Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Giám Đốc Tài chính và việc hoạch định chiến lược tài chính trong doanh nghiệp.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (556.02 KB, 69 trang )

Đề tài: Giám đốc Tài chính và việc Hoạch định chiến lược tài chính trong Doanh nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Xuất phát từ mục đích phục vụ cho công việc ngày càng phát triển sau này, tôi
chọn đề tài “Giám đốc tài chính và việc hoạch định chiến lược tài chính trong
DNNN VN” làm đề tựa cho luận văn tốt nghiệp của mình . Về bản thân tôi cho
rằng đây là một đề tài mới và hay nếu được đầu tư đúng mức . Trong quá trình
nghiên cứu, tìm tòi cơ sở để ủng hộ cho quản điểm này, tôi đã bắt gặp ý kiến
của ông Tiến só Trần Tiến Cường - Trưởng ban doanh nghiệp của Viện nghiên
cứu quản lý kinh tế Trung Ương như sau : “ Tôi rất lo ngại về khả năng hoạch
định chiến lược, điều chỉnh hoạt động đầu tư kinh doanh trong một loạt các doanh
nghiệp cổ phần hóa và năng lực vận hành bộ máy, bởi vì theo kinh nghiệm của
các nước đi trước như Singapore, loại doanh nghiệp đặc biệt này phải được vận
hành bởi những người có đầu óc kinh doanh tốt, được đào tạo có bài bản và nhìn
thấy được cơ hội đầu tư trong và ngoài nước”.
Có thể nói điều này hoàn toàn đúng, dân gian có câu “ không lo xa, ắt có buồn
gần”, trên thực tế việc hoạch định chiến lược mà đặc biệt là chiến lược tài chính
ví như chuyện biết “lo xa” của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Việt Nam và
đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà Nước trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đã
bộc lộ những yếu kém, hạn chế, đây chính là cản lực rất lớn trong năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Nhận thức được vấn đề này, các doanh nghiệp cần phải
biết nhận diện chính mình, xây dựng chiến lược tài chính trong ngắn hạn và dài
hạn với mục đích giúp doanh nghiệp dự trù trước những tình huống có thể xảy ra
và có những biện pháp đối phó thích ứng trước để hạn chế những rủi ro phát sinh
trong thực tế và định hướng phát triển trong tương lai, trên cơ sở đó đó có những
bước phát triển ngày càng vững chắc và toàn diện.

Trang 1


Đề tài: Giám đốc Tài chính và việc Hoạch định chiến lược tài chính trong Doanh nghiệp
Chiến lược tài chính đòi hỏi những nhà hoạch định tài chính có tầm nhìn chiến


lược, khả năng phân tích và dự đoán thích ứng với mỗi giai đoạn phát triển nhất
định. Người thực hiện nhiệm vụ này không ai khác hơn là Giám đốc tài chính, ở
các nước phát triển trên thế giới và trong khu vực, Giám đốc tài chính là một
chức danh gắn liền với những nhiệm vụ huyết mạch đã tồn tại và phát triển khá
lâu, đã có rất nhiều sách và tạp chí cũng như trang Web dành riêng cho chuyên
mục này, thông tin về Giám đốc tài chính rất phong phú và đa dạng, bất kỳ ai
cũng có thể truy cập và học hỏi. Tại Việt Nam, đây là một chức danh còn khá xa
lạ và thực tế các văn bản pháp luật chi phối của Nhà Nước cũng chưa đề cập
đến vấn đề này , chính vì lẽ đó luận văn “Giám đốc tài chính và công tác hoạch
định chiến lược tài chính trong DNNN VN” được viết ngoài những vấn đề đánh
giá cao tầm quan trọng của giám đốc tài chính và công tác hoạch định chiến lược
tài chính để giúp doanh nghiệp có nền tảng vững chắc, nâng cao năng lực cạnh
tranh trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới, luận văn còn có một ý nghóa khác,
rất nhân văn đó là tôn vinh những người làm công tác kế toán, tài chính - một
công việc được xem là chi li, tỉ mẫn và không mấy nổi trội này.

Trang 2


Đề tài: Giám đốc Tài chính và việc Hoạch định chiến lược tài chính trong Doanh nghiệp

Chương 1:
GIÁM ĐỐC TÀI CHÍNH VÀ VIỆC HOẠCH ĐỊNH CHIẾN
LƯC TÀI CHÍNH TRONG DOANH NGHIỆP
I. Chân dung giám đốc tài chính
1. Giám đốc tài chính – Ông là ai ?
Đối mặt với sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp, các chuyên gia tài
chính luôn phải trả lời được ba câu hỏi :
• Trong rất nhiều cơ hội đầu tư thì doanh nghiệp sẽ đưa ra quyết định
lựa chọn cơ hội đầu tư nào?

• Doanh nghiệp nên dùng nguồn tài trợ nào để tài trợ cho nhu cầu vốn
đầu tư đã được hoạch định đó ?
• Doanh nghiệp nên thực hiện chính sách cổ tức như thế nào?
Người trả lời ba câu hỏi trên không ai khác hơn là giám đốc tài chính. Trong
hoạt động của doanh nghiệp, giám đốc tài chính phải là người lèo lái con thuyền
tài chính để cho doanh nghiệp ngày càng phát triển.
2. Đạo đức và chuyên môn, hai tố chất cần có của một giám đốc tài chính
Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế sự thành công của các doanh nghiệp
trong hoạt động kinh doanh của mình quyết định sự lớn mạnh và phát triển của
doanh nghiệp cũng như về kinh tế của quốc gia, chính vì lẽ đó tầm quan trọng
của giám đốc tài chính được nâng lên rõ rệt. Đối với các mô hình tập đoàn,
công ty – tổng công ty thì ảnh hưởng của các quyết định về tài chính là rất lớn,
chỉ cần một sự sai lệch nhỏ “vô tình hay cố ý” cũng làm khác đi diện mạo vốn
có của nó. Sự vô tình hay cố ý ở đây muốn nhắc đến hai vấn đề. Vấn đề thứ nhất
thuộc về chuyên môn của giám đốc tài chính và vấn đề thứ hai thuộc về đạo
đức của giám đốc tài chính .
2.1 Tố chất thứ nhất – đạo đức
Đạo đức ở đây cần hiểu rằng đó chính là đạo đức nghề nghiệp, Giám đốc tài
chính cần có cái “tâm” trong sáng, không vụ lợi riêng tư, không vì quyền lợi bản
Trang 3


Đề tài: Giám đốc Tài chính và việc Hoạch định chiến lược tài chính trong Doanh nghiệp
thân của mình hay một bộ phận nào đó mà làm ảnh hưởng đến quyền lợi chung
của tập thể.
Tại Việt Nam đây là một vấn đề hết sức quan trọng và cần phải xem xét kỹ
trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn được xem là tăng trưởng nhanh của nền kinh
tế thị trường. Bởi một lẽ duy nhất mà ai cũng phải thức nhận đó là hiện tại nền
kinh tế Việt Nam còn bị chi phối rất lớn bởi kinh tế nhà nước, tập trung ở các
lónh vực quan trọng, các nghành công nghiệp đầu tàu. Do vậy xét về đạo đức

của giám đốc tài chính – người sử dụng nguồn tài chính của doanh nghiệp nói
riêng và của đất nước nói chung là một việc làm hết sức cần thiết.
Thực tế của những vụ tham nhũng tiêu cực lớn gần đây như một bức tranh minh
hoạ của vấn đề người chủ và người đại diện. Cần hiểu rằng người chủ là người
bỏ vốn ra để đáp ứng nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh và người đại diện
là người thay mặt cho người chủ để điều hành các hoạt động sản xuất kinh
doanh đó. Chi phí đại diện là chi phí mà hầu như bất cứ người chủ nào cũng có
lường trước, đó là những chi phí mà doanh nghiệp phải chịu khi người đại diện
thực hiện các quyết định đầu tư, tài trợ, phân phối có tính đến quyền lợi riêng
tư của chính bản thân mình. Trong khuôn khổ đề tài này, ta xem người đại diện
chính là giám đốc tài chính – một vị trí cực kỳ lý tưởng cho những mưu tính vụ
lợi cá nhân và trốn tránh nghóa vụ đối với Nhà Nước. Chính vì vậy, đạo đức
nghề nghiệp của giám đốc tài chính được đặt lên hàng đầu khi quyết định người
giữ vị trí này.
Một minh chứng sống động đó là vào tháng 7 năm 2002, những rung động trên
thị trường tài chính Mỹ qua sự kiện được coi là những vụ phá sản lớn nhất trong
lịch sử nước Mỹ của các công ty Enron, Worldcom…nguyên nhân chính của vấn
đề trên đã được phơi bày, đó chính là cách thức điều hành và quản trị tài chính
của các giám đốc tài chính ở những công ty này đã vi phạm những chuẩn mực
trong nguyên tắc nghề nghiệp và những chuẩn mực về đạo đức. Nhắc đến vấn
đề này để chúng ta thấy rằng chuẩn mực về đạo đức là vô cùng quan trọng nó
không chỉ ảnh hưởng đến một doanh nghiệp, một quốc gia, mà còn ảnh hưởng
đến cả thị trường tài chính của thế giới .
Chính vì lẽ đó, các giám đốc tài chính phải thoả mãn những phẩm chất sau:
Tính trung thực. Tính trung thực của giám đốc tài chính thể hiện qua các báo
cáo tài chính, cách thức sử dụng vốn của giám đốc tài chính trong các dự án đầu
tư, việc xác định dòng ngân lưu của dự án khi xây dựng dự án đầu tư. tính trung

