 01 tin đăng trên trang
thông tin điện tử của Viện (Phụ lục 5) .

vi. Kết cấu Báo cáo Tổng hợp kết quả nghiên cứu
Ngoài tổng quan về nghiên cứu đề tài, kết luận kiến nghị, các phụ lục,
Báo cáo tổng hợp được kết cấu thành 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận để xây dựng Đề án đổi mới Viện KHTK.
Chương này tập trung trình bày nhữ
ng vấn đề cơ bản về đổi mới; quan điểm,
chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về đổi mới kinh tế, xã hội nói
chung và đổi trong lĩnh vực khoa học và công nghệ nói riêng; vận dụng những
kiến thức này vào việc xây dựng đề án đổi mới Viện KHTK.

8
Chương II: Cơ sở thực tế để xây dựng Đề án đổi mới Viện KHTK.
Chương này trình bày hiện trạng của Viện KHTK (đánh giá hiện trạng, chỉ ra
điểm mạnh, điểm yếu của Viện KHTK); kinh nghiệm trong nước và nước
ngoài về đổi mới tổ chức nghiên cứu khoa học thống kê; xu hướng nghiên cứu
và đào tạo thống kê trên thế giới; hướng phát triển củ
a thống kê Việt Nam.
Chương III: Nội dung đổi mới và giải pháp thực hiện. Chương này trình
bày những nội dung đổi mới về các hoạt động của Viện (nghiên cứu, quản lý
khoa học, phổ biến thông tin khoa học, đào tạo, hợp tác quốc tế, cơ chế tài
chính); đổi mới về tổ chức, nhân lực của Viện KHTK (cơ cấu tổ chức, chức
năng nhiệm vụ
, nguồn nhân lực…).
vii. Lời cảm ơn
Ban Chủ nhiệm (BCN) đề tài xin chân thành cám ơn các cộng tác viên

nghiên cứu đã tham gia viết các chuyên đề của đề tài; cám ơn các chuyên gia
đã đóng góp các ý kiến nhận xét, phản biện cho các nội dung nghiên cứu của đề
tài và các chuyên gia trong và ngoài ngành Thống kê đã tham gia vào cuộc
khảo sát nhu cầu sử dụng các sản phẩm và dịch vụ của Viện KHTK do đề tài tổ
chức. Đặc biệt, BCN đề tài xin cám ơ
n cơ quan quản lý đề tài đã tạo điều kiện
thuận lợi cho BCN đề tài hoàn thành các nội dung nghiên cứu của đề tài này.


9
Chương I: Cơ sở lý luận để xây dựng Đề án đổi mới Viện KHTK
I. Tổng quan về đổi mới
Đổi mới để phát triển là qui luật tất yếu của tự nhiên, xã hội và tư duy,
bởi vậy, đổi mới đã, đang và sẽ được cả thể giới quan tâm sâu sắc. Nhưng đổi
mới là một phạm trù rất rộng, bao trùm mọi hoạt động củ
a đời sống con người,
tổ chức, quốc gia. Với phạm vi của đề tài này, không cho phép chúng tôi
nghiên cứu sâu các khía cạnh của đổi mới, mà chỉ tổng quan khái niệm, đặc
trưng của đổi mới, nhằm làm nền tảng cho các nội dung nghiên cứu đổi mới cụ
thể của Viện KHTK.
1.1. Khái niệm về Đổi mới
Có nhiều cách diễn giải khác nhau về khái niệm Đổi mới. Dưới đây là
một số khái niệm về Đổi mới đã được trình bày ở một số tài liệu khác nhau.
“Đổi mới (Innovation) là quá trình thực hiện tạo ra cái mới sao cho hệ
liên quan tiếp nhận cái mới đó một cách đầy đủ, ổn định và bền vững để hệ liên
quan hoạt động tốt hơn trước. Khái niệm "đổi mới" giống khái niệm sáng tạo ở
chỗ nó có đồng thời tính mới và tính ích l
ợi. Tuy vậy, nó được tách ra thành
khái niệm riêng để nhấn mạnh "quá trình thực hiện" và "sự tiếp nhận" (Phương
pháp luận Sáng Tạo và Đổi Mới) [2]

“Đổi mới là hoạt động có mục đích cuối cùng là tạo ra sản phẩm, dịch
vụ mới hoặc phương pháp mới, cách thức mới để làm ra các sản phẩm và dịch
vụ không mới được thị trường chấp nhận và thông qua
đó để thu được lợi
nhuận” (Ths Nguyễn Mạnh Quân, 2006) [4].
Ngay từ năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng khái niệm “Đổi
mới” trong sự vận dụng cụ thể vào đổi mới đất nước. Người viết: “Công cuộc
Đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”. Khi nhấn mạnh sự cần thiết phải
không ngừng Đổi mới nhận thức để phản ánh đ
úng tình hình thế giới, tình hình
trong nước vốn không ngừng biến đổi, Hồ Chí Minh viết: “Thế giới ngày càng
Đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ cho nên chúng ta phải tiếp tục học và
hành để tiến bộ kịp nhân dân”. Đổi mới, theo Hồ Chí Minh, còn là để “thắng
sức ỳ của thói quen, của tập quán cũ. Dù đó là việc khó khăn, nhưng chẳng có
việc gì là không thể đổi mới”.
Hiện nay, cụm từ “Đổi mớ
i” không chỉ phổ biến ở Việt Nam, mà còn
khá phổ biến trên thế giới, nhiều bài viết về Việt Nam của các tác giả nước
ngoài đăng trên các báo, tạp chí, tham luận trong hội thảo, hội nghị đã dùng
cụm từ “Doi moi”.


10
Tóm lại, đổi mới là cái vốn có của mọi vận động và phát triển trong tự
nhiên, xã hội cũng như trong tư duy. Bất kỳ sinh vật nào cũng luôn luôn tự Đổi
mới để thích nghi với những sự thay đổi của môi trường sống. Đối với xã hội,
đổi mới là một phản ứng mang tính tự nhiên của xã hội để bảo đảm sự thích
nghi của nó trước những biế
n đổi môi trường tự nhiên, môi trường quốc tế, để
thích ứng với tình thế. Đổi mới là quá trình vận động tự nhiên của mọi hiện

tượng xã hội. Chúng tôi cũng nhất trí cho rằng “Đổi mới” đã phổ biến ở nước
ta, nhất là từ những năm 1980, Đảng Cộng sản Việt Nam đề xướng “Công cuộc
đổi mới” ở nước ta. Hiện nay, “Doi moi” đã trở thành từ
thông dụng trong các
bài viết về công cuộc đổi mới ở nước ta bằng tiếng nước ngoài. Những khái
niệm về đổi mới như đã trích dẫn ở trên, tuy cách diễn đạt khác nhau, nhưng
đều toát lên việc tạo ra sản phẩm, dịch vụ mới hoặc phương pháp mới, cách
thức mới, tư duy mới…
1.2. Đặc trưng của Đổi mới
Đổi mới có 08 đặc trưng cơ b
ản (Ths Nguyễn Mạnh Quân, 2006) [4],
gồm: Tính tổng thể; tính định hướng thị trường; tính đa dạng: tính không tuần
tự; tính hệ thống; tính phức tạp; khả năng tự tiến hóa và tự tổ chức; tổ chức.
- Tính tổng thể: Đổi mới được quan niệm là một hoạt động tổng thể bao
gồm nhiều loại hoạt động khác nhau từ nghiên cứu và phát triển đến thiế
t kế,
chế tạo, sản xuất, thương mại hóa, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ mới
trên trị trường.
- Tính định hướng thị trường: Một ý tưởng hay một dự án chế tạo sản
phẩm hoặc dịch vụ chỉ được xem là đổi mới một khi sản phẩm, dịch vụ, qui
trình công nghệ mới được đưa ra thị trường và được thị
trường chấp nhận sử
dụng trong xã hội.
- Tính đa dạng: Đổi mới có thể diễn ra ở mọi lĩnh vực, mọi cá nhân và
tổ chức, mọi vùng miền, quốc gia. Sản phẩm và dịch vụ, qui trình, ý tưởng đổi
mới cũng rất đa dạng và phong phú.
- Tính không tuần tự: Đổi mới là hoạt động không diễn ra theo một trình
tự nhất định. Đổi mới có thể bắt đầu từ bất cứ một công đoạn nào của quá trình.
- Tính hệ thống: Hoạt động đổi mới mang tính hệ thống, bao gồm,
nhiều tác nhân tham gia và quan hệ tác động qua lại giữa các tác nhân với nhau

