Tải bản đầy đủ (.doc) (145 trang)

Bài giảng môn học Luật kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (699.55 KB, 145 trang )

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

1.1 TỔNG QUAN VỀ NHÀ NƯỚC
1.1.1 Nguồn gốc và bản chất của nhà nước
* Nguồn gốc của nhà nước
- Trong thực tế, ngay từ thời kỳ cổ, trung đại đã có nhiều nhà tư tưởng từ những góc độ tiếp
cận khác nhau đã đưa ra những kiến giải khác nhau về nguồn gốc nhà nước. i) Các nhà tư
tưởng theo thuyết thần học cho rằng: nhà nước là do thượng đế sáng tạo ra để bảo vệ trật tự
chung. ii) Những nhà tư tưởng theo thuyết gia trưởng lại cố gắng chứng minh rằng nhà nước
là kết quả sự phát triển của gia đình, là hình thức tổ chức tự nhiên của cuộc sống con người.
iii) Thuyết khế ước xã hội lại cho rằng: nhà nước là sản phẩm của một khế ước được ký kết
trước hết giữa những con người sống trong trạng thái tự nhiên khơng có nhà nước.
- Nội dung quan điểm của chủ nghĩa Mác về nguồn gốc nhà nước
(i) Nhà nước không phải là hiện tượng vĩnh cửu, bất biến. Nhà nước là một phạm trù
lịch sử, có q trình phát sinh, phát triển và tiêu vong. Nhà nước là lực lượng nảy sinh
từ xã hội, là sản phẩm có điều kiện của xã hội lồi người. Nhà nước chỉ xuất hiện khi
xã hội phát triển đến một mức độ nhất định và tiêu vong khi những điều kiện khách
quan cho sự tồn tại của nó mất đi. Những luận điểm quan trọng về sự xuất hiện nhà
nước đã được Ang-ghen trình bày tập trung trong tác phẩm nổi tiếng “Nguồn gốc của
gia đình, của chế độ tư hữu, của nhà nước”.
(ii) Nhà nước xuất hiện khi nào và bởi những điều kiện gì?
Chế độ cộng sản nguyên thuỷ: Có một thời kỳ rất dài, xã hội lồi người tồn tại
mà khơng có nhà nước. Đó là thời kỳ tiền nhà nước hay còn gọi là thời kỳ cộng
sản nguyên thuỷ. Đặc điểm của thời kỳ này: *) Cơ sở tồn tại: là một nền kinh tế
tự nhiên, con người sống, tồn tại hoàn toàn dựa vào các vật phẩm tự nhiên. Hình
thức lao động khơng mang tính sản xuất (hái lượm và săn bắn). *) Cấu trúc xã
hội: một xã hội khơng có bất cơng, bóc lột, được xây dựng trên cơ sở kinh tế
khơng có sở hữu . *) Chế độ mẫu hệ: quyền lực thuộc về đàn bà, người đàn bà
thời đó quyết định đời sống cộng đồng. Quyền lực của đàn bà không mang tính
chính trị. *) Hình thức tổ chức xã hội: thị tộc, bộ lạc. Một xã hội khơng có nhà


nước nhưng vẫn được tổ chức trên nguyên tắc suy tôn, bình đẳng.
Sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thuỷ và sự xuất hiện của nhà nước. Ở vào
thời kỳ cuối của chế độ cộng sản nguyên thuỷ, nền kinh tế sản xuất ra đời thay
thế nền kinh tế tự nhiên thông qua 3 bước phân công lao động: 1) Chăn nuôi tách
khỏi trồng trọt. 2) Thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp. 3) Buôn bán phát
triển và thương nghiệp xuất hiện. Nền kinh tế sản xuất làm xuất hiện chế độ tư


4

hữu. Và chính chế độ tư hữu đã khiến cho xã hội bị phân chia thành những giai
cấp mâu thuẫn, đối kháng nhau. Chế độ bộ lạc, thị tộc bất lực trước nền kinh tế
sản xuất, chúng sụp đổ là một tất yếu khách quan, một mơ hình xã hội mới ra đời
đó là nhà nước. Như vậy, nhà nước xuất hiện ngay trong quá trình phát triển của
nền kinh tế sản xuất, nhà nước là kết quả phát triển của một giai đoạn lịch sử nhất
định khi nền kinh tế sản xuất thay thế nền kinh tế tự nhiên, chế độ tư hữu xuất
hiện, khi xuất hiện giai cấp, xung đột giai cấp. Nói một cách khác nhà nước xuất
hiện bởi hai nguyên nhân: 1) về kinh tế:chế độ tư hữu xuất hiện. 2) về xã hội: sự
phân chia xã hội thành các giai cấp có lợi ích căn bản đối kháng nhau đến mức
khơng thể điều hồ được.
* Bản chất của nhà nước
- Nhà nước xét về bản chất, trước hết là bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với các
giai cấp khác, là bộ máy để duy trì sự thống trị giai cấp. Nhà nước là công cụ sắc bén nhất
thể hiện và thực hiện ý chí của giai cấp cầm quyền. Nó củng cố và bảo vệ trước hết lợi ích
của giai cấp thống trị trong xã hội.
- Vai trò xã hội, giá trị xã hội của nhà nước. Một nhà nước sẽ khơng thể tồn tại nếu chỉ
phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị mà khơng tính đến lợi ích, nguyện vọng và ý chí của
các giai tầng khác trong xã hội. Vì vậy, ngồi tư cách là bộ máy nhằm duy trì sự thống trị
của giai cấp này đối với giai cấp khác, nhà nước còn là tổ chức quyền lực công, là phương
thức tổ chức đảm bảo lợi ích chung của xã hội. Nhà nước là một cơng cụ tổ chức cuộc sống

cộng đồng, duy trì sự tồn tại, phát triển của xã hội trong một trật tự nhất định.
Bất kỳ nhà nước cũng có hai bản chất trên nhưng chỉ khác nhau ở chỗ mối tương
quan giữa tính giai cấp và tính xã hội. Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội khác nhau, nhà
nước mang bản chất khác nhau. Ngay trong cùng một hình thái kinh tế xã hội, thậm chí
ngay trong một quốc gia thì ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, nhà nước cũng mang bản chất
khác nhau hoặc ít nhất cũng có những nét cơ bản khác nhau.
 Những đặc trưng của nhà nước.
i) Nhà nước thiết lập một quyền lực cơng cộng đặc biệt khơng cịn hồ nhập với dân
cư. Quyền lực cơng cộng này là quyền lực chính trị chung. Chủ thể của quyền lực này
là giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị. Để thực hiện quyền lực, để quản lý xã hội,
nhà nước phải có một tầng lớp người đặc biệt chuyên làm nhiệm vụ quản lý. Lớp
người này được tổ chức thành các cơ quan nhà nước và hình thành một bộ máy đại
diện cho quyền lực chính trị có sức mạnh cưỡng chế để duy trì địa vị của giai cấp
thống trị, bắt các giai cấp khác phải phục túng theo ý chí của giai cấp thống trị.
ii) Nhà nước phân chia dân cư theo các đơn vị hành chính lãnh thổ khơng phụ thuộc
vào chính kiến, huyết thống, nghề nghiệp hoặc giới tính. Lãnh thổ là dấu hiệu đặc
trưng của nhà nước. Nhà nước thực thi quyền lực chính trị trên phạm vi tồn lãnh thổ.
iii) Nhà nước có chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia mang nội dung chính trị pháp lý, nó thể hiện ở quyền tự quyết của nhà nước về chính sách đối nội, đối ngoại,


