Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Thực trạng về thu hút FDI ở Hà Nội sau khi mở rộng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.72 KB, 25 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Hà Nội nay luôn luôn là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa lớn của
nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, có vị trí xứng đáng trong khu vực và
trên thế giới.
Bước sang thế kỷ XXI, thành phố Hà Nội khẳng định tiếp tục công cuộc
đổi mới, tiếp bước con đường mở cửa và hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Đặc biệt về mặt hợp tác kinh tế, liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp
cùng thành phố với các doanh nghiệp trong khu vực và trên thế giới. Trong
quá trình hội nhập kinh tế thì đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức đầu
tư phổ biến và thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà hoạch định cũng
như của các doanh nghiệp.
Ngày nay đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ngày càng trở nên quan
trọng với việc phát triển chung của thành phố bởi FDI không chỉ là nguồn
cung cấp vốn quan trọng mà còn là con đường cung cấp công nghệ hiện đại,
những kinh nghiệm trong quản lý và là cơ hội tốt để thủ đô tham gia hội nhập
với nền kinh tế quốc tế của thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp
thành phố đi đầu trong công cuộc đổi mới nền kinh tế của thủ đô. Vì thế thu
hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào thành phố là một nhiệm vụ hết sức
quan trọng trong công cuộc xây dựng thủ đô xã hội chủ nghĩa văn minh giàu
đẹp, hiện đại, đậm đà bản sắc ngàn năm văn hiến, nâng cao đời sống vật chất
tinh thần của nhân dân, tích cực chuẩn bị tiền đề cho nền kinh tế trí thực, phấn
đấu trở thành một trung tâm ngày càng có úy tín ở khu vực để xứng đáng là
đầu tàu cả về kinh tế lẫn chính trị của Việt Nam.
Xuất phát từ thực tế trên, sau khi được trang bị những vấn đề lý luận,
phương pháp luận có hệ thống và chiều sâu về kiến thức chuyên ngành kinh
tế, em đã chọn đề tài “Thực trạng về thu hút FDI ở Hà Nội sau khi mở
rộng” để làm rõ hơn việc thu hút FDI ở Hà Nội và qua đó đưa ra một số giải
pháp để có thể nâng cao hiệu quả thu hút vốn FDI hơn.
NỘI DUNG
I. Những lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài


1. Lý thuyết về đầu tư và đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1 . Hoạt động đầu tư và các loại hình đầu tư
1.1.1 Hoạt động đầu tư
Hoạt động đầu tư cho sản xuất là việc sử dụng vốn đầu tư để phục hồi
năng lực sản xuất cũ và tạo them năng lực sản xuất mới, nói cách khác, đó là
quá trình thực hiện tái sản xuất các loại tài sản sản xuất. Hoạt động đầu tư là
hết sức cần thiết vì nó có thể làm cho quy mô sản xuất được mở rộng hơn, bù
đắp được quá trình tài sản cố định bị hao mòn, đổi mới công nghệ theo từng
giai đoạn.
1.1.2 Các loại hình đầu tư
_Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư mà người có vốn tham gia trực
tiếp vào quá trình hoạt động và quản lý đầu tư, họ biết được mục tiêu đầu tư
cũng như phương thức hoạt động của các loại vốn mà họ bỏ ra. Hoạt động
đầu tư này có thể được thực hiện dưới dạng : hợp đồng, liên doanh, công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
_ Đầu tư gián tiếp là hình thức bỏ vốn vào hoạt động kinh tế nhằm đem
lại hiệu quả cho bản than người có vốn cũng như cho xã hội, nhưng người có
vốn không trực tiếp than gia quản lý hoạt động đầu tư. Đầu tư gián tiếp
thường được thực hiện dưới dạng : cổ phiếu, tín phiếu… Hình thức đầu tư này
thường ít gặp rủi ro hơn so với đầu tư trực tiếp.
1.2 . Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI là hoạt động đầu tư do các tổ chức kinh
tế, cá nhân nước ngoài, tự mình hoặc cùng với tổ chức kinh tế tại nước sở tại
bỏ vốn, trực tiếp quản lý điều hành để thu lợi nhuận trong kinh doanh. Đầu tư
là một loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó người chủ sở hữu vốn đồng
thời là người quản lý, điều hành các hoạt động sử dụng vốn. Hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài thường được tiến hành thông qua các dự án – gọi là dự
án đầu tư trức tiếp nước ngoài.
1.3 . Đặc điểm và môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.3.1 Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài

Thứ nhất : đặc điểm nổi bật của hình thức đầu tư FDI là chủ DTNN được
tham gia trực tiếp vào quan hệ sản xuất kinh doanh , được tự mình quản lý
kinh doanh trên phần góp vốn của mình khu đầu tư vào nước nhận đầu tư.
Quyền quản lý DN phụ thuộc vào mức độ góp vốn của chủ đầu tư. Nếu góp
vốn 100%thì DN hoàn toàn do chủ ĐTNN điều hành quản lý.
Thứ hai : Quan hệ đầu tư FDI là quan hệ có mục đích kinh doanh rõ,
ràng, lợi nhuận là mục tiêu cao nhất và cuối cùng của nhà đầu tư. Lợi nhuận
của các chủ ĐTNN thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và
được chia theo tỷ lệ góp vốn pháp định
Thứ ba : FDI có tính đa quốc tịch, nguồn vốn FDI có thể là của chính phủ,
cá nhân hoặc hỗn hợp mà chủ yếu là nguồn vốn tư nhân từ một nền kinh tế khác
đầu tư vào nước sở tại. Điều này có nghĩa là chủ sở hữu vốn phải có yếu tố nước
ngoài mà thể hiện là sự khác nhau về quốc tịch, lãnh thổ giữa bên đi đầu tư và
bên nhận đầu tư. Điều này dẫn tới tính đa ngôn ngữ của các bên tham gia vào dự
án , đòi hỏi phải sử dụng ngôn ngữ quốc tế và ngôn ngữ tại nước sở tại trong các
văn bản của dự án và trong quá trình hoạt động của dự án.
Thứ tư : Các nhà ĐTNN vừa là chủ sở hữu , vừa chịu trách nhiệm về
hiệu quả kinh tế dự án FDI và sự phân chia lợi ích được tiến hành theo
nguyên tắc thỏa thuận trong khuôn khổ pháp luật tại nước sở tại.
1.3.2 Môi trường đầu tư nước ngoài
Môi trường đầu tư là tổng thể các yếu tố, điều kiện và chính sách của
nước tiếp nhận đầu tư chi phối đến hoạt động đầu tư nước ngoài. Môi trường
đầu tư nước ngoài có thể thay đổi và chịu sự chi phối của Chính phủ nước tiếp
nhận đầu tư; thay đổi khi nước tiếp nhận đầu tư ký kết hoặc gia nhập Hiệp
định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương, khu vực và đa phương.
Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm các tố của giai đoạn : thành
lập; hoạt động và giải thể hay phá sản doanh nghiệp FDI. Môi trường đầu tư
trực tiếp nước ngoài theo quan niệm này là “ Tổng thể các yếu tố, chính sách
của nước tiếp nhận đầu tư có tác động trực tiếp hay tiếp đến quá trình thành
lập, hoạt động và giải thể hay phá sản doanh nghiệp nước đi đầu tư “. Các

