PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Để đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất hàng hoá đáp ứng nhu cầu
thịt, sữa, trứng, nhất là thịt lợn xuất khẩu.Trong những năm gần đây Nhà
Nước, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã cho nhập các giống gia
súc, gia cầm có năng suất và chất lượng cao từ các nước có nền chăn nuôi
phát triển, chính vì thế các giống lợn lạc ở nước ta hiên nay đã có tỷ lệ nạc
tới 55-62% và cho năng suất cao.
Có thể khảng định rằng: Trong những năm qua, ngành chăn nuôi lợn
nước ta nói riêng đã đạt nhiều thành tựu mới, xu thế chuyên môn hoá sản
xuất, chăn nuôi trong trang trại tập trung ngày càng phổ biến.
Trong các vật nuôi thì nuôi lợn mang lại hiệu quả kinh tế khá cao, tuy
nhiên không phải cơ sở chăn nuôi nào cũng thắng lợi bởi ngoài các vấn đề
giống, công tác dinh dưỡng thì công tác thú y là vấn đề cấp bách, quyết định
đến thành công trong chăn nuôi.
Việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất đã giúp
chúng ta xử lý và khống chế bệnh dịch. Mặt khác khi mức sống của người
dân tăng lên thì nhu cầu về sử dụng thực phẩm sạch đang là vấn đề mà xã
hội quan tâm, do đó mà ngành chăn nuôi nói chung và nhất là chăn nuôi lợn
nói riêng làm sao phải tạo ra nhiều số lượng cũng như chất lượng sản phẩm,
việc đó đòi hỏi chúng ta phải có những biện pháp hợp lý để đáp ứng với nhu
cầu của xã hội.
Trong những bệnh truyên nhiễm ơt lợn thì bệnh suyễn lợn là bệnh gây
thiệt hại kinh tế lớn, tác động dai dẳng làm cho công tác phòng bệnh khó
khăn. Bệnh tồn tại rất lâu trong cơ thể lợn cũng như ngoài môi trường bên
ngoài làm công tác phòng bệnh rất khó khăn, khi bị nhiễm bệnh, chi phí điều
trị lớn, thời gian và liệu trình điều trị kéo dài.
Cho tới nay ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu về bệnh
suyễn lợn, tuy nhiên mới chỉ tập chung vào tỷ lệ nhiễm, dịch tễ học, và phác
đồ phòng trị bệnh, còn các chỉ tiêu sinh lý, sinh hoá máu của lợn bị bệnh thì
chưa có tác giả nào nghiên cứu, mặt khác một thực tế đặt ra là: Nói đến bệnh
suyễn lợn thì không có gì là xa lạ, tuy nhiên chẩn đoán và đưa ra những vấn
đề cụ thể để khống chế bệnh có hiệu quả và bớt chi phí thì rất ít tác giả đề
cập đến.
Xuất phát từ thực tiễn sản xuất nhằm mục đích hiểu kỹ hơn về bệnh này,
từ đó xây dựng kế hoạch về phòng và trị bệnh một cách có hiệu quả, chúng
tôi đặt vấn đề nghiên cứu đề tài :"Nghiên cứu một số đặc điểm bệnh
lý của bệnh viêm phổi ở lợn do Mycoplasma tại một số vùng
phụ cận Hà Nội và biện pháp phòng trị".
1.2. Tính cấp thiết của đề tài
Bệnh suyễn lợn đã và đang tồn tại trên khắp các tỉnh thành trong
cả nước, đặc biệt là những nơi chăn nuôi tập chung, nơi có điều kiện
khí hậu ẩm thấp, nơi gần các khu công nghiệp, các làng nghề….Các
nơi đó đã tạo điều kiện cho bệnh phát sinh, mặt khác khi chuồng
nuôi tập trung không được bố trí hợp lý về mặt độ đàn cũng làm
bệnh bùng phát.
Lợn bị mắc bệnh, tuy tỷ lệ chết không cao nhưng thiệt hại thì vô
cùng lớn, lợn tiêu tốn thức ăn nhiều, chậm lớn, chi phí điều trị cao
do đó thời gian xuất chuồng sẽ kéo dài làm thiệt hại kinh tế .