5

khơng phụ thuộc vào yếu tố bên ngồi. Chủ quyền quốc gia là thuộc tính khơng tách
rời của nhà nước. Chủ quyền quốc gia có tính tối cao.
iv) Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lý bắt buộc đối với mọi công
dân. Nhà nước và pháp luật có mối quan hệ phụ thuộc nhau: khơng thể có nhà nước
mà thiếu pháp luật và ngược lại. Trong xã hội chỉ có nhà nước mới có quyền ban hành
pháp luật.
v) Nhà nước quy định và thực hiện việc thu các loại thuế dưới hình thức bắt buộc.
 Định nghĩa về nhà nước: nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có bộ

máy chun làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện chức năng quản lý xã hội nhằm thể hiện
và bảo vệ trước hết lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội
1.1.2 Kiểu, hình thức nhà nước
* Kiểu nhà nước.
- Khái niệm: Kiểu nhà nước là tổng thể các dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản của nhà nước thể
hiện bản chất giai cấp, vai trò xã hội và những điều kiện phát sinh, tồn tại và phát triển của
nhà nước trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Học thuyết Mác – Lênin về hình thái
kinh tế xã hội chính là cơ sở khoa học để phân chia các nhà nước trong lịch sử thành từng
kiểu nhà nước.
- Sự thay thế các kiểu nhà nước. Giống như sự thay thế các hình thái kinh tế xã hội, sự thay
thế kiểu nhà nước này bằng kiểu nhà nước khác cũng là một q trình lịch sử tự nhiên. Q
trình đó có mấy đặc điểm sau: a) mang tính tất yếu khách quan, b) được thực hiện bằng một
cuộc cách mạng, c) kiểu nhà nước sau bao giờ cũng tiến bộ và hoàn thiện hơn kiểu nhà nước
trước.
- Trong lịch sử nhân loại từ khi xuất hiện xã hội có giai cấp đã tồn tại bốn kiểu quan hệ sản
xuất: chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Tương ứng với 4
kiểu cơ sở hạ tầng ấy là bốn kiểu nhà nước: nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà
nước tư sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước chủ nô
Cơ sở kinh tế
Cấu trúc xã
hội

Cơ sở
tưởng



Nhà nước phong
kiến

tư hữu chủ nô
tư hữu phong kiến
xã hội có hai giai cấp xã hội có hai giai cấp
cơ bản: chủ nô – nô địa chủ và tá điền có
lệ đối kháng tuyệt quan hệ đối kháng
đối

đa thần, đa giáo

quốc đạo

Nhà nước tư sản

Nhà nước xã hội
chủ nghĩa
chế độ công hữu
liên minh giai cấp,
các giai cấp tồn tại
nhưng khơng có mâu
thuẫn đối kháng.

tư hữu tư sản
xã hội gồm giai cấp
tư sản, vô sản và
nhiều giai cấp khác
Quan hệ đối kháng
được nguỵ trang
mềm dẻo hơn
đa nguyên
chủ nghĩa Mác –

Lênin

Bảng 1.1: Các kiểu nhà nước


6

* Hình thức nhà nước.
- Hình thức nhà nước nói lên cách thức tổ chức quyền lực nhà nước, tức là phương thức
chuyển ý chí của giai cấp thống trị thành ý chí nhà nước. Hình thức nhà nước do bản chất và
nội dung của nhà nước quy định.
- Hình thức nhà nước bao gồm các yếu tố: hình thức chính thể, hình thức cấu trúc, chế độ
chính trị.
 Hình thức chính thể là hình thức tổ chức các cơ quan quyền lực tối cao, cơ cấu, trình
tự thành lập và mối liên hệ của chúng với nhau cũng như mức độ tham gia của nhân
dân vào việc thiết lập các cơ quan này. Hình thức chính thể gồm hai dạng cơ bản là
chính thể quân chủ và chính thể cộng hoà. Nếu quyền lực tối cao của nhà nước tập
trung toàn bộ hay một phần trong tay người đứng đầu nhà nước theo ngun tắc thừa
kế thì chính thể đó là chính thể qn chủ và nhà nước là nhà nước quân chủ. Nếu
quyền lực nhà nước được thực hiện bởi các cơ quan đại diện do bầu ra trong một thời
hạn nhất định thì hình thức chính thể đó có tên gọi là chính thể cộng hồ và nhà nước
gọi là nhà nước cộng hồ.
 Hình thức cấu trúc nhà nước: là sự tổ chức nhà nước theo các đơn vị hành chính lãnh
thổ và tính chất quan hệ giữa các bộ phận cấu thành nhà nước, giữa cơ quan nhà nước
trung ương với các cơ quan nhà nước ở địa phương. Có hai hình thức cấu trúc nhà
nước chủ yếu là nhà nước đơn nhất và nhà nước liên bang.
 Nhà nước đơn nhất là nhà nước có lãnh thổ tồn vẹn, thống nhất, các bộ phận
hợp thành nhà nước là các đơn vị hành chính lãnh thổ khơng có chủ quyền
quốc gia, mối quan hệ quyền lực giữa chính quyền trung ương và chính quyền
địa phương mang tính chất trực thuộc rõ ràng, cấp dưới phục tùng cấp trên,

địa phương phục tùng trung ương, nhà nước được tổ chức và hoạt động trên
cơ sở một hiến pháp và một hệ thống pháp luật thống nhất, đồng thời nó có hệ
thống các cơ quan nhà nước thống nhất từ trung ương đến địa phương. Các
nhà nước đơn nhất là Việt Nam, Trung Quốc, Pháp…
 Trong nhà nước liên bang thì khơng chỉ liên bang có các dấu hiệu của nhà
nước, mà các nhà nước thành viên ở mức độ này hay mức độ khác cũng có các
dấu hiện của nhà nước, chủ quyền quốc gia. Trong nhà nước liên bang có hai
hệ thống cơ quan nhà nước và hệ thống pháp luật: một của liên bang, một của
các bang thành viên. Các nhà nước liên bang gồm: Mỹ, Ấn độ,…
 Chế độ chính trị: là tồn bộ các phương pháp, cách thức, phương tiện mà các cơ quan
nhà nước sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước. Chế độ chính trị thể hiện những
đặc điểm của nhà nước từ góc độ dân chủ hay phi dân chủ, các quyền tự do dân chủ
của công dân, mức độ tham gia của họ vào quá trình thiết lập các cơ quan chính quyền
nhà nước và thức hiện các chính sách của nhà nước. Nhân tố chủ đạo trong khái niệm
chế đọ chính trị là phương pháp cai trị và quản lý xã hội của giai cấp cầm quyền. Các
chế độ chính trị của các nhà nước trong lịch sử rất đa dạng, nhưng tựu trung lại chúng


7

gồm hai loại chính: chế độ phản dân chủ (chế độ chun chế của chủ nơ, phong kiến,
phát xít) và chế độ dân chủ (dân chủ tư sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa)
1.1.3 Bộ máy nhà nước
* Khái niệm bộ máy nhà nước
- Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương được tổ
chức theo những nguyên tắc chung thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ thực hiện các
chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
- Cơ quan nhà nước là một bộ phận cấu thành bộ máy nhà nước. Đó là tổ chức nhà nước có
tính độc lập tương đối, có thẩm quyền và thành lập theo quy định của pháp luật, nhân danh
nhà nước thực hiện nhiệm vụ và chức năng của nhà nước bằng những hình thức và phương

