Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

chiến lược tài chính của doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.5 KB, 52 trang )


Chúng ta đang sống trong một thế giới mới, thế giới toàn cầu hóa với những
thay đổi lớn, đa dạng và phức tạp, có ảnh hưởng đến bất cứ quốc gia nào và bất cứ
doanh nghiệp nào. Trong xu thế xã hội đang phát triển như hiện nay, nền kinh tế
không chỉ có riêng Việt Nam có nhiều biến chuyển mà còn chịu ảnh hưởng sự thay
đổi của nền kinh tế thế giới. Các doanh nghiệp là bộ phận trực tiếp chạy đua cùng
với sự thay đổi đó. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay,
đói với các doanh nghiệp, việc hoạch định chiến lược là vô cùng quan trọng để có
thể phát triển kinh doanh, tăng doanh thu và lợi nhuận, giữ vững uy tín và vị thế
trên thị trường.
Các doanh nghiệp việt nam đang trên đường hội nhập vẫn đang tìm hướng đi
đúng đắn cho mình và khẳng định thương hiệu trước sự cạnh tranh quyết liệt của
các công ty đa quốc gia. Nhiều doanh nghiệp đã thất bại, nhưng cũng có nhiều
doanh nghiệp đã thành công trong việc hoạch định chiến lược kinh doanh của
mình.
Đối với một doanh nghiệp sự hình thành và phát trển phải trải qua nhiều giai
đoạn như giai đoạn mới khởi sự, tiếp đến là giai đoạn tăng trưởng sau giai đoạn
này doanh nghiệp sang giai đoạn hưng thịnh, cuối cùng là giai đoạn suy thoái.
Không có một chiến lược chung thích hợp cho các doanh nghiệp. Giám đốc tài
chính phải biết xây dựng chiến lược tài chính thích hợp cho từng giai đoạn phát
triển của doanh nghiệp mình.
Để làm rõ những chiến lược tài chính của doanh nghiệp nhóm chúng em đã
thực hiện bài tiểu luận của mình trong 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về chiến lược tài chính của doanh nghiệp
Chương 2: Chiến lược tài chính của doanh nghiệp đối với từng giai đoạn
Chương 3: Thực trạng về chiến lược tài chính đối với từng giai đoạn
Chương 4: Đánh giá chung về chiến lược tài chính của doanh nghiệp
 
 !"
1.1. #$%&'%()'*+$,'
1.1.1. -.**/0'*+$,'


Có rất nhiều khái niệm khác nhau về chiến lược
Thuật ngữ chiến lược dùng trong kinh tế
+ Theo quan điểm truyền thống
“Chiến lược là tiến trình xác định các mục tiêu cơ bản dài hạn của doanh
nghiệp, lựa chọn cách thức hoặc phương hướng hành động và phân bố các
tài nguyên thiết yếu để thực hiện các mục tiêu đó”.
“ Chiến lược là việc phân bổ các nguồn lực sẵn có với mục đích thay đổi
thế cân bằng cạnh tranh và chuyển lợi thế cạnh tranh về phía doanh nghiệp”.
“Chiến lược là một kế hoạch mang tính thống nhất, tính toàn diện và tính
phối hợp, được thiết kế để đảm bảo rằng các mục tiêu cơ bản của doanh
nghiệp sẽ được thực hiện “.
+Theo quan điểm hiện đại
“Chiến lược là nghệ thuật xây dựng các lợi thế cạnh tranh vững chắc để
phòng thủ”.
1.1.2. 1%.23456789'*+$,'
Xây dựng chiến lược là một quá trình và được thực hiện qua nhiều công đoạn
khác nhau, có thể tóm tắt quá trình xây dựng chiến lược theo sơ đồ sau ( theo
quan điểm của Fred David):
:'
;<
*/0
(=<0='
2*>%<
'*+
$,'*/
9?'@
'*+
$,'
*+2$&A
0='2*>%

8B*C
DE2$C*
0='2*>%
F*
23G
H>23I
F*
23G
H>IB*
• Thiết lập nhiệm vụ, mục tiêu, chiến lược hiện tại của doanh nghiệp.
- Nhiệm cụ của việc kinh doanh là tạo lập các ưu tiên trong các chiến lược,
các kế hoạch và việc phân bổ công việc, đây là điểm khở đầu cho việc thiết
lập công việc quản lý và nhất là thiết ;ập cơ cấu bộ máy quản lý. Dường
như chẳng việc gì đơn giản hơn là việc tìm hiểu được công việc kinh
doanh của một công ty.
- Mục tiêu là cái đích mà doanh nghiệp muốn hướng tới , là kết quả mà
doanh nghiệp kỳ vọng, là trạng thái mong đợi có thể có và cần phải có của
doanh nghiệp trong tương lai.
Mục tiêu thể hiện cụ thể của chức năng nhiệm vụ trong những giai
đoạn bối cảnh cụ thể.
• Phân tích môi trường bên ngoài
 Môi trường vĩ mô
- Môi trường vĩ mô là hệ thống các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của tất cả các tổ
chức trong nền kinh tế. Các yếu tố này có thể tạo ra cơ hội hoặc nguy cơ hoặc nguy
cơ cho ngành kinh tế hoặc cho các doanh nghiệp theo các mức độ khác nhau. Do
đó nghiên cứu môi trường vĩ mô cần phải được tiến hành thường xuyên, liên tục và
đó chính là điều kiện đảm bảo cho sự thành công của việc xây dựng chiến lược của
một doanh nghiệp.
- Yếu tố chính trị: Thể chế chính trị, sự ổn định hay biến động của chính trị, động cơ
thúc đẩy hoạt động chính trị của đảng cầm quyền…

- Yếu tố pháp luật: Hệ thống luật pháp của một quốc gia, luật pháp quốc tế áp dụng
ở quốc gia đó, sự ổn định hay tính thay đổi của luật…
- Yếu tố chính phủ: Các chính sách kinh tế mà chính phủ áp dụng, chỉ tiêu của ngân
sách nhà nước, sự phân quyền trong bộ máy quản lý nhà nước, uy tín, năng lực của
viên chức chính phủ…
- Yếu tố kinh tế: Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, của các ngành, mức thu nhập
bình quân đầu người, tỷ lệ lạm phát, lãi suất tín dụng, cán cân thanh toán quốc tế…
- Yếu tố văn hóa – xã hội: Văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc, văn hóa các nước
khác du nhập vào, văn hóa trong hệ thống giáo dục, các chuẩn mực đạo đức…
- Yếu tố dân số: Qui mô dân số, tốc độ tăng dân số, cơ cấu độ tuổi…
- Yếu tố khoa học kỹ thuật: Đầu tư cho khoa học công nghệ, trình độ ứng dụng của
khoa học công nghệ, khả năng vận hành của người lao động…
- Yếu tố tài nguyên thiên nhiên và môi trường: Trữ lượng của nguồn tài nguyên
không tái tạo và tài nguyên có khả năng tái tạo, tình hình ô nhiễm môi trường, khai
thác tài nguyên…
 môi trường vi mô
Môi trường vi mô là hệ thống các yếu tố ảnh hưởng đến ngành kinh doanh và
các doanh nghiệp trong ngành. Các yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời quyết định đến tốc độ tăng trưởng của mỗi
ngành trong ngành kinh tế.
- Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp
Nhà quản trị của một doanh nghiệp cần phải thường xuyên thu thập các thông
tin diễn ra bên ngoài doanh nghiệp như khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào của
nền kinh tế, qui mô nhu cầu các sản phẩm của doanh nghiệp, dao động của giá
cả…
Qua việc phân tích những vấn đề này cho phép hình dung được những cơ hội
cũng như thách thức, những điểm mạnh cũng như những hạn chế của đơn vị để từ
đó có những điều chỉnh hợp lý.
- Các yếu tố nội bộ trong doanh nghiệp
Thu nhập, đánh giá thông tin nội bộ doanh nghiệp có tác dụng phát hiện các