yếu tố này bao gồm chính sách của một quốc gia với FDI, cơ sở vật chất, trình
độ lao động và tình hình an ninh chính trị… ở nước tiếp nhận đầu tư.
2. Sự cần thiết thu hút FDI ở các nước đang phát triển
Thứ nhất : Chúng ta biết rằng, các nước đang phát triển thường thiếu vốn
để đầu tư phát triển, do đó nguồn vốn có ý nghĩa rất quan trọng. Việc thu hút
được các nhà đầu tư nước ngoài vào các nước đang phát triển sẽ tạo ra sức
hấp dẫn với các công ty có tiềm lực tài chính lớn, đặc biệt là các công ty
xuyên quốc gia.
Thứ hai : nhờ các dự án FDI đầu tư vào các nước đang phát triển mà các
nước này sẽ trở thành nơi tiếp nhận và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu
khoa học – công nghệ tiên tiến trên thế giới, tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên
tiến vào quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Các nhà đầu tư nước ngoài
phần lớn là các công ty đa quốc gia có tiềm lực mạnh không chỉ về vốn mà
còn về nghiên cứu và ứng dụng triển khai công nghệ hiện đại, kinh nghiệm
kinh doanh. Vì vậy họ không chỉ mang vào cho các nước đang phát triển vốn,
mà còn những thế mạnh về công nghệ và kinh nghiệm quản trị hiện đại,
những thứ mà các nước đang phát triển còn thiếu và yếu kém.
Thứ ba : thu hút FDI vào các nước đang phát triển dóng góp vai trò quan
trọng trong việc đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong một môi
trường làm việc hiện đại, cùng với việc tiếp xúc với công nghệ tiên tiến,
phong cách quản lý chuyên nghiệp do các dự án FDI mang lại, quá trình thu
hút FDI vào các nước đang phát triển tạo ra những điều kiện thuận lợi để đào
tạo và sử dụng nguồn nhân lực có trình độ cao, có tác phong công nghiệp hóa.
Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, điều này là rất quan trọng.
Vì hiện nay lao động nước ta chủ yếu là lao động trong lĩnh vực nông nghiệp,
nhu cầu về nhân lực cho các dự án FDI sẽ tạo điều kiện cho lao động địa
phương có cơ hội tiếp thu kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp trong những điều
kiện tốt, nâng cao trình độ quản lý, được rèn luyện tác phong làm việc công
nghiệp.
Thứ tư : thu hút FDI vào các nước đang phát triển giúp các quốc gia này

có thể đào tạo được một đội ngũ doanh nghiệp FDI trong nước, có khả năng
tạo thêm năng lực sản xuất mới trong nhiều ngành kinh tế then chốt. Giá trị
gia tăng và tổng giá trị sản phẩm công nghiệp của các doanh nghiệp FDI có
tốc độ tăng trưởng cao, đóng góp vai trò quan trọng trong việc đẩy mạnh sản
xuất công nghiệp, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần nâng cao tốc
độ tăng trưởng kinh tế đất nước.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút FDI
3.1 . Môi trường - chính trị
Tình hình ổn định chính trị xã hội là yếu tố có vai trò quan trọng nhất
nhằm tạo điều kiện thu hút FDI. Nó đóng vai trò là điều kiện cần, là nền tảng
tạo sự an tâm cho đồng vốn bỏ ra của nhà đầu tư. Bất kỳ nhà đầu tư nào muốn
đầu tư vào một nước nào đó thì điều đầu tiên họ muốn xem xét đó là tính ổn
định chính trị xã hội của nước đó. Một môi trường chính trị ổn định luôn có
sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư, bởi lẽ rủi ro chính trị sẽ gây những thiệt hại
lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Sự ổn định chính trị xã hội chính là sự
đảm bảo an toàn cho mọi hoạt động đầu tư. Môi trường đầu tư lý tưởng cho
hoạt động FDI là môi trường mà tại đó nền kinh tế của nước sở tại đang phát
triển rất năng động, phát huy được tối đa các nguồn lực hiện có của đất nước.
Nhân tố này ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút FDI. Nó còn thể hiện ở quy
mô thị trường, sức mua của tầng lớp dân cư bản địa, khả năng mở rộng quy
mô đầu tư. Lợi thế về thị trường sẽ có sức hút rất lớn với FDI vì hầu hết các
sản phẩm sản xuất từ Doanh nghiệp có nguồn vốn FDI được tiêu thụ ngay
trên thì trường nước tiếp nhận đầu tư.Việt Nam là một trong những nước
được quốc tế đánh giá cao là có nền chính trị xã hội ổn định, tạo ra sự an toàn,
tin tưởng cho các nhà đầu tư quốc tế.
3.2 . Đặc điểm văn hóa xã hội
Đặc điểm phát triển văn hoá - xã hội của nước chủ nhà được coi là hấp
dẫn FDI nếu có trình độ giáo dục cao và nhiều sự tương đồng về ngôn ngữ,
tôn giáo, các phong tục tập quán với các nhà ĐTNN. Các đặc điểm này không
chỉ giảm được chi phí đào tạo nguồn nhân lực cho các nhà ĐTNN mà còn tạo