thức đặc thù.
+ Về mặt cơ cấu, cơ quan nhà nước là một tổ chức hoàn chỉnh có tính độc lập tương
đối so với các tổ chức khác trong việc thực hiện thẩm quyền mà pháp luật trao.
+ Đặc điểm cơ bản của cơ quan nhà nước (đặc điểm cho phép phân biệt với các cơ
quan, tổ chức khác) là tính quyền lực nhà nước. Tính quyền lực nhà nước thể hiện ở
chỗ các cơ quan nhà nước đều có thẩm quyền được pháp luật quy định chặt chẽ - đó là
tổng thể các quyền và nghĩa vụ mà nhà nước trao cho cơ quan nhà nước. Yếu tố cơ bản
của thẩm quyền là quyền ra các quyết định có tính bắt buộc các chủ thể có liên quan
phải thi hành.
+ Các cơ quan nhà nước được thành lập và hoạt động trên cơ sở luật và các văn bản
pháp luật khác. Điều đó có nghĩa là một cơ quan nhà nước chỉ được thành lập khi đã
có một văn bản pháp luật quy định về việc này.
* Các bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước
(1) Cơ quan lập pháp (cơ quan quyền lực nhà nước)
- Cơ quan quyền lực nhà nước do dân trực tiếp bầu ra, nhân danh nhân dân thực hiện một
cách thống nhất quyền lực nhà nước và báo cáo trước nhân dân. Hệ thống các cơ quan này
là nền móng, xương sống của bộ máy nhà nước. Tất cả các cơ quan nhà nước khác đều bắt
nguồn từ cơ quan quyền lực nhà nước, do cơ quan quyền lực nhà nước trực tiếp hoặc gián
tiếp thành lập.
- Cơ quan quyền lực nhà nước gồm:
 Quốc hội: là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, là cơ quan duy nhất có quyền lập
hiến, lập pháp, quyết định những chính sách và các vấn đề quan trọng nhất của đất
nước, thực hiện quyền giám sát tối cao việc thi hành hiến pháp, pháp luật. Trong hệ
thống các cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất cịn có cơ quan thường trực của quốc
hội, gọi là uỷ ban thường vụ quốc hội. Cơ quan này do quốc hội bầu ra, chịu trách
nhiệm và báo cáo công tác trước quốc hội trong thời gian giữa hai kỳ họp của quốc hội
và thực hiện các kỳ họp của quốc hội, chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động của các
hội đồng và uỷ ban quốc hội, các đại biểu quốc hội.



8

 Hội đồng nhân dân các cấp được thành lập theo các đơn vị hành chính lãnh thổ tương
ứng, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa
phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
(2) Cơ quan hành pháp.
- Đây là cơ quan quản lý mọi mặt hoạt động của đất nước. Hệ thống cơ quan hành pháp bao
gồm:
 Ở trung ương: i) Chính phủ: có nhiệm vụ quản lý thống nhất mọi lĩnh vực hoạt động
của nhà nước, đứng đầu chính phủ là thủ tướng chính phủ. Chính phủ do Quốc hội bầu
ra, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội ii) các Bộ, cơ quan ngang bộ,
cơ quan thuộc chính phủ là cơ quan hành chính ở trung ương chịu trách nhiệm quản lý
thống nhất các ngành, các lĩnh vực
 Ở địa phương: i) Uỷ ban nhân dân các cấp: do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan
hành pháp cấp trên. ii) Sở, phòng, ban: là các cơ quan quản lý ngành ở địa phương,
trực thuộc uỷ ban nhân dân và cơ quan quản lý ngành cấp trên.
(3) Cơ quan tư pháp
- Cơ quan xét xử: có chức năng xét xử, giải quyết các vụ án nhằm bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa. Cơ quan xét xử bao gồm: toà án nhân dân tối cao, toà án nhân dân các cấp, toà án
quân sự. Đứng đầu toà án là Chánh án, chánh án chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước
cơ quan lập pháp cùng cấp, đối với chánh án toà án nhân dân tối cao, trong thời gian Quốc
hội khơng họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội
và Chủ tịch nước. Toà án hoạt động theo nguyên tắc cơ bản sau: xét xử cơng khai, có sự
tham gia của hội thẩm nhân dân, trong quá trình xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân
độc lập chỉ tuân theo pháp luật.
- Cơ quan kiểm sát: gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân dân các cấp,
viện kiểm sát quân sự thực hiện quyền công tố trong phạm vi thẩm quyền do luật định bảo
đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Để đảm bảo tính thống nhất

của pháp chế, hệ thống viện kiểm sát được tổ chức theo nguyên tắc thủ trưởng và trực thuộc
chặt chẽ theo chiều dọc. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn
nhiệm, bãi nhiệm, có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức tất cả các thành viên của
các viện kiểm sát cấp dưới.
1.2 TỔNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT
1.2.2 Bản chất của pháp luật
- Định nghĩa pháp luật: Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành (hoặc
thừa nhận) và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là yếu tố
điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm tạo ra trật tự và ổn định trong xã hội.


9

- Bản chất của pháp luật thể hiện trước hết ở tính giai cấp của nó.
(1) Về bản chất, pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị được nhà nước thể chế
hố. Nơi dung của ý chí đó được đảm bảo bằng lực lượng vật chất của giai cấp thống
trị. Nói một cách khác pháp luật vừa là một phạm trù khách quan vừa là một phạm trù
chủ quan. Điều đó có nghĩa là: pháp luật do các nhu cầu kinh tế - xã hội quy định
nhưng các nhu cầu ấy lại thông qua sự đánh giá chủ quan của nhà làm luật. Sự đánh
giá chủ quan này không đơn thuần là một dạng ý thức tư tưởng phản ánh hiện thực mà
còn là sự mong muốn có ý chí của giai cấp thống trị nhằm tác động vào trật tự các
quan hệ xã hội
(2) Tính giai cấp của pháp luật cịn thể hiện ở mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Pháp luật, đó là nhân tố điều chỉnh về mặt giai cấp các mối quan hệ xã hội nhằm định
hướng cho các quan hệ xã hội phát triển theo một mục tiêu, một trật tự phù hợp với ý
chí của giai cấp thống trị, bảo vệ, củng cố địa vị của giai cấp thống trị
-

Bên cạnh tính giai cấp, khơng thể coi nhẹ giá trị xã hội to lớn của pháp luật. Giá trị xã


hội của pháp luật đó là ích lợi của pháp luật đối với xã hội do các thuộc tính cơ bản của nó
quy định.
(1) Pháp luật là quy luật khách quan của xã hội
(2) Pháp luật là thước đo để kiểm tra hành vi con người, là công cụ kiểm nghiệm các
quá trình, hiện tượng xã hội, là phương tiện chứa đựng các giá trị xã hội đưa đến cho
con người những lượng thông tin nhất định về các yêu cầu, các giá trị mà xã hội có, xã
hội cần và xã hội sẽ ủng hộ.
(3) Pháp luật là phương tiện điều chỉnh các quan hệ xã hội, đảm bảo cho các quan hệ
xã hội tồn tại, phát triển hợp quy luật, đúng quy luật.
- Tính dân tộc của pháp luật: pháp luật phản ánh những phong tục, tập quán, đặc điểm lịch

sử, trình độ văn minh văn hố của dân tộc. Có như vậy pháp luật mới "gần gũi"với mỗi
người, dễ được mọi người chấp nhận và tuân thủ.
- Tính mở của pháp luật: pháp luật của mỗi quốc gia phải là một hệ thống mở, sẵn sàng tiếp

nhận những thành tựu của nền văn minh, văn hoá pháp lý của nhân loại để làm giàu cho
mình
1.2.2 Các thuộc tính của pháp luật
-

Thuộc tính của pháp luật là những tính chất, dấu hiệu riêng biệt, đặc trưng của pháp

luật. Thuộc tính của pháp luật là cái để phân biệt pháp luật với các hiện tượng xã hội khác,
trước hết với những hiện tượng xã hội như đạo đức, tập qn,… Pháp luật có ba thuộc tính
sau:


10

(i) Thuộc tính thứ nhất: tính quy phạm bắt buộc chung (quy phạm phổ biến). Nói đến

pháp luật là phải nói đến những quy phạm của nó. Quy phạm là tế bào của pháp luật,
chứa đựng những nguyên tắc, khuôn mẫu, mơ hình xử sự chung. Tính quy phạm của
pháp luật khác với các quy phạm xã hội khác ở tính tuyệt đối của sự bắt buộc chung
(sự bắt buộc chung khách quan: khơng phụ thuộc vào ý chí của con người). Tính quy
phạm của pháp luật có tính "trội"hơn so với các quy phạm xã hội khác vì pháp luật do
nhà nước đặt ra, được nhà nước chính thức thừa nhận.
(ii) Thuộc tính thứ hai: tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức.Tính xác định về mặt
hình thức là sự thể hiện nội dung của pháp luật trong những hình thức nhất định và
bằng một ngơn ngữ rõ ràng, chính xác. Tính xác định chặt chẽ nhằm đảm bảo nguyên
tắc "bất kỳ ai được đặt vào những điều kiện ấy cũng khơng thể làm khác được".
(iii) Thuộc tính thứ ba: tính cưỡng chế và được bảo đảm bằng nhà nước (hay cịn gọi
là tính quyền lực nhà nước). Sự bảo đảm bằng nhà nước điều đó có nghĩa là: pháp luật
do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, nhà nước đã trao cho các quy phạm pháp
luật tính quyền lực nhà nước, bắt buộc đối với mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cưỡng
chế là thuộc tính thể hiện bản chất giai cấp của pháp luật. Tính cưỡng chế của pháp
luật ln tồn tại cùng với sự tồn tại của pháp luật. Việc cưỡng chế buộc mọi người
phải thi hành nghiêm chỉnh pháp luật.
1.2.3 Các hình thức của pháp luật
- Pháp luật cũng giống như mọi hiện tượng xã hội, có hình thức thể hiện và hình thức tồn tại
riêng của nó. Trong khoa học pháp lý, thường quan niệm: hình thức của pháp luật là khái
niệm dùng để chỉ ranh giới tồn tại của pháp luật trong hệ thống các quy phạm xã hội, là hình
thức biểu hiện ra bên ngồi của pháp luật, đồng thời đó cũng là phương thức tồn tại, dạng
tồn tại thực tế của pháp luật.
- Hai dạng hình thức của pháp luật
(1) Hình thức bên trong của pháp luật (cấu trúc của pháp luật) bao gồm các nguyên
tắc chung của pháp luật, hệ thống pháp luật, ngành luật, chế định pháp luật và quy
phạm pháp luật.
+ Nguyên tắc chung của pháp luật là những quy tắc được ghi nhận có tác dụng
định hướng và chỉ đạo toàn bộ hệ thống pháp luật
+ Hệ thống pháp luật là cơ cấu bên trong của pháp luật, được quy định một cách

khách quan bởi các điều kiện kinh tế - xã hội, biểu hiện ở sự phân chia hệ thống
ấy thành các bộ phận cấu thành khác nhau, phù hợp với đặc điểm, tính chất của
các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh nhưng giữa các bộ phận khác nhau ấy có
mối quan hệ qua lại chặt chẽ và thống nhất. Hệ thống pháp luật được chia thành


11

các ngành luật. Các ngành luật lại chia thành các chế định pháp luật. Các chế
định pháp luật bao gồm các quy phạm pháp luật.
+ Quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận. Quy phạm pháp luật là "tế bào" - đơn vị nhỏ nhất
của toàn bộ hệ thống pháp luật của quốc gia. Cấu trúc của quy phạm pháp luật
gồm ba bộ phận: giả định, quy định, chế tài.
i)
Giả định: thường nói về địa điểm, thời gian, các chủ
thể, các hoàn cảnh thực tế mà trong đó mệnh lệnh của qui phạm được thực
hiện.
ii)
Qui định: là yếu tố trung tâm của qui phạm pháp luật,
trong đó nêu qui tắc xử sự buộc mọi chủ thể phải xử sự theo khi ở hoàn
cảnh đã nêu trong phần giả định của qui phạm.
iii)
Chế tài: là bộ phận của qui phạm pháp luật nêu lên
những biện pháp tác động mà nhà nước dự kiến áp dụng đối với chủ thể
không thực hiện đúng mệnh lệnh của nhà nước đã nêu trong bộ phận qui
định của qui phạm pháp luật
+ Chế định pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm
các quan hệ xã hội cùng loại, đồng tính chất trong cùng một ngành luật.
+ Ngành luật là một tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh một lĩnh vực

quan hệ xã hội (các quan hệ xã hội phát sinh trong một lĩnh vực nhất định của đời
sống xã hội) bằng những phương pháp đặc thù riêng. Các ngành luật phân biệt
nhau bởi đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh, trong đó yếu tố đối
tượng điều chỉnh giữ vai trị chủ đạo. Các ngành luật trong hệ thống pháp luật
Việt nam gồm:
(i) Luật nhà nước (còn gọi là luật Hiến pháp): gồm tổng thể các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ cơ bản về: tổ chức quyền lực nhà nước,
chế độ chính trị, kinh tế, văn hố, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Luật nhà nước là ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật, bởi nó là
ngành luật điều chỉnh những quan hệ xã hội quan trọng nhất của quốc gia
và tất cả những ngành luật khác đều được hình thành trên cơ sở những
nguyên tắc của luật nhà nước.
(ii) Luật hành chính: điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh
vực quản lý hành chính nhà nước. Những quan hệ này có thể gọi là những
quan hệ chấp hành - điều hành của nhà nước trên các lĩnh vực hành chính chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.


12

(iii) Luật hình sự: là tổng thể những quy phạm pháp luật xác định hành vi
nguy hiểm nào là tội phạm,đồng thời quy định hình phạt đối với người có
hành vi phạm tội. Đối tượng điều chỉnh của LHS là quan hệ xã hội phát
sinh giữa nhà nước và người phạm tội khi người này thực hiện tội phạm
(iv) Luật dân sự: gồm tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ tài sản mang tính chất hàng hoá - tiền tệ và một số quan hệ nhân
thân trên cơ sở bình đẳng, độc lập của các chủ thể tham gia quan hệ.
(v) Luật đất đai: là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan
hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực bảo vệ, quản lý và sử dụng đất, trong đó
đất đai là tư liệu sản xuất thuộc sở hữu nhà nước, do nhà nước thống nhất
quản lý theo quy hoạch và kế hoạch chung

(vi) Luật hơn nhân gia đình: bao gồm tổng thể những quy phạm pháp luật
điều chỉnh các quan hệ nhân thân và tài sản phát sinh do việc kết hôn giữa
nam và nữ như: điều kiện kết hôn, quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, giữa
cha mẹ và con cái nhằm bảo đảm chế độ hôn nhân tự do, tiến bộ, bình đẳng
nam nữ, xây dựng gia đình hạnh phúc, bảo vệ lợi ích của bà mẹ và trẻ em,
chăm sóc giáo dục con cái.
(vii) Luật lao động: là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Đối tượng điều chỉnh của luật lao động là các quan hệ về sử dụng lao động
(quan hệ lao động) và các quan hệ phát sinh trong quá trình sử dụng lao
động (quan hệ liên quan đến quan hệ lao động).
(viii) Luật tài chính bao gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh những
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hình thành, phân phối và sử dụng
các quỹ tiền tệ của các chủ thể thực hiện hoạt động phân phối của cải dưới
hình thức giá trị
(ix) Luật tố tụng hình sự: gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình khởi tố, điều tra,truy tố, xét xử và
kiểm sát việc điều tra, xét xử những vụ án hình sự. Luật tố tụng hình sự
cũng quy định những nguyên tắc, thủ tục và điều kiện để tiến hành điều tra,
kiểm sát và xét xử các vụ án hình sự, quyền và nghĩa vụ của người tham gia
tố tụng hình sự.
(x) Luật tố tụng dân sự: là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh
các quan hệ giữa cơ quan xét xử, đương sự và những người tham gia khác
trong quá trình điều tra và giải quyết các vụ án dân sự, thương mại.