Trang 4



Đề tài: Giám đốc Tài chính và việc Hoạch định chiến lược tài chính trong Doanh nghiệp
thực được xem như là một khởi đầu của những thành công chân chính và bền
vững. Bản cáo bạch trung thực dẫn đường cho nhà đầu tư đi đến thành công, tính
trung thực của giám đốc tài chính trong doanh nghiệp nếu được các nhà đầu tư
ghi nhận thì sẽ tạo nên niềm tin cho các nhà đầu tư và đây chính là con đường
ngắn nhất để đi của những thành công của doanh nghiệp
Tính khách quan. Nghiêm túc trong công việc, không bị chi phối bởi bất cứ thế
lực nào, kiên định duy trì quan điểm lập trường của mình trong công tác kế toán
tài chính đúng theo bản chất vấn đề và những chuẩn mực, những quy định của
Nhà Nước .
Trách nhiệm : Có trách nhiệm trong công việc và chịu trách nhiệm trước
những số liệu, báo cáo của mình đối với các bộ phận có liên quan .Trốn chạy
trách nhiệm là trường hợp của rất nhiều cán bộ tài chính cao cấp, trong quá
trình làm việc của mình họ đã quá hiểu họ đã làm những việc gì, chính vì thế
đến lúc cần ngưng và rời khỏi vị trí họ sẽ thực hiện ngay. Điều này chính do
hành vi thiếu trách nhiệm gây ra, việc thiếu trách nhiệm gây hậu quả vô cùng
nghiêm trọng gây ra hàng loạt những vấn đề khúc mắc, nan giản mà người kế
thừa phải gánh chịu cũng như có thể làm sụp đổ cả bộ máy hoạt động của doanh
nghiệp .
Nếu kiểm soát tốt vấn đề này ngay đầu vào cộng với sự hổ trợ đắc lực và đúng
hướng của của các bộ phận có liên quan, Hội đồng quản trị thì hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp là rất cao. Hiệu quả được tính đến là việc phản ánh đúng
bản chất hoạt động của doanh nghiệp, từ đó làm cơ sở phát huy tốt các kênh
khác trong doanh nghiệp như kênh kinh doanh, sản xuất và công tác quản trị.
Việc phản ánh đúng bản chất hoạt động kinh doanh và công khai minh bạch tài
chính làm cho các cổ đông và các nhà đầu tư an tâm hơn về các quyết định của
mình và đây chính là cơ sở cho những phát triển bền vững trong tương lai .
2.2 Tố chất thứ hai – Chuyên môn
Cần phải khẳng định rằng đây là một vấn đề lớn. Phạm vi công việc của giám

đốc tài chính ngày nay không chỉ giới hạn trong phạm vi kế toán tài chính mà
còn mở rộng ra ở cả lónh vực kinh doanh, thị trường tài chính trong nước và thế
giới, không chỉ giới hạn trong bộ phận quản trị vốn, làm thế nào để xây dựng
một cấu trúc vốn tối ưu, đạt hiệu quả và mang lại lợi ích cao nhất thì ngày nay
giám đốc tài chính là người phải giáp mặt với những thách thức, những đòi hỏi

Trang 5


Đề tài: Giám đốc Tài chính và việc Hoạch định chiến lược tài chính trong Doanh nghiệp
ngày càng cao của công việc, ngoài những công việc thường xuyên, họ còn phải
hổ trợ đắc lực cho cả giám đốc kinh doanh trong việc xây dựng chiến lược doanh
nghiệp
Theo một số thông tin thống kê và nhu cầu tuyển dụng tại một số doanh nghiệp
trên địa bàn TP. HCM gần đây cho thấy một giám đốc tài chính được tuyển dụng
phải thỏa các tiêu chí sau :
• Thứ nhất phải tốt nghiệp đại học hoặc trên đại học
• Thứ hai anh ta phải có kinh nghiệm tương đương 10 năm công tác kế
toán tài chính tại các công ty có quy mô
• Thứ ba trình độ về ngọai ngữ
• Thứ tư là khả năng thương thuyết và đàm phán và vấn đề quan trọng
nữa là anh ta phải có những hiểu biết nhất định về kinh doanh để hổ
trợ cùng giám đốc điều hành quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
Thật vậy, Giám đốc tài chính nguồn nhân lực cao cấp, người phải thực hiện ba
quyết định tài chính quan trọng đó là quyết định đầu tư, quyết định tài trợ và
quyết định phân phối. Ở đây nó đòi hỏi một sự kết hợp khéo léo giữa chuyên
môn và nghệ thuật để có thể đạt đến một kết quả cao nhất. Một quyết định đầu
tư sẽ đưa công ty đạt đến ngưỡng mới cao hơn, quy mô và thị trường mở rộng
hơn .

Ngoài các tố chất trên, giám đốc tài chính còn là người có óc mạo hiểm, đương
đầu với rủi ro, nhạy bén và cả khả năng thương thuyết.
II.Chiến lược tài chính, tiền đề của sự phát triển doanh nghiệp bền vững
1. Chiến lược tài chính là gì ?
Chiến lược tài chính là chiến lược liên quan đến việc ra và thực hiện các quyết
định tài chính nhằm mục tiêu tối đa hoá giá trị doanh nghiệp. Là việc xây dựng
một lộ trình dài hạn cho việc thực hiện cùng lúc cả ba quyết định : quyết định
đầu tư, quyết định tài trợ và quyết định phân phối cho các doanh nghiệp trong
các giai đoạn khởi sự, tăng trưởng, sung mãn và suy thoái.

Trang 6


Đề tài: Giám đốc Tài chính và việc Hoạch định chiến lược tài chính trong Doanh nghiệp
2. Chiến lược tài chính có vai trò quyết định trong hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp .
2.1 Nội dung cơ bản của công tác họach định chiến lược tài chính .
Hoạch định chiến lược tài chính được hiểu như việc xây dựng một lộ trình về tài
chính cho mỗi giai đoạn phát triển cụ thể của doanh nghiệp, trong mỗi giai đoạn
đều có những đặc điểm riêng biệt về tài chính và giám đốc tài chính là người
“cầm cương nẩy mực”, là người phải biết kết hợp khéo léo các chiến lược để đạt
mục tiêu cao nhất, các chiến lược đó là các chiến lược liên quan đến quyết định
về đầu tư, quyết định về tài trợ và quyết định về phân phối .
Chiến lược tài chính bao hàm một ý nghóa rộng và thường được xây dựng trong
một thời gian tương đối dài xác định, gắn với mỗi giai đọan phát triển cụ thể của
doanh nghiệp
Trong quá trình xây dựng chiến lược tài chính cho doanh nghiệp, giám đốc tài
chính hiểu được doanh nghiệp, nắm rõ những biến động và những tác nhân gây
ảnh hưởng đến lónh vực kinh doanh của doanh nghiệp, kết hợp cùng các phòng
ban nắm bắt diễn biến quy luật thị trường. Giám đốc tài chính phải hoạch định

chiến lược tài chính bao gồm những nội dung cụ thể như sau :
• Hoạch định chiến lược đầu tư hiệu quả
• Hoạch định nguồn tài trợ
• Hoạch định phân phối .
Các nhà họach định tài chính thường dùng một mô hình kế hoạch tài chính để
đánh giá kết quả của những chiếc lược tài chính khác nhau. Những mô hình này
bao gồm những mô hình có mục đích chung, không phức tạp đến những mô hình
chứa hàng trăm phương trình và những biến số tác động lẫn nhau. Tuy nhiên
theo ý kiến của các chuyên gia và theo thực tế nghiên cứu cho thấy không có tài
chính trong các mô hình tài chính doanh nghiệp. Điều này được lý giải như sau :
• Lý do thứ nhất là hầu hết các mô hình này đều là thế giới quan của kế
toán viên chúng được thiết kế để dự báo các báo cáo tài chính, và các
phương trình của chúng thể hiện một cách tự nhiên các quy ước kế toán
mà các doanh nghiệp sử dụng.