điều kiện thuận lợi cho họ hoà nhập vào cộng đồng nước sở tại.
Như vậy, qua phân tích trên cho thấy một môi trường đầu tư được coi
là thuận lợi nếu các yếu tố trên tạo được sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Mức
độ thuận lợi của môi trường đầu tư sẽ tạo ra các cơ hội đầu tư cho nhà ĐTNN.
Vì thế, cơ hội đầu tư không có nghĩa: Chỉ là sự thuận lợi nói chung của môi
trường đầu tư mà đúng hơn là nói về mức độ thuận lợi của môi trường này.
3.3 . Hệ thống pháp luật đồng bộ và hoàn thiện, hệ thống quản lý có hiệu quả
Vì quá trình đầu tư có liên quan rất nhiều đến các hoạt động của các tổ
chức, cá nhân và được tiến hành trong thời gian dài nên các nhà đầu tư nước
ngoài rất cần có một môi trường pháp lý hợp lý và ổn định của nước chủ nhà.
Môi trường này gồm các chính sách, qui định đối với FDI và tính hiệu lực của
chúng trong thực hiện. Một môi trường pháp lý hấp dẫn FDI nếu có các chính
sách, qui định hợp lý và tính hiệu lực cao trong thực hiện. Đây là những căn
cứ pháp lý quan trọng không chỉ để đảm bảo quyền lợi của các nhà ĐTNN mà
còn là những cơ sở cần thiết cho họ tính toán làm ăn lâu dài ở nước chủ nhà.
3.4 . Hệ thống cơ sở hạ tầng kĩ thuật
Các lợi thế về cơ sở hạ tầng là yếu tố có liên quan mật thiết đến hiệu quả
hoạt động của các dự án đầu tư, nhất là đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việc xây
dựng và phát triển cơ sở hạ tầng như giao thông vận tải, thông tin liên lạc,
điện nước sẽ tạo một điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các dự án. Hệ
thống cơ sở hạ tầng phát triển sẽ giúp các hoạt động sản xuất kinh doanh được
diễn ra thuận lợi hơn, có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình triển khai và thực
hiện dự án của nhà đầu tư. Một nước sẽ không thể thu hút được nhiều vốn đầu
tư nước ngoài nếu không có kết cấu cơ sở hạ tầng đủ tốt và đảm bảo chất
lượng dịch vụ cho nhà đầu tư.
3.5 . Trình độ quản lý và năng lực của người lao động
Khi trình độ quản lý và năng lực của người lao động tốt, đó sẽ là điểm
hấp dẫn của các nhà đầu tư. Việc nâng cao chất lượng lao động sẽ làm cho
việc sản xuất, kinh doanh trở nên thuận lợi hơn. Do đó yếu tố về trình độ quản
lý và năng lực của người lao động cũng rất đáng phải quan tâm. Nhất là với

một nước có trình độ quản lý và năng lực người lao động chưa cao như ở Việt
Nam nói chung và Hà Nội nói chung.
II. Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội khi
Hà Nội được mở rộng
1. Thực trạng thu hút đầu tự nước ngoài vào Hà Nội
1.1 Quy mô, số lượng, tốc độ thu hút vốn FDI vào Hà Nội
Đến hết năm 2008, sau khi mở rộng địa giới hành chính, Hà Nội đã thu
hút được hơn 1400 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng kí đạt trên
6,7 tỷ USD. Với con số này, Hà Nội hiện đang đứng thứ 3 cả nước về thu hút
đầu tư nước ngoài, sau Tp HCM và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Đến năm 2009,
mặc dù số dự án vẫn có xu hướng tăng lên song lượng vốn đầu tư lại giảm
xuống so với những năm trước đó và chỉ còn khoảng 15% so với năm 2008.
Nguyên nhân là do cuộc suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài chính toàn cầu
là nguyên nhân chính trực tiếp ảnh hưởng tới việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào cả nước nói chung và thủ đô Hà Nội nói riêng. Cuộc khủng
hoảng kinh tế đã làm cho các nền kinh tế của các nước bị suy sụp khiến cho
các nhà đầu tư không thể tiếp tục thực hiện được các dự án đầu tư của mình
và đem vốn mới vào thực hiện các dự án đầu tư mới, hơn nữa các nhà đầu tư
thế giới lại nhìn nhận nền kinh tế khu vực với một cách không lấy gì khả quan
lắm vì thế không tiếp tục đầu tư vào khu vực cũng như vào Việt Nam. Năm
2010, ngân hàng thế giới ADB đánh giá, Việt Nam là nước đã thoát khỏi cuộc
khủng hoảng kinh tế mà thế giới vẫn đang phải gánh chịu hậu quả. Và cho
đến nay, gần hết năm 2010, Hà Nội cũng đã có những thành tựu đáng kể trong
việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Để so với Hà Nội trước khi mở rộng, ta thấy được quy mô, số lượng các
dự án đã tăng lên đáng kể. Năm 2006, tổng vốn đầu tư đăng ký vào Hà Nội
chỉ đạt 1,1 tỷ USD với 263 dự án đầu tư, năm 2007 tổng số vốn đầu tư chỉ là
khoảng hơn 2 tỷ USD và như đã phân tích ở trên thì đến năm 2008 (năm Hà
Nội chính thức được mở rộng) thì lượng vốn đầu tư đăng kí đã có bước nhảy
vọt lên đến gần 6 tỷ USD với 1400 dự án cấp vốn.

Bảng 1 : Vốn FDI vào Hà Nội trong giai đoạn 2005 – 2009
Đơn vị : triệu USD
STT Năm Số dự án
Vốn đăng

Vốn thực
hiện
1 2005 131 831 617
2 2006 236 1248 721
3 2007 432 2788 826
4 2008 1400 6784 2736
5 2009 679 800 482
Nguồn : Niên giám thống kê 2009
Qua đây ta thấy tình hình đầu tư tại Hà Nội có nhiều khả quan cả về số
lượng các nhà đầu tư tham gia song có một điều cần nhìn lại ở đây là số lượng
dự án có tăng lên, nhưng quy mô dự án lại không có nhiều thay đổi, vốn thực
hiện lại khác xa so với tổng vốn đăng ký. Điều này chứng tỏ số lượng các nhà
đầu tư tham gia tăng lên rõ rệt nhưng các dự án tham gia lại nhỏ, các dự án có
quy mô lớn và trung bình thường chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Các nhà đầu tư vẫn
chưa coi thủ đô là một đại chỉ đầu tư tin cậy để thực hiện các dự án của mình.
1.2 Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội
1.2.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo lĩnh vực đầu tư
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của thành phố hiện nay, Hà Nội
đang cần hỗ trợ về vốn trong phát triển cơ sở hạ tầng, việc tăng cường thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ giúp thành phố có thể nâng cao trình độ về
phát triển kinh tế xã hội. Đặc biệt là các ngành công nghiệp như công nghiệp
chế tạo, công nghiệp cơ khí, công nghiệp xây dựng… đây là những ngành có
khả năng tác động tới nền kinh tế thủ đô dưới góc độ tạo ra nền tảng cơ sở hạ
tầng nhằm nâng cao trình độ phát triển kinh tế của các ngành. Trong giai đoạn
này các ngành công nghiệp xây dựng chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng số