thuận lợi, các khó khăn ở các bộ phận, các khâu công việc thông qua đó so sánh
với các đối thủ cạnh tranh trong ngành trên từng khu vực thị trường từ đó thấy
được vị trí của doanh nghiệp trong ngành, trên thị trường. Quá trình này giúp cho
ra những giải phát để phát huy những lợi thế cũng như khắc phục những yếu kém
hiện tại. Các yếu tố cần phân tích là:
+ Các yếu tố thuộc nguồn lực của doanh nghiệp: nguồn nhân lực, nguồn vốn,
nguồn thông tin.
+ Hoạt động của các bộ phận chuyên môn: hoạt động của nhà quản trị cao
cấp, bộ phận marketing, bộ phận nhân sự…
+ Văn hóa của tổ chức: văn hóa của tổ chức là hệ thống tri thức và hành vi của
con người trong doanh nghiệp, nó do con người trong doanh nghiệp tạo ra và ảnh
hưởng trở lại tới nhận thức và hành vi của con người trong quá trình hoạt động.
Văn hóa của tổ chức có giá trị cao hay thấp và được thay đổi theo thời gian.
• Phân tích môi trường bên trong
Môi trường bên trong bao gồm các yếu tố và hệ thống bên trong của
doanh nghiệp. Kiểm soát nội bộ giúp cho doanh nghiệp kiểm tra sự phù
hợp của các công việc, các bộ phận , các phòng ban của doanh nghiệp có
phù hợp không? Qúa trình kiểm soát nội bộ cũng gần như kiểm soát
ngoại vi của doanh nghiệp. Để tiến hành kiểm soát nội bộ, cần thu nhập,
điều chỉnh, đánh giá các thông tin về hoạt động của công ty, các yếu tố
then chốt bao gồm điểm mạnh và điểm yếu được nhận diện và sắp xếp
theo thứ tự ưu tiên.
Các yếu tố của môi trường bên trong bao gồm: các nguồn lực, các
hoạt động, các quá trình, các mối quan hệ bên trong doanh nghiệp.
+ các nguồn lực: tài chính, nhân lực, công nghệ, cơ sở vật chất kĩ thuật,
nguyên nhiên vật liệu, thương hiệu, văn hóa doanh nghiệp,…
+ Các hoạt động, các quá trình: sản xuất, marketing, đảm bảo chất lượng,…
+Các mối quan hệ :quan hệ quản trị, quan hệ khách hàng, và các đối tác kinh
doanh,…
• Thiết lập các mục tiêu dài hạn

Mục tiêu là kết quả mà tổ chức mong muốn đạt được trong từng thời kỳ nhất
định có thể ngắn hoặc dài. Hay có thể nói mục tiêu là những trạng thái, những cột
mốc cụ thể mà công ty mong muốn đạt được trong một khoảng thời gian nhất định.
Vì mục tiêu đặt ra luôn đi kèm theo thời gian thực hiện do đó yêu cầu của việc
đặt ra các mục tiêu của tổ chức là:
- Các mục tiêu đề ra phải hướng tổ chức tới việc đạt được mục đích lâu dài.
- Mục tiêu đưa ra phải cụ thể, có khả năng đo lường được.
- Mục tiêu phải có tính khả thi.
- Mục tiêu phải linh hoạt, thống nhất và hợp lý.
• Lựa chọn chiến lược
Căn cứ vào việc phân tích, đánh giá môi trường bên ngoài cũng như bên trong
của một tổ chức, các nhà quản trị sẽ dự báo về triển vọng của thị trường trong
tương lai từ đó sẽ đưa ra nhiệm vụ lâu dài cũng như nhiệm vụ lâu dài cũng như các
mục tiêu cụ thể trong từng giai đoạn. Ở giai đoạn này các nhà quản trị sẽ soạn thảo
các chiến lược để thực hiện. Có thể có rất nhiều các chiến lược khác nhau để
hướng tới thực hiên nhiệm vụ của một tổ chức. Các nhà quản trị sẽ đánh giá, so
sánh các phương án soạn thảo để lựa chọn chiến lược khả thi để thực hiện. Việc
đánh giá có thể sử dụng các kỹ thuật toán học, máy vi tính, kết hợp với kinh
nghiệm, khả năng phán đoán của các quản trị cũng như thông qua tư vấn để lựa
chọn phương án thực hiện.
 Tiến hành đánh giá chiến lược
Cùng với các quá trình phân tích môi trường, xác định nhiệm vụ, xác định
mục tiêu, soạn thảo và lựa chọn chiến lược, thực thi chiến lược thì công tác đánh
giá luôn tồn tại ở bất cứ công đoạn nào trong các quá trình trên. Đánh giá phải
thường xuyên, liên tục qua đó mới thấy được những hạn chế trong các khâu của
quá trình từ đó mới có những hiệu chỉnh đúng đắn, kịp thời.
Cuối cùng lựa chọn chiến lược nào phù hợp và tốt nhất.
1.1.3. "6$IC*'*+$,'
Có thể chia chiến lược thành những loại sau:
a) chiến lược cạnh tranh ( chiến lược cấp kinh doanh)