Trang 7


Đề tài: Giám đốc Tài chính và việc Hoạch định chiến lược tài chính trong Doanh nghiệp
• Lý do thứ hai các mô hình tài chính doanh nghiệp không phải là kim chỉ
nam cho quyết định tài chính tối ưu. Tuy vậy trong thực tế người ta có thể
thiết lập các mô hình quy họach tuyến tính giúp tìm các chiến lược tài
chính tốt nhất tùy thuộc các giả thuyết và giới hạn được ấn định.
Các nhà họach định tài chính thường gặp phải những vấn đề không thể giải
quyết được và đối phó với các vấn đề này một cách tốt nhất có thể được theo
phán đoán của mình. Ví dụ như chính sách cổ tức : chia hay không chia và còn
nhiều vấn đề khác có liên quan. Tuy nhiên chúng ta cần nhìn nhận rằng việc đeo
đuổi các mục tiêu và có những đối phó thích ứng trong mỗi trường hợp, mỗi giai
đoạn là một hướng đi chuẩn xác nhất mà tất cả đều phải tuân thủ.
2.2 Tầm quan trọng của công tác hoạch định chiến lược tài chính .

Hoạch định chiến lược tài chính là một công việc hết sức quan trọng của doanh
nghiệp. Một chiến lược tài chính đúng đắn giúp doanh nghiệp giúp doanh nghiệp
đạt đến mục tiêu trong thời gian ngắn nhất, chi phí thấp nhất, hiệu quả cao nhất.
Chiến lược tài chính đúng đắn giúp doanh nghiệp tạo khoảng cách khác biệt và
vượt qua đối thủ cạnh tranh của mình một cách thận trọng và dễ dàng .
Giám đốc tài chính là người phải biết “thăm bệnh” để “bốc thuốc” cho đúng.
Chính vì vậy, trong mỗi giai đoạn nhất định, giám đốc tài chính phải là người
nhận biết rõ nhất thông qua các công cụ là những thông số chiến lược để làm
được điều này đòi hỏi giám đốc tài chính phải có kiến thức nhất định về tài
chính cộng với sự am hiểu sâu sắc về lónh vực mà doanh nghiệp mình hoạt động
Bên cạnh đó việc nhận biết doanh nghiệp của mình đang rơi vào giai đoạn nào
cũng là một vấn đề đòi hỏi tính chuẩn xác của giám đốc tài chính.
3. Chiến lược tài chính cho doanh nghiệp gắn liền với giai đoạn phát triển
chu kỳ sống .
Giám đốc tài chính xây dựng chiến lược tài chính cho doanh nghiệp trong mỗi
giai đoạn phát triển dựa trên tương quan nghịch giữa rủi ro kinh doanh và rủi ro
tài chính. Cũng như sự phát triển của con người, doanh nghiệp có sự phát triển
tuần tự từ khởi sự – giai đoạn đầu tiên của chu kỳ kinh doanh đến tăng trưởng –
giai đoạn phát triển kế tiếp quyết định sự lớn mạnh của doanh nghiệp, kế đến là
sung mãn và cuối cùng là suy thoái.

Trang 8


Đề tài: Giám đốc Tài chính và việc Hoạch định chiến lược tài chính trong Doanh nghiệp
Trong mỗi giai đoạn phát triển, các thông số chiến lược tài chính sẽ có những
đặc trưng riêng phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của từng doanh
nghiệp. Chung quy lại các thông số tài chính kể đến như sau :
1. Rủi ro kinh doanh
2. Rủi ro tài chính

3. Nguồn tài trợ
4. Chính sách cổ tức
5. Triển vọng tăng trưởng tương lai
6. Tỷ số giá thu nhập ( P/E)
7. Thu nhập trên mỗi cổ phần ( EPS)
8. Giá cổ phần .
3.1 Khởi sự kinh doanh
Khởi sự kinh doanh chính là giai đoạn đầu của chu kỳ kinh doanh, giai đoạn đầu
trong suốt đời sống của doanh nghiệp, nói một cách chân phương và dễ hiểu
nhất nó như giai đoạn mới chào đời trong cuộc đời của một con người. Khởi sự
kinh doanh gắn liền với mức độ cao nhất của rủi ro kinh doanh. Các rủi ro đó
chính là khả năng sản xuất sản phẩm mới có hiệu quả hay không, nếu có hiệu
quả, thì sản phẩm có được các khách hàng tương lai chấp nhận hay không; nếu
được chấp nhận, thị trường có tăng trưởng đến một quy mô hiệu quả đủ cho các
chi phí triển khai và đưa sản phẩm ra thị trường hay không; và nếu tất cả những
điều này đạt được thì công ty có chiếm được thị phần hay không ?
Mối tương quan nghịch giữa rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính đã đặt ra vấn đề
rủi ro tài chính trong giai đoạn này càng thấp càng tốt, chính vì thế sự có mặt
của vốn mạo hiểm trong giai đoạn khởi sự của doanh nghiệp là một lợi thế rất
lớn và đây là một trong những nguồn tài trợ lý tưởng mà các doanh nghiệp mới
khởi sự rất quan tâm .
3.2 Giai đoạn tăng trưởng
Tiếp theo của giai đoạn trên khi một sản phẩm mới được tung ra thị trường một
cách thành công, doanh số bán đã bắt đầu tăng nhanh chóng. Điều này không
chỉ tiêu biểu cho việc sụt giảm rủi ro kinh doanh chung đi kèm với sản phẩm, mà
còn thấy nhu cầu điều chỉnh ý đồ chiến lược của công ty. Trong chiến lược cạnh
tranh, cần nhấn mạnh đến các hoạt động tiếp thị để bảo đảm doanh số tăng

Trang 9



Đề tài: Giám đốc Tài chính và việc Hoạch định chiến lược tài chính trong Doanh nghiệp
trưởng thoả đáng và để công ty gia tăng thị phần của doanh số đang tăng trưởng
này.
Giai đoạn tăng trưởng đi liền với nhu cầu nguồn vốn hoạt động của doanh
nghiệp ngày càng lớn để mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các
nguồn tài trợ được chú ý trong giai đoạn này kể đến như sau :
• Lợi nhuận giữ lại từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
• Phát hành cổ phiếu mới
• Đi vay
Mỗi nguồn tài trợ sẽ có những đặc điểm riêng cũng như những lợi thế riêng. Khi
quyết định lựa chọn nguồn tài trợ nào các giám đốc tài chính sẽ có những phân
tích, tính toán và cân nhắc kỹ lưỡng và phù hợp với đặc điểm riêng biệt của từng
doanh nghiệp.
3.3 Giai đoạn sung mãn
Kết thúc giai đoạn tăng trưởng thường được đánh giá bằng một cạnh tranh giá cả
giữa các công ty cạnh tranh vẫn còn năng lực cạnh tranh đáng kể. Một khi ngành
đã ổn định giai đoạn sung mãn với doanh số cao nhưng tương đối ổn định với
biên lợi nhuận hợp lý có thể bắt đầu. Rõ ràng mức độ rủi ro kinh doanh lại giảm
do một gia đoạn phát triển khác bây giờ đã hoàn tất một cách thành công ; công
ty sẽ bước vào giai đoạn sung mãn với một thị phần tương đối tốt do kết quả đầu
tư.
Có thể nói rằng đến giai đoạn này, phần lớn các doanh nghiệp chú trọng đến
việc bù đắp lợi tức cho nhà đầu tư bằng chính sách chi trả cổ tức cao
3.4 Giai đoạn suy thoái
Biểu hiện của giai đoạn suy thoái khi nhu cầu sản phẩm bắt đầu giảm dần, các
dòng tiền mặt thu vào cũng giảm, mặc dù không nhất thiết phải cùng tốc độ nếu
công ty được quản lý tốt. Một khi doanh số bắt đầu sụt giảm không thể tránh
được, việc tiếp tục chi tiêu cho cùng số tiền cho việc duy trì loại hoạt động tiếp
thị này không còn hợp lý nữa. Như vậy, có thể duy trì được dòng tiền thuần trong

giai đoạn suy thoái ban đầu bằng cách điều chỉnh chiến lược kinh doanh thích
hợp.