những dự án cũng như vốn thực hiện, ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng
56,7% về số lượng dự án và 42,1% về lượng vốn, ngành này là ngành chiếm
tỷ trọng lớn nhất trong các ngành tham gia, trong đó chủ yếu tập trung vào hai
ngành công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ. Tính đến thời điểm tháng 12
năm 2008 địa bàn Hà Nội có 01 khu công nghệ cao; 18 khu cộng nghiệp tập
trung, 45 khu (cụm) công nghiệp nhỏ và vừa; trên 171 điểm công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, làng nghề. Hà Nội hiện nay vẫn tồn tại một số làng nghề,
doanh nghiệp hoạt động trong những làng nghề này là không nhiều, giá trị sản
xuất còn chưa cao điều đó lý giải tại sao việc thu hút vốn đầu tư FDI vào
doanh nghiệp này còn ít.
Trái ngược hẳn với ngành công nghiệp, doanh nghiệp hoạt động trong
ngành nông nghiệp của thủ đô lại thu hút một lượng vốn khá khiêm tốn.
Trong những năm gần đây mặc dù địa giới hành chính của thủ đô đã được mở
rộng hơn so với trước năm 2008, nhưng diện tích đất giành cho nông nghiệp
ngày càng bị thu hẹp. Tỉ lệ đầu tư vào nông nghiệp có tăng lên nhưng không
tương xứng với diện tích của Hà Nội sau khi sáp nhập. Ngành nông nghiệp
chiểm tỷ trọng khá nhỏ trong tổng vốn các dự án đầu tư chỉ chiếm dưới 1% về
lượng vốn đầu tư ( 12 triệu USD ). Ngành này chiếm tỷ trọng thấp nhất trong
ba ngành vì đây là ngành không được các đối tác quan tâm vì ngành này đòi
hỏi thời gian dài mặc dù khối lượng vốn không quá lớn nhưng mức độ rủi ro
cao. Đầu tư vào doanh nghiệp hoạt động trong nông nghiệp hiện nay chủ yếu
tập chung cho chế biến nông sản, chế biến thức ăn cho gia súc.
Một điều đáng lưu ý là nếu xét về cơ cấu vốn đầu tư thì Hà Nội đang có
sự chuyển biến mạnh mẽ từ lĩnh vực công nghiệp sản xuất và xây dựng sang
lĩnh vực dịch vụ, tài chính, ngân hàng và phát triển bất động sản.
Theo lý giải của Cục Đầu tư nước ngoài, sự chuyển dịch cơ cấu này hoàn toàn
phù hợp với xu hướng phát triển của một thủ đô ngày càng văn minh hiện.
Một mặt, những dự án bất động sản xây dựng cao ốc văn phòng lớn, công
viên, khu vui chơi giải trí lớn đang được triển khai hứa hẹn sẽ đem lại một
diện mạo mới cho Hà Nội trong những năm tới. Nhưng, sự mất cân đối trong

thu hút đầu tư về lâu dài sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế chung của
Thủ đô, bởi từ đầu năm 2008 đến nay, thu hút đầu tư vào dịch vụ, bất động
sản thường chiếm một tỷ lệ rất cao (tỷ lệ này trước đây trong giai đoạn Hà
Nội chưa mở rộng chỉ chiếm khoảng 40%).
Bảng 2 : Cơ cấu vốn FDI phân theo ngành ở Hà Nội 2005 - 2009
STT Năm Nông, lâm,
thủy sản
Công nghiệp
và xây dựng
Dịch vụ Ngành
khác
1 2005 4 2418 2633 1496
2 2006 4 2614 3726 2455
3 2007 4 3369 3541 3673
4 2008 12 5232 8345 5782
5 2009 12 5353 8117 5931
Nguồn : Niêm giám thống kê Hà Nội 2009
( Số liệu tại bảng này là số liệu cộng dồn qua từng năm )
1.1.2 Đầu tự trực tiếp nước ngoài theo hình thức đầu tư
Sau khi Hà Nội được mở rộng vào năm 2008, với ba hình thức đầu tư,
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm 49,64% vốn đăng ký, doanh
nghiệp liên doanh chiếm 46,72% tổng vốn đăng ký, còn lại hợp đồng hợp tác
kinh doanh chỉ chiếm 3,64%. Điều này cho thấy rằng, trong thời gian hiện
nay, số vốn đầu tư của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài bắt đầu có sự
nhỉnh hơn so với vốn đầu tư liên doanh. Các doanh nghiệp nước ngoài đã bắt
đầu có sự nắm bắt rõ và quan tâm đầu tư đến Hà Nội hơn. Điều này chưa thể
hiện rõ trước khi Hà Nội được mở rộng. Trước thời kỳ này, tỷ trọng đầu tư
của doanh nghiệp liên doanh vẫn chiếm một số lượng vốn đăng ký lớn hơn
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Thậm chí vào năm 2005, doanh nghiệp
liên doanh chiếm đến 63,78% tổng số vốn đăng ký , doanh nghiệp 100% vốn