trong quá trình tạo ra tri thức mới, sản phẩm mới, dịch vụ mới.
- Tính phức tạp: Hoạt động đổi mới có cấu trúc phức tạp, khó đo lường,
khó d
ự báo.
- Khả năng tự tiến hóa và tự tổ chức: Đây là đặc tính quan trọng của
hoạt động đổi mới. Tuy có cấu trúc phức tạp, nhưng được quan niệm giống như

11
các cơ thể sống, hoạt động đổi mới có khả năng tự tổ chức, tự liên kết, tự tìm
đến những đối tác cần thiết để tạo gắn cung với cầu.
- Tổ chức (cơ quan, đơn vị… gọi chung là tổ chức) là chủ thể của các
hoạt động đổi mới.
Nghiên cứu khái niệm và các đặc trưng của Đổi mới để
vận dụng,
chuyển hóa những nội dung này vào Đề án Đổi mới Viện KHTK là rất cần
thiết. Chẳng hạn, đổi mới có đặc trưng là không tuần tự, nên khi xây dựng Đề
án đổi mới Viện KHTK không nhất thiết phải theo một trình tự nhất định, mà
có thể bắt đầu từ bất cứ khâu nào, lĩnh vực hoạt động nào của Viện.
II. Quan điểm, chủ trươ
ng chính sách của Đảng, Nhà nước về Đổi mới
2.1. Quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về đổi mới
đất nước.
Như chúng ta đã biết, từ khi giành được độc lập đến năm 1986, đất nước
ta thực hiện theo cơ chế tập trung, bao cấp; từ tháng 12/1986 đã đổi mới sang
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ ngh
ĩa được đánh dấu bằng mốc lịch sử
quan trọng là Đại hội VI của Đảng (12/1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn
diện đất nước, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng Chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Một trong 10 nhiệm vụ quan trọng Đại hội VI của Đảng
giao cho Ban Chấp hành Trung ương khoá VI chỉ đạo thực hiện là: Đổ

i mới cơ
chế quản lý kinh tế nhằm tạo ra động lực thúc đẩy các đơn vị kinh tế và quần
chúng lao động hăng hái phát triển sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và
hiệu quả kinh tế. Kiên quyết xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thiết
lập và hình thành đồng bộ cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán
kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắ
c tập trung dân chủ. Cơ chế mới
lấy kế hoạch hoá làm trung tâm, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ,
quản lý bằng phương pháp kinh tế là chủ yếu kết hợp với biện pháp hành chính,
giáo dục, thực hiện phân cấp quản lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thiết
lập trật tự, kỷ cương trong mọi hoạt động kinh tế.
Trải qua trên 20 năm đổi mới đấ
t nước, chúng ta đã đạt được những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử và chúng ta cũng có những sai lầm cần
được chấn chỉnh. Hiện nay, đất nước chúng ta vẫn đang kiên định thực hiện
công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng từ năm 1986. Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng (2011) rút ra 5 bài học kinh nghiệm, trong đó có bài
học đầu tiên là “Trong bất k
ỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực
hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Ðổi mới toàn diện, đồng bộ với những bước đi thích
hợp [7].

12
2.2. Đổi mới về khoa học, công nghệ của Đảng, Nhà nước ta
Khoa học và công nghệ là động lực của sự phát triển. Trong quá trình
lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định khoa học
và công nghệ có vai trò đặc biệt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ

sung, phát triển năm 2011) đ
ã vạch rõ những định hướng lớn về phát triển khoa
học, công nghệ trong thời kỳ mới với những quan điểm cơ bản như sau.
- Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao năng suất,
chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
- Phát triển khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ
tiên tiến của thế giới.
- Phát triển đồng bộ các lĩnh vực khoa học và công nghệ gắn với phát
triển văn hóa và nâng cao dân trí.
- Tăng nhanh và sử dụng có hiệu quả tiềm lực khoa học và công nghệ
của đất nước, nghiên cứu và ứng dụng có hi
ệu quả các thành tựu khoa học và
công nghệ hiện đại trên thế giới.
- Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích sáng tạo, trọng
dụng nhân tài và đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ.
Đại hội XI của Đảng đã xác định trong 5 năm (2011 - 2015), để phát
triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức; góp phần tăng nhanh năng suấ
t,
chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền
vững của đất nước; nâng tỷ lệ đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp vào tăng
trưởng, cần thực hiện đồng bộ ba nhiệm vụ chủ yếu dưới đây:
Một là, phát triển năng lực khoa học, công nghệ có trọng tâm, trọng
đi
ểm, tập trung cho những ngành, lĩnh vực then chốt, mũi nhọn. Nhà nước tăng
mức đầu đảm bảo đồng bộ về cơ sở vật chất, nguồn nhân lực và ưu tiên đầu tư
cho các nhiệm vụ, các sản phẩm khoa học, công nghệ trọng điểm quốc gia,
đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động mọi nguồn lực, đặc biệt là của các

doanh nghiệp cho
đầu tư phát triển khoa học, công nghệ.
Hai là, đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động khoa học,
công nghệ, xem đó là khâu đột phá để thúc đẩy phát triển và nâng cao hiệu quả
của khoa học, công nghệ. Chuyển các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng sang cơ chế
tự chủ, tự chịu trách nhiệm; phát triển các doanh nghiệp khoa học và công