Trang 10


Đề tài: Giám đốc Tài chính và việc Hoạch định chiến lược tài chính trong Doanh nghiệp
Triển vọng tăng trưởng âm được diễn dịch thành một tỷ số giá thu nhập thấp cho
các cổ phần và, khi kết hợp với chiều hướng đi xuống trong thu nhập mỗi cổ
phần đang xảy ra trong giai đoạn này, nó đưa đến một sụt giảm mạnh giá cổ
phần. Tuy nhiên, chừng nào các cổ đông biết rằng phần chi trả cổ tức cao cho họ
thực tế là hoàn trả vốn, giá trị sụt giảm này sẽ không gây ra những lo ngại
không đúng.
Giai đoạn suy thoái thường làm các doanh nghiệp đi vào lúng túng, bi quan và
đôi khi có những hành động phản tác dụng như việc tăng đầu tư để hy vọng có
thể cứu vãn tình thế. Trong trường hợp này các giám đốc tài chính nên hết sức
bình tỉnh để thấy đúng bản chất vấn đề và giải quyết hợp lý như việc giải thể
hay sát nhập.
4. Ý nghóa của các thông số trong chiến lược tài chính
Chiến lược tài chính có những thông số tài chính và nội dung của những thông số
này khác nhau cho từng giai đoạn nhất định. Để hiểu và xây dựng các thông số
trong chiến lược tài chính phù hợp cho từng giai đoạn, chúng ta nên xem qua ý
nghóa các thông số
4.1 Rủi ro kinh doanh
Rủi ro kinh doanh là tính khả biến hay không chắc chắn về EBIT của doanh
nghiệp. Các số đo như độ lệch chuẩn EBIT hay hệ số phương sai có thể được
dùng để chỉ rủi ro kinh doanh của một doanh nghiệp. Có nhiều yếu tố dẫn đến
tính bất ổn trong EBIT của doanh nghiệp. Các yếu tố đó bao gồm tính khả biến
trong doanh thu và chi phí họat động
Đòn bẩy kinh doanh phát sinh từ việc sử dụng các chi phí họat động cố định, như

chi phí trả lương được đảm bảo, tài sản cố định. Các chi phí hoạt động cố định
cao, các thay đổi nhỏ trong doanh thu được “ bẩy” lên thành thay đổi lớn trong
EBIT. Đòn bẩy kinh doanh cao là đặc trưng của các ngành ô tô và hàng không .
Rủi ro kinh doanh được đo lường bằng hệ số phương sai của EBIT theo thời gian.
Có nhiều yếu tố dẫn đến rủi ro kinh doanh của một doanh nghiệp (nếu tác động
của tất cả các yếu tố quan trọng khác giữ nguyên không đổi ), bao gồm :

Trang 11


Đề tài: Giám đốc Tài chính và việc Hoạch định chiến lược tài chính trong Doanh nghiệp
Tính biến đổi của doanh số theo chu kỳ kinh doanh. Các doanh nghiệp có các
doanh số giao động lớn theo chu kỳ kinh doanh thường có nhiều rủi ro kinh
doanh hơn các doanh nghiệp bình thường khác
Tính biến đổi của giá bán. Trong vài ngành công nghiệp, giá cả có thể ổn định
từ năm này sang năm khác, hoặc doanh nghiệp có khả năng tăng giá thường
xuyên theo thời gian. Điều này đúng cho nhiều sản phẩm tiêu dùng như thuốc lá
và nhiều loại thực phẩm chế biến sẳn. Thông thường giá bán trong một ngành
công nghiệp càng cạnh tranh nhiều, rủi ro kinh doanh của các doanh nghiệp
trong ngành đó càng lớn .
Tính biến đổi của chi phí. Tính biến đổi trong chi phí của các nhập lượng dùng
để sản xuất các sản lượng của một doanh nghiệp càng cao, rủi ro kinh doanh của
doanh nghiệp đó càng lớn
Sự tồn tại sức mạnh của thị trường. Các doanh nghiệp có sức mạnh của thị
trường lớn nhờ quy mô của họ hay do cấu trúc của ngành công nghiệp trong đó
họ cạnh tranh thường có nhiều khả năng để kiểm soát chi phí và giá cả sản
phẩm của họ hơn các doanh nghiệp họat động trong một môi trường cạnh tranh
hơn. Vì vậy, sức mạnh thị trường của một doanh nghiệp càng lớn, rủi ro kinh
doanh của một doanh nghiệp càng nhỏ. Khi đánh giá sức mạnh thị trường của
một doanh nghiệp, nên xem xét không chỉ yếu tố cạnh tranh hiện tại doanh

nghiệp đang phải đối phó mà nên xem xét cả tiềm năng cạnh tranh tương lai,
nhất là cạnh tranh có thể phát sinh từ nước ngoài .
Phạm vi đa dạng hóa sản phẩm. nếu tất cả các yếu tố khác không đổi, các
chủng loại của một doanh nghiệp càng được đa dạng hóa. EBIT của một doanh
nghiệp càng ít biến động .
Các doanh nghiệp tăng trưởng nhanh thường có tính biến đổi trong EBIT. Tăng
trưởng nhanh tạo nên nhiều căng thẳng trong họat động của doanh nghiệp. Phải
xây dựng thêm cơ sở mới, các chi phí họat động thường mang tính không chắn
chắn, phải mở rộng và cấp nhất các hệ thống kiểm soát nội bộ, phải gia tăng
nhanh bộ khung quản lý có tài và các sản phẩm mới cũng đòi hỏi chi tiêu tốn
kém cho công tác nghiên cứu phát triển. Các yếu tố này thường kết hợp để đưa
ra tính khả biến cao của EBIT.

Trang 12


Đề tài: Giám đốc Tài chính và việc Hoạch định chiến lược tài chính trong Doanh nghiệp
4.2 Rủi ro tài chính
Minh họa về đòn bẩy kinh tế
EPS
DN B cấu trúc vốn có tài
Trợ bằng nợ

EPS’2

DN A cấu trúc vốn có tài
trợ hoàn toàn bằng vốn
cổ phần

EPS’1

EPS2
EPS1

EPS0
EPS’0

EBIT

EBIT1 EBIT2
Rủi ro tài chính chỉ tính khả biến tăng thêm của thu nhập mỗi cổ phần và xác
suất mất khả năng chi trả xảy ra khi một doanh nghiệp sử dụng các nguồn tài trợ
có chi phí tài chính cố định, như nợ và cổ phần ưu đãi trong cấu trúc vốn của
mình. ( Mất khả năng chi trả xảy ra khi một doanh nghiệp không đáp ứng các
nghóa vụ tài chính theo hợp đồng – như thanh toán lãi và vốn vay, thanh toán các
khoản phải trả và thuế thu nhập doanh nghiệp khi đáo hạn ). Các chi phí sử dụng
vốn như lãi vay và cổ tức ưu đãi tượng trưng cho các nghóa vụ theo hợp đồng một
doanh nghiệp phải đáp ứng bất kể mức độ EBIT.
Khi gia tăng sử dụng các số lượng nợ và cổ phần ưu đãi làm tăng các chi phí tài
chính cố định của doanh nghiệp đến lượt mình. Chi phí này lại làm tăng mức
EBIT mà doanh nghiệp phải đạt được để đáp ứng các nghóa vụ tài chính và duy
trì hoạt động. Lý do một doanh nghiệp chấp nhận rủi ro tài trợ có chi phí tài
chính cố định là để làm tăng lợi nhuận có thể có cho các cổ đông.
Rủi ro của việc sử dụng đòn bẩy tài chính là nếu tỷ suất sinh lợi trên vốn đầu tư
thấp hơn chi phí sử dụng vốn vay thì đòn bẩy tài chính sẽ làm giảm tỷ suất sinh
lợi mong đợi của các cổ ñoâng.