nước ngoài chỉ chiếm 25,38% , còn lại là hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Bảng 3:Cơ cấu vốn đầu tư FDI theo hình thức đầu tư ở Hà Nội 2005-2009
Đơn vị : Triệu USD
Năm DN 100% vốn nước
ngoài
DN liên doanh Hợp đồng hợp tác
kinh doanh
2005 2170 5454 927
2006 3537 5585 677
2007 5765 6117 705
2008 9682 8984 705
2009 9638 9070 705
Nguồn : Niên giám thống kế 2009
Trên đây là bảng số liệu được cộng dồn số vốn qua từng năm, qua đó để
thấy rõ được xu hướng thay đổi tỷ trọng cơ cấu vốn của các hình thức đầu tư
sau khi Hà Nội được mở rộng. Doanh nghiệp 100% nước ngoài đang tăng về
số vốn đầu tư một cách nhanh chóng, doanh nghiệp liên doanh tăng nhưng tốc
độ không cao bằng, còn hợp đồng hợp tác kinh doanh thì hầu như không biến
đổi trong giai đoạn gần đây.
1.1.3 Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo đối tác đầu tư
Nhóm các DN FDI đến từ khu vực Châu Á và khu vực Đông Nam Á là
nhóm DN chiếm tỷ trọng lớn, Tiếp theo, các DN đến từ Châu Âu và Hoa Kỳ
cũng chiếm tỷ lệ cao trong đóng góp vốn đăng ký FDI vào Hà Nội. Hiện nay,
trong các đối tác đầu tư vào thành phố Hà Nội (ngoài các khu công nghiệp và
khu chế xuất), Hồng Kông (Trung Quốc) đang dẫn đầu với 37,1% số vốn, tiếp
đó là Hàn Quốc, Nhật Bản. Về số lượng dự án, Hàn Quốc đứng thứ nhất với
67 dự án, chiếm 40,3%.
Bảng 4 : Các đối tác đầu tư FDI lớn nhất vào Hà Nội
( Tính đến 31/12/2009)
Đơn vị : triệu USD

STT Nước, vùng lãnh thổ Vốn đầu tư đăng ký
1 Hồng Kông 7202
2 Hàn Quốc 5078
3 Nhật Bản 3054
4 Đài Loan 1765
5 Singapore 1567
Nguồn : Thời báo kinh tế 4/2010
2.Đánh giá về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hà Nội
2.1 Thành tựu đạt được
Năm 2010 là năm mà Hà Nội kỷ niệm 1000 năm văn hiến, đây là thời
điểm mà ta nhìn lại những thành tựu trong công cuộc đổi mới nền kinh tế của
thủ đô, cũng như những bước phát triển lớn trong việc thu hút vốn đầu tư phát
triển nước ngoài. Thành tựu nổi bật của thủ đô Hà Nội trong 10 năm gần đây
là đạt mức tăng trưởng kinh tế cao nhất từ trước tới nay. Theo Cục đầu tư
nước ngoài – Bộ kế hoạch đầu tư thì năm 2009, tổng sản phẩm nội địa (GDP)
của thủ đô ước tăng 12,1%. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 31,2% so với
năm 2006. Trong đó, khu vực đầu tư nước ngoài tăng trưởng 31,8%, kinh tế
nhà nước có tấc độ tăng trưởng 27,7%, kinh tế nhà nước tăng 5,2% so với
năm trước. Từ những số liệu thống kê trên ta có thể thấy được sự đóng góp to
lớn của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào việc phát triển chung của
Hà Nội. Sự đóng góp của doanh nghiệp tiếp nhận vốn FDI cho sự phát triển
của thủ đô có thể đưa ra những thành tựu chính sau:
Thứ nhất, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào doanh nghiệp thủ đô
ngày càng gia tăng, góp phần bổ sung thêm nguồn vốn đầu tư phát triển kinh
tế - xã hội. Đặc biệt, năm 2008 là năm mà địa giới hành chính của thủ đô
được mở rộng hơn nữa, Hà Nội thu hút được 1400 dự án với tổng vốn đăng kí
lên đến 6,7 tỷ USD, cao nhất trong các năm.
Thứ hai, quá trình thu hút đầu tư nước ngoài đóng góp tích cực vào
thành công của công cuộc đổi mới. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
chiếm khoảng 31,8%, đóng góp của doanh nghiệp FDI vào ngân sách của

thành phố không ngừng gia tăng qua các năm, đồng thời đây là khối thu hút
một nguồn lao động lớn có trình độ và tạo ra giá trị cao nhất trong khối các
doanh nghiệp.
Thứ ba, đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực thúc đẩy sự dịch chuyển
cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng phát triển các ngành công nghệ
cao và dịch vụ, từ đó đưa thành phố trở thành trung tâm kinh tế chính trị của
cả nước.
Thứ tư, đầu tư nước ngoài là cầu nối quan trọng giữa doanh nghiệp của
thủ đô với các địa phương khác, các thành phố trên thế giới, thúc đẩy phát
triển thương mại, du lịch và tạo điều kiện quan trọng để thủ đô trở thành một
thành phố hội nhập ngày càng sâu hơn với nền kinh tế thế giới. Đặc biệt, năm
2010 là năm mà thủ đô kỉ niệm 1000 năm văn hiến, đây là cơ hội để chúng ta
có thể tăng cường phát triển du lịch, là điểm thuận lợi để giới thiệu thủ đô tới
các nước trên thế giới.
Thứ năm, đầu tư nước ngoài có tác động đến kinh tế thủ đô, thúc đẩy các
doanh nghiệp nhà nước nâng cao khả năng cạnh tranh, đổi mới phương thức
quản lý doanh nghiệp cũng như phương thức kinh doanh; đồng thời nâng cao
sức cạnh tranh của sản phẩm thành phố với thị trường bên ngoài.
Để đẩy nhanh hơn nữa sự phát triển của doanh nghiệp FDI thành phố
trong thời gian tới, lãnh đạo thành phố cần có sự quan tâm hơn nữa tới công
tác xúc tiến thu hút đầu tư đặc biệt là cần quan tâm tới các dự án lớn có quy
mô vốn lớn và tập trung vào những ngành công nghệ cao, công nghiệp xây
dựng, những ngành này đòi hỏi số vốn lớn cũng như về kỹ thuật công nghệ
cao, tạo nền tảng cho cơ sở vật chất được hiện đại hơn, từ đó nâng tầm phát
triển của kinh tế thủ đô lên một nấc thang mới.
Những kết quả to lớn nói trên là hiệu quả của một quá trình dài sau
những chuyến đi xúc tiến đầu tư của UBND thành phố Hà Nội trong nhiều
năm tại những cuộc họp, hội nghị thượng đỉnh trao đổi hợp tác giữa các thành
phố lớn, các nước trong khu vực cũng như trên thế giới như Singapore, Hoa
Kỳ, EU… với những danh mục cụ thể mời gọi đầu tư trên các lĩnh vực. Sau