Vùng phụ cận Hà Nội là nơi cung cấp một lượng thịt lợn rất lớn
cho thủ đô, là nơi có nhiều nhà máy, xí nghiệp, các khu công
nghiệp, do đó ít nhiều làm phát sinh dịch bệnh cho lợn nuôi tại khu
vực này, nhất là những bệnh đường hô hấp đặc biệt là bệnh suyễn
lợn. Do vậy nghiên cứu bệnh viêm phổi ở lợn do Mycoplasma mang
tính cấp thiết cho ngành chăn nuôi lợn tại vùng này.
1.2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đây là công trình nghiên cứu tương đối đầy đủ về: Nguyên nhân gây
bệnh suyễn, diễn biến bệnh lý, các triệu chứng lâm sàng chủ yếu của lợn bị
bệnh, một số biến đổi về sinh lý, sinh hoá máu, một số biến đổi bệnh lý của
phổi lợn bệnh và đặc biệt là kế hoạch phòng trị bệnh cho lợn bằng biện pháp
tiên tiến đạt kết quả tốt. Đưa ra những luận chứng sát thực về một số những
biến đổi của cơ thể lợn khi mắc bệnh, tạo nghiên cứu cơ bản cho các nghiên
cứu tiếp theo.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Biết được sự biến đổi lâm sàng của lợn bị bệnh: Triệu chứng bên ngoài,
nhiệt độ, tần số hô hấp, tần số mạch.
- Biết được sự biến đổi một số chỉ tiêu sinh lý của máu lợn bệnh.
- Biết được sự biến đổi một số chỉ tiêu sinh hoá của máu lợn bệnh.
- Theo dõi mức độ tổn thương của phổi lợn: Cả vi thể và đại thể.
- Xây dựng phác đồ phòng và trị bệnh có hiệu quả.
- Ứng dụng những kết quả đã nghiên cứu được vào thực tiễn sản xuất nhằm
hạn chế tác hại của bệnh, tạo sản phẩm an toàn về bệnh, nâng cao hiệu quả
trong nuôi lợn, làm cơ sở cho những nghiên cứu tiếp theo đối với bệnh này.
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Lịch sử nghiên cứu về nguyên nhân bệnh
2.1.1. Những nghiên cứu ngoài nước
Bệnh lần đầu tiên được phát hiện thấy ở nước Đức, sau đó thấy ở Anh,
Thụy Điển và gọi tên bệnh là Dịch viêm phổi địa phương. Trước khi tìm ra
nguyên nhân gây bệnh suyễn lợn, đã có rất nhiều quan điểm khác nhau của
các tác giả về nguyên nhân gây bệnh. Ngày đầu bệnh xuất hiện, một số tác
giả cho rằng: Bệnh suyễn lợn là do một loài virus nào đó không qua màng
lọc gây ra, và tất cả các hướng nghiên cứu khi đó tập trung vào nguyên nhân
do virus.
Những năm 50 của thế kỷ XX các nhà khoa học ở các nước Anh,
Canada, Mỹ, Thụy Điển đã đi xâu vào nghiên cứu đồng loạt nhưng theo
hướng là do virus gây nên bệnh, kết quả thu được không đồng nhất, trong
quá trình nghiên cứu họ đã tìm thấy Mycoplasma trong bệnh phẩm nhưng lại
cho rằng: Vi khuẩn này chỉ là vi khuẩn thứ phát, thường nhiễm vào các bệnh
tích của phổi khi lợn mắc bệnh và che lấp căn bệnh trong môi trường tế bào
và không có tế bào dùng để phân lập mầm bệnh. Cho tới lúc này người ta
vẫn cho rằng có một loại virus nào đấy gây nên bệnh mà chưa tìm ra được.
Cũng trong những năm 50 một số tác giả đã nghiên cứu được một số
đặc trưng của mầm bệnh là :
- Mầm bệnh cũng mẫn cảm với một số thuốc kháng sinh.