• Chiến lược khác biệt hóa
Chiến lược này liên quan đến việc cạnh tranh với tất cả các hãng trong ngành
dựa trên việc cung cấp các sản phẩm cho khách hàng họ cảm nhận được sự riêng
có.
• Chiến lược dẫn đạo chi phí
Chiến lược dẫn đạo chi phí có ý nghĩa cạnh tranh bằng việc cung cấp các sản
phẩm với giá càng thấp càng tốt hoặc thấp hơn giá cả của các hãng cạnh tranh.
Chiến lược này đòi hỏi quan tâm liên tục đến hiệu quả ( tức là giảm thiểu chi phí
trên mỗi đơn vị sản phẩm)
• Chiến lược tập trung hóa
Chiến lược tập trung cạnh tranh trong một ngành cụ thể tìm việc phục vụ một
nhu cầu riêng biệt cho một nhóm khách hàng hoặc một thị trường theo khu vực địa
lý. Một kẻ hở thị trường là một nhóm khách hàng hoặc một phân khúc thị trường
mà các khách hàng khác không quan tâm hoặc không đếm xỉa đến hoặc phục vụ
khó khăn. Các tổ chức quan tâm đến việc tạo ra một nhãn hiệu riêng có cho các sản
phẩm này nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của kẻ hở thị trường và không đếm xỉa đến
các khách hàng tiềm năng khác.
b) Chiến lược tăng trưởng ( chiến lược cấp công ty)
• Chiến lược thâm nhập thị trường
Chiến lược này tập trung vào nổ lực tăng trưởng trên thị trường hiện có với
các sản phẩm hiện tại. Một hãng có thể gia tăng sự thâm nhập thị trường bằng cách
khuyến khích mạnh hơn việc sử dụng sản phẩm thu hút khách hàng của đối thủ
cạnh tranh mua các hãng của đối thủ cạnh tranh. Ngoài ra, tổ chức cũng có thể gia
tăng quy mô vị thế của mình trên thị trường nhờ việc tăng thêm sức mua của những
người sử dụng hiện tại.
• Chiến lược phát triển thị trường
Chiến lược phát triển thị trường tập trung nổ lực tìm kiếm các thị trường mới
cho các sản phẩm hiện tại. Có 3 cách cơ bản để làm điều đó: thâm nhập vào thị
trường ở các vùng địa lí mới, thâm nhập vào thị trường mục tiêu mới, mở rộng việc
sử dụng các thiết bị và sản phẩm hiện tại.

• Chiến lược phát triển sản phẩm
Chiến lược này bao gồm việc phát triển mới hoặc cải tiến các sản phẩm cho
các thị trường hiện tại. Cách tiếp cận này có thể tiến hành bằng các cách sau đây:
cải tiến đặc điểm , nâng cao chất lượng về độ tin cậy, tốc độ, tính hiệu quả, độ bền,
nâng cao độ thẩm mĩ lôi cuốn của sản phẩm, giới thiệu mô hình về sản phẩm.
JKLK*+$,'2B*'M'N?8I?*/A
JKLKJK-.**/0'*+$,'2B*'M
Chiến lược tài chính là chiến lược chức năng trong đó trình bày những kế hoạch
lớn về tài chính để xây dựng các quỹ và thiết lập các cấu trúc tài chính thích hợp
giúp công ty đạt được các mục tiêu đặt ra. Nó xem xét các quyết định chiến lược
của doanh nghiệp dưới góc độ tài chính, để củng cố vị thế cạnh tranh của doanh
nghiệp trên thị trường.
JKLKLK='2*>%'N?'*+$,'2B*'M
Chiến lược tài chính là một bộ phận của chiến lược toàn công ty, do đó chiến
lược tài chính phải hướng tới hỗ trợ cho công ty đạt được các mục tiêu chung của
tổ chức. Xét trên mối quan hệ này thì chiến lược tài chính phải nhắm mục tiêu vừa
làm cho hoạt động kinh doanh của công ty đạt hiệu quả cao bên cạnh đó phải đạt
được mức độ rủi ro chung là nhỏ nhất.
JKLKOK"6$IC*'*+$,'2B*'M
Vòng đời của một doanh nghiệp trải qua trình tự các giai đoạn phát triển đó là
: Khởi sự - Tăng trưởng – Hưng thịnh – Suy thoái. Tùy theo vị trí doanh nghiệp
của mình đang ở trong giai đoạn nào mà doanh nghiệp hoạch định chiến lược khác
nhau. Chiến lược tài chính với vai trò là một bộ phận của chiến lược chung của
toàn doanh nghiệp do vậy việc xây dựng chiến lược sẽ phụ thuộc sẽ phụ thuộc vào
vị trí của công ty đang ở giai đoạn nào của sự phát triển. Vậy nên chiến lược tài
chính được phân thành bốn loại sau:
- Chiến lược tài chính trong giai đoạn khởi sự kinh doanh.
- Chiến lược tài chính trong giai đoạn tăng trưởng.
- Chiến lược tài chính trong giai đoạn hưng thịnh.
- Chiến lược tài chính trong giai đoạn suy yếu.

-
PL 
!"
LKJK*+$,'2B*'MQR*(S*'F27HT2QU%VW*X9V*8I?
LKJKJKF42Y2Z
Giai đoạn khởi đầu của chu kỳ kinh doanh tiêu biểu rõ ràng mức độ cao nhất
của rủi ro kinh doanh.Các rủi ro đó chính là khả năng sản xuất sản phẩm mới có
hiệu quả hay không, nếu có hiệu quả, thì sản phẩm có được các khách hàng tương
lai chấp nhận hay không, nếu được chấp nhận, thị tường có tăng trưởng đến một
quy mô hiệu quả đủ cho các chi phí triển khai và đưa sản phẩm ra thị trường
không, và nếu tất cả những đều này đều đạt được, thì công ty có chiếm được thị
phần hay không?
Mức độ rủi ro kinh doanh cao có ý nghĩa là rủi ro tài chính đi kèm nên được
giữ càng thấp càng tốt trong suốt giai đoạn này. Như vậy, tài trợ bằng vốn cổ phần
là thích hợp nhất, nhưng do mức độ của rủi ro tổng thể trong giai đoạn đầu của chu
kỳ kinh doanh rất cao, cho nên chỉ có các nhà đầu tư vốn mạo hiểm mới dám chấp
nhận đầu tư cho công ty mà thôi. Đương nhiên các nhà đầu tư vốn mạo hiểm này
sẽ yêu cầu một tỷ suất sinh lợi rất cao để bù đắp cho những rủi ro cao mà họ phải
gánh chịu. Do dòng tiền của những năm đầu rất thấp, thậm chí âm; nghĩa là họ có
khả năng không nhận được cổ tức trong giai đoạn này. Các nhà đầu tư vốn mạo
hiểm chỉ có thể đạt được tỷ suất sinh lời cao thông qua phần lãi vốn, tức là phần
giá trị cổ phần tăng them sau này so với giá trị ban đầu của chúng. Các giá trị này
được minh họa trong bảng sau:
[\LKJK.'2FXR'*+$,'2B*'M
-W*QU%8I?*/A
Rủi ro kinh doanh Rất cao
Rủi ro tài chính Rất thấp
Nguồn tài trợ Vốn mạo hiểm
Chính sách cổ tức Tỷ lệ trả cố tức: 0
Triển vọng tăng trưởng tương lai Rất cao