13
ngh, th trng khoa hc, cụng ngh. i mi cn bn c ch s dng kinh
phớ nh nc; xõy dng h thng tiờu chớ ỏnh giỏ kt qu cỏc chng trỡnh,
ti khoa hc v cụng ngh theo hng phc v thit thc mc tiờu, nhim v
phỏt trin kinh t - xó hi, ly hiu qu ng dng lm thc o ch yu ỏnh
giỏ cht lng cụng trỡnh. Thc hi
n ng b chớnh sỏch o to, thu hỳt, trng
dng, ói ng xng ỏng nhõn ti khoa hc, cụng ngh.
Ba l, y mnh nghiờn cu, ng dng; phỏt trin ng b khoa hc xó
hi, khoa hc t nhiờn, khoa hc k thut v cụng ngh. Khoa hc xó hi lm
tt nhim v tng kt thc tin, nghiờn cu lý lun, d bỏo xu hng phỏt trin,
cung cp lun c cho vic xõy dng
ng li, chớnh sỏch phỏt trin t nc
trong giai on mi. Hng mnh nghiờn cu, ng dng khoa hc, cụng ngh
phc v cỏc chng trỡnh, k hoch phỏt trin kinh t, xó hi, c bit l trong
nhng ngnh, nhng lnh vc then cht, mi nhn. u tiờn phỏt trin cụng
ngh cao, ng thi s dng hp lý cụng ngh s dng nhiu lao ng. Nhanh
chúng hỡnh thnh mt s c s
nghiờn cu - ng dng mnh, gn vi cỏc doanh
nghip ch lc, sc tip thu, ci tin v sỏng to cụng ngh mi. Xõy dng
v thc hin chng trỡnh i mi cụng ngh quc gia; cú chớnh sỏch khuyn
khớch v h tr cỏc doanh nghip thuc mi thnh phn kinh t i mi cụng
ngh. Kt hp cht ch nghiờn cu v phỏt trin trong nc vi tip nhn cụng

ngh n
c ngoi.
Quỏn trit ch trng, ng li ca ng v i mi khoa hc v cụng
ngh, Chớnh ph ó ban hnh Chin lc phỏt trin khoa hc v cụng ngh giai
on 2011-2020 vi mc tiờu n nm 2020, KH&CN Vit Nam cú mt s
lnh vc t trỡnh tiờn tin, hin i ca khu vc ASEAN v th gii; ng
thi Chin lc ó ch rừ thi gian ti s
tip tc i mi c bn, ton din v
ng b t chc, c ch qun lý, c ch hot ng KH&CN [8]. C th hn v
chớnh sỏch i mi hot ng khoa hc v cụng ngh l Ngh nh s
115/2005/N-CP ngy 05/9/2005 (N 115) ca Chớnh ph v vic Quy nh
c ch t ch, t chu trỏch nhim ca t chc khoa h
c v cụng ngh cụng lp.
Ngh nh ny cú 4 chng v 19 iu, trong ú cú mt s iu cn c
nghiờn cu sõu, vn dng vo i mi hot ng nghiờn cu v qun lý khoa
hc Vin KHTK. C th nh sau:
Mục đích thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm l tăng cờng
trách nhiệm và nâng cao tính tích cực, chủ động, năng động, sáng tạo của tổ
chức khoa học và công nghệ và Thủ trởng tổ chức khoa học và công nghệ; Tạo
điều kiện gắn nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ với sản xuất, kinh
doanh và đào tạo nhân lực, đẩy nhanh quá trình xã hội hóa các hoạt động khoa
học và công nghệ; Tạo điều kiện tập trung đầu t có trọng điểm cho các tổ chức

14
khoa học và công nghệ; Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức khoa học
và công nghệ, góp phần tăng cờng tiềm lực khoa học và công nghệ của đất
nớc (iu 2).
Chuyn i t chc hot ng: T chc khoa hc cụng ngh c
la chn chuyn i sang 1 trong 3 loi hỡnh: 1) T chc khoa hc cụng ngh
t trang tri; 2) doanh nghip khoa hc cụng ngh; 3) t chc khoa hc cụng

ngh trong lnh vc nghiờn cu c bn, nghiờn cu chin lc chớnh sỏch phc
v qu
n lý nh nc c ngõn sỏch nh nc bo m kinh phớ 100%. Vin
KHTK ó xõy dng ỏn chuyn i sang hỡnh thc 3 v ó tn dng th mnh
ny trong nhng nm qua.
Xỏc nh v thc hin nhim v KH&CN: T xỏc nh nhim v
KH&CN trờn c s nhu cu ca xó hi v doanh nghip; T quyt nh tham
gia tuyn chn, u thu nhim v KH&CN ca B, Nh nc; t
quyt nh
bin phỏp t chc thc hin; Cú quyn ký hp ng vi cỏc cỏ nhõn, t chc
trong v ngoi nc; trc tip quyt nh mi chuyờn gia, nh khoa hc nc
ngoi vo Vit Nam v c cỏn b ra nc ngoi cụng tỏc; quyt nh u t
phỏt trin (iu 5). Ngoi ra, cũn cú quyn sn xut, kinh doanh hng húa,
dch v thuc lnh vc hot ng v liờn doanh ,liờn kt, xut nhp khu
(
iu 6) . õy l im mnh, Vin cn khai thỏc i mi ni dung v gii
phỏp thc hin.
- S dng kinh phớ: Chi nhim v khoa hc v cụng ngh, chi lng,
trớch lp cỏc qu phi theo qui nh, nh mc ca nh nc, ngoi ra, t chc
khoa hc v cụng ngh c t quyt nh s dng cỏc ngun kinh phớ chi
cho cỏc hot ng ca n v. Trớch l
p cỏc qu, hng nm ly thu tr (-) chi
(chi phớ hp lý, thc hin ngha v vi ngõn sỏch), phn cũn li s c trớch
lp cỏc qu, riờng qu phỏt trin s nghip, ti thiu bng 30% phn cũn li.
Xõy dng qui ch chi tiờu ni b (iu 8). Vin ó thc hin tt vic ny.
- V t chc biờn ch: Th trng n v KH&CN
c quyn sp
xp, iu chnh b mỏy; thnh lp, sỏt nhp, gii th v qui nh chc nng,
nhim v, quyn hn ca cỏc n v trc thuc (iu 10). Quyt nh tng s
biờn ch hng nm. Ký hp ng vi nhng ngi c tuyn dng sau

10/10/2003 (iu 11). Vin cha c thc hin quyn ny.
Ngoi Ngh nh 115 núi trờn, Chớnh ph ó ban hnh nhiu vn bn
khỏc liờn quan n t ch, t chu trỏch nhim ca t chc khoa hc cụng
ngh. C th, Thụng t liờn tch s 12/2006/TTLT-BKHCN-BTC-BNV hng
dn thc hin N 115 (TT 12); Ngh nh 96/N-CP ngy 20/9/2010 (N 96)
sa i mt s iu ca N 115; Thụng t s 11/TTLT-BKHCN-BNV ngy

15
27/7/2007 (TT 11) về mời và cử chuyên gia; Quyết định số 08/QĐ-TTg ngày
06/4/2007 (QĐ 08) về tiêu chí xác định tổ chức KH&CN; Nghị định số
52/2009/NĐ-CP (2009) về hướng dẫn giao tài sản; và gần đây nhất là Thông
tư liên tịch số 36/2011/TTLT-BKHCN-BTC-BNV ngày 26/12/2011 về sửa đổi
bổ sung TTLT số 12. Thông tư liên tịch số 36 khẳng định tổ chức khoa học và
công nghệ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược vẫn thu
ộc nhà nước. Phải
xây dựng đề án kiện toàn tổ chức và hoạt động (theo mẫu qui định) trình cơ
quan có thẩm quyền phê duyệt Đề án trước ngày 30/6/2012. Từ năm 2014,
kinh phí hoạt động thường xuyên của bộ máy được dự trù trong các nhiệm vụ
KHCN. Hay nói khác lương và các khoản phụ cấp lương, chi phí điện, nước,
văn phòng phẩm, công tác phí đều được tính vào kinh phí của đề tài, dự án