- Mầm bệnh có khả năng gây bệnh cho tế bào.
- Quang phổ gây bệnh rất rộng.
- Tính kháng nguyên của nó không phù hợp với bản chất của virus.
Tới năm 1963 Bet và Gutvin, Oaileston đã nghiên cứu ở Anh và cho
kết quả đầu tiên của căn bệnh. Họ đã định bệnh phẩm phổi lợn bị viêm
không chứa căn bệnh thứ phát đem tiến hành nuôi cấy và cho kết quả là một
vi sinh vật đa hình thái, trong môi trường tế bào phổi lợn, thí nghiệm thấy
lợn không mắc bệnh viêm phổi địa phương
Đối với môi trường không có tế bào gồm: 10% dung dich đệm muối
Hanks, 20% huyết thanh lợn vô hoạt (lấy từ lợn không mắc bệnh Dịch viêm
phổi địa phương) và 0,5% latbunin thuỷ phân, 0,01% chiết xuất Mendifco,
200 đơn vị Penicillin trong 1ml môi trường.
Kết quả là vẫn có thể nuôi cấy được. Từ đó Gutvin va Oaileston năm
1964 cho rằng: Vi khuẩn mà họ phân lập được có hướng thuộc nhóm
Mycoplasma là nguyên nhân gây nên việc viêm phổi địa phương, nhưng họ
chưa chứng minh được vi khuẩn Mycoplasma này có hình thành được trong
môi trường đặc hay không nên họ chưa có kết quả chính xác.
Năm 1965, Maree và Xuitxơ đã phân lập được vi khuẩn gây bệnh
tương tự ở Mĩ trong môi trường không có tế bào như nghiên cứu của Gutvin
và Oaileston năm 1964, Marê và Xuitxơ đã quan sát được sự hình thành
khuẩn lạc Mycoplasma trên môi trường đặc mà họ nuôi cấy.Trong môi
trường dịch thể không có tế bào đã được kiểm tra là tinh khiết họ thấy trên
môi trường hình thành những khuẩn lọc hình cầu giống như Mycoplasma.
Khi tiêm canh khuẩn trong môi trường dịch thể ở lần cấy lần thứ 7 cho lợn
họ đã tìm thấy bệnh tích điển hình ở phổi, giống như bệnh tích theo quan
điểm virus.
Cũng năm 1965, Gutvin cũng quan sát được sự hình thành khuẩn lọc
Mycoplasma trong môi trường đặc cấy Mycoplasma mà họ đã phân lập được.
Mặt khác họ còn thấy khuẩn lọc Mycoplasma tiêm cho lợn thấy lợn mắc
bệnh và họ kết luận rằng: “Vi khuẩn đã hình thành khuẩn lọc là nguyên
nhân gây ra bệnh Dịch viêm phổi địa phương và đặt tên la M.Suipneumonia
”
Năm 1986, Papageogia đã tiến hành nghiên cứu một mặt vi sinh vật
học của mầm bệnh, tác giả đã chứng minh được vai trò chủ yếu của
Mycoplasma. Canh khuẩn trong môi trường dịch thể đem tiêm cho lợn con
từ 10 -21 ngày tuổi đã gây ra bệnh được và đem quan sát cụ thể thấy được
bệnh tích viêm khí quản phổi hoặc viêm phổi thuỳ ở các thuỳ tim, thuỳ đỉnh,
viêm ngoại tâm mạc cấp tính, với sự hình thành u hạt ở màng cơ tim và bệnh
tích viêm ngoại tâm mạc.
Về sau đã có rất nhiều công trình nghiên cứu tiếp theo nhằm sáng tỏ thêm
vấn đề
Như vậy sau rất nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học
trên thế giới, cuối cùng đã xác định được chính xác nguyên nhân gây bệnh
Dịch viêm phổi địa phương (ngày nay gọi là suyễn) của lợn là Mycoplasma
hyopneumoniae.