một thời gian tìm hiểu và đánh giá về môi trường đầu tư tại thành phố Hà Nội,
các nhà đầu tư đã có những phản ứng tích cực, nhiều đoàn đã và đang xây
dựng kế hoạch lâu dài để đầu tư vào Hà Nội, trong đó có nhiều tập đoàn đa
quốc gia, các doanh nghiệp thuộc các nước có tiềm năng kinh tế mạnh. Điều
đó cho thấy, kết quả đạt được trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài của thành phố trong thời gian qua là không hề nhỏ. Nhưng bên cạnh
những thành quả đạt được đó, việc thu hút vốn đầu tư FDI vào Hà Nội vẫn
còn tồn tại một số điểm bất cập.
2.2 Hạn chế
Do chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, quy mô và tốc
độ thu hút vốn FDI của cả nước nói chung và doanh nghiệp Hà Nội nói riêng
gần có giảm, nhưng không phải quá bi quan như nhiều người nhận xét. Theo
đánh giá của tổ chức thế giới, nước ta đã tạm thời thoát ra khỏi cuộc khủng
hoảng , điều đó hứa hẹn sự trở lại đầu tư của các doanh nghiệp trên thế giới.
• Trong thời gian gần đây đã xuất hiện sự mất cân đối trong cơ cấu
vốn đầu tư nước ngoài, lượng vốn tập trung chủ yếu vào lĩnh vực dịch vụ,
nhất là các dự án đầu tư kinh doanh bất động sản, các dự án đầu tư vào ngành
nông lâm ngư nghiệp vốn là một trong những lĩnh vực nước ta có nhiều lợi
thế lại có quá ít, chiếm chưa được 1% trong tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào thành phố Hà Nội.
• Về phát triển nguồn nhân lực, hiện nay thành phố Hà Nội tập trung
một lượng lớn dân số lao động từ các địa phương khác với trình độ lao động
thấp kém, chưa qua đào tạo tay nghề…bên cạnh đó là việc thiếu sự đào tạo để
có sự tham gia ngay vào hệ thống sản xuất công nghiệp hiện đại của thủ đô.
• Việc thu hút vốn đầu tư ngày càng tăng cao cả về số dự án lẫn số
vốn đăng ký, nhưng ở đây tồn tại việc số vốn thực hiện đi vào đầu tư, hay số
vốn giải ngân lại hoàn toàn thấp hơn nhiều so với số vốn ban đầu, lượng vốn
giải ngân thường chỉ đạt 37% so với tổng số vốn đăng ký. Đây là vấn đề mà
thành phố cần nhìn lại trong việc thu hút nguồn vốn trong thời gian tới.
• Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI có một vai trò to lớn đối với

sứ phát triển kinh tế xã hội thủ đô như đóng góp đối với sự tăng trưởng kinh
tế chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm… Tuy nhiên để huy động
các nguồn vốn FDI đáp ứng được mục tiêu phát triển ngành sao cho có hiệu
quả nhằm chuyển hướng mục tiêu càng tập trung vào chất lượng nguồn vốn
FDI ở thành phố nói riêng và cả nước nói chung trong thời gian tới.
• Thủ tục hành chính còn rườm rà, thời gian và công đoạn trong quá
trình giải quyết công việc có liên quan đến hoạt động đầu tư còn tồn tại nhiều
bất cập. hiện nay, Hà Nội đã tích cực điều chỉnh các chính sách để cái thiện
hơn nữa môi trường đầu tư. Tuy nhiên, thủ tục mới nhưng con người cũ, tư
tưởng cũ vẫn là một trở ngại lớn trong việc cải cách hành chính. Việc tồn tại
nhận thức, thói quen nuối tiếc với cơ chế “xin – cho” của một bộ phận cán bộ,
công chức hành chính nên sự việc tuy dễ lại trở nên khó khăn.
• Hệ thống cơ sở hạ tầng của Hà Nội tuy khá phát triển nhưng vẫn
còn tồn tại những điểm yếu. Hà Nội hiện nay được mở rộng hơn so với trước,
những địa phương được xác nhập vào thành phố hiện nay thi cơ sở hạ tầng
giao thông vẫn còn chưa phát triển, chưa theo kịp được đòi hỏi của phía đối
tác đầu tư. Bên cạnh đó, hệ thống giao thông bên trong địa bàn của thủ đô vẫn
còn yếu kém, thường xuyên sảy ra ùn tắc, hệ thống đường xá vẫn trong gia
đoạn xây dựng cũng là vật cản lớn trong việc thu hút vốn đầu tư vào Hà Nội.
việc đàu tư xây dựng hạ tầng thiết yếu ở vùng nông thôn còn chưa được chú ý
và quan tâm đúng mức.
• Năng lực nhà đầu tư mà nước ta nói chung và thành phố Hà Nội
nói riêng gặp phải là số dự án đầu tư vào thành phố tăng lên nhưng năng lực
của đối tác đầu tư còn yếu kém, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp chưa
cao… dẫn tới năng lực cạnh tranh sản phẩm của nước ta gặp nhiều bất lợi khi
tham gia vào thị trường bên ngoài.
2.3 Nguyên nhân
2.3.1Chính sách thu hút FDI
Nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào một quốc gia, họ thường tìm đến
những nơi có điều kiện kinh tế phát triển hơn, những ngành có thể đem lại lợi

