Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

Phân tích các loại rủi ro tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458 KB, 64 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ PHÂN TÍCH CÁC LOẠI RỦI
RO TÀI CHÍNH 1
1. Định nghĩa và đo lường rủi ro 1
2. Nhận dạng rủi ro tín dụng 2
3. Nhận dạng rủi ro lãi suất 9
4. Nhận dạng rủi ro tỷ giá 10
4.1. Nhận dạng rủi ro tỷ giá đối với doanh nghiệp 10
4.1.1. Nhận dạng rủi ro tỷ giá trong hoạt động đầu tư 10
4.1.2 Nhận dạng rủi ro tỷ giá trong hoạt động xuất nhập khẩu: 11
4.1.3. Nhận dạng rủi ro tỷ giá trong hoạt động tín dụng 14
4.2. Tác động của rủi ro tỷ giá 16
4.2.1. Tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 18
4.2.2. Tác động đến khả năng chịu đựng tài chính của doanh nghiệp 21
4.3. Nhận dạng rủi ro tỷ giá đối với hoạt động của ngân hàng 23
5. Phân tích thái độ đối với rủi ro tỷ giá 28
5.1. Xác định thái độ đối với rủi ro 28
5.2. Phân loại thái độ đối với rủi ro 30
5.3. Sự cần thiết phòng ngừa rủi ro tỷ giá 31
5.4.Các quyết định liên quan đến quản lý rủi ro tỷ giá 33
5.4.1. Quyết định có nên phòng ngừa rủi ro tỷ giá hay không 33
5.4.2. Quyết định giải pháp nào để phòng ngừa rủi ro tỷ giá 36
PHẦN 2: PHÂN TÍCH CÁC LOẠI RỦI RO TÀI CHÍNH CỦA
CÔNG TY CỔ PHẦN SỮA VIỆT NAM 44
KẾT LUẬN
TÀI LIỆUTHAM KHẢO
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh “con tàu” Việt Nam đã ra biển lớn, vượt sóng hội nhập,
khi nền kinh tế Việt Nam đã hội nhập vào “sân chơi’’ chung của toàn cầu với
rất nhiều những cơ hội và thách thức to lớn đan xen vào nhau,bởi “lực đẩy” của


cạnh tranh và hội nhập, các doanh nghiệp ngày càng phải đối mặt với nhiều rủi
ro. Chính vì vậy, vấn đề phân tích rủi ro của doanh nghiệp đã trở thành vấn đề
thu hút được sự quan tâm của đông đảo mọi người và càng ngày càng trở nên
bức thiết hơn bao giờ hết.
Vì vậy mục đích của bài báo cáo này là làm rõ được các nguyên nhân
dẫn đến rủi ro, phân loại đươc các rủi ro,nhận dạng và đi sâu phân tích các rủi
ro tài chính trong hoạt động của doanh nghiệp. Qua đó đưa ra được các giải
pháp để phòng ngừa rủi ro tài chính khi chưa xảy ra và khống chế được các rủi
ro tài chính một cách thành công để góp phần giúp doanh nghiệp tồn tại và phát
triển
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ PHÂN TÍCH
CÁC LOẠI RỦI RO TÀI CHÍNH
1. Định nghĩa và đo lường rủi ro
Cho đến nay chưa có định nghĩa thống nhất về rủi ro. Những trường phái
khác nhau đưa ra những định nghĩa rủi ro khác nhau. Và tùy vào từng lĩnh vực
nghiên cứu, rủi ro lại được định nghĩa theo những cách khác nhau.
Theo nghĩa chung nhất, rủi ro được hiểu là điều không tốt lành, không
tốt bất ngờ xảy đến. Đây là cách hiểu thông thường nhất. Những gì được coi là
rủi ro luôn mang lại những điều mà con người không mong muốn. Khi “rủi
ro”xảy ra luôn đồng nghĩa với việc chủ thể tiếp nhận nó phải chịu một sự thiệt
hại nàođó.
Theo quan điểm khác lại cho rằng rủi ro là những gì không chắc chắn về
mất mát sẽ xảy ro. Với khái niệm về rủi ro này, nếu xác suất mất mát bằng 0
hoặc1, thì không có rủi ro. Ví dụ, nếu một người nhảy từ tòa nhà cao 30 tầng
xuống mặt đất thì cầm chắc cái chết. Mặc dù có chuyện mất mát về nhân mạng
nhưng đây không phải là rủi ro vì hậu quả đã thấy trước. Tuy nhiên, nếu một
vận động viên nhảy từ lầu cao xuống đất bằng dù thì người này có thể chết hay
không chết. Trong trường hợp này có sự không chắc chắn về hậu quả, tức là có
rủi ro trong hành động của vận động viên này.
Còn trong lĩnh vực quản trị rủi ro, người ta dùng thuật ngữ “hiểm họa”

(Hazard) để phản ánh sự kiện mà có thể gây ra một thiệt hại nào đó và thuật
ngữ “Rủi ro” (Risk) để chỉ xác suất xảy ra một sự kiện nào đó.
Trong lĩnh vực tài chính, rủi ro là khái niệm đánh giá mức độ biến động
hay bất ổn của giao dịch hay hoạt động đầu tư. Rủi ro tài chính được quan niệm
là hậu quả của sự thay đổi, biến động khôn lường trước được của giá trị tài sản
hoặc giá trị của các khoản nợ đối với các tổ chức tài chính và các nhà đầu tư
trong quá trình hoạt động của thị trường tài chính.
[3]
Tóm lại, rủi ro (risk) là một sự không chắc chắn (uncertainty) hay một
tình trạng bất ổn. Tuy nhiên, không phải bất cứ sự không chắc chắn nào cũng là
rủi ro. Chỉ có những tình trạng không chắc chắn nào có thể ước đoán được xác
suất xảy ra mới được xem là rủi ro. Những tình trạng không chắc chắn nào chưa
từng xảy ra và không thể ước đoán được xác suất xảy ra được xem là sự bất
trắc, chứ không phải là rủi ro là. Cách định nghĩa rủi ro trên đây giúp chúng ta
có thể phân biệt được rủi ro và sự bất trắc nhưng không cho phép đo lường
được rủi ro.
Để có thể đo lường, rủi ro được định nghĩa như là sự khác biệt giữa giá
thực tế và giá trị kì vọng. Giá trị kì vọng chính là giá trị trung bình có trọng số
của một biến nào đó. Sự khác biệt giữa giá trị thực tế với giá trị kì vọng được
đolường bởi độ lệch chuẩn. Do vậy, độ lệch chuẩn hay phương sai (bình
phương của độ lệch chuẩn) chính là thước đo rủi ro. Nói đến rủi ro là nói đến
quan hệ giữa giá trị của một biến nào đó so với kì vọng của nó.
Giả sử bạn mua trái phiếu kho bạc để có được lợi nhuận là 8%. Nếu bạn
giữ trái phiếu này đến cuối năm bạn sẽ được lợi nhuận là 8% trên khoản đầu tư
của mình. Nếu bạn không mua trái phiếu mà dùng số tiền đó để mua cổ phiếu
và giữ đến hết năm, bạn có thể có hoặc không có lợi nhuận như kì vọng. Hơn
nữa, cuối năm giá cổ phiếu có thể lên và bạn được lời, giá cổ phiếu cũng có thể
xuống và bạn bị lỗ. Kết quả là lợi nhuận thực tế nhận được bạn nhận được có
thể khác xa so với lợi nhuận bạn kì vọng. Nếu rủi ro bạn định nghĩa là sự sai
biệt giữa lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận kỳ vọng thì trong trường hợp trên rõ