Trang 13


Đề tài: Giám đốc Tài chính và việc Hoạch định chiến lược tài chính trong Doanh nghiệp

4.3 Nguồn tài trợ
Doanh nghiệp cần tiền phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình,
phục vụ cho các chiến lược tương thích trong mỗi giai đoạn phát triển cụ thể. Để
xác định chiến lược tài trợ tốt nhất doanh nghiệp thường đưa ra những danh mục
để lựa chọn :
• Doanh nghiệp có nên tái đầu tư hầu hết thu nhập từ kinh doanh của mình
hay không, hay dùng chi trả cổ tức ?
• Nếu cần thêm tiền doanh nghiệp nên phát hành cổ phần hay nên đi vay ?
• Nên vay ngắn hạn hay vay dài hạn ?
• Nên vay bằng cách phát hành một trái phiếu dài hạn thông thường hay
một trái phiếu có thể chuyển đổi ( tức một trái phiếu mà trái chủ có thể
dùng đổi lấy cổ phần )
Nguồn tài trợ đơn giản nhất cũng là quan trọng nhất, cổ phần thường : người
nắm giữ cổ phần thường nắm giữ doanh nghiệp. Vì vậy họ được quyền hưởng
bất kỳ tài sản hay thu nhập nào còn lại sau khi tất cả các món nợ của doanh
nghiệp được thanh toán. Họ cũng có quyền bỏ phiếu biểu quyết các vấn đề quan
trọng, như thành viên hội đồng quản trị. Các doanh nghiệp nhận thêm tài chính
từ các cổ đông thường bằng cách phát hành thêm cổ phần mới hay bằng cách tái
đầu tư một phần tiền mặt đã phát sinh trong hoạt động kinh doanh.
Nguồn tài chính thứ hai là cổ phần ưu đãi: cổ phần tài chính giống như nợ ở
chổ nó cũng hứa hẹn một cổ tức cố định, nhưng cổ tức ưu đãi tuỳ thuộc vào
quyết định của hội đồng quản trị. Tuy nhiên doanh nghiệp phải chi trả cổ tức cổ
phần ưu đãi được khi được phép chi trả cổ tức cổ phần thường, về quy định cổ
phần ưu đãi như là vốn cổ phần của công ty. Nghóa là cổ tức ưu đãi không được
khấu trừ thuế, đây chính là lý do cổ phiếu ưu đãi ít thông dụng hơn nợ.
Nguồn tài chính quan trọng thứ ba đó là nợ: Trái chủ có quyền hưởng một chi
trả lãi thường xuyên và hoàn trả vốn cuối cùng. Nếu doanh nghiệp không thể
thực hiện các chi trả này, doanh nghiệp có thể nộp đơn xin phá sản. Kết quả
thường là các trái chủ sẽ tiếp quản các tài sản của doanh nghiệp để bán ra hoặc
để doanh nghiệp tiếp tục hoạt động dưới một ban điều hành mới. Lãi vay được

xem như một khoản chi phí, lãi được chi trả từ lợi nhuận trước thuế, trong khi cổ
tức và lợi nhuận giữa lại được trích từ thu nhập sau thuế.
Các công cụ nợ doanh nghiệp thì hầu như vô tận. Các công cụ được phân loại
theo ngày đáo hạn, các điều khoản thanh toán, cấp độ đảo đảm rủi ro không
thanh toán nợ
Nguồn tài chính thứ tư bao gồm các quyền lựa chọn : quyền lựa chọn đơn giản
là chứng chỉ đặc quyền, nó cho người nắm giữ quyền mua một cổ phần với một
giá ấn định và một ngày ấn định. Các doanh nghiệp cũng mua và bán các công

Trang 14


Đề tài: Giám đốc Tài chính và việc Hoạch định chiến lược tài chính trong Doanh nghiệp
cụ phái sinh để tự bảo vệ trước các nguy cơ rủi ro từ bên ngoài, như là giao động
về giá cả hàng hoá lãi suất và hối suất. Các công cụ phái sinh bao gồm các
quyền lựa chọn về giao dịch, các hợp đồng giao sau, hợp đồng kỳ hạn và các
hoán đổi.
Các giám đốc tài chính phải đối phó với hay quyết định tài trợ chủ yếu :
• Tỷ lệ lợi nhuận mà doanh nghiệp nên tái đầu tư vào doanh nghiệp thay vì
phân phối cổ tức các cổ đông là bao nhiêu ?
• Tỷ lệ thâm hụt nên được tài trợ bằng nợ vay thay vì phát hành vốn cổ
phần là bao nhiêu?
4.4 Chính sách cổ tức
Chính sách cổ tức ấn định mức lợi nhuận của công ty được đem ra phân phối
như thế nào. Lợi nhuận sẽ được giữ lại để tái đầu tư cho công ty hay được chi trả
cho cổ đông. Lợi nhuận giữ lại là một nguồn quan trọng cho việc tài trợ vốn cổ
phần cho khu vực tư nhân, mặc dù việc phân chia giữa lợi nhuận phát hành cổ
phần mới và lợi nhuận giữ lại có xu hướng thay đổi theo thời gian. Do vậy, lợi
nhuận giữ lại là nguồn vốn quan trọng hơn phát hành cổ phần mới.
Về bản chất, lợi nhuận giữa lại có thể được dùng để kích thích tăng trưởng lợi

nhuận tương lai và do đó có thể ảnh hưởng đến giá trị cổ phần tương lai. Mặc
khác cổ tức cung cấp cho cổ đông một lợi nhuận hữu hình thường xuyên. Doanh
nghiệp có nhiều cách kết hợp để ấn định cổ tức của một doanh nghiệp
Chính sách cổ tức thường được áp dụng trong thực tiển
Chính sách lợi nhuận giữ lại thụ động
Chính sách lợi nhuận giữa lại thụ động xác nhận rằng một doanh nghiệp nên giữ
lại lợi nhuận khi nào mà doanh nghiệp có các cơ hội đầu tư hứa hẹn các tỷ suất
sinh lợi cao hơn tỷ suất sinh lợi mong đợi mà các cổ đông đòi hỏi. Nguyên lý giữ
lại lợi nhuận thụ động cũng đề xuất là công ty “ tăng trưởng” thường có tỷ lệ chi
trả cổ tức thấp hơn các doanh nghiệp đang trong giai đoạn sung mãn.
Chính sách cổ tức tiền mặt ổn định
Có nhiều bằng chứng cho thấy rằng hầu hết các doanh nghiệp và các cổ đông
thích chính sách cổ tức tương đối ổn định hơn. Tính ổn định được đặc trưng bằng
một sự miễn cưỡng trong việc giảm lượng tiền mặt chi trả cổ tức từ kỳ này sang
kỳ khác. Tương tự, những gia tăng trong tỷ lệ cổ tức thường vẫn bị trì hoãn cho
đến khi nào các giám đốc tài chính hân hoan công bố rằng các khoản lợi nhuận
trong tương lai đủ cao đến mức độ thoả mãn cổ tức lớn hơn. Như vậy, mặc dù tỷ
lệ chi trả cổ tức có khuynh hướng đi theo sau một gia tăng trong lợi nhuận thì
cũng có một khuynh hướng trì hoãn lại trong một chừng mực nào đó .
Một vài giám đốc tài chính cho thấy rằng một chính sách cổ tức tăng trưởng và
ổn định thường có xu hướng làm giảm sự bất trắc của nhà đầu tư về các dòng cổ

Trang 15


Đề tài: Giám đốc Tài chính và việc Hoạch định chiến lược tài chính trong Doanh nghiệp
tức tương lai. Họ tin rằng các nhà đầu tư sẽ trả một giá cao hơn cho cổ phần của
một doanh nghiệp chi trả cổ tức ổn định, do đó làm giảm chi phí sử dụng vốn của
doanh nghiệp.
Chính sách chi trả cổ tức khác