Tỷ số giá thu nhập (P/E) Rất cao
Thu nhập trên mỗi cổ phần (EPS) Danh nghĩa hoặc âm
Giá cổ phần Tăng nhanh hoặc biến động cao
LKJKLK:'Q]\W'N?3N*3IV*8I?(B3N*3I2B*'M
Mức độ rất cao của rủi ro kinh doanh và nhu cầu rủi ro tài chính thấp
Giai đoạn đầu tiên của nhiều doanh nghiệp mới khởi sự đòi hỏi đầu tư vào nghiên
cứu và phát triển để cố gắng nắm bắt các sản phẩm mới, giai đoạn đầu này đòi hỏi
chi phí nghiên cứu thị trường và sau đó nghiên cứu và phát triển trước khi tạo được
bất kì một cơ hội sản phẩm thực sự nào.
Đối với hầu hết các sản phẩm, các giai đoạn ban đầu đưa sản phẩm bán ra trường
cũng là các kì dòng tiền chi ra âm. Các dòng tiền thu vào từ doanh thu không chỉ
thấp mà còn chậm, trong khi các dòng tiền chi ra vẫn gồm các chi phí cao đi kèm
với việc đưa sản phẩm ra thị trường cũng như các chi phí hoạt động tiếp diễn
thường xuyên.
Mối tương quan nghịch đòi hỏi giữa rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính đưa
đến một kết luận hợp lý là các doanh nghiệp mới khởi sự nên được tài trợ bằng vốn
cổ phần, nếu hoàn toàn không có tài trợ thì tốt.
Đối với hầu hết các công ty mới khởi sự, NPV của dự án thường là lớn hơn 0. Đây
chính là kết quả của sự thành công trong tương lai của việc triển khai thành công
và đưa sản phẩm ra thị trường. Nhưng đó là khả năng xảy ra trong tương lai, còn
hiện tại các tài sản làm cơ sở cho doanh nghiệp thế chấp vô hình, chúng được rải
đều ở nhiều thời kỳ khác nhau (thể hiện qua dòng tiền), khó có thể xác lập rõ
ràng.Nhưng xác suất để xuất hiện tình trạng dòng tiền âm trước khi sản phẩm
thành công là rất lớn, chỉ cần huy động một tỷ lệ tài trợ bằng nợ vay thấp cũng dẫn
đến một rủi ro rất cao do phá sản hoàn toàn, vì lẽ đơn giản công ty không có dòng
tiền để thanh toán các khoản nợ đến hạn. Tóm lại, bất cứ một sự gia tăng nào dù
nhỏ bằng nợ vay cũng dẫn đến một tình trạng khó khăn tài chính doanh nghiệp.
2.1.3. MX.''*23\'Y2:'
Chính sách không chi trả cổ tức đối với doanh nghiệp bắt đầu khởi sự kinh
doanh

Các nhà đầu tư trên lý thuyết sẽ không quan tâm đến việc họ sẽ nhận cổ tức
hay đạt được thu nhập qua lãi vốn. Chính sách cổ tức đề nghị cho một công ty mới
khởi sự là tỷ lệ chi trả cổ tức bằng 0. Dòng tiền của một doanh nghiệp mới thành
lập thường là âm ở mức cao và cần các nguồn tiền mới cho các cơ hội có sẵn của
công ty. Nếu tài trợ bằng nợ vay không thích hợp, thì phải bằng vốn cổ phần, tức là
nếu các nhà đầu tư đòi hỏi cổ tức, thì họ sẽ phải đầu tư them vào doanh nghiệp để
chi trả cho các cổ tức này. Trong một thị trường vốn hoàn hảo, điều này hoàn toàn
có thể chấp nhận được. Rất tiếc là trong thực tế, chi phí giao dịch đi với việc huy
động vốn cổ phần mới rất tốn kém cho các doanh nghiệp rủi ro cao mới khởi sự.
Các chi phí này bao gồm phí pháp lý và phí chuyên môn phải trả. Vì vậy, việc trả
cổ tức và huy động vốn cổ phần mới thế cho nguồn tiền chi trả cổ tức này là không
hợp lý.
2.1.4. 1%7+2Q^$9?'@%_2B*23,
Đầu tư cổ phần vào các công ty mới khởi sự được gọi là đầu tư vốn mạo
hiểm. Các nhà đầu tư vốn mạo hiểm này thường là các nhà đầu tư chuyên nghiệp
bao gồm các giám đốc đầu tư quản lý vốn mạo hiểm, các công ty chuyên biệt, các
công ty tư nhân giàu có. Ở Việt Nam hiện nay, các quỹ đầu tư và định chế tài chính
trong nước và nước ngoài ngày càng phát triển sẽ là đối tác thích hợp đối các
doanh nghiệp vừa và nhỏ và các công ty mới khởi sự. Các định chế tài chính này
sẵn sàng đầu tư vào các công ty mới khởi sự, họ chấp nhận rủi ro cao đi kèm với
bất kỳ một đầu tư cụ thể nào bằng cách triển khai một danh mục bao gồm các nhà
đầu tư riêng rẻ có cùng mức rủi ro cao. Như vậy, việc thất bại hoàn toàn của một
vài nhà đầu tư trong danh mục được bù trừ thành công vượt bậc của các đầu tư
khác.
Hầu hết các nhà đầu tư mạo hiểm có một giới hạn thời gian đầu tư tương đối
ngắn (thường từ 3 đến 5 năm). Điều này hợp lý vì học muốn tập trung vào đầu tư
trong thời kỳ khởi sự có rủi ro cao của doanh nghiệp.
Sở dĩ các nhà đầu tư vốn mạo hiểm đầu tư vốn của mình vào các doanh
nghiệp có rủi ro kinh doanh cao là do họ quan tâm đến lãi vốn. Tuy nhiên làm thế
nào họ thực hiên lãi vốn, mà lợi nhuận này chỉ được tạo ra nếu công ty thành công?

Bởi lẽ họ không muốn bị găm vốn cho đến khi công ty có dòng tiền dương và bắt
đầu chia cổ tức. Vì vậy trong giai đoạn sau này họ cần tìm người mua lại loại vốn
cổ phần này với giá trị đã gia tăng. Để làm được điều đó công ty mới khởi sự phải
chứng tỏ được rằng sản phẩm của mình có hiệu quả và rằng tiềm năng thị trường
của sản phẩm sẽ làm cho việc đầu tư hấp dẫn về tài chính. Khi chứng minh rõ ràng
những thông tin này nhà đầu tư vốn mạo hiểm sẽ dể dàng chuyển nhượng vốn của
mình cho các nhà đầu tư khác sau nay trước khi công ty mởi khởi sự chuyển sang
giai đoạn phát sinh dòng tiền dương.
Sau này khi tổng rủi ro của công ty giảm, các nhà đầu tư vốn cổ phần đòi hỏi
một tỷ suất lợi nhuận thấp hơn, ngay cả khi họ quan tâm đến chính đến việc đầu tư
cho tăng trưởng vốn. Thường thi lối ra khả dĩ hấp dẫn nhất cho các nhà đầu tư vốn
mạo hiểm là phát hình ta công chúng chứng khoán của công ty trên thị trường
chứng khoán.
Điều này cho thấy tại sao các nhà tư bản mạo hiểm địch thực không phải là
các đối tác đầu tư tốt cho các công ty tìm kiếm nguồn tài trợ phát triển giai đoạn
hai.
LKLK*+$,'2B*'MQR*(S*'F272;23W
LKLKJKF42Y2Z
Giai đoạn tăng trưởng là giai đoạn tiếp theo của quá trình hình thành và phát
triển của công ty. Một khi sản phẩm đã được tung ra thị trường một cách thành
công, doanh số sẽ bắt đầu tăng nhanh chóng. Điều này không chỉ tiêu biểu cho việc
sụt giảm rủi ro kinh doanh chung đi kèm với sản phẩm, mà còn cho thấy nhu cầu
điều chỉnh ý đồ chiến lược công ty. Trong chiến lược cạnh tranh, cần nhấn mạnh
đến các hoạt động tiếp thị để đảm bảo doanh số tăng trưởng thỏa đáng và để công
ty gia tăng thị phần của doanh số đang tăng trưởng này. Chính vì vậy mà rủi ro
kinh doanh trong giai đoạn này tuy có giảm nhưng vẫn còn ở mức cao. Để bù đắp
những rủi ro kinh doanh cao đó, việc dùng nguồn vốn cổ phần vẫn là nguồn tài trợ
thích hợp sẽ giúp giữ mức độ rủi ro tài chính thấp.
Tuy nhiên trong giai đoạn này các nhà đầu tư vốn mạo hiểm ban đầu chỉ
quan tâm đến việc đạt được lãi vốn để có thể tái đầu tư vào nhiều doanh nghiệp