ràng đầu tư vào trái phiếu có thể xem như không có rủi ro trong khi đầu tư vào
cổ phiếu rủi ro hơn nhiều, vì xác suất hay khả năng sai biệt giữa lợi nhuận thực
tế so với lợi nhuận kỳ vọng trong trường hợp mua trái phiếu thấp hơn trong
trường hợp mua cổ phiếu.
Tóm lại, rủi ro là một sự không chắc chắn hay một tình trạng bất ổn. Rủi
ro trong hoạt động doanh nghiệp nói chung có thể chia làm ba loại: rủi ro tín
dụng, rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá.
2. Nhận dạng rủi ro tín dụng
[4]
Tín dụng là sự chuyển nhượng vốn dưới hình thái tiền tệ hoặc hàng hóa
từ chủ sở hữu sang người sử dụng trong một thời hạn nhất định với một chi phí
nhất định. Sau thời hạn sử dụng đó, vốn phải đươc hoàn lại cho chủ sở hữu. Ở
thời điểm chuyển nhượng quyền sử dụng vốn, chủ sở hữu không biết chắc chắn
người sử dụng vốn có hoàn trả vốn vay hay không. Chính sự không chắc chắn
này là rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng (credit risk) là loại rủi ro phát sinh do
khách nợ không còn khả năng chi trả.
Trong hoạt động của doanh nghiệp, rủi ro tín dụng phát sinh khi doanh
nghiệp bán chịu hàng hóa, thể hiện ở khả năng khách hàng mua chịu có thể thất
bại trong việc trả nợ. Quan hệ mua bán chịu được xác lập chủ yếu dựa trên sự
thỏa thuận giữa các bên dưới hình thức chứng từ hạch toán bằng các khoản phải
thu, phải trả, hoặc hình thức thương phiếu. Trong khi các khoản tiền phải trả,
phải thu chỉ có thể giải quyết tình trạng thiếu vốn tạm thời cho doanh nghiệp
mà không có tính lưu thông, thì thương phiếu lại đáp ứng được cả hai yêu cầu
này khi có thể dùng để thế chấp vay tiền ngân hàng. Môi trường kinh doanh
càng phát triển, áp lực cạnh tranh càng lớn thì đòi hỏi về thương phiếu càng
cao. Hay nói cách khác, với tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng một nâng cao,
nhu cầu về vốn ngày càng bức thiết, cũng như hành lang pháp lý ngày càng
được hoàn thiện, sự có mặt của hoạt động mua bán chịu là cần thiết dù bên cạnh
nó có nhiều phương tiện, kĩ thuật thanh toán hiện đại khác. Vấn đề là sớm hay
muộn mà thôi.

Những lợi ích mà hoạt động mua bán chịu đem lại chắc mọi người cũng
đều nhìn thấy rõ. Tuy nhiên, có lẽ ít ai biết được đây cũng chính là "con dao hai
lưỡi" nếu doanh nghiệp chỉ vì muốn thu hút khách hàng mà dễ dãi chấp nhận để
khách hàng mua chịu trong khi chưa thực sự nghiên cứu kỹ những thông tin về
hoạt động kinh doanh của khách hàng.
Theo số liệu thống kê của tờ Newsweeks năm 2004, hoạt động bán chịu
đang làm điêu đứng các hãng viễn thông lớn trên thế giới và gánh nặng nợ khó
đòi đang ngày một chất cao thêm. Chỉ tính riêng năm 2003, khoản tiền khách
[5]
hàng mua chịu của các tập đoàn viễn thông lớn đã lên tới 35 tỷ USD. Năm
2004, con số này tăng gấp đôi. Làn sóng bán chịu đã làm giảm số lượng các
"đại gia" viễn thông trên thế giới khi trong tổng số 37 công ty viễn thông hàng
đầu của Mỹ được thành lập từ năm 1996, số phá sản lúc bấy giờ đã lên tới con
số 18. Trong số này có các tập đoàn viễn thông lớn như Worldcom, Adelphia,
Tại sao các doanh nghiệp ngày nay biết bán chịu là mạo hiểm khi chấp
nhận những rủi ro lớn và nguy cơ có thể dẫn tới phá sản nhưng họ vẫn làm?
Theo kết quả của Viện nghiên cứu Adam, Mỹ, do chi phí đầu vào cho các sản
phẩm, dịch vụ ngày càng tăng trong khi ngân hàng không mấy mặn mà với việc
cho vay vốn, các công ty đã buộc phải tăng lượng hàng hóa bán chịu cho khách
hàng với hy vọng làm tăng giá trị cổ phiếu. Do vậy, không có gì là khó hiểu nếu
số nợ khó đòi ở tập đoàn Motorola năm 2000 chỉ chiếm 6,7% tổng số nợ thì đến
năm 2001 đã lên tới 57%, ở IKEA tăng từ 2,6% lên 60%, General Electric tăng
từ 25,5% lên đến 80% và còn rất nhiều hãng khác cũng lâm vào hoàn cảnh
tương tự.
Bài học đắt giá nhất về bán chịu trong giới kinh doanh diễn ra tại thị
trường Đan Mạch. Cách đây một thập kỷ, thị trường điện thoại di động ở quốc
gia này thực sự sôi động khiến các tập đoàn viễn thông lớn như Nokia,
Motorola đổ xô vào tìm đối tác liên doanh sản xuất và phân phối điện thoại di
động. Dự đoán nhu cầu sử dụng điện thoại di động của thị trường Đan Mạch
tăng từ 1,5 triệu chiếc năm 1997 lên 8,2 triệu chiếc vào năm 1999 khiến các

hãng viễn thông mở hầu bao hết cỡ. Nhưng tới khi thị trường bão hoà, các dây
chuyền sản xuất vẫn thi nhau hoạt động đã khiến cho sản phẩm làm ra chỉ để
chất trong kho. Lúc đó chỉ còn giải pháp duy nhất là đành bán chịu cho khách
hàng trong khi ban lãnh đạo cố gắng tìm phương án đưa tập đoàn thoát khỏi
"vũng lầy". Số nợ bán chịu ngày một tăng lên trong khi khoản tiền thu về lại
không đáng là bao. Một loạt các chi nhánh của Nokia phải đóng cửa gây ảnh
hưởng dây chuyền đến hoạt động kinh doanh của cả tập đoàn.
[6]
Ngoài ra, sự đổ vỡ của nhiều tập đoàn viễn thông quốc tế tại châu Âu
cũng là một điển hình liên quan đến hoạt động bán chịu. Chỉ tính riêng năm
1999, các tập đoàn viễn thông châu Âu đã chi 120 tỷ USD để nghiên cứu và
phát triển thế hệ điện thoại di động Internet tốc độ cao, tiêu biểu là France
Telecom, Deustche Telecom. Nhưng lượng khách hàng sẵn sàng chi tiền để
được sở hữu những chiếc điện thoại di động hạng sang không nhiều như lượng
khách hàng bình dân, buộc các hãng này phải thực hiện phương thức bán chịu.
Năm 2000, Nokia đã đầu tư 100 triệu USD theo lối bán hàng trả chậm cho đối
tác Telsim (Thổ Nhĩ Kỳ). Nhưng việc Deustche Telecom đầu tư vào thị trường
này khiến Nokia lo ngại mất thị phần và đã đầu tư thêm cho Telsim 700 triệu
USD. Như vây, Telsim đã được Nokia và Motorola đầu tư hơn 2 tỷ USD. Phần
lớn cổ phần của Telsim lúc bấy giờ do tập đoàn Turkcell nắm giữ, thế nên, khi
Turkcell phá sản, Telsim cũng sụp đổ theo. Đây thực sự là một cú đánh mạnh
làm cho hoạt động kinh doanh của Motorola chững lại khi ước tính số nợ khó
đòi của tập đoàn này đã lên đến 2,3 tỷ USD.
Không những thế, trong kinh doanh ngày nay, không phải quốc gia nào
cũng có hệ thống pháp luật hoàn thiện điều chỉnh hoạt động mua bán chịu, cụ
thể là thương phiếu. Vì thế, trong lúc hoạt động mua bán chịu vẫn diễn ra chủ
yếu theo thoả thuận, nhiều doanh nghiệp còn e ngại sử dụng thương phiếu như
là phương tiện tín dụng, thanh toán trong quan hệ mua bán. Do đó, các ngân
hàng không có đủ điều kiện để có thể cấp tín dụng cho doanh nghiệp dưới hình
thức chiết khấu thương phiếu hoặc cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương

phiếu. Tình trạng này dễ dẫn đến hậu quả là tăng nợ nần dây dưa giữa các
doanh nghiệp.
Suy cho cùng, đôi khi chỉ vì muốn tạo điều kiện thuận lợi cho người mua,
qua đó thu hút thêm khách hàng mới mà nhiều công ty thường xuyên đồng ý
bán chịu. Phương thức này là cần thiết và chỉ thực sự có hiệu quả khi doanh
nghiệp đã có những đánh giá nghiêm túc và tìm hiểu kỹ lưỡng về khách hàng,
[7]
về khả năng trả nợ của họ đồng thời nghiên cứu những biến động của thị trường
trong tương lai. Có thế, rủi ro vỡ nợ mới được giảm thiểu đến mức thấp nhất.
Trong hoạt động ngân hàng, rủi ro tín dụng xảy ra khi khách hàng vay nợ
có thể mất khả năng trả nợ một khoản vay nào đó. Lưu ý rằng trong hoạt động
tín dụng, khi ngân hàng thực hiện nghiệp vụ cấp tín dụng thì đó mới chỉ là một
giao dịch chưa hoàn thành. Giao dịch tín dụng chỉ được xem là hoàn thành khi
nào ngân hàng thu hồi về được khoản tín dụng gồm cả gốc và lãi. Một khoản tín
dụng không bao giờ được hoàn thành được xem là rủi ro tín dụng. Khi rủi ro tín
dụng xảy ra, ngân hàng sẽ không thu được vốn và lãi khi đến hạn, phát sinh chi
phí lớn hay thu được lãi thấp ngoài dự kiến dẫn đến kinh doanh kém hiệu quả
có thể dẫn dến thua lỗ hoăc phá sản.
Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng
 Dấu hiệu phát sinh rủi ro từ phía khách hàng
• Trì hoãn hoặc gây khó khăn, trở ngại đối với ngân hàng trong quá trình kiểm tra
theo định kì hoặc đột xuất tình hình sử dụng vốn vay, tình hình tài chính, hoạt
động sản xuất kinh doanh của khách hàng mà không có sự giải thích minh bạch
và thuyết phục
• Có dấu hiệu không thực hiện đầy đủ các quy định, vi phạm pháp luật trong quá
trình quan hệ tín dụng.
• Chậm gửi hoặc trì hoãn các báo cáo tài chính theo yêu cầu mà không có sự giải
thích mimh bạch, thuyết phục.
• Không có các báo cáo hay dự đoán về lưu chuyển tiền tệ.
• Đề nghị gia hạn, điều chỉnh kì hạn nợ nhiều lần không có lý do hoặc thiếu căn

cứ thuyết phục mang tính kế hoạch về việc gia hạn hay điều chỉnh kì hạn nợ.
• Chậm thanh toán các khoản lãi đến hạn.
• Thanh toán các khoản nợ gốc không đầy đủ, đúng hạn.
• Sự sụt giảm bất thường trong số dư tài khoản tiền gửi mở tại ngân hàng, xuất
hiện sự thay đổi bất thường ngoài dự kiến và không giải thích được trong tốc độ
và mức lưu chuyển tiền gửi thanh toán của khách hàng.
[8]
• Xuất hiện các khoản nợ do khách hàng không có khả năng hoàn trả hoặc khách
hàng không muốn trả nợ hoặc việc tiêu thụ hàng, thu hồi công nợ chậm hơn dự
kiến.
• Mức độ vay thường xuyên gia tăng, yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự
kiến.
• Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản bị giảm sút so với định giá
khi cho vay. Có dấu hiệu tài sản đã cho người khác thuê, bán hoặc trao đổi hoặc
đã biến mất, không còn tồn tại.
• Có dấu hiệu cho thấy khách hàng trông chờ vào các nguồn thu nhập bất thường
khác không phải từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính hoặc từ hoạt động
được đề xuất trong phương án vay vốn để đáp ứng nghĩa vụ tài chính.
• Có dấu hiệu tìm kiếm sự tài trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác đặc
biệt từ các đối thủ cạnh tranh của ngân hàng.
• Có dấu hiệu sử dụng nhiều khoản tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động đầu tư dài
hạn.
 Dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý, tình hình tài chính và hoạt động
sản xuất kinh doanh của khách hàng
• Có sự chênh lệnh lớn giữa doanh thu và dòng tiền thanh toán so với mức dự
kiến khi khách hàng đề nghị cấp tín dụng.
• Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh khoản hay mức độ hoạt
động của khách hàng.
• Xuất hiện bất đồng và mâu thuẫn trong quản trị điều hành, tranh chấp trong quá
trình quản lý.

• Xuất hiện ngày càng nhiều các khoản chi phí bất hợp lý như sự gia tăng đột
biến trong chi phí quảng cáo, tiếp khách, tập trung quá mức chi phí để gây ấn
tượng như thiết bị văn phòng hiện đại, phương tiện giao thông đắt tiền.
• Xuất hiện dấu hiệu hội chứng hợp đồng lớn: sẵn sàng bỏ các hợp đồng giá trị
nhỏ và vừa nhưng có khả năng thu được tỷ suất lợi nhuận cao để tìm kiếm các
hợp đồng có giá trị lớn với bạn hàng có tên tuổi dù lợi nhuận thu về có khả
năng đạt thấp hơn, sẵn sàng cắt giảm lợi nhuận để đạt được các hợp đồng lớn,
theo đuổi chiến lược mược thương hiệu.
 Dấu hiệu từ những chính sách tín dụng của ngân hàng
[9]
• Đánh giá và phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của khách hàng, đánh
giá quá cao năng lực của khách hàng.
• Cấp tín dụng theo cam kết không chắc chắn và thiếu tính bảo đảm của khách
hàng về việc duy trì một khoản tiền gửi lớn hoặc các lợi ích từ khách hàng đem
lại từ khoản tín dụng được cấp.
• Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh, vượt quá khả năng và năng lực kiểm
soát cũng như nguồn vốn của ngân hàng.
• Cho vay dựa trên các sự kiện bất thường có thể xảy ra, chẳng hạn như sát nhập,
thay đổi địa vị pháp lý từ chi nhánh lên công ty con hạch toán độc lập.
• Soạn thảo các điều kiện ràng buộc trong hợp đồng mập mờ, không rõ ràng,
không xác định rõ lịch hoàn trả đối với từng khoản vay, cố ý thỏa hiệp các
nguyên tắc tín dụng với khách hàng mặc dù biết có tiềm ẩn rủi ro.
• Chính sách tín dụng quá cứng nhắc hoặc lỏng lẻo để khe hở cho khách hàng lợi
dụng.
• Cung cấp tín dụng với khối lượng lớn cho khách hàng không thuộc phân đoạn
thi trường tối ưu của ngân hàng.
• Hồ sơ tín dụng không đầy đủ, thiếu sự tuân thủ hay tuân thủ không đầy đủ các
quy định hiện hành về phê duyệt tín dụng.
• Có khuynh hướng cạnh tranh thái quá, hạ thấp lãi suất cho vay, phí dịch vụ hay
thực hiện chiến lược giữ chân khách hàng bằng các khoản tín dụng mới để họ