Một vài doanh nghiệp chấp nhận một chính sách cổ tức có tỷ lệ chi trả không
đổi. Nếu lợi nhuận của doanh nghiệp thay đổi nhiều từ năm này sang năm khác
thì cổ tức cũng thay đổi theo.
Bên cạnh đó, một chính sách chi trả cổ tức nhỏ hàng quý cộng với cổ tức thưởng
thêm vào cuối năm, chính sách này đặc biệt thích hợp chi một doanh nghiệp có
thành tích lợi nhuận biến động và nhu cầu tiền mặt biến động giữa năm này với
năm khác hoặc cả hai
4.5 Thu nhập trên mỗi cổ phần (EPS- Earning per share)
Thu nhập mổi cổ phần là yếu tố quan trọng nhất, quyết định giá trị cổ phần vì
nó đo lường sức thu nhập chức đựng trong một cổ phần hay nói cách khác nó thể
hiện thu nhập mà nhà đầu tư có được do mua cổ phần
4.6 Tỷ số giá thu nhập ( P/E – Price earning ratio )
Tỷ số giá thu nhập là một trong những thuật ngữ tài chính được các nhà đầu tư
sử dụng hàng ngày trên thị trường chứng khoán. Với một cổ phần đang có giá
trên thị trường đồng nghóa với việc nó đang được bán với giá P/E cao. Điều này
có nghóa các nhà đầu tư sẳn sàng chi trả giá cao hơn trên cùng một đồng thu
nhập EPS để mua được cổ phần đó .
Tỷ số P/E cao có thể hiện một tỷ suất vốn hoá thị trường thấp hay không ?. Cần
khẳng định rằng không có mối quan hệ giữa P/E và tỷ suất vốn hoá thị trường.
Tỷ số EPS/Po giúp đo lường r chỉ khi hiện giá các cơ hội tăng trưởng PVGO = 0
và chỉ khi những ghi nhận về EPS là những thu nhập bình quân trong tương lai
mà công ty có thể tạo ra trong điều kiện công ty không tăng trưởng .
4.7 Giá cổ phần
Giá cổ phần ở thời điểm hiện tại, các cổ đông đang nắm giữ các cổ phần sẽ nhận
được thu nhập dưới hai hình thức
1.) Cổ tức
2.) Lãi vốn (hoặc lỗ vốn)
Mô hình chiếc khấu DCF trong tính hiện giá cổ phần cũng tương tự như được sử
dụng trong tính hiện giá của những tài sản khác. Chúng ta chỉ tính chiếc khấu
dòng tiền – Trong trường hợp này là dòng cổ tức trong tương lai- bằng một suất

chiếc khấu chính là cơ hội phí từ tỷ suất sinh lợi những cổ phần có cùng mức rủi
ro trên thị trường vốn.

Trang 16


Đề tài: Giám đốc Tài chính và việc Hoạch định chiến lược tài chính trong Doanh nghiệp
Chương 2.

GIÁM ĐỐC TÀI CHÍNH VÀ CHIẾN LƯC TÀI CHÍNH
TẠI CÁC DNNN TRONG THỜI GIAN QUA
I. Thực trạng DNNN trước áp lực của nền kinh tế thị trường và gia nhập

WTO
1. DNNN và những đóng góp cho nền kinh tế
1.1 Số liệu thống kê về doanh nghiệp và những con số biết nói
Theo thống kê tính đến 1/1/2004 số doanh nghiệp thực tế đang hoạt động là
72.012 doanh nghiệp, giải quyết việc làm cho 5.175 triệu lao động, năm 2005
Tổng cục thống kê công bố kết quả điều tra thực trạng doanh nghiệp Việt Nam
trong 3 năm 2002-2004. Điểm đáng lo ngại nhất là số lượng doanh nghiệp nhiều
nhưng quy mô nhỏ, phân tán, công nghệ kỹ thuật thủ công, lạc hậu.
Nếu như trong năm 2000 bình quân 1 doanh nghiệp có 84 lao động và vốn là 26
tỷ đồng thì đến năm 2004 con số chỉ còn đạt ở mức 72 và 24. như vậy xu hướng
quy mô nhỏ ngày càng tăng, do 3 năm qua doanh nghiệp mới chủ yếu là tư nhân
với quy mô nhỏ và siêu nhỏ. Doanh nghiệp dưới 10 lao động chiếm hơn 46%, từ
10 đến dưới 50 lao động chiếm 35%. Về quy mô vốn, số doanh nghiệp dưới 10
tỷ đồng chiếm 86%, trong đó hơn một nữa là dưới nửa tỷ đồng .
Những ngành tập trung nhiều doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn là công
nghiệp, bình quân 154 lao động và 32 tỷ đồng vốn, tiếp đó là vận tải, thông tin
liên lạc rồi đến xây dựng. Quy mô nhỏ và phân tán là ngành thương nghiệp, bình

quân 18 lao động và 6 tỷ đồng vốn. Doanh nghiệp khách sạn nhà hàng bình quân
27 lao động và 9 tỷ đồng vốn.
Do phần lớn doanh nghiệp có mức vốn thấp ( dưới 10 tỷ đồng) nên khả năng
trang bị máy móc thiết bị, kỹ thuật công nghệ tiên tiến là rất hạn chế. Mức trang
bị tài sản cố định cho 1 lao động ngoài quốc doanh là 50 triệu đồng, chỉ bằng
20% so với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài .
Tổng cục thống kê còn chỉ ra rằng, doanh nghiệp phát triển còn mang tính tự
phát chưa có định hướng rỏ ràng. Số doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH
chiếm 77.5% số doanh nghiệp thành lập từ năm 2000 trở lại đây, nhưng chưa
biến động tới gần 20% hằng năm. Nhiều tỉnh có hàng nghìn doanh nghiệp nhưng
Trang 17


Đề tài: Giám đốc Tài chính và việc Hoạch định chiến lược tài chính trong Doanh nghiệp
70-80% trong số đó chỉ có 1-5 lao động và số vốn không quá 5 tỷ đồng như Long
An, Đồng Tháp, Nam Định…. Doanh nghiệp Nhà Nước và doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngòai phát triển ổn định và có định hướng rõ ràng hơn, nhưng rất ít
doanh nghiệp có quy mô lớn, đặt biệt Việt Nam chưa có một tập đoàn kinh tế
mạnh nào .
1.2 Vai trò vị trí của doanh nhiệp Nhà Nước
Doanh nghiệp Nhà Nướccó vai trò vô cùng to lớn trong nền kinh tế .Các ngành
kinh tế chủ chốt, đầu tàu, đi đầu trong việc thực hiện các chủ trương, đường lối,
chính sách của Nhà Nước.Các khu vực kinh tế trọng điểm đều nằm trong khối
doanh nghiệp Nhà nước, xét trên phạm vi các mặt như mức độ đóng góp GDP,
giá trị sản xuất công nghiệp, nộp ngân sách Nhà Nước…. Lấy ví dụ cụ thể từ số
liệu thống kê khu vực DNNN trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong 10 năm
từ 1994-2004 của cục thống kê để giải thích cho nhận xét này.
Khu vực DNNN trên địa bàn Thành phố ( Đơn vị : %)
Năm


1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004

Tỷ trọng
Tốc độ
trong GDP tăng trưởng
trên địa bàn
về giá trị
SX công
nghiệp
54.3
53.5
52.2
51.3
49.2
47.8
47.1
46.1
45.4
43
42.3


104.1
112.5
112.6
114.2
115.2
111.3
106.1
110.2
108.4
115.6
114.4

Tỷ trọng
trong giá trị
SX công
nghiệp trên
địa bàn
67.3
58.4
57.1
63.3
60
57.7
51.8
46.3
45.9
46.8
45.2


Tốc độ
Tỷ trọng
Tỷ trọng
tăng trưởng
trong tổng
trong tổng
về tổng mức
mức lưu
thu ngân
lưu chuyển
chuyển
sách nội địa
hàng hoá bán hàng hố bán trên địa bàn
ra
ra
53.4
249.2
57.8
76.7
123.3
53.7
69.8
126.2
49.7
58.6
123.6
42.9
49.2
115.4
40.2

43.9
98.3
37
38.2
105.6
35
36
97.8
33.5
27.4
36.84
100.9
35.77

( Nguồn : Tổng cục thống kê)
Theo số liệu khảo sát trong 10 năm trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh từ 1994
đến 2004 cho thấy : tỷ trọng GDP của khối DNNN chiếm từ 42.3 đến 54.3%
trong tổng giá trị đóng góp vào GDP của cả thành phố. Tuy nhiên tỷ trọng này có
xu hướng giảm dần vào các năm, mức độ giảm là 8% đóng góp vào GDP trong
vòng 10 năm, điều này có nghóa là mỗi năm giảm 0.8%. Nhận xét về tình hình
này trong điều kiện có lồng ghép những nhân tố chủ quan lẫn khách quan,