mới khởi sự khác.
 Cần tìm thêm các nhà đầu tư vốn cổ phần mới để thay thế và để cung cấp vốn
cho các nhu cầu trong thời kỳ tăng trưởng cao này.
Nguồn vốn hấp dẫn nhất thường là từ việc phát hành rộng rãi chứng khoán của
công ty. Nhờ những kỳ vọng tăng trưởng trong tương lai cao, sản phẩm của doanh
nghiệp đã được thị trường chấp nhận, uy tín của sản phẩm đang được cũng cố là
những tiền đề tốt cho việc huy động vốn bằng việc phát hành rộng rãi.
Đối với một công ty đang tăng trưởng, thì cơ hội đầu tư sẽ rất nhiều. Do đó các
công ty này thường không chia cổ tức hoặc tỷ lệ chi trả cổ tức thấp và tập trung
vào tái đầu tư.
Đối với một công ty tăng trưởng thì chính sách chia cổ tức của công ty phần
lớn là tỷ lệ chi trả cổ tức danh nghĩa, có nghĩa là công ty sẽ không chi trả cổ tức
cho cổ đông hoặc chi trả ở một mức rất thấp chứ không giống như tỷ lệ chi trả mà
công ty đã công bố. Các công ty quyết định không chi trả cổ tức danh nghĩa nhằm
thực hiện mục tiêu tái đầu tư, thông qua đó giá cổ phần sẽ được đánh giá cao hơn,
mang lại tỷ suất sinh lợi cao hơn cho nhà đầu tư. Do vậy nhà đầu tư mua cổ phần
không cổ tức mong muốn các doanh nghiệp này tái đầu tư thu nhập để mở rộng sản
xuất và tài trợ cho các dự án khác có khả năng tạo ra tỷ suất sinh lợi cao hơn thông
qua việc cổ phần tăng giá.
Qua những chính sách đã phân tích ở trên ta có thể tóm lược lại nội dung
chính sách tài chính của các công ty tăng trưởng qua bảng dưới đây.
[\LKLK.'2FXR'*+$,'2B*'MX?%
Doanh nghip tăng trưng
`N*3IV*8I? Cao
`N*3I2B*'M Thấp
%_2B*23, Các nhà đầu tư vốn cổ phần tăng
trưởng
MX.''Y2:' Tỷ lệ chi trả danh nghĩa
3*Z(@2;23W2
$?*

Cao
aXR*.2%&Ab"cde Cao
d"f Thấp
*.'YAU Tăng nhưng dễ biến động
Sở dĩ tỷ số giá thu nhập (P/E) cao là vì hiện tại thu nhập trên mỗi cổ phần sẽ
rất thấp do chính sách chi trả cổ tức thấp trong giai đoạn này. Tuy nhiên cũng
không làm cho các nhà đầu tư vốn cổ phần mới quan tâm lắm, vì đó là chuyện
đương nhiên phải đến trong giai đoạn này. Phần chủ yếu nhất trong thu nhập mong
đợi của nhà đầu tư là chênh lệch tăng giá cổ phần do chuyển nhượng vốn. Tất cả
điều này làm cho P/E của công ty trong giai đoạn này khá cao.
LKLKLK`N*3IV*8I?
Rủi ro trong kinh doanh là tất cả những yếu tố rủi ro phát sinh từ môi
trường kinh doanh bên ngoài doanh nghiệp:chính trị, xã hội, khoa học công nghệ,
nhà cung cấp, khách hàng, đối thủ cạnh tranh
Trong giai đoạn tăng trưởng, rủi ro kinh doanh vẫn rất cao do giai đoạn
chuyển tiếp từ khởi đầu sang tăng trưởng đòi hỏi công ty phải thực hiện một số
thay đổi. Thay đổi luôn luôn bao hàm rủi ro, vì nếu không quản lý thay đổi đúng
nó có thể đưa đến một chiều hướng đi xuống trong thành quả tương lai của doanh
nghiệp. Khi những thay đổi này mang tính chất quyết định và có phạm vi rộng,
mức độ rủi ro gia tăng từ thay đổi đó cũng lớn hơn. Chậm trễ trong việc đưa sản
phẩm ra thị trường có thể tạo nên rất nhiều tốn kém nếu, do sự chậm trễ này, một
đối thủ cạnh tranh có thể xác lập sản phẩm của họ trước, hay đơn giản là cánh cửa
cơ hội đã đóng lại trong thời gian chậm trễ này.
Trong giai đoạn này sẽ xuất hiện sự chuyển hoá giữa nhà đầu tư vốn mạo
hiểm sang các nhà đầu tư vốn cổ phần mới, nghĩa là các nhà đầu tư mới sẽ thay thế
các nhà đầu tư vốn mạo hiểm , nhà đầu tư vốn mạo hiểm là cổ đông lý tưởng cho
công ty rủi ro cao mới thành lập nhưng vì lý do công ty đã bắt đầu chuyển sang
giai đoạn tăng trưởng nên việc giữ nhà đầu tư này lại trong suốt quá trình tăng
trưởng là không thích hợp. Rủi ro kinh doanh tiếp tục tăng cao trong giai đoạn này
đòi hỏi công ty phải tìm kiếm các nhà đầu tư tìm kiếm các nhà đầu tư vốn cổ phần