16
Chương II: Cơ sở thực tiễn để xây dựng Đề án đổi mới Viện KHTK
I. Kinh nghiệm trong nước và quốc tế
1.1. Kinh nghiệm trong nước
Nghiên cứu này cho thấy một điểm khác biệt lớn về quản lý nhà nước
trong lĩnh vực khoa học và công nghệ của TCTK so với các Bộ, ngành, Tổng
cục khác ở chỗ: TCTK không có đơn vị cấp Vụ (Vụ Khoa học và cộng nghệ
)
như các Bộ, ngành khác để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về khoa học

trong toàn ngành. Chức năng này được giao cho Viện KHTK (đơn vị sự
nghiệp) thực hiện. Đề tài đã xem xét mô hình tổ chức của các Bộ, ngành cho
thấy nhiều Bộ, ngành có Vụ Khoa học và công nghệ thực hiện chức năng quản
lý khoa học thuộc lĩnh vực Bộ, ngành mình, như: Bộ Xây dựng; Bộ Giáo dụ
c
và đào tạo; Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn; Bộ Công nghiệp; Bộ Kế
hoạch và Đầu tư; Bộ Y tế; Bộ Tài nguyên môi trường; Bộ Bưu chính viễn
thông. Nghiên cứu này đã phát hiện ra vấn đề là có sự khác nhau rất lớn về
chức năng, nhiệm vụ giữa các Viện nghiên cứu thuộc các Bộ, ngành này với
Viện KHTK. Cụ thể là, một trong các chức năng của Vụ Khoa học và công
ngh
ệ thuộc Bộ, ngành này là quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ thuộc
lĩnh vực Bộ, ngành phụ trách (quản lý các đề tài, dự án, nhiệm vụ khoa học và
công nghệ do các Viện, Vụ và các đơn vị khác thuộc Bộ, ngành thực hiện). Các
Viện nghiên cứu thuộc các Bộ, ngành trên chỉ chịu trách nhiệm với các đề tài,
dự án, nhiệm vụ khoa học do Viện thực hiện. Trong khi đó TCTK không có Vụ
Khoa học và công nghệ, thì Vi
ện Khoa học Thống kê được giao thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ trong lĩnh vực thống kê; Viện
KHTK không chỉ quản lý các đề tài, nhiệm vụ do Viện thực hiện mà còn chịu
trách nhiệm quản lý các đề tài, nhiệm vụ khoa học do các đơn vị khác của Tổng
cục thực hiện. Hay nói khác, Viện KHTK là đơn vị sự nghiệp, nhưng làm chức
năng quản lý nhà n
ước về khoa học công nghệ trong lĩnh vực thống kê. Sự khác
biệt này, sẽ ảnh hướng rất lớn đến chức năng nghiên cứu và đào tạo của Viện.
Kinh nghiệm về tổ chức, nhân lực của các Viện nghiên cứu thuộc
các Bộ, ngành, Tổng cục, địa phương: Đề tài tiến hành tìm kiếm một cách ngẫu
nhiên trên internet và tư liệu tại Thư Viện của Viện KHTK; kế
t quả tìm kiếm
được 9 Viện nghiên cứu (08 viện thuộc các Bộ, 01 trực thuộc địa phương) và

tìm kiếm bổ sung có chủ đích một số Viện thuộc Tổng cục (tương đồng như
TCTK) [10]
2
, để so sách qui mô về tổ chức, nhân lực với Viện KHTK. Số liệu
của các Viện này được trình bày ở Bảng 1. Từ số liệu ở Bảng 1, Đề tài rút ra
một số kết luận sau.

2
Tổng cục Dân số, Tổng cục Thuế… không có đơn vị sự nghiệp nghiên cứu khoa học như Tổng cục Thống
kê, Tổng cục du lịch.,

17
Bảng 1: Số đơn vị, số cán bộ công chức của một số Viện nghiên cứu
TT Tên Viện
Số đơn vị
trực thuộc
Số cán bộ,
viên chức
1 Viện Khoa học Tổ chức nhà nước 8 36
2 Viện Chiến lược và chính sách Tài chính 8 46
3 Viện Nghiên cứu Thương mại 13 90
4 Viện Chiến lược phát triển (Bộ KH&ĐT) 10 70
5 Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế TW 9 79
6 Viện Khoa học pháp lý 7 47
7 Viện Nghiên cứu phát triển KT-XH Đà Nẵng 8 51
8 Viện Nghiên cứu Châu Âu 10 51
9 Viện Khoa học lao động và xã hội 9 70
10 Viện Nghiên cứu Phát triển du lịch 9 48
11 Viện Khoa học thống kê 4 26
Nguồn: Đề tài thu thập trên Internet và một số tạp chí

Thứ nhất, về qui mô, Viện KHTK có qui mô quá nhỏ bé so với 10
Viện nghiên cứu thuộc các Bộ, Tổng cục, địa phương được quan sát. Số đơn vị
thuộc Viện KHTK (4 đơn vị) chỉ nhỉnh hơn nửa so với số đơn vị của những
Viện có số đơn vị ít nhất trong số 10 đơn vị quan sát. Về số cán bộ, viên chức
của Viện KHTK cũng quá ít so v
ới các Viện nghiên cứu trực thuộc Bộ, Tổng
cục, địa phương; Viện có số lượng cán bộ, viên chức thấp nhất (Viện Khoa học
Tổ chức nhà nước) trong 10 Viện được quan sát là 36 người, trong khi đó Viện
KHTK chỉ có 26 người (kém 10 người). Đặc biệt, Viện Nghiên cứu Phát triển
du lịch thuộc Tổng cục du lịch (tương đồng với TCTK), nhưng qui mô của
Viện này lớn gấp
đôi so với qui mô của Viện KHTK.
Để thực hiện được chức năng nhiệm vụ và đáp ứng được yêu cầu thực
tế, các Viện đều mở rộng qui mô, tăng đơn vị trực thuộc và số cán bộ, viên
chức của Viện. Chẳng hạn, như Viện Khoa học tổ chức Nhà nước (Bộ Nội vụ)
từ 05 đơn vị cấp phòng (2008), tăng lên 07 đơ
n vị (2011). Viện Chiến lược và
chính sách tài chính (Bộ Tài chính từ 07 đơn vị (2008) tăng lên 08 đơn vị
(2011); Viện Phát triển kinh tế - xã hội Đà nẵng, từ 05 đơn vị tăng lên 08 đơn
vị… Hầu hết các Viện nói trên đều thực hiện chức năng đào tạo, bồi dưỡng và
đào tạo trình độ tiến sỹ chuyên ngành.

18
Thứ hai, về nhân lực, các Viện nói trên có qui mô lớn như vậy, nhưng
chỉ thực hiện 03 chức năng: Nghiên cứu khoa học; thông tin khoa học; và đào
tạo. Mặc dù với qui mô quá nhỏ bé như vậy, nhưng Viện KHTK không chỉ
thực hiện 03 chức năng như các Viện khác, mà còn thực hiện cả chức năng
quản lý khoa học của Tổng cục Thống kê.
Thứ ba, đối tác nước ngoài, tổ ch
ức quốc tế. Trong quá trình thực

hiện chức năng, nhiệm vụ, các Viện này đều có quan hệ trực tiếp với một số tổ
chức quốc tế tại Việt Nam và nước ngoài. Hầu như Viện nào cũng nhận được
dự án hỗ trợ của các tổ chức này. Trong khi đó Viện KHTK không có quan hệ
đối tác trực tiếp với bất kỳ tổ chức nào cũng như không có b
ất kỳ dự án hỗ trợ
nào của các tổ chức quốc tế.