Trang 18


Đề tài: Giám đốc Tài chính và việc Hoạch định chiến lược tài chính trong Doanh nghiệp
chúng ta vẫn khẳng định rằng vai trò của DNNN vẫn là người “Anh cả” trong
nền kinh tế Việt Nam .
Giá trị sản xuất công nhiệp tăng 10.3% trong vòng 10 năm, tuy nhiên giá trị này
tăng không đều và có giao động tăng giảm qua các năm. Xét về mặt chỉ tiêu tỷ

trọng giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn, chỉ tiêu này có hướng đi xuống từ
67.3% trong năm 1994 thì đến năm 2004 chỉ còn là 45.2%
Đồ thị về tốc độ tăng của DNNN trong nền kinh tế

1994

1995

1996

1997

1998

1999

2000
năm

2001

2002

2003

2004

( Nguồn : Tổng cục thống kê
Đồ thị về tỷ trọng của DNNN trong nền kinh tế


( Nguồn : Tổng cục thống keâ

Trang 19


Đề tài: Giám đốc Tài chính và việc Hoạch định chiến lược tài chính trong Doanh nghiệp

Vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước tại TP Hồ Chí Minh từ 1994- 2004
Đầu tư của Doanh nghiệp Nhà nước

Năm 1994

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003


2004

Đầu
tư của
doanh
642.671,921.12 3,218.37 4,813.503,594.353,697.356,685.10 6,134.92 5,898.524,756.86 5190
nghiệp
nhà
nước
Tỷ
trọng
của
đầu tư
63.05 69.31 70.72 66.14 37.61 27.77
33.1
26.72
23.61 25.17 26.37
DNNN
trong
tổng
đầu tư
Đồ thị về vốn đầu tư của DNNN

Trang 20


Đề tài: Giám đốc Tài chính và việc Hoạch định chiến lược tài chính trong Doanh nghiệp

1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999


2000 2001 2002 2003 2004

Đồ thị về vốn đầu tư của DNNN trong tổng vốn đầu tư

1993

1994

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002 2003

( Nguồn : Tổng cục thống kê
Trên đây là một vài số liệu và hình ảnh về tình hình đầu tư của DNNN, các con
số này có biến động nhất định, tuy nhiên nó hoàn toàn phù hợp với mục tiêu,
hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn cụ thể. Tuy nhiên trong suốt khoảng thời
gian qua chúng ta cần có những nhìn nhận đánh giá đúng đắn để từ đó thấy được
mặt mạnh, mặt yếu để từ đó có những phát huy cũng như biện pháp khắc phục

hiệu quả nhất.

Trang 21


Đề tài: Giám đốc Tài chính và việc Hoạch định chiến lược tài chính trong Doanh nghiệp
1.3 DNNN và những đóng góp cho nền kinh tế .
Nền kinh tế mà nước ta đang xây dựng là nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, Giữ vững định hướng XNCH là vai trò có tầm quan trọng hàng đầu của
doanh nghiệp Nhà Nước.
DNNN có vai trò quan trọng trong ổn định kinh tế vó mô, được hình thành ở
những ngành, những lónh vực, những vùng mà các thành phần kinh tế khác
không thể hoặc không muốn đầu tư; hình thành các công trình trọng điểm của
Quốc Gia và góp phần hình thành cơ cấu cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của đất nước; có tác động tạo thành các nguồn vốn mồi để thu hút các nguồn
vốn của xã hội các thành phần kinh tế khác. Đây cũng là những mặt mạnh của
DNNN. Những mặt mạnh này kinh tế Nhà Nướcvà DNNN được lượng hoá bằng
những chỉ tiêu cụ thể như sau :
Hiện tại, kinh tế Nhà Nước chiếm 39.1% GDP, so với kinh tế tập thể là 7.5%,
8.2% của kinh tế tư nhân, 30.7% của kinh tế cá thể và 14.55 của kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài .
DNNN chiếm tỷ trọng cao so với các khu vực còn lại về nhiều sản phẩm chủ
yếu như điện, nước máy, than, quặng. Khu vực kinh tế Nhà Nước chiếm 56%
tổng đầu tư phát triển cao hơn tỷ trọng 26.9% của khu vực ngoài quốc doanh và
17.1% của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó vốn của các DNNN
chiếm khoảng 8%.
Khu vực kinh tế Nhà Nước chiếm tỷ trọng cao nhất so với khu vực khác về
khối lượng luân chuyển hành khách ( gần 39%), khối lượng hàng hoá luân
chuyển ( trên 70%)….
Xét riêng khu vực doanh nghiệp thì vị trí của DNNN tuy chiếm tỷ trọng rất nhỏ

về số lượng doanh nghiệp, nhưng lại chiếm tỷ trọng khá cao về các chỉ tiêu
khác. So với toàn bộ doanh nghiệp, DNNN chỉ chiếm 6.7% về số lượng đơn vị,
nhưng đã chiếm 43.7% về số lượng lao động, 58.7% về nguồn vốn, 50.8% về tài
sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn ,46.5% về doanh thu, 46% về nộp ngân
sách nhà nước, chiếm khoảng 55% GDP do các doanh nghiệp tạo ra .
Bình quân 1 DNNN có 466.1 lao động cao hơn so với doanh nghiệp ngoài quốc
doanh 31.8 người và DN có vốn đầu tư nước ngoài 325.6 người. Nguồn vốn bình
quân một doanh nghiệp Nhà Nước đạt 207 tỷ, cao hơn mức 5.2 tỷ đồng của DN
ngoài quốc doanhvà mức 139.7 tỷ đồng của DN có vốn ĐTNN. Thu nhập bình
quân 1 lao động của DNNN đạt 1495 nghìn đồng một tháng, cao hơn mức 1046
nghìn đồng của DN ngoài quốc doanh và thấp hơn mức 1774 nghìn đồng của DN
có vốn ĐTNN.

Trang 22


Đề tài: Giám đốc Tài chính và việc Hoạch định chiến lược tài chính trong Doanh nghiệp
2 DNNN và những hạn chế trong nền kinh tế thị trường .
2.1 Quyền sở hữu và quyền quản lý chưa tách bạch .
Nhà Nước là chủ sở hữu đối với tài sản trong doanh nghiệp Nhà Nước vì là
người cấp vốn đầu tư ban đầu và là người đầu tư bổ sung cho doanh nghiệp. Như
vậy, cho dù theo quy định của pháp luật, DNNN có quyền sử dụng, định đoạt
vốn và tài sản trong kinh doanh để tạo ra lợi nhuận, nhưng vai trò chủ sở hữu
đối với các tài sản trong doanh nghiệp vẫn thuộc về nhà nước.
Trên thực tế, tài sản trong DNNN hiện nay không chỉ duy nhất là vốn, tài sản do
Nhà Nước giao từ nguồn ngân sách mà còn bao gồm cả vốn và tài sản có được từ
vay tính dụng từ việc tái đầu tư bằng lợi nhuận do người lao động trong doanh
nghiệp tạo ra được từ vay tín dụng, từ việc tái đầu tư bằng lợi nhuận do người
lao động trong doanh nghiệp tạo ra sau khi đã thực hiện các nghóa vụ đối với nhà
nước. Việc xác định sở hữu đối với tài sản trong doanh nghiệp Nhà Nước có

liên quan trực tiếp đến nguyên tắc phân chia, sử dụng lợi nhuận thu được từ
nguồn vốn do Nhà Nước cấp và từ vốn của bản thân doanh nghiệp tự đầu tư,
nhất là xác định tỷ lệ lợi nhuận mà doanh nghiệp có nghóa vụ nộp vào ngân sách
nhà nước. Do đó khi chưa có quy định cụ thể, rõ ràng làm căn cứ để phân định
tài sản thuộc về sở hữu Nhà Nước và tài sản thuộc về sở hữu của tập thể người
lao động trong doanh nghiệp để xác định phạm vi trách nhiệm đối với từng lọai
tài sản đó, thì các nguyên tắc để bảo đảm quyền tự chủ về tài chính trong kinh
doanh, bảo toàn vốn, ổn định nguồn thu cho nhân sách Nhà Nước sẽ khó có thể
thực hiện được.
Mặt khác nếu vẫn quan niệm tài sản DNNN thuộc sở hữu Nhà Nước và lợi
nhuận làm ra đều phải nộp cho Nhà Nước thì sẽ không tạo ra động lực gắn bó
người lao động với hiệu quả họat động của doanh nghiệp. Khi họ đưa lợi nhuận
thu được, tức tài sản sở hữu tập thể của người lao động để tái đầu tư sản xuất
kinh doanh trong doanh nghiệp. Hiện nay chế định về sở hữu tài sản trong
doanh nghiệp Nhà Nước vẫn chưa quy định rõ các căn cứ để xác định chế độ
sở hữu khác nhau đối với các nguồn vốn, tài sản trong doanh nghiệp Nhà Nước
và các nguyên tắc, chế độ phân phối lại lợi nhuận thu được từ họat động kinh
doanh của doanh nghiệp
Vấn đề xác định ranh giới rõ ràng giữa quyền hạn, trách nhiệm của Nhà Nước
với tư cách là chủ sở hữu với quyền, trách nhiệm của DNNN đối với việc quản
lý vốn, tài sản trong doanh nghiệp đang là vấn đề hết sức phức tạp và có nhiều ý
kiến khác nhau. Việc xác định quyền tự chủ của DNNN trong họat động kinh
doanh, bao gồm các quyền hoạch định phương án kinh doanh, tự chủ trong họat
động tài chính, chủ động trong tuyển dụng lao động …. Tuy nhiên, mới chỉ xét