mới, là người sẵn sàn để không chỉ mua lại toàn bộ các vốn mạo hiểm ban đầu mà
còn cung cấp các nguồn vốn cần thiết trong suốt thời kỳ tăng trưởng nhanh này.
Trong giai đoạn này sản phẩm được minh chứng, đến tay khách hàng và bây
giờ đây công ty cũng hiện hữu thật sự, chứ không chỉ là kế hoạch kinh doanh và
khái niệm sản phẩm như trước đây khi đang huy động vốn ban đâu. Vì vậy có thể
tìm kiếm các nhà đầu tư trên 1 cơ sở rộng hơn để huy động nguồn vốn cổ phần
mới, có thể kể cả phát hành ra công chúng
LKLKOK*+$,'2B*'MQZ2%g2(RQU%2
2.2.3.1. Huy động vốn thông qua thị trường
?K 
 Khái niệm:
Thị trường vốn là thị trường giao dịch của các công cụ tài chính có kì hạn trên
một năm, là thị trường cung ứng vốn đầu tư dài hạn cho nền kinh tế.
Tại các nước có nền kinh tế thị trường lâu đời, các quan hệ giao lưu vốn được
phân định và xác lập với nhiều hình thức phong phú nên kết cấu của thị trường vốn
cũng đa dạng hơn. Song nhìn chung, thị trường vốn bao gồm:
- Thị trường vay nợ dài hạn biểu hiện qua hoạt động của hai dạng thị trường phổ
biến là thị trường tín dụng thuê mua và thị trường vay thế chấp.
- Thị trường chứng khoán.
 Các công cụ trên thị trường vốn:
 Cổ phiếu.
Cổ phiếu là một loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu vốn góp vào công ty
và quyền được hưởng một khoản cổ tức theo định kỳ. Cổ phiếu lưu hành trên thị
trường có nhiều loại:
- Căn cứ vào hình thức, cổ phiếu có hai loại: cổ phiếu vô danh và cổ phiếu ký
danh
Cổ phiếu vô danh là cổ phiếu không ghi tên người sở hữu.
Cổ phiếu ký danh là cổ phiếu có ghi tên người sở hữu.
- Căn cứ vào quyền lợi được hưởng, cổ phiếu gồm hai loại phổ biến là cổ phiếu
ưu đãi và cổ phiếu thường.

Cổ phiếu ưu đãi có mức cổ tức cố định và được ghi rõ trên cổ phiếu lúc phát
hành. Với cổ phiếu này thu nhập của cổ đông không phụ thuộc vào chính sách chia
lãi hàng năm của công ty. Tính ưu đãi của cổ phiếu ưu đãi còn được biểu hiện một
số điểm như chia cổ tức trước cổ phiếu thường, trường hợp công ty bị thanh lý
phần tài sản còn lại sau khi thanh toán hết các khoản nợ của công ty sẽ được hoàn
vốn cho cổ đông giữ cổ phiếu ưu đãi. Loại cổ phiếu ưu dãi còn được phát hành
dưới nhiều hình thức cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thường, cổ
phiếu ưu đãi có lãi cổ phần gộp, cổ phiếu ưu đãi có thể bồi hoàn…
Cổ phiếu thường có mức cổ tức phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty.
Vì vậy, cổ đông mua loại cổ phiếu này rất quan tâm đến hoạt động của công ty.
Trên thị trường giá của loại cổ phiếu thường biến động nhiều hơn so với loại cổ
phiếu ưu đãi.
- Căn cứ vào phương thức góp vốn, cổ phiếu có hai loại là cổ phiếu hiện kim và
cổ phiếu hiện vật.
Cổ phiếu hiện kim giành cho những cổ đông góp vốn bằng tiền và cổ phiếu hiện
vật dành cho những cổ đông góp vốn bằng tài sản như máy móc, thiết bị, nhà
xưởng,….
 Trái phiếu.
Là một loại chứng khoán xác nhận một khoản vốn cho vay và quyền được
hưởng mức thu nhập theo định kỳ. người mua trái phiếu là chủ nợ của đơn vị phát
hành và sẽ được hoàn lại vốn khi đến kỳ hạn.
Căn cứ vào chủ thể phát hành, trên thị trường vốn có các loại trái phiếu sau:
- Trái phiếu doanh nghiệp: đây là loại trái phiếu do công ty hoặc các xí nghiệp
đang hoạt động phát hành với mục đích bổ sung vốn kinh doanh. Trái phiếu chỉ
là loại chứng khoán có lợi tức cố định và người sở hữu trái phiếu là chủ nợ của
công ty, do đó chủ sở hữu trái phiếu không tham dự và can thiệp vào hoạt động
của công ty. Tuy nhiên đầu tư vào trái phiếu vẫn có mức độ an toàn cao hơn so
với đầu tư vào cổ phiếu. Trái phiếu doanh nghiệp có các loại như sau:
Trái phiếu có đảm bảo bằng tài sản của công ty hoặc được bảo lãnh bởi một
doanh nghiệp khác (thường là ngân hàng hay công ty chứng khoán).

Trái phiếu không cần bảo đảm: thông thường trái phiếu này được phát hành từ
một công ty danh tiếng đã hoạt động lâu năm hoặc từ một công ty công cộng.
Trái phiếu có thể chuyển hoán thành cổ phiếu thường của công ty, trái phiếu
này sẽ tăng giá nếu công ty làm ăn phát đạt.
Trái phiếu phát hành bán dưới mệnh giá: loại trái phiếu này được công ty phát
hành trong thời kỳ lãi suất tín dụng trên thị trường tiền tệ đang cao.
- Trái phiếu nhà nước do kho bạc nhà nước phát hành với mục đích bù đắp những
khoản chi của ngân sách nhà nước. nói cách khác, trái phiếu nhà nước là chứng
thư xác nhận khoản nợ của nhà nước.
- Trái phiếu do chính quyền địa phương phát hành với mục đích hỗ trợ cho ngân
sách địa phương.
- Trái phiếu đầu tư do một công ty đầu tư phát hành, người mua trái phiếu sẽ là
người gia nhập quỹ đầu tư.
HK 
Một nhân tố chính trong thành công của nhiều thị trường tài chính trên thế giới
là khả năng của họ cho phép các cổ đông bán nhanh và dễ dàng. Điều này củng cố
niềm tin của nhà đầu tư rất lớn nhờ vậy thu hút thêm nhiều nhà đầu tư vào thị
trường chứng khoán, làm cho thị trường hiệu quả hơn. Để cho việc bán ra bình
thường không làm giá cả biến động, phải có đầy đủ số lượng cổ phần để cung ứng
ra cho công chúng. Vì vậy, tất cả các thị trường chứng khoán đều có quy định về tỷ
lệ cổ phần phải bán hay có sẵn để bán ở lần phát hành cổ phần ban đầu đưa công ty
vào thị trường chứng khoán.
Cũng có các quy định về tỷ lệ phải tiếp tục giao dịch hay có thể giao dịch và
nếu hoạt động giao dịch trở nên thấp ở mức không thể chấp nhận được, Ủy ban
chứng khoán nhà nước có thể gạt bỏ công ty ra khỏi các bản liệt kê chứng khoán
(tạm thời hay vĩnh viễn). Không cần phải phát hành cổ phần mới khi một công ty
chuẩn bị đăng ký ở một thị trường chứng khoán; bởi vì các cổ phần hiện có cũng
có thể được các cổ đông hiện hữu bán ra để tạo nên một lượng cổ phần đủ bán ra
theo các quy định của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, hầu hết phần cung ứng
ra hị trường chứng khoán của công ty bao gồm phát hành cổ phần mới, vì công ty