nhuận cao nhất trong thời gian ngắn nhất. Do không có sự điều tiết của cơ
quan hữu quan mà luồng vốn FDI vào thành phố có sự tập trung quá lớn vào
các ngành dịch vụ, còn ngành nông nghiệp lại được đầu tư quá ít. Bên cạnh đó
là dự án đầu tư giàn trải, thiếu tập trung, không có trọng điểm. Trong chế độ
ưu đãi với các nhà đầu tư thành phố vẫn chưa tạo ra vùng trọng điểm kinh tế
rõ ràng dẫn tới không tạo ra động lực thúc đầy các nhà đầu tư tới nơi mong
muốn, chế độ chính sách vẫn chưa đủ để đưa Hà Nội trở thành thành phố đầu
tàu của cả nước trong việc phát triển kinh tế.
2.3.2 Kết cấu hạ tầng
Việc phát triển nhanh của thành phố đi đôi với việc phát triển và hiện đại
hơn nữa hệ thống cơ sở hạ tầng của thủ đô, nhưng hiện nay việc phát triển hệ
thống cơ sở hạ tầng còn phát triển yếu kém và thiếu tính đồng bộ, cơ sở hạ tầng
chưa đủ để có thể đáp ứng nhu cầu ngày cang cao từ phía nhà đầu tư như hệ
thống giao thông công cộng, kho tàng bến bãi,cầu cống cảng biển…điều này ảnh
hưởng xấu tới việc thu hút vốn đầu tư vào doanh nghiệp của thành phố.
2.3.2 Những vấn đề về nguồn nhân lực
Hiện nay, thành phố Hà Nội mở rộng hơn nữa diện tích và địa bàn hành
chính, việc sát nhập thêm một số địa bàn với lượng lớn người lao động chưa
qua đào tạo, thiếu tay nghề, mật độ dân số đông là nguyên nhân không nhỏ
ảnh hưởng tới việc thu hút vốn đầu tư vào các ngành dịch vụ, công nghiệp cao
đòi hỏi trình độ tay nghề cao. Tầng lớp lãnh đạo trong doanh nghiệp FDI là
chủ yếu là người nước ngoài chưa am hiểu về môi trường đầu tư của thành
phố, điều này cũng là một hạn chế lớn trong việc phát triển hơn nữa quy mô
của doanh nghiệp. .
2.3.4 Những vấn đề liên quan tới thủ tục hành chính
Mặc dù đã được cải thiện rất nhiều so với trước đây song những gì liên
quan tới thủ tục hành chính của Hà Nội vẫn tồn tại nhiều vấn đề đáng bàn như
trong quá trình thực hiện quá rườm rà thậm chí là chồng chéo lên nhau, trong
khi thực hiện các nhà quản lý không làm đúng yêu cầu đặt ra gây mất nhiều
thời gian…tạo hình ảnh không đẹp trong mắt các nhà đầu tư khi tham gia đầu

tư lâu dài vào thành phố.
Trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào doanh nghiệp của
thành phố Hà Nội trong thời gian qua gặp phải một số vướng mắc đã đề cập
như ở trên. Để tăng cường thúc đẩy hơn nữa luồng vốn FDI vào trong thành
phố, thì điều đặt ra trước mắt là các doanh nghiệp phải biết kết hợp với chình
quyền của thành phố, ban ngành chính phủ để từng bước đề ra những giải
pháp thiết thực, thực tế để đẩy nhanh công cuộc phát triển của thành phố
trong thời gian sắp tới.
3. Một số giải pháp để tăng thu hút đầu tư FDI vào Hà Nội
3.1 Giải pháp về quy hoạch thành phố Hà Nội
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thu hút vốn FDI vào thành phố Hà Nội
qua các năm không ngừng gia tăng, nhưng tồn tại bên cạnh đó là không ít
những dự án FDI không phù hợp với quy hoạch phát triển dài hạn, hoặc gây
mất cân đối về cơ cấu ngành trong quá trình phát triển chung của thủ đô. Vì
vậy, việc quy hoạch các dự án đầu tư là yếu tố cần thiết và hết sức quan trọng
trong việc đảm bảo môi trường đầu tư cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội
của thành phố. Để thực hiện tốt mục tiêu đó, Hà Nội cần làm tốt những giải
pháp sau đây:
•Công bố rộng rãi các quy hoạch đã được phê duyệt trên các phương
tiện thông tin đại chúng, đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án
đầu tư; rà soát, kiểm tra năng lực của nhà đầu tư trước khi tham gia đầu tư vào
thành phố, từ đó đánh giá và cấp phép đầu tư, kết hợp với chính quyền địa
phương có dự án đầu tư để đứng ra tháo gỡ những vướng mắc trong giải
phóng mặt bằng, dựa trên cơ sở đảm bảo sự phát triển bền vững cà bảo vệ
quyền lợi chính đáng của người dân nằm trong diện giải tỏa.
Hà Nội cần làm tốt công tác xây dựng quy hoạch và quản lý quy hoạch,
đặc biệt là quy hoạch tổng thể, quy hoạch ngành và các sản phẩm chủ yếu; có
kế hoạch cụ thể để thực hiện các quy hoạch đã được duyệt
•Dự án FDI thu hút vào thành phố Hà Nội không ngừng tăng qua các
năm, việc phân cấp giấy phép cho các dự án đầu tư tránh trùng lặp, gây ra tình

trạng chồng chéo giữa các dự án. Tình trạng có quá nhiều dự án sân Golf, khu
công nghiệp… đầu tư vào Hà Nội thời gian qua đang trở thành vấn đề đáng
báo động. Việc phân cấp, chọn lọc, rà soát các dự án đầu tư cần gắn với quy
hoạch ngành và khu vực của Hà Nội.
• Sở Tài nguyên và môi trường đứng ra đo đạc, lập bản đồ quy hoạch chung
cho cả thành phố Hà Nội, đơn giản hóa các thủ tục về giao đất, cho thuê đất…
chính quyền thành phố cũng cần đưa ra khung giá đất thống nhất cho từng vùng,
tránh xẩy ra vướng mắc trong việc đền bù giải phóng mặt bằng.
3.2 Giải pháp cải thiện kết cấu cơ sở hạ tầng
Trong những năm sắp tới, Hà Nội chủ trương xây dựng không gian theo
chùm đô thị, bao gồm đô thị trung tâm hạt nhân và 5 khu đô thị vệ tinh gồm
Sơn Tây (đô thị sinh thái – đô thị xanh), Hòa Lạc (đô thị khoa học công
nghệ), Xuân Mai (dịch vụ đào tạo), Phú Xuyên – Phú Minh, Sóc Sơn (công
nghiệp, dịch vụ) và 13 thị trấn đáp ứng cho việc mở rộng quy mô Hà Nội gấp
3,6 lần trước. Về tổ chức không gian đô thị Hà Nội, sẽ thực hiện theo mô hình
chùm đô thị, bao gồm đô thị trung tâm hạt nhân và các đô thị trực thuộc. Đô
thị trung tâm ưu tiên phát triển về phía đông với quy mô phù hợp. Để thực
hiện điều đó thì Hà Nội đã đưa ra những giải pháp sau:
•Tiếp tục huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước, trong đó ban
hành quy chế khuyến khích tư nhân, đầu tư nâng cấp các công trình giao
thông, cảng biển, dịch vụ viễn thông, cung cấp điện nước, phấn đấu không để
xảy ra tình trạng thiếu điện cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
•Vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng chủ yếu là nguồn vốn xuất phát từ vốn
ngân sách nhà nước (NSNN) và nguồn vốn hỗ trợ phát triển ODA, mà khả
năng huy động nguồn vốn này là có hạn. Cho nên bên cạnh việc phát triển hệ
thống cơ sở hạ tầng bằng nguồn vốn chính phủ, thành phố Hà Nội cần nhận ra
vai trò quan trọng của nguồn vốn FDI đầu tư vào hệ thống cơ sở hạ tầng,
trong đó có các công trình giao thông, nhà ở…
•Hà Nội hiện nay tập trung một lượng dân số đông, hơn 6 triệu người,
mức chi trả cho các hoạt động kinh doanh, vận chuyển, điện phí… ngày càng