1.2. Kinh nghiệm quốc tế
Đề tài đã sưu tầm tài liệu trên Internet và báo cáo kết quả khảo sát của
một số đoàn công tác của Tổng cục và đã tiếp cận được tài liệu của 11 tổ chức
nghiên cứu và đào tạo thống kê của cơ quan thống kê quốc gia và tổ chức quốc
tế [9], bao gồm, 8 tổ chức nghiên cứu và đào tạo thống kê thuộc Cơ quan thố
ng
kê quốc gia (Viện Nghiên cứu và đào tạo thống kê Nhật bản, Trung tâm Đào
tạo thống kê Hàn quốc, Trung tâm Nghiên cứu thống kê Hàn quốc, Viện Đào
tạo Thống kê Malayxia, Vụ Nghiên cứu Thống kê Malayxia, Học viện Thống
kê Inđônexia, Viện Nghiên cứu Thống kê và Kinh tế Pháp, Viện Nghiên cứu
Thống kê, Kinh tế xã hội của Gana); và 3 tổ chức nghiên cứu và đào tạo thống
kê của 3 tổ chức quốc tế (Vi
ện Thống kê quốc tế (ISI), Viện Thống kê Liên
Hợp quốc tại khu vực Châu á, Thái Bình Dương (SIAP), Viện Nghiên cứu
Thống kê Ả rập. Do khuôn khổ của báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu của
đề tài, nên chỉ tóm lược một số nét cơ bản của các tổ chức nghiên cứu, đào tạo
thống kê thuộc cơ quan thống kê Malayxia, Nhật, SIAP.
(1) Vụ Nghiên cứu và phát triển thống kê; Viện Đào tạo Thống kê của
Malayxia. Cơ quan Thống kê Malayxia thành lập 2 đơn vị làm chức năng
nghiên cứu và đào tạo thống kê, gồm: Vụ Nghiên cứu và phát triển thống kê; và
Viện Đào tạo Thống kê.

- Vụ Nghiên cứu và phát triển Thống kê là đơn vị thuộc Cơ quan

Thống kê quốc gia (CQTKQGM). Vụ có 5 đơn vị cấp phòng, gồm: Nghiên
cứu, Nghiên cứu đặc biệt (02 phòng này thuộc lĩnh vực nghiên cứu), Tiêu
chuẩn, Điều tra kinh tế và hộ gia đình (02 phòng này thuộc lĩnh vực phát triển),
Hành chính. Số cán bộ công chức có 22 người, gồm: 03 lãnh đạo cấp Vụ, 15
công chức thống kê, 4 công chức hành chính (có 01 thư ký Vụ trưở
ng). Vụ thực
hiện 02 chức năng chính là phát triển các công cụ/phương pháp nghiên cứu

19
nhằm đáp ứng các yêu cầu của CQTKQGM; và cải thiện năng lực phân tích số
liệu.
Một số hoạt động chủ yếu năm 2010 do Vụ Nghiên cứu và phát triển
thực hiện: Nghiên cứu tỷ lệ trả lời đối với một số cuộc điều tra, phân loại sử
dụng trong thống kê, nghiên cứu về tích hợp các bảng hỏi trong điều tra kinh tế
(hiệ
n nay có nhiều cuộc điều tra, nội dung trùng lặp, phải tiến hành rà soát),
nghiên cứu các phương pháp ước lượng khu vực nhỏ, nghiên cứu chỉ số chi phí
lao động, nghiên cứu thống kê tội phạm, nghiên cứu quy trình chuẩn trong hoạt
động dự báo, nghiên cứu gánh nặng đối với người cung cấp thông tin (Đối với
lĩnh vực nghiên cứu). Xây dựng bảng phân ngành chuẩn của Malaysia (MSIC
2008), xây dựng bảng phân ngành sản phẩm theo ngành hoạt động (MCPA
2008), nghiên cứu tính hiệu quả của phương pháp tiếp cận từ doanh nghiệp so
với phương pháp tiếp cận từ đơn vị cơ sở, điều phối viên trong nhóm sáng kiến
và đổi mới, thư ký cho Ủy ban Kỹ thuật, thư ký nhóm xây dựng các bảng phân
loại sử dụng trong công tác thống kê, nghiên cứu các biến không sử dụng trong
các cuộc điều tra, xây dựng các thuật ngữ thông dụng trong thống kê, đi
ều tra
đột xuất/không thường xuyên (Điều tra mức độ hài lòng của người tiêu dùng;
điều tra khu vực phi chính thức; điều tra tính liêm trực; điều tra quan điểm về
thu phí đường cao tốc ), cung cấp dịch vụ tư vấn thống kê cho một số cơ quan

khác, biên soạn và xuất bản ấn phẩm “Malaysia qua số liệu thống kê”.
- Viện Đào tạo thống kê thuộc CQTKGQM được thành lập t
ừ năm
2011. Tiền thân của Viện Đào tạo thống kê (trước năm 2002) là một bộ phận
thuộc Vụ Nghiên cứu và phát triển, sau đó tách ra thành Vụ Đào tạo thuộc
CQTKQGM; từ năm 2011 phát triển thành Viện Đào tạo thống kê. Lúc mới
thành lập, cơ cấu tổ chức của Viện Đào tạo thống kê có 6 đơn vị cấp phòng,
gồm: Nhân lực và Dịch vụ; Phát triển qu
ản lý và Chất lượng; Điều phối và phát
triển (03 phòng này thuộc lĩnh vực Quản lý và nghiên cứu); Phát triển chuyên
môn và thông tin; Mở rộng quan hệ quốc tế và thư viện; Hỗ trợ dịch vụ (03
phòng này thuộc lĩnh vực Phát triển nghiệp vụ, công nghệ thông tin và thư
viện). Tổng số công chức viên chức của Viện có 27 người (09 chuyên viên
chính, 18 chuyên viên, trong đó có 01 thư ký Vụ trưởng).
Chức năng chính của Việ
n Đào tạo Thống kê là quản lý và tổ chức công
tác đào tạo nhân lực cho ngành thống kê Malaixia. Hàng năm, Viện Đào tạo
Thống kê tiến hành xây dựng kế hoạch đào tạo trình lên Ủy ban Kế hoạch đào
tạo xem xét để trình Chính phủ phê duyệt và tổ chức đào tạo theo kế hoạch đã
được phê duyệt. Viện tập trung đào tạo nguồn nhân lực cho ngành thống kê tập
trung ở 4 lĩnh v
ực: (i) Chuyên môn, nghiệp vụ; (ii) Công nghệ thông tin; (iii)
Kỹ năng quản lý; (iv) Hành vi, ứng xử. Ngoài ra, còn thực hiện chương trình
đào tạo thông qua chia sẻ kiến thức (cán bộ đi học tập, hội thảo ở nước ngoài