Trang 23


Đề tài: Giám đốc Tài chính và việc Hoạch định chiến lược tài chính trong Doanh nghiệp
trên góc độ định chế pháp lý về vấn đề chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản

thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp thì đã thấy có những điểm không khả thi.
Theo quy định tại điều 6 Luật DNNN thì DNNN họat động kinh doanh có quyền
chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản thuộc quyền quản lý của
doanh nghiệp. Song tất cả các quyền này bị hạn chế bởi quy định “Những thiết
bị, nhà xưởng quan trọng thì phải được cơ quan có thẩm quyền cấp phép”. Như
vậy vấn đề đặt ra là quyền tự chủ về tài chính của DNNN, trong đó có việc định
đoạt đối với các lọai tài sản thực hiện đến đâu, như thế nào khi mà cơ chế thị
trường đòi hỏi sự linh họat nhạy bén trong họat động của doanh nghiệp để chớp
thời cơ tạo thuận lợi .
Việc phân biệt giữa nội dung quyền của chủ sở hữu Nhà Nước với nội dung quản
lý Nhà Nước là những vấn đề cần được làm rõ, quy định cụ thể. Thực tiễn thi
hành luật cho thấy vẫn còn xảy ra không ít tình trạng lẫn lộn giữa thực hiện
quyền quản lý của chủ sở hữu và quyền quản lý Nhà Nước với tư cách là cơ
quan quyền lực công. Nhà Nước giao vốn cho doanh nghiệp, thì Nhà Nước ở vị
trí người góp vốn vào doanh nghiệp, mà mối quan tâm hàng đầu của người góp
vốn đó là lợi nhuận. Song trên thực tế, không ít tình trạng Nhà Nước can thiệp
trực tiếp bằng biện pháp hành chính, đo đó rất khó đảm bảo tính tự chủ của
doanh nghiệp. Đứng trên cơ chế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt thì sự can
thiệp trực tiếp của Nhà Nước có khi làm giảm khả năng trong phần đông các
DNNN.
Theo điều 27 luật DNNN quy định Chính phủ thực hiện quyền đại diện chủ sở
hữu về vốn, tài sản, quyển chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp. Thực hiện chế độ
phân cấp, ủy quyền, Chính phủ giao cho Bộ tài chính là người thực hiện quyền
và trách nhiệm đại diện chủ sở hữu về vốn và tài sản trong DNNN ( theo
NĐ34/CP). Trên thực tế UBND cấp tỉnh, các bộ quản lý ngành cũng có một số
quyền như quyết định bổ sung vốn lưu động, quyết định phương án đầu tư vốn
vào các dự án liên doanh, quyền phê duyệt các phương án thế chấp, cầm cố các
tài sản có giá trị lớn. Như vậy rõ ràng có sự chồng chéo trong việc thực hiện
quyền của chủ sở hữu là Nhà Nước với tư cách là người góp vốn đối với việc
quản lý vốn, tài sản trong doanh nghiệp. Hiện nay chúng ta đang có quá nhiều

đại diện sở hữu, có quá nhiều cơ quan Nhà Nước và thực hiện quyền quản lý nhà
nước, việc chỉ đạo, quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như
việc tổ chức thực hiện các kế họach kinh doanh khó có thể bảo đảm tính đồng
bộ thống nhất, có hiệu quả, gây khó khăn, lung túng trong họat động kinh doanh
của các doanh nghiệp. Điều đáng chú ý là do có nhiều cơ quan quản lý, đại diện
chủ sở hữu nên khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả, vi phạm pháp
luật thì việc xác định trách nhiệm cũng rất khó khăn.

Trang 24


Đề tài: Giám đốc Tài chính và việc Hoạch định chiến lược tài chính trong Doanh nghiệp
2.2 DNNN với con số 75% doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả trong năm
2004
Một thực tế nữa là DNNN làm ăn thua lỗ, đến cuối năm 2004 chỉ còn 25%
DNNN đang họat động có hiệu quả, cơ chế “ tái bao cấp” trở thành phổ biến.
Việc khoanh nợ, giản nợ, xóa nợ đã gây thiệt hại không nhỏ cho NSNN song
không xác định được trách nhiệm thuộc về họat động kinh doanh yếu kém của
doanh nghiệp hay thuộc về cơ quan quản lý Nhà Nước .
Năm 2003 số DNNN kinh doanh có lãi chiếm 77.2% ( trong đó DN trung ương
chiếm 80.4%, DN địa phương chiếm 75.2%, số DN kinh doanh thua lổ chiếm
13.5% ( DN trung ương 10.9%, DN địa phương 15.2%). Trong số doanh nghiệp
có lãi có đến 40% có mức lãi ngang bằng hoặc chỉ nhỉnh hơn lãi suất của các
ngân hàng thương mại. Nhưng tính đến giá trị của đất đưa vào chi phí và cắt đi
các khoản ưu tiên Nhà Nước dành cho DNNN thì chắc chắn DNNN sẽ thua lổ
nhiều hơn .
Tổng số nợ phải thu là 96.775 tỷ đồng, bằng 51% tổng số vốn và 23% tổng
doanh thu ( DN trung ương 70.213 tỷ, DN địa phương 26.563 tỷ. Tổng số nợ phải
trả 207.789. Nếu bù trừ giữa mức nợ phải trả và phải thu thì DNNN vẫn còn nợ
tới 111.014 tỷ đồng. Suốt những năm qua, ngân sách Nhà Nước đã gồng mình

không ít lần cho những đợt xử lý nợ, Các khoản nợ tồn động và nợ lũy kế của
DNNN là 4638 Tỷ đồng. Trong đó phần lớn là nợ khó đòi. Nhà Nước đã hổ trợ
xử lý cho DN 2728 tỷ đồng thông qua các biện pháp hạch toán vào kết quả kinh
doanh bằng các khoản dự phòng nợ phải thu khó đòi, giảm số vốn Nhà Nước đối
với các đơn vị thực hiện chuyển đổi sở hữu. Riêng nợ phải trả nhà nước đã cho
khoanh, cho treo hay ngân sách chi tiền để xứ lý những doanh nghiệp quá khó
khăn thông qua xử lý nợ tồn động của ngân hàng tổng cộng 10.521 tỷ đồng.
2.3 Năng lực quản lý còn nhiều yếu kém, mang tính kiêm nhiệm
Đã có quá nhiều bài viết, quá nhiều ý kiến nói về vấn đề này, tuy nhiên để
đánh giá cụ thể cho quan điểm này chúng ta hãy kiểm chứng bằng một thực tế
xảy ra trong thời gian rất gần đây đó là Công ty bảo hiểm PJICO
Sự thất thoát tiền tỷ của Nhà Nước bằng những hình thức gian lận hết sức thông
thường, đó là hậu quả của việc vô trách nhiệm, thiếu đạo đức trong tác nghiệp,
vụ lợi riêng tư và, nói một cách chính xác đó là việc quản trị của công ty còn
quá đơn điệu, long lẻo, thiếu tính chuyên nghiệp .
Hội đồng quản trị và ban kiểm soát làm việc kiêm nhiệm, chồng chéo, chưa
phân chia trách nhiệm rõ ràng. Phổ biến tình trạng “ Sống lâu lên lão làng”, do
vậy đội ngũ quản lý chủ chốt về thực chất không năng động, thiếu chuyên
nghiệp để có thể vận hành doanh nghiệp của mình đứng vững trong giai đoạn
cạnh tranh khốc liệt của thời hội nhập .

Trang 25


×