13

(xi) Luật quốc tế: Bên cạnh hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, còn tồn tại
hệ thống pháp luật quốc tế. Những quy phạm của luật pháp quốc tế được

hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa các quốc gia và thể hiện ý chí chung
của các quốc gia đó. Luật quốc tế gồm hai bộ phận: 1) Cơng pháp quốc tế:
là tổng hợp những nguyên tắc, những chế định, những quy phạm được các
quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế xây dựng trên cơ sở thoả
thuận tự nguyện và bình đẳng, nhằm điều chỉnh các quan hệ nhiều mặt giữa
chúng. 2) Tư pháp quốc tế: điều chỉnh nhóm quan hệ pháp luật dân sự mang
tính chất quốc tế.
(2) Hình thức bên ngồi của pháp luật (nguồn của pháp luật) là sự biểu hiện ra bên
ngoài của pháp luật. Nguồn của pháp luật bao gồm: tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn
bản quy phạm pháp luật.
(i)Tập quán pháp: là những tập quán hình thành và lưu truyền trong xã hội, phù
hợp với lợi ích của giai cấp thống trị được nhà nước thừa nhận, làm cho chúng
trở thành những quy tắc xử sự chung và được nhà nước bảo đảm thực hiện.
(ii) Tiền lệ pháp: là các quyết định của cơ quan hành chính hoặc cơ quan xét xử
được nhà nước thừa nhận là khuôn mẫu để giải quyết những vụ tương tự.
(iii) Văn bản quy phạm pháp luật: là sản phẩm của quá trình sáng tạo pháp luật,
là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự và dưới
hình thức nhất định, có chứa đựng các quy tắc xử sự chung nhằm điều chỉnh một
loại quan hệ xã hội nhất định, được áp dụng nhiều lần trong thực tiễn đời sống và
việc thực hiện văn bản đó khơng làm chấm dứt hiệu lực của nó.
Ở Việt nam, tập qn pháp và tiền lệ pháp khơng được chính thức thừa nhận là nguồn
của pháp luật. Có thể nói văn bản pháp luật là hình thức duy nhất có tính chính thức
của pháp luật Việt nam. Theo Hiến pháp 92, các văn bản quy phạm pháp luật bao gồm:
văn bản luật và văn bản dưới luật.
Văn bản luật: là văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội - cơ quan đại diện cao
nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ban hành. Trình tự, thủ
tục, hình thức ban hành văn bản luật được quy định tại điều 84, 88, 147 Hiến
pháp 92. Văn bản luật có giá trị pháp lý cao nhất. Văn bản luật có hai hình thức:
Hiến pháp và các đạo luật (hoặc bộ luật).
(i) Hiến pháp là luật cơ bản có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống các

văn bản pháp luật. Đặc trưng của Hiến pháp thường là quy định hệ thống
chính quyền trong một nước và các quyền cơng dân. Nó quy định các vấn
đề cơ bản nhất của quốc gia như: hình thức, bản chất nhà nước, chế độ


14

chính trị, chế độ kinh tế, các vấn đề chủ yếu về văn hố, xã hội, khoa học,
cơng nghệ, an ninh, quốc phòng, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,
hệ thống tổ chức, nguyên tắc hoạt động và thẩm quyền của các cơ quan nhà
nước.
(ii) Các đạo luật, bộ luật cũng là văn bản do Quốc hội ban hành để cụ thể
hoá Hiến pháp, điều chỉnh các loại quan hệ xã hội trong các lĩnh vực đời
sống nhà nước và xã hội. Nước ta có Bộ luật hình sự, bộ luật dân sự, bộ luật
tố tựng hình sự, bộ luật tố tụng dân sự,…. Còn các đạo luật thì được ban
hành với số lượng khá lớn: luật hơn nhân gia đình, luật đất đai, luật doanh
nghiệp, luật phá sản doanh nghiệp,…
Văn bản dưới luật là những văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành theo trình tự, thủ tục và hình thức được luật quy định và có hiệu lực pháp lý
thấp hơn các văn bản luật. Theo Hiến pháp 92, nước ta có những văn bản dưới
luật sau đây:
(i) Nghị quyết của Quốc hội. Mặc dù đây cũng là văn bản của Quốc hội
nhưng về nguyên tắc nó có hiệu lực thấp hơn luật, phải phù hợp với luật.
Nghị quyết của Quốc hội thường được ban hành để giải quyết các vấn đề
quan trọng thuộc thẩm quyền của Quốc hội nhưng thường mang tính chất
nhất thời hoặc tính cụ thể (ví dụ: chia tỉnh, thành lập bộ, về tăng cường
chống buôn lậu,…)
(ii) Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Pháp lệnh có
hiệu lực pháp lý thấp hơn so với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc
hội, nhưng nó lại là văn bản có hiệu lực cao nhất trong các văn bản dưới

luật khác. Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ quốc hội thường chỉ ban hành
để giải quyết những vấn đề cụ thể hoặc mang tính chất tổ chức - nội bộ (ví
dụ: ấn định ngày bầu cử, thành lập các tổ chức bầu cử,…)
(iii) Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước. Chủ tịch nước là chế định mới ở
nước ta so với Hiến pháp 1980, đó là người thay mặt cho nhà nước về đối
nội và đối ngoại. Lệnh và quyết định của Chủ tịch nước, theo ý nghĩa của
Hiến pháp, khơng mang tính quy phạm, khơng phải để cụ thể hố Hiến
pháp cũng như khơng phải để chỉ đạo hoạt động hành pháp. Đó là loại văn
bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn văn bản của Quốc hội, dường như ngang
với văn bản của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và cao hơn văn bản của Chính
phủ và mọi cơ quan nhà nước khác. Nghĩa là văn bản của Chính phủ và mọi


15

cơ quan khác ở Trung ương và địa phương đều không được trái với văn bản
của Chủ tịch nước.
(iv) Nghị quyết, nghị định của Chính phủ là những văn bản được ban hành
nhân danh tập thể Chính phủ. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội
và là cơ quan hành chính cao nhất của nhà nước, có trách nhiệm bảo đảm
thi hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh và quản lý thống nhất mọi lĩnh vực kinh
tế, hành chính, chính trị, văn hố, xã hội trong phạm vi cả nước. Nghị quyết
và nghị định của Chính phủ là phương tiện pháp lý cơ bản mà Chính phủ sử
dụng để thực hiện nhiệm vụ, chức năng của mình. Điều đó quy định các đặc
trưng của loại văn bản này: *) có hiệu lực pháp lý thấp hơn văn bản của
Quốc hội, chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, *) phải phù hợp với
chúng, nếu mâu thuẫn với chúng sẽ bị đình chỉ, sửa đổi hoặc bãi bỏ; *) mặt
khác, nó là loại văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất so với các văn bản
dưới luật còn lại (văn bản của Bộ, Uỷ ban nhân dân, hội đồng nhân dân,…)
Quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ là phương tiện pháp luật mà

Thủ tướng sử dụng trong hoạt động điều hành Chính phủ, chỉ đạo, giám sát
hoạt động của mọi cơ quan nhà nước thuộc Chính phủ ở Trung ương và địa
phương. Trong quan hệ với các văn bản pháp luật khác, văn bản của Thủ
tướng có vai trị như văn bản của tập thể Chính phủ.
(v) Quyết định, chỉ thị, thông tư của các bộ, cơ quan ngang Bộ. Để thi hành
luật, pháp lệnh, các văn bản của Chính phủ và Thủ tướng, trong phạm vi
quyền hạn của mình, các Bộ, cơ quan ngang Bộ ban hành các văn bản dưới
hình thức quyết định, chỉ thị, thơng tư. Xuất phát từ vị trí của Bộ, cơ quan
ngang Bộ, nên văn bản của chúng có hiệu lực thấp hơn văn bản của Chính
phủ, Thủ tướng và các cơ quan cấp trên khác, phải phù hợp với chúng, và
về nguyên tắc, có hiệu lực pháp lý cao hơn văn bản của các cơ quan quản lý
nhà nước ở địa phương về những vấn đề mà những cơ quan này được nhà
nước giao quản lý thống nhất trong cả nước.
(vi) Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp. Hội đồng nhân dân các cấp
là cơ quan đại diện của nhân dân địa phương có quyền ra các nghị quyết để
điều chỉnh các quan hệ xã hội trên các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của mình.
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân phải phù hợp với, không được trái,
không mâu thuẫn với pháp luật, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp trên
và văn bản của Uỷ ban nhân dân cấp trên.
(vii) Quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân các cấp. Trong phạm vi thẩm
quyền luật định, Uỷ ban nhân dân các cấp ra quyết định, chỉ thị để thực hiện