20
về, phải có báo cáo và tổ chức trình bày trong đơn vị kết quả học tập và hội
thảo). Viện Đào tạo Thống kê thiết kế các khóa đào tạo cụ thể của từng lĩnh
vực theo các cấp độ khác nhau. Riêng lĩnh vực chuyên môn nghiệp vụ có 17
cấp độ khác nhau, hiện nay đã có 200 công chức đạt cấp độ 17 và trở thành

giảng viên của CQTKGQM. Các khóa đào tạo này được đăng tải trên webside
của CQTKGQM và gửi văn bản tới các đơn vị trong CQTKGQM. Cán bộ,
công chức của CQTKGQM đăng ký nhu cầu học (thời gian, khóa học, cấp
độ…). Giáo viên giảng dạy chủ yếu đến từ các đơn vị thuộc CQTKGQM
3
, một
số trường đại học, chuyên gia tư vấn và công ty tư nhân. Năm 2009, Viện Đào
tạo đã tổ chức được 115 khóa đào tạo, đào tạo lại và cập nhật kiến thức, đồng
thời cử các cán bộ, công chức của CQTKQGM tham dự 155 khóa đào tạo do
các cơ quan của Chính phủ và tư nhân tổ chức.
Viện Đào tạo thống kê đã xây dựng 2 phần m
ềm quản lý hoạt động đào
tạo: (i) Phần mềm quản lý nội bộ (Conventional) có chức năng chính là quản lý
chi tiết quá trình tham gia các khóa đào tạo của từng cán bộ công chức thuộc
CQTKGQM (họ, tên, số định danh của người học, khoa học, thời gian học,
hình thức học, bậc học… và tổng hợp kết quả đào tạo theo các chiều khác
nhau); phần mềm này cung cấp toàn bộ dữ liệu chi ti
ết của từng cá nhân tham
gia các khóa đào tạo, đào tạo lại và cập nhật kiến thức; (ii) Phần mềm quản lý
trực tuyến (Online) có chức năng chính để đăng ký nhu cầu học trực tuyến của
các bộ công chức ngành Thống kê. Ngoài 2 phần mềm quản lý hoạt động đào
tạo này, mỗi cán bộ công chức được trang bị một cuốn sổ để ghi chép quá trình
học tập của mình. Cán b
ộ công chức tự giác ghi các khóa đào tạo đã tham gia
trong năm, lãnh đạo đơn vị xem xét và ký xác nhận vào sổ ghi chép của công
chức.
Như vậy, nếu gộp chung 2 đơn vị nghiên cứu và đào tạo của CQTKQG
Malayxia, cho thấy qui mô khá lớn với 49 công chức, viên chức (27 người của
Viện Đào tạo thống kê, 22 người của Vụ Nghiên cứu) và 15 đơn vị cấp phòng
(9 của Vụ Nghiên cứu; 6 của Viện Đ

ào tạo).
(2) Viện Nghiên cứu và Đào tạo Thống kê Nhật bản
Viện Nghiên cứu và Đào tạo Thống kê Nhật bản (trực thuộc Cơ quan
thống kê quốc gia Nhật Bản) được thành lập năm 1921 với tên gọi là Viện Đào
tạo nhân viên thống kê thuộc cơ quan Tổng điều tra thống kê, Tổng cục Thống
kê Nhật bản. Năm 1948 trở thành Viện độ
c lập trực thuộc Tổng cục Thống kê
Nhật bản. Năm 1971, đổi tên là Viện Đào tạo thống kê và thực hiện các đào tạo
cho tất cả các nhân viên thuộc các cơ quan quản lý hành chính các cấp từ Trung

3
Tiêu chuẩn giáo viên là có chứng chỉ cấp quốc gia, nếu là cán bộ cơ quan Thống kê Malaysia phải có chứng
chỉ do cơ quan Thống kê quốc gia Malaysia cấp (Tổng cục trưởng ký).


21
ương đến địa phương và các tập đoàn kinh tế nhà nước. Năm 2001, Viện đổi
tên là Viện Nghiên cứu và Đào tạo Thống kê nhằm thiết lập một hệ thống kết
nối giữa nghiên cứu thống kê với đào tạo kiến thức thống kê. Từ tháng Tư năm
2003, Viện được chỉ định là Viện Đào tạo độc lập của Bộ Nội vụ và Truy
ền
thông (MIC) Nhật bản (Tổng cục Thống kê Nhật bản cũng thuộc Bộ này). Cơ
cấu tổ chức của Viện, gồm 5 đơn vị: Văn phòng; Vụ Kế hoạch; Cơ quan nghiên
cứu; Trung tâm dữ liệu thống kê; và Thư viện thống kê
4
(tác giả chưa tiếp cận
được với số liệu về lực lượng lao động của Viện). Mục đích của Viện là nhằm
thúc đẩy sự phát triển và phổ biến các kiến thức thống kê, đóng góp vào sự phát
triển của các hệ thống thống kê ở Nhật Bản cũng như toàn cầu. Viện thực hiện
4 chức năng chính (1) Nghiên cứu thống kê (2) Đào tạ

o thống kê (3) Biên soạn
và xuất bản các Niên giám và kỷ yếu thống kê và (4) Dịch vụ thư viện thống
kê. Bài viết này chỉ tập trung vào 2 chức năng: Nghiên cứu và đào tạo của
Viện.
Về hoạt động đào tạo thống kê: Viện tiến hành một số khoá đào tạo từ cơ
bản đến nâng cao về kiến thức, lý luận cũng như kỹ năng thống kê cho các cán
b
ộ của các cơ quan nhà nước trung ương và địa phương cũng như cho các cơ
quan khác. Mục đích của công tác đào tạo của Viện là nhằm hướng vào việc
phát triển khả năng thống kê cho các cán bộ thông qua việc trang bị cho họ
kiến thức và kỹ năng thống kê. Lực lượng giảng viên của Viện, gồm: Giáo sư,
Phó Giáo sư, giảng viên của các trường đại học công lập và tư thụ
c; các nhà
nghiên cứu ở các cơ quan nghiên cứu; các chuyên gia của các bộ, ngành; và các
cán bộ của Viện.
Về hoạt động Nghiên cứu thống kê và các phân tích khác:
Để đáp ứng
nhu cầu thống kê cho sự phát triển kinh tế và xã hội của Nhật Bản, Giám đốc
cơ quan nghiên cứu thống kê thuộc Viện đã tập trung nghiên cứu 3 lĩnh vực
chính: Nghiên cứu sử dụng nâng cao các dữ liệu thống kê;
Nghiên cứu xu
hướng công nghệ thống kê; Nghiên cứu và thiết kế các chương trình đào tạo
thống kê mới. Viện phối hợp với các nhà nghiên cứu khác ngoài viện tiến hành
nghiên cứu sử dụng nâng cao dữ liệu thống kê và các dự án nghiên cứu ở các
lĩnh vực khác. Một số chủ đề phối hợp nghiên cứu gần đây, như nghiên cứu
ảnh hưởng của việc giảm tỷ lệ sinh và t
ăng tỷ lệ người cao tuổi đến kinh tế và
xã hội; phân tích thị trường lao động từ phía cung và phía cầu lao động; nghiên
cứu thống kê giữa điều tra thu nhập, chi tiêu của họ gia đình với cuộc điều tra
tiết kiệm của hộ gia đình; nghiên cứu thống kê về tiết kiệm của các hộ gia đình;

nghiên cứu khái niệm hộ gia đình như là một đơn vị thố
ng kê; Phân tích sự đa
dạng hóa các hoạt động của doanh nghiệp

4
Nguyên bản tiếng Anh: Adminitrative Division, Planning Division, Research Office, Statistical Data Centre,
Statistical Library.