không có quan hệ với các tổ chức tín dụng khác mặc dù biết các khoản tín dụng
này ẩn nguy cơ rủi ro cao.
3. Nhận dạng rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất: là loại rủi ro do biến động của lãi suất gây ra. Loại rủi ro
này thường phát sinh trong quan hệ tín dụng giữa các tổ chức tín dụng và của
các công ty lớn có những khoản cho vay hoặc đi vay theo lãi suất thả nổi. Nếu
ngân hàng đi vay theo lãi suất thả nổi, khi lãi suất thị trường tăng khiến chi phí
trả lãi tăng theo. Ngược lại, nếu ngân hàng cho vay hay có các khoản đầu tư
được hưởng lãi suất thả nổi, khi lãi suất thị trường xuống thấp khiến thu nhập từ
lãi của ngân hàng giảm. Rủi ro lãi suất đặc biệt quan trọng khi huy động vốn
[10]
thông qua phát hành trái phiếu, hoặc đầu tư tài chính với khối lượng lớn và thời
gian khá dài.
Ngày 30/5/2002 Ngân hàng nhà nước đã ra quyết định số 546/2002/QĐ –
NHNN quy định: từ ngày 1/6/2002 lãi suất cho vay bằng VNĐ được thực hiện
theo cơ chế lãi suất thả nổi (lãi suất thị trường) nhằm giảm sự can thiệp của Nhà
nước đối với các tổ chức tín dụng. Điều này đã giúp cho các tổ chức tín dụng
chủ động hơn trong kinh doanh và quản lí kinh doanh có hiệu quả. Như vậy lãi
suất của các ngân hàng sẽ luôn thay đổi và khó dự đoán, các ngân hàng luôn
phải đối mặt với nguy cơ tiềm ẩn rủi ro lãi suất.
Tương tự, dù không thường xuyên bằng ngân hàng, hoạt động của các
doanh nghiệp là khách hàng của ngân hàng cũng có thể có rủi ro lãi suất nếu
doanh nghiệp không khớp được giữa lãi suất thu về và lãi suất chi ra từ hoạt
động tài chính.
Ngoài ra, hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp cũng tìm ẩn rủi ro
lãi suất rất lớn. Rủi ro lãi suất trong hoạt động đầu tư, đặc biệt đầu tư vào các
loại tài sản tài chính có thu nhập cố định như tín phiếu hay trái phiếu các loại,
thể hiện ở chỗ giá cả của các tài sản này thay đổi khi lãi suất thay đổi.
4. Nhận dạng rủi ro tỷ giá
4.1. Nhận dạng rủi ro tỷ giá đối với doanh nghiệp.

Trong phạm vi chương này chúng ta, chúng ta chỉ tập trung nhận dạng rủi
ro tỷ giá phát sinh trong các hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp bao gồm các
hoạt động đầu tư, hoạt động xuất nhập khẩu và hoạt động tín dụng.
4.1.1. Nhận dạng rủi ro tỷ giá trong hoạt động đầu tư
Rủi ro tỷ giá trong hoạt động đầu tư thường phát sinh đối với các công ty
đa quốc gia hoặc đối với các nhà đầu tư tài chính có danh mục đầu tư đa dạng
hóa trên bình diện quốc tế. Có thể nói cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp đều
chịu ảnh hưởng của rủi ro tỷ giá.
Ví dụ: Nhận dạng rủi ro tỷ giá trong hoạt động đầu tư trực tiếp
Unilever và P & G là những công ty đa quốc gia đã có mặt tại Việt nam
từ rất sớm. Khi đầu tư vào Việt Nam Unilever phải bỏ vốn ra bằng ngoại tệ
[11]
(USD) để thiết lập nhà máy, nhập khẩu nguyên vật liệu cho sản xuất. Phần lớn
sản phẩm sản xuất đều là sản phẩm tiêu dùng trên thị trường Việt Nam và
đương nhiên doanh thu bằng VND.
Nếu như đại bộ phận chi phí của Unilever phát sinh bằng ngoại tệ (ngoại
trừ tiền lương cho nhân công và cán bộ quản lý Việt Nam), trong khi doanh thu
đại bộ phận bằng VND (ngoại trừ doanh thu xuất khẩu sang nước thứ ba) thì
Unilever phải đối mặt thường xuyên với rủi ro tỷ giá. Nếu USD lên giá so với
VND thì chi phí sản xuất gia tăng tương đối so với doanh thu.
Chẳng hạn, nếu trước đây tỷ giá USD/VND = 20.750, hàng năm chi phí
nhập khẩu nguyên liệu của Unilever là 1 triệu USD, tương ứng với 20,75 tỷ
VND. Bây giờ tỷ giá USD/VND = 21.000 thì chi phí nguyên vật liệu nhập khẩu
quy ra VND là 21 tỷ VND, tăng lên 250 đồng mỗi USD nhập khẩu. Điều này
khiến cho chi phí sản xuất tăng thêm 250 triệu đồng.
Bên cạnh ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư trực tiếp như vừa phân tích,
rủi ro tỷ giá cũng ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư gián tiếp, tức là đầu tư trên
thị trường tài chính.
Ví dụ:Nhận dạng rủi ro tỷ giá trong hoạt động đầu tư gián tiếp
Một nhà đầu tư Hongkong vừa rút vốn đầu tư 500.000 USD khỏi thị

trường Mỹ do lãi suất USD giảm và tình hình kinh tế Mỹ không mấy khả quan.
Giả sử bây giờ do hưởng ứng lời kêu gọi và khuyến khích đầu tư của Chính
phủ Việt Nam, nhà đầu tư muốn đầu tư mua cổ phiếu SAM.
Giá thị trường của SAM hiện tại là 30.000VND/cổ phiếu và tỷ giá
USD/VND = 20.750. Như vậy, với 500 nghìn USD nhà đầu tư có thể mua được
(500.000 x 20.750)/30.000 = 259.375 cổ phiếu. Giả sử một năm sau nhà đầu tư
vì lý do nào đó muốn bán cổ phiếu SAM để rút vốn về đầu tư nơi khác. Lúc này
giá cổ phiếu SAM tăng đến 41.000 VND/cổ phiếu trong khi đó USD cũng tăng
so với VND lên đến 21.350 VND/USD. Nhà đầu tư bán 259.375 cổ phiếu SAM
được 41.000 x 259.375 = 10.634.375.000 VND. Với số VND bán cổ phiếu này,
nhà đầu tư mua được 10.634.375.000/21.750 = 498.097 USD.
[12]
Số USD nhà đầu tư rút vốn về bay giờ sẽ thấp hơn vốn đầu tư ban đầu
1.903 USD mặc dù giá cổ phiếu SAM tăng 1.000 VND. Trong trường hợp này,
nhà đầu tư tổn thất 1.903 USD ( giả sử bỏ qua cổ tức nhà đầu tư nhận được
sau một năm). Sự tổn thất này do biến động tỷ giá gay ra vì giá cổ phiếu tăng
SAM tăng 1.000 đồng không đủ bù đắp sự mất giá của VND. Liệu sự mất giá
của VND có thu hút được vốn đầu tư nước ngoài và làm cho thị trường chứng
khoán Việt Nam sôi động hơn không? Đây là vấn đề khiến cho rủi ro tỷ giá
đáng được quan tâm.
4.1.2 Nhận dạng rủi ro tỷ giá trong hoạt động xuất nhập khẩu:
Có thể nói rủi ro tỷ giá trong hoạt động xuất nhập khẩu là loại rủi ro tỷ
giá thường xuyên gặp phải và đáng lo ngại nhất đối với các công ty có hoạt
động xuất nhập khẩu mạnh. Sự thay đổi tỷ giá ngoại tệ so với nội tệ làm thay
đổi giá trị kỳ vọng của các khoản phải thu hoặc phải trả bằng ngoại tệ trong
tương lai. Điều này khiến cho hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu bị ảnh hưởng
đáng kể và nghiêm trọng hơn có thể làm đảo lộn kết quả kinh doanh. Mặc dù
trên thực tế, một công ty có thể vừa hoạt động xuất khẩu vừa hoạt động nhập
khẩu, nhưng để dễ dàng hình dung và tiện phân tích, chúng ta nhận dạng rủi ro
tỷ giá một cách riêng biệt đối với từng loại hợp đồng xuất khẩu và nhập khẩu.