thường đòi hỏi thêm nguồn vốn cổ phần cho các kế hoạch tăng trưởng tương lai.
Bản cáo bạch do công ty phát hành trước khi phát hành cổ phần ban đầu nên
được xem chủ yếu là một văn kiện tiếp thị nhằm thu hút các nhà đầu tư mới. Rõ
ràng, để duy trì niềm tin của các nhà đầu tư có những quy định khống chế việc đưa
vào bản cáo bạch những thông tin sai lệch về tiền sử công ty hay dư báo lạc quan
về tương lai. Các quy định này chủ yếu buộc các giám đốc công ty chịu trách
nhiệm cá nhân về các báo cao sai lệch và các thông tin về tài chính trong quá khứ
của công ty phải do một công ty kiểm toán bên ngoài kiểm tra và báo cáo. Việc
tuân thủ các quy định này là tác nhân là chi phí kiểm toán chuyên nghiệp và phí
pháp lý rất cao trong chi phí phát hành chứng khoán ra thị trường. Giống như trong
trường hợp huy động vốn đầu tư mạo hiểm, các chi phí này có một mức khởi điểm
rất cao, vì vậy các chi phí phát hành của một công ty nhỏ có thể quá đắt đỏ nếu tính
theo tỷ lệ phần trăm của vốn cổ phần mới do công ty huy động được. Tuy nhiên
các chi phí phát hành có thể được xem như phí gia nhập một lần vào thị trường tài
chính, sẽ cho phép huy động thêm vốn trong tương lai cũng như cho phép các cổ
đông mua bán cổ phần của họ dễ dàng hơn nhiều.
Định vị đúng ở thời điểm phát hành. Ở các nước mà thị trường chứng khoán đã
phát triển ở giai đoạn cao, công ty tham gia vào thị trường chứng khoán sẽ phải
cạnh tranh với rất nhiều công ty hiện hữu để để tìm kiếm nhà đầu tư cho mình. Các
công ty cạnh tranh này sẽ cung cấp cho các cổ đông các hỗn hợp rủi ro và lợi
nhuận khác nhau, với lợi nhuận được nhận với nhiều hình thức khác nhau. Vì vậy,
nếu đây là lần phát hành cổ phiếu lần đầu của một công ty tăng trưởng cao, nên
nhấn mạnh đến triển vọng tăng trưởng cao trong tương lai với các nhà đầu tư tiềm
năng. Nên công bố rõ ràng chiếc lược tài chính thích hợp vì điều này sẽ tạo các
niềm tin đúng đắn trong tâm trí của các cổ đông tiềm năng mới này.
Như vậy, đối với một công ty tăng trưởng cao, nên tạo một kỳ vọng lãi suất cổ
tức thấp do tỷ lệ giữ lại cao để tài trợ cho tăng trưởng tương lai này. Các cổ đông
nên mong đợi tăng trưởng vốn mạnh, sẽ được hỗ trợ bởi dòng lợi nhuận đang gia
tăng của công ty. Một vị thế như vậy nếu thành công sẽ cho phép bán cổ phần với
một tỷ số giá thu nhập (P/E) cao, phản ánh hiện giá của các cơ hội tăng trưởng

tương lai. Giá cổ phần là kết hợp tỷ số P/E và thu nhập mỗi cổ phần hiện hành.
Mặc dù vậy, ngày nay cũng còn rất nhiều công ty không đưa một ước tính trực tiếp
thu nhập mỗi cổ phần vào các báo cáo tài chính được công bố của họ, vì vậy công
ty chưa nhận thức đúng mức vấn đề này. Điều này sẽ thay đổi tức khắc nếu công ty
nếu công ty trở thành một công ty được niêm yết. Đối với các công ty này, thu
nhập mỗi cổ phần trở nên quan trọng hơn và được nhấn mạnh nhiều hơn là doanh
thu hay tổng lợi nhuận. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên bởi vì thu nhập mỗi
cổ phần tượng trưng cho tỷ lệ tổng lợi nhuận mà một người bên ngoài mua một cổ
phần của công ty nhận được.
Điều kiện ban đầu của các kỳ vọng của cổ đông qua bản cáo bạch và các thông
báo ra công chúng khác của công ty rất quan trọng vì không chỉ các công ty tăng
trưởng cao mới nhắm đến việc đăng ký ở một thị trường chứng khoán. Đôi khi một
công ty đã trưởng thành hơn cũng có thể phát hành cổ phần cổ phần ra thị trường
nhưng với các mục tiêu rất khác biệt.
2.2.3.2. Phát hành các chứng khoán kèm theo đặc quyền để thu hút vốn đầu tư
Cho đến bây giờ, đã có một giả định ngầm là các công ty tăng trưởng cao có
thể tài trợ tăng trưởng của mình bằng các thu nhập từ lần cổ phần ban đầu, tiếp
theo bằng một tỷ lệ lợi nhuận hiện hành được giữ lại cao. Ngay cả một chính sách
chi trả cổ tức theo tỷ lệ 0 cũng không thể luôn luôn cung ứng đầy đủ vốn để đáp
ứng tốc độ tăng trưởng mong muốn của công ty, ý đồ chiến lược chủ yếu của giai
đoạn này là gia tăng thị phần, cũng như giúp phát triển tổng quy mô thị trường.
Vì vậy, có thể có nhu cầu huy động thêm vốn tùy từng lúc. Vốn huy động này
nên là vốn cổ phần do mức độ rủi ro kinh doanh tiếp tục cao. Một khi cổ phần mới
được phát hành, không thể phân biệt được các cổ phần mới này với các cổ phần đã
phát hành trước đây và tổng giá trị mới của công ty được chia cho tổng số cổ phần
để có được giá trị mới của mỗi cổ phần. Kết quả là, bất kỳ chênh lệch nào trong giá
phát hành sẽ tượng trưng cho một sự chuyển dịch tài sản từ cổ đông này sang cổ
đông khác. Nỗ lực phát hành các cổ phần mới này với một chênh lệch giá cao so
với giá cổ phần hiện hành là không thực tế, vì một nhà đầu tư mới sáng suốt sẽ
thích mua cổ phần hiện hành trực tiếp từ thị trường chứng khoán hơn là mua cổ