cao. Vì thế, các yếu tố về điều kiện cơ sở hạ tầng gây cản trở trong việc thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cần được giải quyết như: hệ thống cấp điện
nước, đường giao thông, cảng biển, sự ổn định về cung cấp nguồn năng
lượng, mở rộng và xây dựng mới các tuyến đường…
3.3. Giải pháp về lao động, đào tạo nguồn nhân lực
- Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình
công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động, bao gồm: Tiếp tục hoàn
thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình
mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao
động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời
sống cho người lao động; Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua
phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử
dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo
chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ,
nghiêm túc.
- Triển khai các chương trình, dự án hỗ trợ người lao động làm việc trong
các khu công nghiệp, nhất là về nhà ở và điều kiện sinh hoạt của người lao
động.
- Tiếp tục tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực để
đáp ứng nhu cầu phát triển trong giai đoạn mới, kể cả về cán bộ quản lý các
cấp và cán bộ kỹ thuật.
3.4 Giải pháp về cải cách thủ tục hành chính
Tập trung hoàn thiện cơ chế ‘liên thông-một cửa’ ở các cơ quan cấp
giấy chứng nhận đầu tư và quản lý đầu tư.
Tăng cường năng lực quản lý đầu tư nước ngoài của các cơ quan chức
năng và cơ chế phối hợp, giám sát và kiểm tra hoạt động đầu tư; giải quyết
kịp thời các thủ tục về đất đai, thuế, xuất nhập khẩu, hải quan, nhằm tạo
thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài, qua đó tăng thêm sức hấp dẫn của
môi trường đầu tư thành phố Hà Nội cũng như của Việt Nam.

Tiếp tục đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong việc thẩm định và
cấp phép. Cải tiến mạnh mẽ thủ tục cấp giây phép đầu tư, đơn giản hóa các
thủ tục hành chính thực sự theo nguyên tắc liên thông “một cửa”, “một đầu
mối”. UBND thành phố nên ủy quyền cho Sở Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan
đầu mối phụ trách các vấn đề hợp tác và đầu tư của thành phố, đồng thời là cơ
quan duy nhất tiếp cận hồ sơ giải quyết các công việc tiếp theo, thay mặt nhà
đầu tư đi liên hệ với các cơ quan hữu quan rồi trả lời cho các nhà đầu tư, tạo
điều kiện thuận lợi cho họ khi đăng kí kinh doanh. Các cơ quan chức năng
phải thông báo công khai các loại giấy tờ cần thiết có về hồ sơ đăng kí cấp
giấy phép đầu tư. Cần sửa đổi, điều chỉnh một số nội dung theo hướng giảm
bớt các danh mục phải báo cáo đánh giá tác động tới môi trường và quy định
cụ thể các dự án được miễn lập các loại báo cáo này. Với các dự sán phải lập
báo cáo, cơ quan thẩm định phải tiến hành khẩn trương và đảm bảo độ chính
xác cao, để vừa rút ngắn thời gian đăng ký, vừa hạn chế được các công nghệ
lạc hậu gây ôi nhiễm môi trường.

KẾT LUẬN
Trong giai đoạn hiện nay, nhu cầu về hội nhập và phát triển bền vững
được xem là vấn đề ưu tiên hàng đầu trong công cuộc đổi mới nền kinh tế của
thành phố Hà Nội nói riêng và cả nước ta nói chung. Với sự phát triển chung
của thế giới, để Hà Nội có thể phát triển xứng đáng là thủ đô ngàn năm văn
hiến, trung tâm chính trị, hành chính quốc gia của một đất nước với trên 100
triệu dân, là trung tâm tài chính của khu vực, là một đô thị sinh thái, môi
trường trong sạch, có sự gắn kết hái hòa các yếu tố tự nhiên – xã hội – con
người trong một không gian đô thị phát triển…điều đó đòi hỏi doanh nghiệp
FDI phải nhận thức rõ tầm quan trọng của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài đối với sự tăng trưởng kinh tế và sự phát triển về mặt xã hội để từ đó có
những biện pháp thích hợp nhằm thu hút được nhiều và sử dụng một cách có
hiệu quả nhất nguồn vốn này, đáp ứng đúng mục tiêu mà thành phố đã đề ra
trong những năm tới. Ở bài viết trên, em chỉ muốn đưa ra những nhận xét của

cá nhân mình về thực trang thu hút FDI ở Hà Nội sau khi mở rộng và so sánh
với tình hình Hà Nội trước khi mở rộng và đưa ra một số giải pháp về thu hút
vốn FDI của Hà Nội trong thời gian sắp tới. Với tầm nhận thức còn hạn chế
của mình, chắc chắn không thể giúp mọi người nhận thức đầy đủ về tình hình
FDI hiện tại ở Hà Nội trong giai đoạn này và sắp tới. Vì vậy em cũng mong
nhận được sự thông cảm và đóng góp từ phía các thầy cô.
Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến cô giáo Nguyễn
Quỳnh Hoa đã tận tình giúp đỡ và chỉ dẫn để em hoàn thành được bài viết này.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cổng thông tin sở kế hoạch và đầu tư Hà Nội www.hapi.gov.vn
2. Thời báo kinh tế Việt Nam />3. Niên giám thống kê Hà Nội 2009.
4. Cục đầu tư nước ngoài – Bộ kế hoạch và đầu tư (www. fia.mpi.gov.vn)
5. Luật thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, năm 2009
6. Giáo trình Kinh tế phát triển - chủ biên GS.TS Vũ Thị Ngọc Phùng do
nhà xuất bản Kinh tế quốc dân phát hành
MỤC LỤC

×