 Nhận dạng rủi ro tỷ giá đối với hoạt động xuất khẩu
Trong hoạt động xuất khẩu, vì lý do cạnh tranh và nhiều lý do khác khiến
doanh nghiệp thường xuyên bán hàng trả chậm trong một khoảng thời gian nhất
định. Ở thời điểm ký kết hợp động, tỷ giá ngoại tệ so với VND đã biết. Nhưng
đến thời điểm thanh toán, tỷ giá như thế nào doanh nghiệp chưa biết. Đơn giản
là vì điều này chưa xảy ra. Chính sự chưa biết rõ tỷ giá này tiềm ẩn rủi ro tỷ giá.
Ví dụ dưới đây minh họa cách nhận dàng rủi ro tỷ giá khi doanh nghiệp ký kết
một hợp đồng xuất khẩu.
Ví dụ:Nhận dạng rủi ro tỷ giá khi doanh nghiệp ký hợp đồng xuất khẩu.
Giả sử ngày 04/08 công ty Sagonimex đang thương lượng ký kết hợp
đồng xuất khẩu trị giá 200.000 USD. Hợp đồng sẽ đến hạn thanh toán sáu
[13]
tháng sau kể từ ngày kí hợp đồng. Ở thời điểm thương lượng hợp đồng, tỷ giá
USD/VND = 21.000 trong khi tỷ giá ở thời điếm thanh toán chưa biết vì chưa
đến hạn. Sự không chắc chắn của tỷ giá USD/VND vào thời điểm thanh toán
khiến cho hợp đồng xuất khẩu của Sagonimex chứa đựng rủi ro tỷ giá.
Nếu đến hạn thanh toán, USD tiếp tục lên giá so với VND thì bên cạnh
lợi nhuận do hoạt động xuất khẩu đem lại, công ty còn kiếm thêm được khoản
lợi nhuận tăng thêm do USD lên giá so với VND. Ngược lại, nếu đến hạn thanh
toán, USD xuống giá so với VND thì doanh thu kỳ vọng bằng VND của hợp
đồng xuất khẩu trên giảm đi.
Sự sụt giảm này làm cho lợi nhuận kỳ vọng từ hợp đồng xuất khẩu giảm
đi, nghiêm trọng hơn có thể khiên cho hợp đồng trở nên lỗ nếu như sự sụt giảm
USD quá mạnh. Chẳng hạn, vào ngày thanh toán nếu USD/VND= 20.900 thì
cứ mỗi USD xuất khẩu công ty tổn thất 100VND do USD xuống giá. Toàn bộ
hợp đồng trị giá 200.000 USD , công ty bị thiệt hại 100 x 200.000 = 2 triệu
VND.
Sự thiệt hại này không lớn lắm trong phạm vi một hợp đồng, nhưng nếu
tính chung trong toàn bộ hoạt động xuất khẩu, công ty có đến hàng trăm hợp
đồng như vậy, thiệt hại sẽ lớn đáng kể. Hơn nữa, sự sụt giảm giá trị ngoại tệ có

thể mạnh hơn và, do đó, sự thiệt hại có thể lớn hơn nữa.
 Nhận dạng rủi ro tỷ giá đối với hoạt động nhập khẩu.
Trong hoạt động nhập khẩu, vì lý do thiếu hụt vốn và nhiều lý do khác
khiến doanh nghiệp thường xuyên nhập khẩu hàng trả chậm trong một khoảng
thời gian nhất định. Ở thời điểm ký kết hợp đồng, tỷ giá ngoại tệ so với VND
đã biết. Nhưng đến thời điểm thanh toán, tỷ giá như thế nào doanh nghiệp chưa
biết. Đơn giản là vì điều này chưa xảy ra. Chính sự chưa biết rõ tỷ giá này tiềm
ẩn rủi ro tỷ giá. Ví dụ dưới đây minh họa cách nhận dạng rủi ro tỷ giá khi doanh
nghiệp ký kết hợp đồng nhập khẩu.
Ví dụ: Nhận dạng rủi ro tỷ giá khi doanh nghiệp ký hợp đồng nhập khẩu.
[14]
Giả sử ngày 04/08 công ty Cholonimex đang thương lượng ký kết hợp
đồng nhập khẩu trị giá 200.000 USD. Hợp đồng sẽ đến hạn thanh toán sáu
tháng sau kể từ ngày ký hợp đồng. Ở thời điểm thương lượng hợp đồng, tỷ giá
USD/VND=21.000 trong khi tỷ giá ở thời điểm thanh toán chưa biết. Sự không
chắc chắn của tỷ giá USD/VND vào thời điểm thanh toán khiến cho hợp đồng
nhập khẩu của Cholonimex chứa đựng rủi ro tỷ giá.
Nếu đến hạn thanh toán, USD xuống giá so với VND thì bên cạnh lợi
nhuận do hoạt động nhập khẩu đem lại, công ty còn kiếm thêm được khoản lợi
nhuận tăng thêm do USD xuống giá so với VND làm cho chi phí nhập khẩu
giảm tương đối. Ngược lại, nếu đến hạn thanh toán, USD lên giá so với VND
thì chi phí nhập khẩu kỳ vọng bằng VND của hợp đồng nhập khẩu trên tăng
lên.
Sự gia tăng chi phí này làm cho lợi nhuận kỳ vọng từ hợp đồng nhập
khẩu giảm đi, nghiêm trọng hơn có thể khiến cho hợp đồng trở nên lỗ nếu như
sự lên giá USD quá mạnh. Chẳng hạn, vào ngày thanh toán nếu USD/VND=
21.100 thì cứ mỗi USD nhập khẩu làm cho chi phí gia tăng 100VND so với tỷ
giá lúc thương lượng hợp đồng. Toàn bộ hợp đồng trị giá 200.000 USD , công
ty bị thiệt hại 100 x 200.000 = 2 triệu VND.
Sự thiệt hại này không lớn lắm trong phạm vi một hợp đồng, nhưng nếu