2.1.2. Một số nghiên cứu trong nước
Bệnh đường hô hấp mãn tính của lợn ở Việt Nam được quen gọi với
tên bệnh suyễn lợn đã xảy ra từ năm 1958 tại các cơ sở giống lợn của Nhà
nước. Theo tác giả Trường Giang (1965). Dịch viêm phổi địa phương đã xảy
ra tại nông trường An Khánh năn 1958 và giết hại hàng trăm lợn mỗi năm,
tập trung nhất vào đàn lợn 2-7 tháng tuổi. Ngoài các trại Nhà nước, tại các
trại tập thể của hợp tác xã cũng đã xảy dịch Dịch viêm phổi địa phương.
Hoàng Hải (1963) đã theo dõi một ổ dịch tại Thuận Châu (Sơn La) cho thấy:
giống được chuyển từ Thái Bình lên vào năm 1961, sau 8-9 tháng nuôi trọng
lượng cơ thể chỉ tăng 5-6 kg. Một số lợn có trọng lượng khoảng 17-18 kg,
khi được mổ khám thấy có triệu chứng điển hình của Dịch viêm phổi địa
phương. Tác giả cũng đã mô tả lại các triệu chứng điển hình của bệnh Dịch
viêm phổi địa phương như : gầy sút, ho từng cơn vào sáng sớm nhất là
những ngày giá lạnh, lợn ho nhiều rũ rượi, đứng riêng trong góc chuồng thở
hổn hển...bệnh tích chủ yếu khi mổ khám thấy là hiện tượng nhục hóa và có
mủ, có nhiều trường hợp viêm dính vào sườn.
Khác với các nước phát triển, ở Việt Nam, do điều kiện chăm sóc và
vệ sinh kém, vai trò của các vi khuẩn cộng phát lại rất lợn. Vì vậy khi lợn bị
bệnh và chết chủ yếu là do sự kết hợp của M. hyopneumoniaee và các loại vi
khuẩn khác, đặc biệt là P.multocida, Streptococus Sp., Staphyclococus sp.,
Klebsiella.
Nguyễn Tiến Dũng (1989) đã mô tả triệu chứng của bệnh suyễn lợn
là : khó thở, thở bụng, nhịp thở nhanh, ho khan nhất là vào buổi sáng, triệu
chứng trên trầm trọng và rõ ràng hơn khi lợn được vận động nhiều, thậm chí
có thể chết. Bệnh tích của hội chứng ho thở truyền nhiễm nhiều khi không
biểu hiện ra ngoài, lúc này tăng trọng kém và tiêu tốn thức ăn cao là biểu
hiện duy nhất của trạng thái nhiễm M. hyopneumoniaee.
Ở Việt Nam, bệnh được phát hiện đầu tiên năm 1953 ở một vài trại
giống, đến năm 1962, bệnh đã lan khắp các tỉnh, cho đến nay bệnh phát triển
rất rộng. Tỷ lệ ốm cao, có trại lợn chiếm 80% lợn mắc (trại máy trai Hải
Phòng). Có trại do nhập lợn đã bị suyễn nên cả đàn bị lây đã phải diệt hết
(trại cầu Nguyễn Thái Bình). Nhiều trại chăn nuôi quốc doanh cũng bi
nhiễm nặng: Trại Thành Tô - Hải Phòng, Trại An Khánh - Hà Đông.
Tới này cố rất nhiều công trình nghiên cứu về căn bệnh này, nhưng
chỉ mới nghiên cứu về nguyên nhân, triệu chứng bệnh và biện pháp phòng trị
+
nhiều phác đồ phòng và trị bệnh đã được áp dụng nhưng tới nay bệnh vẫn
phát triển trên diện rộng. Hiện Viện thú y quốc gia đang nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu chế tạo vaccin phòng bệnh suyễn lợn do Mycoplasma gây ra và
xây dựng một số mô hình trại giống an toàn”.
Câu hỏi đặt ra cho các nhà khoa học là: Làm sao loại trừ được dịch
bệnh này trên lợn, làm sao để tăng hiệu quả trong công tác chăn nuôi.
2.2. Mycoplasma
Mycoplasma đựoc phát hiện đầu tiên bởi Nocard và Roux vào năm 1898
ở bò bị viêm phổi và được đặt tên là M.nyeoides.