22
(3) Viện Thống kê khu vực Chấu Á, Thái Bình Dương
Viện Thống kê Châu Á - Thái Bình Dương (SIAP) của Liên hợp quốc là Viện
hàng đầu trong khu vực về đào tạo cán bộ thống kê nhà nước cho các nước
đang phát triển ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Viện được thành lập vào
năm 1970, từ 1995 trực thuộc Uỷ ban Kinh tế Xã hội Châu Á Thái Bình Dương
(ESCAP). SIAP có nhiệm vụ củng cố năng lực các hệ thống thống kê quốc gia
trong vùng và nâng cao năng lực đào tạo thống kê cũng như các hoạt động liên
quan ở cấp quốc gia. Điều này thể hiện qua công tác đào tạo của SIAP, cán bộ
thống kê được đào tạo có định hướng về mặt thực hành để tạo ra những số liệu
thống kê đáp ứng kịp thời và có chất lượng phục vụ công tác kế hoạch hoá phát
triển kinh tế xã hội. SIAP có m
ột Ban quản lý, tổ chức các phiên họp với tần
suất mỗi năm một kỳ để tư vấn và chỉ đạo hoạt động của SIAP. Các thành viên
hội đồng gồm đại diện nước chủ nhà Nhật Bản và 8 thành viên đại diện cộng
với những thành viên liên đới của ESCAP do Hội đồng bầu chọn ra 5 năm 1
lần. Ban quản lý hiện tại bao gồm đại diện các thành viên bầ
u ra, gồm Trung
Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Iran, Malaysia, Pakistan, Hàn Quốc và Thái Lan. Các
thành viên này được bầu ra cùng với nước chủ nhà Nhật Bản theo nhiệm kỳ 5
năm tại phiên họp lần thứ 61 của Uỷ ban Thống kê tổ chức vào tháng 5/2005

tại Bangkok. Nguồn tài chính của SIAP về cơ bản dựa vào đóng góp của nước
chủ nhà, các thành viên và các thành viên liên đới của ESCAP. Nhiều công
chức thống kê của Việt Nam đã được đào tạo t
ại Viện SIAP này.
Trên cơ sở nghiên cứu tài liệu của một số Viện nghiên cứu và đào tạo
thống kê của một số quốc gia và tổ chức quốc tế, Đề tài rút ra một số nét chung
và bài học sau:
Thứ nhất, hầu hết các cơ quan thống kê quốc gia của nhiều nước đều
hình thành đơn vị nghiên cứu và đào tạo thống kê trực thuộc Cơ quan thống kê
quốc gia. Các đơn vị này được thành lập từ những năm 70 của Thế kỷ trước với
qui mô rất khiêm tốn (chỉ là 1 bộ phận thuộc Vụ, như trường hợp của
Malayxia, Indonexia…), nhưng đến nay đã phát triển lên cấp Viện, Học viện
chuyên nghiên cứu và đào tạo thống kê. Điều này cho thấy, nghiên cứu và đào
tạo thống kê ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết đối v
ới xã hội, nói
chung và cơ quan thống kê quốc gia nói riêng.
Thứ hai, tên gọi các đơn vị thực hiện chức năng nghiên cứu và đào
tạo thống kê này chủ yếu là Viện Nghiên cứu và Đào tạo Thống kê (trong 11
đơn vị được quan sát, có 07 là Viện, 02 là Học viện, 01 là Vụ, và 01 là Trung
tâm). Hầu hết các đơn vị này đều tuyên bố sứ mệnh, tầm nhìn của đơn vị mình
(Phụ lục 3).
Thứ ba,
Viện Nghiên cứu và đào tạo thống kê của các nước có qui mô
lớn so với các đơn vị cấp Vụ thuộc Cơ quan thống kê quốc gia. Chẳng hạn,

23
nhân lực chuyên làm nhiệm vụ nghiên cứu và đào tạo của cơ quan thống kê
Malayxia là thấp nhất cũng có 49 người; Hàn quốc là 81 người; Riêng số giảng
viên của Viện Đào tạo thống kê của Indonexia là 94 người, trong đó có 30 là
giảng viên cơ hữu. Về trụ sở của các Viện nghiên cứu và đào tạo thống kê

thường có trụ sở riêng, nằm ngoài trụ sở chính của Cơ quan thống kê quốc gia.
Th
ứ tư, chức năng chính của các Viện Nghiên cứu và đào tạo thống
kê thuộc cơ quan thống kê quốc gia là nghiên cứu gắn kết với đào tạo, bồi
dưỡng, cập nhật kiến thức cho đội ngũ những người làm công tác thống kê
thuộc hệ thống thống kê nhà nước (thống kê chính thức).

II. Điểm mạnh, điểm yếu của Viện KHTK
2.1.
Kết quả đạt được và những hạn chế
Đến nay, Viện KHTK đã có gần 40 năm hình thành và phát triển (thành
lập từ năm 1976), trong quá trình phát triển của mình, Viện KHTK đã đạt được
một số kết quả chủ yếu như sau:
- Về nghiên cứu khoa học: Từ khi thành lập đến nay, Viện KHTK đã tổ
chức nghiên cứu được gần 400 đề tài khoa học. Riêng giai đoạn 2006-2011 đ
ã
tổ chức nghiên cứu được 99 đề tài, trong đó, có 37 đề tài cấp Bộ (chiếm
37,4%), 62 đề tài cấp cơ sở, (chiếm 62,6%); trong số 99 đề tài nói trên, Viện
KHTK trực tiếp nghiên cứu 24/99 đề tài (chiếm 24,3%); phối hợp với một số
Vụ thuộc cơ quan Tổng cục nghiên cứu 70/99 đề tài (chiếm 70,7%); phối hợp
với một số Cục Thống kê các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ươ
ng nghiên
cứu 5/99 đề tài (chiếm 5,0%). Chi tiết từng đề tài, ghi ở Phụ lục 2 của Báo cáo
này. Kết quả nghiên cứu của các đề tài khoa học này đã góp phần vào việc thực
hiện các nhiệm vụ chính trị của ngành Thống kê là cung cấp thông tin thống kê
với chất lượng ngày càng được cải thiện; và thực hiện nhiệm vụ tham mưu
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về quản lý nhà nước trong lĩnh vự
c thống kê.
Kết quả nghiên cứu của một số đề tài nói trên đã cung cấp luận cứ khoa
học cho việc xây dựng chiến lược, chính sách phát triển thống kê Việt Nam

(Định hướng phát triển Thống kê Việt Nam đến năm 2010[11); Chiến lược phát
triển Thống kê Việt Nam giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2030[2] và
cung cấp luận cứ khoa học để xây dựng các văn bản pháp lý quản lý Nhà nước
trong l
ĩnh vực thống kê (Luật Thống kê và các văn bản dưới Luật)[12].
Phần lớn các đề tài khoa học nói trên đã tập trung nghiên cứu, áp dụng
phương pháp luận và qui trình thống kê theo khuyến nghị của thống kê quốc tế
ở tất cả các lĩnh vực thống kê kinh tế - xã hội. như: Hệ thống tài khoản quốc gia
phiên bản 1993 và nay là phiên bản 2008 của UNSD; thống kê nông, lâm
nghiệp và thủy sản; thống kê công nghiệp, thố
ng kê thương mại, dịch vụ (xuất