16

những văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và hội đồng nhân dân cùng
cấp, và để điều hành hoạt động quản lý nhà nước ở địa phương.
 Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật. Các quy phạm pháp luật tồn tại
trong các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực điều chỉnh trong những giới
hạn xác định. Điều đó có nghĩa là hiệu lực điều chỉnh các quan hệ xã hội bị giới

hạn trong phạm vi khơng gian, thời gian và nhóm người. Những giới hạn này
được thiết lập có thể bằng con đường chỉ ra một cách trực tiếp trong quy phạm
pháp luật đó, hoặc có thể bằng những quy định chung về hiệu lực thời gian,
khơng gian, nhóm người trong văn bản quy phạm pháp luật đó. Dưới đây sẽ
nghiên cứu cụ thể từng phạm vi hiệu lực.
(i) Hiệu lực theo thời gian: là thời điểm phát sinh và chấm dứt hiệu lực của
một văn bản quy phạm pháp luật. Hiệu lực của các văn bản quy phạm pháp
luật theo thời gian có liên quan đến hiệu lực hồi tố. Nói chung, pháp luật
nước ta khơng có hiệu lực hồi tố. Ngun tắc pháp luật khơng có hiệu lực
hồi tố có nghĩa là một văn bản quy phạm pháp luật được thông qua chỉ điều
chỉnh các quan hệ xã hội xuất hiện sau khi văn bản ấy có hiệu lực mà khơng
mở rộng hiệu lực đối với các quyền và nghĩa vụ đã thực hiện. Tuy nhiên
cũng có một vài trường hợp ngoại lệ. Một văn bản có hiệu lực hồi tố chỉ
trong trường hợp nếu như sự quay trở lại ấy là phù hợp với lợi ích xã hội.
Thường trong Bộ luật hình sự có một vài trường hợp có quy định hiệu lực
hồi tố đối với một vài tội nguy hiểm tới an ninh quốc gia. Nguyên tắc nhân
đạo của pháp luật còn thể hiện ở việc cho phép quy định hiệu lực hồi tố đối
với trường hợp khi nhà làm luật quy định một hình phạt nhẹ hơn đối với
một vi phạm pháp luật mà trong quá khứ đã được quy định hình phạt nặng
hơn hoặc trong trường hợp quy định không xử phạt đối với một hành vi mà
trước đó quy định phải chịu hình phạt.
(ii) Hiệu lực theo không gian: là giới hạn phạm vi lãnh thổ mà văn bản đó
có hiệu lực. Nguyên tắc chung là: *) Hiến pháp, luật, pháp lệnh và các văn
bản quy phạm pháp luật của các cơ quan quản lý hành chính - nhà nước ở
trung ương có hiệu lực trên tồn lãnh thổ nước ta. *) Các văn bản quy
phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân chỉ có hiệu lực
thi hành trong phạm vi lãnh thổ của địa phương mình.
(iii) Hiệu lực của các văn bản quy phạm pháp luật trong khơng gian có quan
hệ chặt chẽ với hiệu lực của nó theo nhóm người (theo đối tượng thi hành).
Nguyên tắc chung là: pháp luật có hiệu lực đối với tất cả các cá nhân ở trên

lãnh thổ của nhà nước, tuy nhiên cũng có những trường hợp ngoại lệ. Điều


17

ngoại lệ đó xuất phát từ đặc điểm của quan hệ xã hội và từ các điều ước
quốc tế.
1.3 PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
1.3.1 Quan niệm truyền thống về pháp luật kinh doanh
-

Mơ hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung với sự thống trị của khu vực kinh tế nhà nước và

kinh tế tập thể, hạn chế tự do khế ước, thủ tiêu cạnh tranh cũng như áp dụng mệnh lệnh
hành chính trong quản lý kinh tế đã là lý do sản sinh ra ngành luật kinh tế theo mơ hình Xơ
viết với các đặc điểm sau:
(i) Sự can thiệp của công quyền vào các hoạt động sản xuất kinh doanh.
(ii) Hoạt động kinh tế và việc quản lý các hoạt động đó hồ nhập thành một lĩnh vực
thống nhất.
(iii) Yếu tố tổ chức, kế hoạch và tài sản gắn liền với nhau. Các quan hệ kinh tế do luật
kinh tế điều chỉnh luôn chứa đựng trong mình hai yếu tố: yếu tố tổ chức - kế hoạch và
tài sản.
(iv) Chủ thể của Luật kinh tế luôn là những cơ quan, tổ chức kinh tế - được coi là
những pháp nhân.
(v) Phương pháp điều chỉnh của luật kinh tế là sự kết hợp giữa thương lượng, bình
đẳng và mệnh lệnh hành chính.
- Như vậy là, theo quan niệm truyền thống ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa trước đây, luật
kinh tế được coi là một ngành luật độc lập, điều chỉnh những quan hệ kinh tế phát sinh trong
quá trình quản lý, lãnh đạo kinh tế của nhà nước và tổ chức thực hiện các hoạt động sản xuất
kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở xã hội chủ nghĩa.

1.3.2 Pháp luật kinh doanh trong cơ chế thị trường
-

Khác hẳn với mơ hình kinh tế kế hoạch, kinh tế thị trường đòi hỏi phải xố bỏ chế độ

độc tơn của một hình thức sở hữu, địi hỏi phải khuyến khích và phát triển một cơ cấu kinh
tế nhiều thành phần với sự bình đẳng của chúng trước pháp luật. Kinh tế thị trường đòi hỏi
phải có một mơi trường pháp lý đảm bảo tự do kinh doanh của tất cả các chủ thể sản xuất kinh doanh.
-

Hiểu theo cách chung nhất thì pháp luật kinh doanh là tổng thể các quy phạm pháp luật

mà với các quy phạm đó, nhà nước tác động vào các tác nhân tham gia đời sống kinh tế và
các quy phạm liên quan đến mối tương quan giữa sự tự do của từng cá nhân và sự điều
chỉnh của nhà nước. Nói cách khác, pháp luật kinh doanh quan tâm tới hai vấn đề lớn, đó


18

là: 1) Sự can thiệp của công quyền vào đời sống kinh tế. 2) Tự do và bình đẳng của chủ thể
tham gia thương trường.
- Pháp luật kinh doanh trong cơ chế thị trường có các đặc điểm sau:
Đối tượng của luật kinh doanh ngày càng được mở rộng. Pháp luật kinh doanh sẽ xoay
quanh những vấn đề thường thấy của một doanh nghiệp trong thời gian tồn tại của nó
(khởi sự: thành lập doanh nghiệp, tiến hành kinh doanh: hợp đồng, cạnh tranh, bồi
thường thiệt hại…, cho đến khi rút lui khỏi thị trường: giải thể, phá sản). Với một tư
duy như vậy, những vấn đề chính của pháp luật kinh doanh bao gồm: (i) pháp luật về
chủ thể kinh doanh, (ii) pháp luật hợp đồng trong kinh doanh, (iii) pháp luật giải quyết
tranh chấp trong kinh doanh và (iv) pháp luật phá sản doanh nghiệp. Bên cạnh những
phần chung kể trên, pháp luật kinh doanh có thể bao gồm các vấn đề chuyên sâu, ví dụ