tính chung trong toàn bộ hoạt động nhập khẩu, công ty có đến hàng trăm hợp
đồng như vậy hoặc hợp đồng có giá trị lớn hơn, thiệt hại sẽ lớn đáng kể. Hơn
nữa, sự gia tăng giá trị ngoại tệ có thể mạnh hơn và, do đó, sự thiệt hại có thể
lớn hơn nữa.
4.1.3. Nhận dạng rủi ro tỷ giá trong hoạt động tín dụng
Bên cạnh rủi ro tỷ giá trong hoạt động đầu tư và xuất nhập khẩu như vừa
nhận dạng trên đây, hoạt động tín dụng cũng chứa đựng rủi ro tỷ giá rất lớn.
Điều này đặc biệt thể hiện rõ trong hoạt động tín dụng bằng ngoại tệ của các
ngân hàng thương mại. Đứng trên góc độ doanh nghiệp, việc vay vốn bằng
ngoại tệ cũng bị ảnh hưởng đến rủi ro tỷ giá. Chẳng hạn, thời điểm Ngân hàng
[15]
Dự Trữ Liên Bang Mỹ đã hạ lãi suất xuống mức thấp chỉ còn 1,25%/năm là cơ
hội hiếm có cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể vay vốn ngoại tệ với chi phí
rẻ. Tuy nhiên, nếu vay USD trong thời gian tương đối dài với số lượng lớn,
doanh nghiệp cần lưu ý tác động của yếu tố rủi ro tỷ giá. Ví dụ dưới đây minh
họa cách nhận dạng rủi ro tỷ giá của doanh nghiệp lẫn của ngân hàng trong hoạt
động tín dụng.
Ví dụ 1:Nhận dạng rủi ro tỷ giá của doanh nghiệp và của ngân hàng trong
hoạt động tín dụng.
Công ty Giadimex đang thương lượng vay vốn tài trợ xuất khẩu của
Sacombank số tiền 3 triệu USD để thu mua và chế biến cà phê xuất khẩu. Do
lãi suất USD trên thị trường giảm nên Sacombank đồng ý cho Giadimex vay
với lãi suất 3%/năm trong thời hạn 6 tháng. Ở thời điểm vay vốn, tỷ giá
USD/VND = 21.000. Sáu tháng sau khi nợ đến hạn, tỷ giá USD/VND là bao
nhiêu công ty chưa biết, do đó công ty đối mặt với rủi ro tỷ giá nếu ký hợp đồng
vay vốn này.
Công ty ước tính, sáu tháng sau phải trả nợ gốc và lãi là 3(1+0,03 x 6/12)=
3,045 triệu USD. Với tỷ giá hiện tại công ty phải bỏ ra 3,045 x 21.000 = 63.945
triệu USD. Nhưng nếu sáu tháng sau tỷ giá USD/VND = 21.100 thì cứ mỗi
USD phải trả công ty phải bỏ thêm 100VND, tổng chi phí trả nợ và lãi sẽ lên

đến 3,045 x 21.100 = 64.249,5 triệu VND, tăng 64.249,5 – 63.945 = 304,5
triệu VND so với ước tính.
Trong quan hệ tín dụng trên, không chỉ có doanh nghiệp, ngân hàng
cũng đối mặt với rủi ro tỷ giá. Trong ví dụ, sáu tháng sau, ngân hàng thu nợ
khoản cho vay cả gốc và lãi là 3,045 triệu USD, nhưng tỷ giá USD/VND lúc
này là bao nhiêu ngân hàng cũng chưa biết, do đó, ngân hàng cũng đối mặt với
rủi ro tỷ giá nếu ký kết hợp đồng cho vay này. Thế nhưng khác với doanh
nghiệp, rủi ro tỷ giá của ngân hàng thể hiện ở khả năng USD/VND giảm, trong
khi rủi ro tỷ giá của doanh nghiệp thể hiện ở khả năng USD/VND tăng. Việc tỷ
[16]
giá USD/VND sáu tháng sau sẽ tăng hay giảm không ai có thể biết được. Nếu
biết được, đã không còn rủi ro.
Ví dụ 2: Báo cáo tài chính quý 2/2014 Công ty CP Cơ điện lạnh ( REE) lợi
nhuận là âm 70 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ, khoản mục này ghi nhận lãi 280 tỷ
đồng, nguyên nhân chủ yếu là do chênh lệch tỷ giá JPY/VND. Khoản chênh
lệch này chủ yếu từ hoạt động kinh doanh của công ty PPC. Công ty cổ phần
Cơ điện lạnh đang nắm giữ 22,37% cổ phần tại Công ty cổ phần Nhiệt điện Phả
Lại.
Theo báo cáo tài chính hợp nhất của PPC, số dư nợ vay của công ty vay
dài hạn của ngân hàng Nhật Bản JBIC). Tính đến thời điểm 31/3/2014 giá trị
khoản nợ còn lại là 26 tỷ JPY.Tháng 3 và tháng 9 hàng năm là thời điểm PPC
trả nợ gốc trị giá 1,125 tỷ JPY/đợt.
Trị giá khoản vay bằng JPY ( DVT: JPY ) 26.000.000.000
Thời điểm ngày 01/04/2014 203,41
Thời điểm ngày 30/06/2014 210,48
Lỗ do chênh lệch tỷ giá ( DVT: VND) -183.820.000.000
[17]
Nếu không tính đến yếu tố chênh lệch tỷ giá thì doanh thu quý 2 của PPC
là 1.940 tỷ đồng và 179 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế.
Tóm lại, trong bất kỳ hoạt động nào của doanh nghiệp có liên quan đến

ngoại tệ khiến cho dòng tiền thu về và chi ra phát sinh không cùng một loại tiền
đều chứa đựng rủi ro tỷ giá. Rủi ro này nhiều hay ít, đáng kể hay không tùy
thuộc vào (1) mức độ biến động tỷ giá lớn hay nhỏ, (2) trị giá hợp đồng hay trị
giá các khoản thu chi lớn hay nhỏ.
4.2. Tác động của rủi ro tỷ giá
Tỷ giá là một trong nguồn gốc rủi ro chính khiến nhiều doanh nghiệp
trên thế giới rơi vào lao đao, và cũng là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của rất
nhiều công cụ phòng chống rủi ro ngoại hối. Trong quá khứ, tác động của việc
tỷ giá biến động nhiều hơn kể từ sau sự sụp đổ của chế độ tỷ giá Bretton
Woods vào đầu thập niên 1970 đã kéo nhiều công ty lớn trên thế giới, đặc biệt
là nhiều công ty tên tuổi của Mỹ và Nhật vào những “rắc rối” về tỷ giá trong
các thập niên 1980 và 1990.
Thời kỳ đó, những tên tuổi như Laker Airlines, Caterpillar, Toyota,
Honda, v.v đều than phiền trên mặt báo rằng những biến động bất lợi của tỷ
giá đã tạo ra nhiều khó khăn cho hoạt động kinh doanh của họ, và khiến cho
doanh thu lẫn lợi nhuận giảm thấp.
Với những diễn biến phức tạp của tỷ giá, hoạt động của các doanh
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thực sự rơi vào khó khăn.
Các doanh nghiệp VN liên tục gặp những tác động từ độ nhạy cảm giao dịch
(VND lên giá nên các doanh nghiệp xuất khẩu thua lỗ khi chuyển đổi USD sang
VND, hoặc tại thời điểm này, khi VND mất giá nhiều so với các loại ngoại tệ
thì các doanh nghiệp lại phải tốn chi phí quá lớn khi phải nhập khẩu từ đó ảnh
hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh) mặt khác lại gánh chịu độ nhạy cảm
kinh tế cao do giá cả hàng VN khi VND lên giá trở nên kém tính cạnh tranh
hơn.
[18]
Ngày nay tỷ giá đã trở thành một nguồn rủi ro mà các doanh nghiệp cần
phải tốn nhiều công sức để xem xét phòng ngừa. Đây là chúng ta còn chưa tính
đến khả năng nhiều đồng tiền như EUR và CNY sẽ còn chiếm tỷ trọng lớn hơn
trong hệ thống đồng tiền thanh toán chính của các doanh nghiệp VN, khi ấy, độ