24
nhập khẩu, bán buôn, bán lẻ, du lịch, vận tải…); thống kê giá; thống kê dân số
và lao động; thống kê xã hội, môi trường…; Nghiên cứu và áp dụng các bảng
danh mục và phân loại thống kê (Hệ thống ngành kinh tế, Hệ thống ngành sản
phẩm, Danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu, Danh mục nghề nghiệp, Phân loại
thành phần kinh tế…).
Liên kết với các cơ quan, tổ chức ngoài ngành Thống kê thực hiện
nghiên cứu một số
đề tài, dự án, như: Liên kết với Bộ Khoa học và Công nghệ
nghiên cứu, đánh giá tác động của khoa học và công nghệ đối với phát triển
kinh tế của Việt Nam; kết quả nghiên cứu đã giúp Bộ Khoa học và Công nghệ
có được những dữ liệu, các bản phân tích, đánh giá tác động của khoa học và
công nghệ tới sự phát triển kinh tế, xã hội nước ta; liên kết với Viện Nghiên
cứu phát triển Pháp (IRD), nghiên c
ứu khu vực phi chính thức ở Việt Nam
(ngoài các ấn phẩm đã được xuất bản, Viện KHTK đã phối hợp với Viện Khoa
học xã hội Việt Nam, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Tổ chức Lao động
thế giới tại Việt Nam (ILO) tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế về khu vực kinh

tế phi chính thức tại Việt Nam).
- Về thông tin và tư liệu khoa h
ọc thống kê đã đóng góp tích cực trong
việc giới thiệu, hướng dẫn phương pháp luận thống kê đến các đối tượng trong
và ngoài ngành Thống kê. Định kỳ xuất bản các ấn phẩm Tờ Thông tin khoa
học thống kê, Chuyên san khoa học thống kê, kỷ yếu khoa học, tổng luận, tổng
thuật; dịch thuật Trong giai đoạn 2006-2011, Viện KHTK đã viết gần 250
bài đăng trên các tạp chí, chuyên san trong và ngoài ngành Thống kê (Tạp chí
Con s
ố và sự kiện, Tạp chí Thông tin và dự báo kinh tế xã hội, Tờ Thông tin
Khoa học thống kê) và rất nhiều tin, bài đăng trên một số trang thông tin điện
tử (Vietnamnet.com.vn, Vienthongke.vn, gso.gov.vn). Trang thông tin điện tử
của Viện KHTK được đưa vào hoạt động từ đầu năm 2008 đến nay đã có hơn
1 triệu lượt người truy cập. Dịch thuật là một trong các hoạt động phổ biến
thông tin được Viện KHTK chú trọng, đã biên d
ịch được một số tài liệu về
nghiệp vụ thống kê quan trọng từ tài liệu gốc bằng Tiếng Anh, như cuốn sách
có tựa đề “Hướng dẫn thống kê thực hành” của Nhà xuất bản LLC Bedford,
Freeman and Worth, New York; Phương pháp nghiên cứu thống kê chính thức
của UNSD; Hệ thống Tài khoản quốc gia 2008.
- Về quản lý khoa học thống kê của Tổng cục Thống kê là một trong
các chức năng quả
n lý nhà nước về khoa học và công nghệ trong lĩnh vực
thống kê được giao cho Viện KHTK. Mặc dù là đơn vị sự nghiệp, nhưng Viện
KHTK đã thực hiện tốt chức năng này. Viện KHTK đã tham mưu giúp lãnh
đạo Tổng cục xây dựng kế hoạch khoa học và công nghệ hàng năm, 5 năm và
tổ chức nhiều Hội đồng khoa học cấp Tổng cục (Bộ), cấp cơ sở để
xét duyệt,
nghiệm thu kết quả nghiên cứu của gần 400 đề tài khoa học (hàng năm phải tổ


25
chức trên 50 cuộc họp hội đồng khoa học xét duyệt đề cương và nghiệm thu
kết quả nghiên cứu đề tài). Công tác kiểm tra, giám sát tiến độ nghiên cứu các
đề tài được thực hiện thường xuyên. Công tác thẩm định kết quả nghiên cứu
đề tài khoa học cũng được TCTK quan tâm, những đề tài lớn, phức tạp đều
được đọc thẩm định kết quả nghiên cứu trước khi nghiệm thu. Nhờ đó, chấ
t
lượng nghiên cứu các đề tài khoa học đã được nâng cao một bước. Tất cả kết
quả nghiên cứu của đề tài đều thực hiện đăng ký chứng nhận theo Quyết định
số 03/2007/QĐ-BKHCN ngày 16/3/2007. Công tác quản lý kinh phí sự nghiệp
khoa học được thực hiện theo các văn bản của Nhà nước (Ban hành văn bản số
27/VTKE-QL ngày 7/4/2008 hướng dẫn thực hiện Thông tư liên tịch số
44/2007/TTLT-BTC-BKHCN về
định mức xây dựng và phân bổ dự toán đối
với các đề tài, dự án khoa học và công nghệ có sử dụng Ngân sách Nhà nước).
Những kết quả đạt được rất đáng ghi nhận nói trên là nhờ vào sự quan
tâm, chỉ đạo của lãnh đạo Tổng cục, sự phối hợp, ủng hộ của các đơn vị trong
và ngoài Tổng cục, đặc biệt là sự cố gắng, tận tâm, sáng tạo của toàn th
ể cán
bộ, công chức, viên chức qua nhiều thế hệ của Viện KHTK. Tuy nhiên, trong
quá trình hoạt động, Viện KHTK còn có những hạn chế cơ bản như sau.
- Về nghiên cứu, quản lý khoa học, thông tin, đào tạo và hợp tác quốc
tế: Mặc dù trực tiếp nghiên cứu 20% đề tài trong số hàng trăm đề tài của Tổng
cục, nhưng chưa tập trung nguồn lực để nghiên cứu nhằm giải quy
ết triệt để một
hoặc một số vấn đề lớn của ngành, liên ngành. Các đề tài khoa học do Viện trực
tiếp thực hiện rất tản mạn, không có tính kế thừa, và/hoặc không có hướng phát
triển nghiên cứu tiếp theo. Sản phẩm nghiên cứu của Viện chưa trở thành kiến
thức nền tảng phát triển của Viện KHTK nói riêng và Tổng cục Thống kê nói
chung. Thông tin khoa học thống kê chưa

được đổi mới mạnh mẽ về nội dung,
hình thức và cơ chế phổ biến thông tin khoa học thống kê theo yếu tố thị trường.
Kế hoạch nâng cấp Tờ Thông tin lên thành Tạp chí khoa học thống kê đã được
đề cập khá lâu, nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện được. Ấn phẩm thông tin còn
nghèo nàn về chủng loại và hạn chế về chất lượng. Đối tượng được ph
ục vụ
thông tin khoa học chưa được mở rộng, số lượng phát hành còn hạn chế. Chưa
mạnh dạn thực hiện cung cấp thông tin có thu phí. Đào tạo và Hợp tác quốc tế
của Viện KHTK còn rất mờ nhạt, không có tính hệ thống, thiếu tính chuyên
nghiệp. Viện KHTK chưa tạo dựng được những điều kiện cần thiết cho việc
giảng dạy và học tập, như: Ch
ưa bố trí được các công chức, viên chức đảm
nhiệm vị trí công việc này trong nhiều năm; chưa xây dựng được bộ chương
trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ thống kê cho những người làm công tác thống
kê và chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức thống kê và kỹ năng khai thác
số liệu cho các đối tượng sử dụng thông tin thống kê; chưa hình thành được đội
ngũ giảng viên chuyên nghi
ệp của Viện cũng như chưa thành lập được đơn vị (ví
dụ như Trung tâm đào tạo) thực hiện công việc tổ chức đào tạo; trang thiết bị

×