pháp luật về cạnh tranh, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng, pháp luật về kinh tế quốc tế,
…. Trong học phần môn luật kinh doanh, chúng ta sẽ xem xét bốn vấn đề chính của
pháp luật kinh doanh và một vấn đề chuyên sâu, đó là pháp luật về cạnh tranh.
Hệ thống chủ thể của pháp luật kinh doanh cũng được mở rộng hơn, khơng chỉ bao
gồm các pháp nhân mà cịn có cả các chủ thể khơng phải là pháp nhân.
Phương pháp điều chỉnh của pháp luật kinh doanh cũng được bổ sung nhiều điểm
mới, mềm dẻo hơn, khả năng thoả thuận lớn hơn. Phương pháp mệnh lệnh hầu như
khơng cịn có thể áp dụng rộng rãi mà thay vào đó là nguyên tắc tự do ý chí, tự do khế
ước.
1.3.3 Nguồn của luật kinh doanh
- Nếu xem pháp luật là tất cả những chuẩn mực hành vi của con người được một nhà nước
thừa nhận và cưỡng chế thi hành, thì nguồn của pháp luật, trong đó có luật kinh doanh,
khơng chỉ bao gồm luật thành văn, mà cịn bao gồm một trật tự vơ hình của những quy tắc
bất thành văn. Nói một cách khác, nguồn của luật kinh doanh là tổng hợp tất cả (a) các văn
bản pháp luật và (b) các hình thức khác chứa đựng những gì được xem là pháp luật liên
quan đến kinh doanh.
- Nguồn của luật kinh doanh ở nước ta bao gồm:
(1) Văn bản quy phạm pháp luật.
Các văn bản luật: (i) Hiến pháp 92: là đạo luật cơ bản, là nguồn có giá trị pháp lý
cao nhất của luật kinh tế và các ngành luật khác. Đối với pháp luật kinh doanh,
các quy định trong Hiến pháp là cơ sở, nguyên tắc chung cho việc xây dựng và
hoàn thiện pháp luật kinh doanh. (ii) Các đạo luật: Luật doanh nghiệp
(12/06/1999), Luật doanh nghiệp nhà nước (26/11/2003), Luật đầu tư, Luật hợp


19

tác xã (26/11/2003), Luật thương mại (10/05/1997), Bộ luật dân sự, Luật lao
động, Luật cạnh tranh (03/12/2004), Luật phá sản doanh nghiệp (15/06/2004),….
Các văn bản dưới luật: (i) Pháp lệnh: Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, pháp lệnh

trọng tài thương mại, ….. (ii) Nghị định: nghị định 02/2000/NĐ-CP (03/02/2000)
hướng dẫn thi hành một số điều của luật doanh nghiệp, nghị định 17/HĐBT
(16/1/1990) quy định chi tiết thi hành pháp lệnh hợp đồng kinh tế, ….
(2) Tập quán thương mại."Trong trường hợp pháp luật khơng quy định và các bên
khơng có thoả thuận, thì có thể áp dụng tập qn, nếu các tập qn đó khơng trái với
các ngun tắc của pháp luật Việt Nam" [Điều 14, BLDS]. Tập quán thương mại có
thể được hiểu là những quy tắc cư xử hoặc thói quen hình thành từ xa xưa, được thừa
nhận một cách rộng rãi trên một vùng lãnh thổ hoặc một lĩnh vực thương mại. Bộ luật
dân sự đã công nhận tập quán là một nguồn phụ trợ của pháp luật, song khó xác định
được điều này có ý nghĩa trong thực tiễn xét xử đến mức nào, vì các bản án và lập luận
của toà án Việt nam cho đến nay chưa được thống kê và công bố rộng rãi. Khác với
tập quán thương mại trong nước, tập quán thương mại quốc tế được hình thành dần
dần trong lịch sử phát triển của các quan hệ thương mại đã có một ý nghĩa thực tiễn
hơn nhiều. Những tập quán thông dụng nhất là các điều kiện cơ sở giao hàng do Phòng
thương mại quốc tế ban hành.
(3) Án lệ, theo cách hiểu như pháp luật theo hệ thống luật Anh - Mỹ, không được thừa
nhận ở Việt nam. Nhưng, xét từ thực tiễn, chúng tôi cho rằng, nước ta đang có những
dấu hiệu thực tế của sự thừa nhận sơ khai giá trị pháp lý của những "án lệ". Bởi lý do,
những hướng dẫn nghiệp vụ công tác xét xử của các toà án cấp trên cũng như những
báo cáo tổng kết cơng tác ngành tồ án khơng phải là văn bản qui phạm hiểu theo
nghĩa truyền thống song lại có một giá trị nhất định nào đó trong hoạt động áp dụng
pháp luật. Vì vậy, có thể kết luận rằng, "án lệ" có thể sẽ hình thành trong đời sống
pháp lý ở nước ta, và nếu vậy, điều đó cũng khơng phải là khơng cần thiết hoặc "phi
khoa học". Trong lĩnh vực thương mại, nên thừa nhận án lệ (những bản án đã tuyên
đúng đắn, hợp lý sẽ được áp dụng để giải quyết các vụ việc tương tự) bởi vì thực tiễn
thương mại phát triển rất phong phú, phức tạp, pháp luật không thể theo kịp được

CHƯƠNG 2
PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP
2.1 KHÁI NIỆM DOANH NGHIỆP

2.1.1 Khái niệm hành vi kinh doanh


20

- Kinh doanh là việc các chủ thể thực hiện một cách thường xuyên, liên tục một, một số
hoặc toàn bộ các cơng đoạn của q trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm trên thị
trường nhằm mục đích tìm kiêm lợi nhuận
- Có hai điểm cơ bản để phân biệt hoạt động kinh doanh với các hoạt động xã hội khác
không phải là kinh doanh, ngay cả với hoạt động quản lý nhà nước kinh tế
(i) Để tiến hành kinh doanh các chủ thể phải đầu tư về tài sản
(ii) Mục đích của các chủ thể khi tiến hành hoạt động này là lợi nhuận
2.1.2 Khái niệm, phân loại doanh nghiệp
- Định nghĩa doanh nghiệp: Doanh nghiệp được hiểu là những pháp nhân hay thể nhân
thực hiện trên thực tế những hành vi kinh doanh.
-

Doanh nghiệp có những đặc điểm pháp lý sau:
+ Thứ nhất: Doanh nghiệp có tư cách chủ thể pháp lý độc lập, có năng lực để tham gia
các quan hệ pháp luật, trong đó trước hết và chủ yếu là các quan hệ kinh doanh. Tính
chất chủ thể pháp lý độc lập cho phép doanh nghiệp có quyền tự chủ đồng thời phải tự
chịu trách nhiệm trong việc tổ chức hoạt động. Tư cách chủ thể pháp luật của doanh
nghiệp có thể là tư cách của thể nhân hoặc pháp nhân.
i) Pháp nhân là một khái niệm được sử dụng để chỉ một loại chủ thể có tư cách
pháp lý độc lập, để phân biệt với các chủ thể là thể nhân. Pháp nhân là một thực
thể trừu tượng, được hư cấu, thể hiện tình trạng tách bạch về mặt tài sản và trách
nhiệm trả nợ của chính pháp nhân đó với tài sản còn lại và trách nhiệm trả nợ của
chủ sở hữu - người đã sáng tạo ra nó. Pháp nhân chịu trách nhiệm đối với mọi
chủ nợ bằng tất cả mọi thứ tài sản mà nó có - có nghĩa là pháp nhân được giới
hạn khả năng trả nợ trong phạm vi tài sản của nó. Chủ sở hữu - người sáng tạo ra

pháp nhân - không chịu trách nhiệm thay cho pháp nhân, họ chỉ có nghĩa vụ góp
vốn để thành lập pháp nhân. Nếu pháp nhân vỡ nợ thì họ chỉ mất số vốn đã góp
vào pháp nhân, ngồi ra họ khơng phải chịu bất cứ trách nhiệm gì nữa, chủ nợ
khơng thể buộc họ phải trả nợ thay cho pháp nhân, tức là người bỏ vốn chỉ chịu
một "trách nhiệm hữu hạn". Pháp nhân là một chủ thể pháp lý độc lập, có các
quyền và nghĩa vụ riêng của mình. Theo pháp luật Việt nam hiện nay, tính chịu
trách nhiệm hữu hạn (tư cách pháp nhân) đã được quy định cho nhiều loại chủ
thể kinh doanh, ví dụ: cơng ty trách nhiệm hữu hạn, cơng ty cổ phần, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, hợp tác xã, doanh nghiệp nhà nước, trách
nhiệm hữu hạn của thành viên góp vốn trong hợp danh.
ii) Thể nhân cũng là một thực thể pháp lý độc lập về tư cách chủ thể. Song ở đó,
khơng có sự tách bạch về tài sản giữa phần của thực thể đó và của chủ sở hữu nó.
Đây là điểm khác biệt căn bản giữa thể nhân và pháp nhân. Chính vì khơng có sự