nhạy cảm của các doanh nghiệp với biến động tỷ giá giữa các đồng tiền chính
với nhau cũng sẽ trở thành một vấn đề phải quan tâm (mà biến động giữa các
đồng tiền mạnh như EUR so với USD thì lớn hơn rất nhiều so với cặp
USD/VND).
Nhìn chung, rủi ro tỷ giá ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp ở
các khía cạnh sau:
- Tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
- Tác động đến năng khả năng chịu đựng tài chính của doanh nghiệp
4.2.1. Tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Sức cạnh tranh của doanh nghiệp tập trung ở khả năng quyết định giá cả
của doanh nghiệp so với đối thủ trên thị trường. Hoạt động trong điều kiện có
rủi ro tỷ giá tác động, doanh nghiệp luôn phải đối phó với tổn thất ngoại hối,
bằng cách nâng giá bán để trang trải tổn thất xảy ra. Điều này làm cho giá cả
của doanh nghiệp trở nên kém hấp dẫn và khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp giảm sút. Rủi ro tỷ giá phát sinh trong hoạt động của doanh nghiệp có
thể gây ra ba loại tổn thất ngoại hối.
- Tổn thất giao dịch
- Tổn thất kinh tế
- Tổn thất chuyển đổi kế toán
 Tổn thất giao dịch
Tổn thất giao dịch phát sinh khi có các khoản phải thu hoặc phải trả bằng
ngoại tệ. Hoạt động xuất nhập khẩu và hoạt động tín dụng là dạng điển hình
của tổn thất giao dịch. Có thể chia tổn thất giao dịch thành tổn thất giao các
khoản phải thu ngoại tệ và tổn thất giao dịch các khoản ngoại tệ.
[19]
Tổn thất giao dịch các khoản phải thu ngoại tệ là tổn thất phát sinh khi
giá trị quy ra nội thu về sự sụt giảm do ngoại tệ xuống giá so với nội tệ. Tổn
thất các khoản phải thu có thể phát sinh từ những hoạt động sau:
- Hoạt động xuất khẩu thu ngoại tệ
- Cho vay ngoại tệ

- Thu đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp bằng ngoại tệ về nước ngoài
- Thu lãi vay bằng ngoại tệ
- Nhận cổ tức đầu tư bằng ngoại tệ
Để minh họa tổn thất giao dịch đối với các khỏan phải thu, hãy xem các
nhà xuất khẩu Mỹ đã bán sản phẩm của họ cho các nước châu Á trong suốt
cuộc khủng hoảng 1997 – 1998, khi một vài đồng tiền các nước châu Á giảm
giá khoảng 80%. Nếu các nhà xuất khẩu thu tiền bằng tiền của các nước châu
Á, thì dòng tiền của họ có thể ít hơn 80% so với dự định. Nếu các nhà xuất
khẩu thu tiền bằng USD họ sẽ không phải gánh chịu tổn thất giao dịch đối với
rủi ro tỷ giá. Trong trường hợp này, các công ty nhập khẩu ở các nước châu Á
lại chịu rủi ro này. Tác động của sự thay đổi lớn trong giá trị tiền tệ có thể tàn
phá các công ty kinh doanh chủ yếu dựa vào giao dịch quốc tế.
Tổn thất các khoản phải trả ngoại tệ là tổn thất phát sinh khi giá trị quy
ra nội tệ chi ra tăng lên do ngoại tệ lên giá so với nội tệ. Tổn thất các khoản
phải trả có thể phát sinh từ những hoạt động sau:
- Hoạt động nhập khẩu phải chi trả bằng ngoại tệ
- Trả nợ cho vay
- Đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp bằng ngoại tệ về nước ngoài
- Trả lãi vay bằng ngoại tệ
- Trả cổ tức đầu tư bằng ngoại tệ
Tổn thất giao dịch ngoại hối lớn hay nhỏ tùy thuộc vào hai biến:
- Giá trị tài sản tính bằng ngoại tệ
- Mức độ thay đổi tỷ giá
Do đó, nếu gọi:
V là tổn thất ngoại hối.
[20]
S là mức độ thay đổi tỷ giá, S = - , trong đó lần lượt là tỷ giá ở thời điểm t
và thời điểm gốc.
là giá trị tài sản tính bằng ngoại tệ
hàm tổn thất giao dịch ngoại hối: V = S.S

 Tổn thất kinh tế
Tổn thất kinh tế là tổn thất phát sinh do sự thay đổi của tỷ giá làm ảnh
hưởng đến ngân lưu quy ra nội tệ hoặc ngoại tệ của doanh nghiệp. Tổn thất
kinh tế xảy ra tương tự như tổn thất giao dịch, chỉ khác biệt ở chổ nó là những
khoản tổn thất không xuất phát từ các khoản phải thu hoặc phải trả có hợp
đồng rỏ ràng mà từ ngân lưu hoạt động của doanh nghiệp.
Ví dụ: Sự lên giá của nội tệ làm sụt giảm doanh thu xuất khẩu của doanh
nghiệp, do hàng hóa xuất khẩu bây giờ trở nên đắt đỏ hơn đối với người tiêu
dùng nước ngoài.
Hay là chi phí đầu vào của doanh nghiệp do ngoại tệ lên giá so với nội tệ
khi đại đa số nguyên vật liệu đầu vào phục vụ sản xuất từ nguồn thu nhập.
Loại nguy cơ rủi ro này có thể tác động đáng kể đến khả năng cạnh tranh
và do vậy ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của một công ty. Kể từ cuộc khủng
hoảng tài chính châu Á năm 1997, tỷ giá hối đoái giữa các quốc gia trong khu
vực đã thay đổi đột ngột và do vậy khả năng cạnh tranh tương đối của các công
ty sản xuất những sản phẩm tương tự nhau ở các quốc gia khác nhau cũng đã
thay đổi. Tổn thất kinh tế có thể xác định theo công thức sau:
V = .
Trong đó: V là tổn thất ngoại hối kinh tế.
là ngân lưu của doanh nghiệp tại thời điểm t
là mức độ thay đổi tỷ giá, S = - , trong đó lần lượt là tỷ giá ở thời điểm t và
thời điểm gốc.
Tổn thất kinh tế rõ ràng là khó xác định và khó ước lượng hơn tổn thất giao
dịch, do nó phụ thuộc cả vào hai biến cùng thay đổi và .
[21]
 Tổn thất chuyển đổi
Tổn thất chuyển đổi là tổn thất phát sinh do thay đổi tỷ giá khi sáp nhập
và và chuyển đổi tài sản, nợ, lợi nhuận ròng và các khoản mục khác của các
báo cáo tài chính từ đơn vị tính toán ngoại tệ sang đơn vị nội tệ. Về kinh tế, giá
trị của doanh nghiệp hoàn toàn giống nhau ở hai quốc gia, nhưng khi chuyển

giá, do tác động của sự thay đổi tỷ giá, nên giá trị doanh nghiệp có thể khác
nhau.
Minh họa trong thực tiễn cuộc khủng hoảng tài chính châu Á tác động
chuyển đổi đối với rủi ro tỷ giá. Thu nhập hợp nhất của công ty Black &
Decker, công ty Coca-Cola cũng như những công ty khác của Mỹ rất nhạy cảm
đối với tỷ giá hối đoái bởi vì hơn 1/3 tài sản và doanh số của các công ty này là
ở nước ngoài. Khi các đồng ngoại tệ giảm giá so với đô la thì thu nhập của các
công ty mẹ cũng giảm theo. Trong giai đoạn từ 1985 – 1988 khi đồng đô la yếu
thì thu nhập của các công ty mẹ tại Mỹ gặp thuận lợi do tác động đồng đô la
yếu bởi vì các khoản thu nhập từ nước ngoài chuyển về Mỹ được tính theo tỷ
giá cao hơn.
Tóm lại, rủi ro tỷ giá là rủi ro do sự thay đổi của tỷ giá có thể gây ra tổn
thất cho doanh nghiệp. Ba loại tổn thất gắn liền với hoạt động của doanh
nghiệp là tổn thất giao dịch, tổn thất kinh tế, tổn thất chuyển đổi hay tổn thất kế
toán. Ngoài những tổn thất này, rủi ro tỷ giá còn gây sự ra sự bất ổn cho hoạt
động của doanh nghiệp, từ đó, có thể tác động chung đến rủi ro của doanh
nghiệp sụt giảm.
4.2.2. Tác động đến khả năng chịu đựng tài chính của doanh nghiệp
 Tác động bất ổn đến hoạt động doanh nghiệp
Rủi ro tỷ giá tác động đến việc hoạch định tài chính doanh nghiệp
thường thấy trong khi phân tích và xem xét dự án đầu tư mà ngân lưu kỳ vọng
chịu ảnh hưởng bởi sự biến động của tỷ giá ngoại hối trong tương lai. Khi xem
xét môt dự án quyết định có đầu tư hay không vào một dự án mở rộng sản xuất
[22]
hàng xuất khẩu. Một trong những chỉ tiêu đánh giá xem có nên đầu tư hay
không vào một dự án này là hiện giá của NPV.
Công thức chung:
NPV =
Trong đó:
là dòng tiền ròng của thời điểm t