phần mới với giá cao hơn của công ty.
Để đạt được mục tiêu huy động vốn cổ phần mới tăng thêm, công ty sẽ xem xét
việc phát hành mới với một chiếc khấu giảm so với giá thị trường hiện hành nhưng
làm như thế sẽ tước đoạt tiền của các cổ đông hiện tại. Có thể tránh được việc này
nếu các cổ đông hiện tại có đăc quyền mua các cổ phần được chiếc khấu giảm giá
này theo tỷ lệ cổ phần họ nắm giữ; đây được gọi là các phát hành đặc quyền.
Người ta thường mô tả các phát hành này bằng chú thích là có thể mua bao nhiêu
cổ phần mới khi đang nắm giữ một số cổ phần hiện hữu. Công ty không thể buộc
các cổ đông hiện tại mua thêm bất kỳ cổ phần nào của công ty và vì vậy cho họ
một quyền lựa chọn mua các cổ phần mới này. Do cổ phần mới đang được phát
hành với giá thấp hơn giá thị trường hiện hành của các cổ phần hiện hữu, quyền lựa
chọn này sẽ có một giá trị và nếu các cổ đông hiện tại muốn, họ có thể bán quyền
này cho người khác.
Để hiểu rõ hơn về chủ đề này ta xem xét ví dụ với phát hành đặc quyền được
đề nghị với một suất chiết khấu 10% của giá cổ phần hiện tại (45$ so với 50$).
Chúng ta giả sử đây là mức bình thường cho loại công ty tăng trưởng này.
Công ty STAR muốn tăng vốn cổ phần để tài trợ chương trình triển khai sản
phẩm đầy triển vọng và để tài trợ tốc độ tăng trưởng cao liên tục của mình. Công ty
muốn huy động thêm 100 triệu đô la vốn cổ phần mới qua một phát hành đặc
quyền. Cổ phần đã phát hành của công ty gồm 10 triệu cổ phần với mệnh giá 10$
hiện đang được bán với giá 50$, tức vốn hóa thị trường của công ty bằng 500 triệu
đô la. Thu nhập mỗi cổ phần hiện tại là 2,5$ và cổ tức mỗi cổ phần là 0,5$.
Các cố vấn tài chính của công ty đề xuất một phát hành đặc quyền 1 cho 4 với
giá 45$ mỗi cổ phần để huy động 112,5 triệu đô la không kể chi phí phát hành.
Phân tích:
Chúng ta giả định công ty này đang được định vị như là một công ty tăng
trưởng vì có một tỷ số P/E bằng 20 [50$:2,5$] và một cổ tức chỉ bằng 1%
[0,5$:50$] cho thấy rằng các nhà đầu tư hiện tại đang mua cổ phần với kì vọng
tăng trưởng vốn. Kỳ vọng tăng trưởng này có vẻ hợp lý vì công ty hiện đang giữ lại
80% lợi nhuận để tái đầu tư, tức là 2,0$ trong đó 2,5$ thu nhập trên mỗi cổ phần

EPS.
Từ một thông báo một phát hành đặc quyền, thị trường chứng khoán nhận hai
thông tin mới; đó là công ty muốn huy động vốn cổ phần mới và công ty dự định
làm gì với số tiền này. Thị trường chứng khoán phân tích thông tin này và điều
chỉnh giá cổ phần, tùy theo thị trường có tin rằng phát hành mới này sẽ đưa đến các
dòng tiền tương lai gia tăng đáng kể hay không, tức là đầu tư sẽ có một hiện giá
thuần dương hay không. Nói cách khác, các thông tin từ thông báo được kết hợp
một cách riêng rẽ vào giá cổ phần. Nếu các nhà đầu tư đề nghị có vẻ hấp dẫn về
mặt tài chính giá cổ phần có thể tăng để phản ánh cơ hội mới này.
Điều chỉnh giá tức thời khi thông báo phát hành đặc quyền
Công ty STAR phát hành đặc quyền 1 cho 4 với giá 45$ mỗi cổ phần.
Vị thế hiện tại 10 triệu cổ phần
×
50$

500 triệu đô la
Phát hành đặc quyền 1 cho 4 2,5 triệu cổ phần
×
45$

112,5 triệu đô la
…………………. ………………
Vị thế tức thời-sau khi thông báo 12,5 triệu CP

49$

612,5 triệu đô la
Cổ đông được mua cổ phần với giá 45$
Giá sau đặc quyền của tất cả các cổ phiếu 49$


Vậy giá đặc quyền 4$
Tuy nhiên lúc đầu công ty đã phát hành cổ phần mới để lấy một lượng tiền mặt.
Giá cổ phần sẽ lập tức dịch chuyển để phản ánh hoàn cảnh mới này trước khi tính
đến tác động dài hạn hơn của đầu tư của các nguồn vốn này. Ta có thể thấy giá cổ
phần sau đặc quyền bây giờ phản ánh bình quân gia quyền của giá cổ phần ban đầu
và giá cổ phần đặc quyền, vì vậy chiếc khấu từ cung ứng đặc quyền đã được rải
đều cho tất cả các cổ phần. Như vậy giá cổ phần đã sụt nhẹ nhưng không tự động
làm các cổ phần nghèo đi. Họ có quyền mua một cổ phần với giá 45$ bây giờ có
giá trị 49$ khi họ nhận đặc quyền này. Nếu họ không muốn đầu tư thêm 45$ nữa
vào công ty, họ có thể bán đặc quyền để lấy 4$ bù lại (4
×
1$) mà họ đã mất từ cổ
phần đang nắm giữ. Tác động này được cân đối bất kể số cổ phần ban đầu lớn bao
nhiêu và họ nhận hay là bán đặc quyền.
Trong thực tế khi phát hành chứng khoán ra công chúng bạn không thể chắc
chắn rằng giá cổ phần sẽ tăng lên 49$, bởi vì giá thực tế cuối cùng sẽ chịu ảnh
hưởng của phản ứng của thị trường chứng khoán đối với cơ hội đầu tư mới này và
quyết định của công ty sử dụng vốn cổ phần để tài trợ đầu tư này như thế nào?
Nhưng bất cứ chuyển động nào như thế không phải do các chi tiết cụ thể của phát
hành đặc quyền gây ra, phát hành đặc quyền này không tạo ra lợi cũng không gây
thiệt hại, dù cổ đông nhận được hay bán nó đi.
Tác động của phát hành đặc quyền đối với các cổ đông lớn.
Công ty STAR- các phương án lụa chọn cho người nắm giữ 1 triệu cổ phần
(tức là sở hữu 10% công ty).
Cổ đông này nhận được đặc quyền mua 250 ngàn cổ phần mới với giá 45$ và
có hai phương án để lựa chọn: nhận hoặc bán đặc quyền này.
Nhận đặc quyền:
Đầu tư ban đầu 1 triệu CP
×
50$ = 50 triệu đô la

Chi trả cho đặc quyền 250 ngàn CP
×
4$ = 11,25 triệu đô la
………………. ………………
Số cổ phần hiện nắm giữ 1,23 triệu CP
Nhưng sẽ có một đầu tư trị giá 61,25 triệu đô la
Nếu giá cổ phần tăng lên 49$ điều này đúng vì 1,25 triệu cổ phần
×
49$ = 61,25
triệu đô la. Vì vậy, không lỗ cũng không lời.
Bán đặc quyền
Đầu tư ban đầu 1 triệu CP
×
50$ = 50 triệu đô la
Thu từ bán đặc quyền 250 ngàn CP
×
4$ = 1 triệu đô la
………………… ……………….
Còn lại một đầu tư ròng 1 triệu CP trị giá 49 triệu đô la
Điều này sẽ đúng nếu giá cổ phần tăng lên 49$ đúng như nó sẽ tăng, không lỗ
cũng không lời.
LKLKOKOK*?2.''YAU
Là việc chia nhỏ cổ phần ra nhiều phần nhỏ hơn nữa. Về mặt lý thuyết việc
tách nhỏ cổ phần không hề làm thay đổi một chút nào giá trị của công ty. Các cổ
đông bây giờ vẫn hưởng một tỷ suất cổ tức như trước đó, có điều giá mỗi cổ phần
bây giờ nhỏ hơn. Các cổ đông chẳng khá giả gì thêm, họ chỉ nhận được nhiều tờ
giấy hơn mà thôi. Nhưng nếu như thế thì tách nhỏ cổ phần để làm gì? Câu trả lời
là: cách làm này sẽ tạo ra khả năng để thu hút thêm các nguồn vốn cổ phần mới
vào công ty.

×