21

tách bạch tài sản, nên thể nhân cùng với các chủ sở hữu của nó phải cùng liên đới
chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của thể nhân. Điều đó có nghĩa là,
nghĩa vụ trả nợ của thể nhân là vơ hạn, thậm chí vĩnh cửu, trả cho đến khi nào hết
nợ thì thơi, nếu thể nhân khơng đủ tiền trả nợ thì người chủ sở hữu phải trả thay,
và nếu một người trả khơng đủ thì những người khác ở trong đó trả tiếp thêm vào
"vì liên đới". Thể nhân bao gồm: cá nhân và các tổ chức khơng có tư cách pháp
nhân ví dụ như nhóm kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân.
+ Thứ hai: Doanh nghiệp được xác lập tư cách (thành lập và đăng ký kinh doanh) theo
thủ tục do pháp luật quy định. Việc thành lập và đăng ký kinh doanh là cơ sở để xác
định tính chất chủ thể pháp lý độc lập của các doanh nghiệp
+ Thứ ba: doanh nghiệp thực hiện các hành vi kinh doanh trên thực tế. Tức là các hành
vi kinh doanh của doanh nghiệp sẽ được thực hiện có hệ thống, độc lập, trên danh
nghĩa và trách nhiệm của doanh nghiệp, với mục đích sinh lợi và trong điều kiện do

pháp luật quy định.
-

Phân loại doanh nghiệp. Có rất nhiều tiêu chí để phân loại doanh nghiệp.
+ Căn cứ vào các thành phần sở hữu đã được quy định trong Hiến pháp 92, có thể chia
thành: i) doanh nghiệp quốc doanh (doanh nghiệp nhà nước), ii) doanh nghiệp dân
doanh (công ty, doanh nghiệp tư nhân), iii) doanh nghiệp tập thể (HTX).
+ Căn cứ vào dấu hiệu phương thức đầu tư vốn, ta có: i) doanh nghiệp có vốn đầu tư
trong nước (DNNN, công ty, DNTN, HTX,…), ii) doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi (doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài).
+ Căn cứ vào số lượng chủ sở hữu, ta có: i) doanh nghiệp một chủ, ii) doanh nghiệp
nhiều chủ.
+ Căn cứ vào sự liên kết, ta có: i) doanh nghiệp độc lập, ii) các tập đồn, các nhóm
cơng ty, ii) cơng ty đa quốc gia.
+ Theo tiêu chí quy mơ, ta có: i) doanh nghiệp lớn, ii) doanh nghiệp vừa và nhỏ.

2.2 CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP
2.2.1 Cơng ty
2.2.1.1 Khái niệm chung về cơng ty
- Cơng ty có thể được hiểu trên nhiều nghĩa theo nhiều khía cạnh khác nhau. Ở góc độ
kinh tế: cơng ty có thể được hiểu là các tổ chức lấy việc thực hiện những hoạt động thu lợi
là hoạt động nghề nghiệp của mình. Trong khoa học pháp lý, công ty được hiểu là sự liên
kết của nhiều người để tiến hành một cơng việc gì đó nhằm mục đích sinh lời. Các luật gia
trên thế giới đã có rất nhiều cách định nghĩa về cơng ty.


22

+ Các luật gia Đức cho rằng "khái niệm công ty được hiểu là sự liên kết của hai hay
nhiều cá nhân hoặc pháp nhân bằng nhiều sự kiện pháp lý, nhằm tiến hành các hoạt

động để đạt được một mục tiêu chung nào đó".
+ Bộ luật dân sự Pháp định nghĩa "công ty là một hợp đồng thông qua đó hai hay
nhiều người thoả thuận với nhau sử dụng tài hay khả năng của mình vào một hoạt
động chung nhằm chia lợi nhuận thu được qua hoạt động đó".
+ Bộ luật thương mại Nhật bản định nghĩa "công ty là pháp nhân được thành lập nhằm
mục tiêu lợi nhuận theo Bộ luật thương mại, luật về cơng ty, có trách nhiệm hữu hạn".
- Tuy có khá nhiều cách định nghĩa về công ty dưới dạng này hay dạng khác, nhưng tựu
trung, có thể nêu ra một số dấu hiệu cơ bản của cơng ty như sau:
(i) có sự liên kết của nhiều chủ thể (pháp nhân hoặc thể nhân). Đây là quan niệm
truyền thống về cơng ty, theo đó công ty phải là kết quả của sự liên kết của các nhà
đầu tư, mà muốn liên kết được thì phải có nhiều người. Người ta rất dễ nhận thấy rằng
khơng thể thực hiện được sụ liên kết hay góp vốn nếu như chủ thể chỉ có một bên.
Điều cần lưu ý ở dấu hiệu này là khái niệm chủ thể của công ty. Chủ thể ở đây được
hiểu là thể nhân hay pháp nhân. Cơng ty có thể là sự liên kết giữa hai hay nhiều thể
nhân hay pháp nhân. Cơng ty có thể là sự liên kết giữa hai hay nhiều thể nhân với
nhau, hoặc giữa thể nhân với pháp nhân, hoặc giữa các pháp nhân với nhau. Quan
điểm hiện đại: khơng nhất thiết phải có sự liên kết của nhiều chủ thể.
(ii) Sự liên kết được thực hiện thông qua một sự kiện pháp lý (điều lệ, hợp đồng
hoặc quy chế),
iii) Nhằm thực hiện một mục đích kiếm lời. Nghĩa là cơng ty có mục đích kinh doanh
chứ không phải là sự liên kết giữa các thành viên để nhằm thành lập một tổ chức có
mục đích phi kinh doanh như: hội từ thiện, các hội đoàn chuyên nghiệp. Hoạt động tìm
kiếm lợi nhuận là hoạt động quan trọng đối với công ty và việc thực hiện tốt hoạt động
này là mục tiêu chính của nó. Mục tiêu lợi nhuận là sự phân chia lợi nhuận thu được từ
việc kinh doanh với bên ngoài cho các thành viên cơng ty. Những sự liên kết khơng
nhằm mục đích kinh doanh người ta gọi là các hiệp hội chứ khơng phải cơng ty.
- Các loại hình cơng ty. Suốt khoảng thời gian mấy thế kỷ kể từ khi những công ty đầu
tiên ra đời, trên thế giới đã từng xuất hiện rất nhiều loại hình cơng ty khác nhau. Có nhiều
loại hiện vẫn cịn tồn tại và phát triển, ngày càng khẳng định vị trí của mình trong đời sống
kinh tế nhưng cũng có những loại khơng cịn phát triển nữa và có xu hướng mất dần. Trong

khoa học pháp lý, căn cứ vào tính chất liên kết và chế độ trách nhiệm của các thành viên
công ty: công ty đối nhân (công ty hợp danh), công ty đối vốn (công ty cổ phần và công ty
trách nhiệm hữu hạn). Đây là cách phân loại chủ yếu và có ý nghĩa quan trọng nhất.



×