WACC là chi phí huy động vốn trung bình
n là số năm hoạt động của dự án
Dòng tiền ròng được xác định từ doanh thu và chi phí. Doanh thu xuất
khẩu chịu tác động của tỷ giá hối đoái, do đó, dòng tiền ròng phụ thuộc vào tỷ
giá. Tỷ giá thay đổi làm thay đổi dòng tiền từ đó làm ành hưởng đến NPV và
ảnh hưởng đến việc hoạch định đầu tư vốn của doanh nghiệp.
 Tác động đến sự tự chủ tài chính của doanh nghiệp
Sự chịu đựng tài chính của doanh nghiệp ở đây được xác định đo lường
bởi sự tự chủ về tài chính. Trong tài chính công ty, chúng ta đã biết sự tự chủ
về tài chính được xác định bởi tỷ số vốn chủ sở hữu trên nợ hay trên tổng tài
sản. Khi có rủi ro tỷ giá, doanh nghiệp đối mặt tổn thất làm cho giá trị phần
vốn chủ sở hữu trở nên bất ổn và có nguy cơ sụt giảm khiến cho tỷ số chủ động
về tài chính giảm theo. Điêu này đặc biệt nghiêm trọng đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp mà có quy mô vốn không lớn lắm, đôi khi
sựu tự trọng ngoại hối nếu quá nghiêm trọng có thể là điêu đứng doanh nghiệp.
 Tổn thất đến giá trị doanh nghiệp
Giá trị doanh nghiệp ở đây được đo lường bởi giá trị thị trường. Đối với
các công ty cổ phần niêm yết hoặc chưa niêm yết, giá trị thị trường của doanh
nghiệp phản ánh bởi giá trị cuả cổ phiếu trên thị trường. Những doanh nghiệp
nào hoạt động sản xuất kinh doanh thường xuyên chịu tác động của rủi ro tỷ
giá thì giá trị của daonh nghiệp cũng bị ảnh hưởng bởi sự biến động của tỷ giá.
[23]
Điều này cũng dể hiểu bởi sự biến động của tỷ giá có tác động thay đổi dòng
tiền kỳ vọng của doanh nghiệp.
Ta có công thức:
V =
là dòng tiền kỳ vọng của doanh nghiệp
r là lãi suất chiết khấu thích hợp dùng để xác định hiện giá của dòng tiền kỳ
vọng
Do rủi ro còn gây ra sự bất ổn này nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán phải

tăng suất chiết khấu r khiến cho giá trị doanh nghiệp giảm.
4.3. Nhận dạng rủi ro tỷ giá đối với hoạt động của ngân hàng
Rủi ro tỷ giá là rủi ro phát sinh do sự biến động của tỷ giá tương ứng với
một trạng thái ngoại tệ nhất định. Hay nói cách khác rủi ro tỷ giá là rủi ro phát
sinh do sự biến động của tỷ giá làm ảnh hưởng đến giá trị kỳ vọng trong
tương lai. Rủi ro tỷ giá có thể phát sinh trong nhiều hoạt động khác nhau của
ngân hàng cũng như của doanh nghiệp. Nhưng nhìn chung bất cứ hoạt động
nào mà ngân lưu thu phát sinh bằng một loại đồng tiền trong khi ngân lưu chi
phát sinh một loại đồng tiền khác đều chứa đựng nguy cơ rủi ro tỷ giá. Rủi ro
tỷ giá thể hiện ở chỗ khi tỷ giá thay đổi làm cho ngân lưu thay đổi theo.
Trạng thái ngoại tệ là chênh lệch giữa TSC và TSN nội và ngoại bảng
của một ngoại tệ tại một thời điểm nhất định. Nếu TSC lớn hơn TSN thì ngoại
tệ ở trạng thái dương (trường); ngược lại, nếu TSC nhỏ hơn TSN thì ngoại tệ
ở trạng thái âm (đoản)
Trạng thái ngoại hối
Biến động tỷ giá
Tỷ giá tăng Tỷ giá giảm
Trạng thái ngoại hối
dương
NH có lãi NH lỗ
Trạng thái ngoại hối âm NH lỗ NH có lãi
Trạng thái ngoại hối CB
Không ảnh hưởng thu
nhập của NH
Không ảnh hưởng thu
nhập của NH
[24]
Trong các giao dịch liên quan đến ngoại tệ, có những giao dịch chỉ làm
phát sinh sự chuyển giao quyền sử dụng (như quan hệ tín dụng) và có những
giao dịch làm phát sinh không những chuyển giao quyền sử dụng mà còn làm

phát sinh sự chuyển giao quyền sở hữu (như quan hệ mua bán). Trong số các
giao dịch đó, thì chỉ những giao dịch nào làm phát sinh sự chuyển giao quyền
sở hữu về ngoại tệ mới làm phát sinh trạng thái ngoại tệ. Các giao dịch làm
tăng quyền sở hữu về một ngoại tệ làm phát sinh trạng thái dương (hay trạng
thái trường) của ngoại tệ đó. Các giao dịch làm giảm quyền sở hữu về một
ngoại tệ làm phát sinh trạng thái âm (hay trạng thái đoản) của ngoại tệ đó.
Trong thực tiễn kinh doanh ngân hàng, các giao dịch làm phát sinh sự
chuyển giao quyền sở hữu về ngoại tệ, tức làm phát sinh trạng thái ngoại tệ chủ
yếu gồm:
- Mua hay bán ngoại tệ giao ngay.
- Mua hay bán ngoại tệ có kỳ hạn như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai,
hợp đồng quyền chọn
- Thu lãi cho vay, trả lãi tiền gửi bằng ngoại tệ.
- Các khoản thu phí dịch vụ và các khoản trả phí dịch vụ bằng ngoại tệ.
- Các rủi ro mất mát, hư hỏng, bồi thường thiệt hại bằng ngoại tệ
Thời điểm phát sinh trạng thái ngoại tệ là ngay tại thời điểm chuyển
giao quyền sở hữu về ngoại tệ, tức tại thời điểm ký kết hợp đồng chứ không
phải tại thời điểm thanh toán.
Nếu một ngân hàng thương mại (NHTM) huy động vốn bằng ngoại tệ;
sau đó, dùng toàn bộ vốn huy động được để cho vay cũng bằng ngoại tệ (tức
không có sự chuyển đổi mua bán nào), thì cho dù tỷ giá biến động thế nào,
NHTM cũng không chịu rủi ro tỷ giá, bởi vì trạng thái ngoại tệ không được tạo
ra.
Vậy, câu hỏi được đặt ra là: Khi nào thì một NHTM chịu rủi ro tỷ giá?
Khi NHTM duy trì trạng thái ngoại tệ mở khác 0, tức duy trì trạng thái TSC và
[25]

×