Sau 25 năm người ta phát hiện ra nhiều vi khuẩn giống Mycoplasma nên
đặt tên là PPLO ( Pleuropneumonia – Like Orgsnisms ).
Ở người, từ năm 1937, Edsarr Va Dienes đã phân lập được Mycoplasma
lần đầu tiên ở tuyến Bartholin và đặt tên là M.hominis.
Trong thú y, sau M.mycoides người ta đã phân lập được các Mycoplasma có
khả năng gây bệnh ở dê, gà, lợn chuột nhắt, chuột cống và chim.
2.2.1 Hình thái.
Mycoplasma là những thực thể hữu cơ nhỏ, không di động, không sinh
nha bào là vì cơ thể sống không có thành tế bào mà chỉ có màng nguyên sinh
chất. Nó là cơ thể sống có khả năng tự nhân đôi, có kích thước nhỏ hơn vi
khuẩn.
Hai đặc điểm khác của Mycoplasma so với các loại vi khuẩn khác là
kích thước genome và thành phần các bagơ nitơ của AND Mycoplasma có cả
AND và ARN, nó mang bộ gen nhỏ nhất trong tất cả cơ thể sống tự do
(khoảng 600 Kb) và có ít nhất hơn 300 gen. Tổng thành phần Guanine và
Cytosine trong AND thấp, ở một số loài tỷ lệ G+C thấp hơn 25 mol % và tỷ
lệ đó phân bố không đều trên bộ gene, có vùng rất cao lại có vùng rất thấp.
Hình thể của Mycoplasma rất đa dạng (hình thoi, hình gậy ngắn hoặc
hình cầu). Hình của Mycoplasma thay đổi tuỳ thuộc vào tuổi canh trung và lệ
thuộc rất nhiều vào các yếu tố môi trường.
Mycoplasma không bắt mầu Gram, rất khó nhuộm vì dễ biến dạng qua
các bước nhuộm, có thể quan sát Mycoplasma bằng kính hiển vi nền đen
hoặc kính hiển vi phải pha nhưng cho kết quả không chắc chắn và do đó rất
ít có ý nghĩa trong công tác chẩn đoán phòng thí nghiệm.
Phần lớn Mycoplasma có lối sống tự do, nó chỉ sống và phát triển
mạnh ở một số vật chủ cụ thể (giải thích nghi hẹp).
2.2.2. Phân loại
Theo Bergey, có 9 loài Mycoplasma gây bệnh cho động vật
Trong phân loại học Mycoplasma thuộc lớp Molli cutes (molli nghĩa là
mềm, cutes nghĩa là da, vỏ bọc).
Số loài Mycoplasma thì nhiều nhưng vì chúng không có thành tế bào nên
chúng không phát triển phong phú được. Cho đến nay, hơn 100 loài gây
bệnh cho người như động vật phân lập, Mycoplasma thuộc lớp Mollicutes.
Hệ thống phân loại của Mollicutes như sau
Lớp Mollicutes
Bộ Mycoplasma tales Acholepkesmaceae
Họ Mycoplasma taceas Spiropkesuatereac Acholepkesmaceae
Giốn
g
Mycoplasma ureaphasma Spirophasma Acholephosma
Và có một số loại gây bệnh cho người.
M.hoministyp1: gây bệnh cho người.
M.hoministyp2:phân lập ở đường sinh dục tiết niệu ở đàn ông.
M.salivarium: phân lập ở nước bọt đường hô hấp trên.
M.fermentoins: phân lập được ở bộ phận sinh dục ở đàn ông.
M.pneumonioe: tác nhân gây viêm phổi không điển hình.
M.oranle hoặc M.pharyngis phân lập được ở khí quản.
Các loài gây bệnh cho động vật như: M. myeoides, M. agalactiac, M.
bovigienitalium, M. Canis, M. Caculosum, M. hyorhinis. M.arthritidis.
- M.hysoynouniae: gây viêm khớp cấp ở lợn 10 tuần tuổi và ở lợn lớn.
- M.hyorhinis: gây viêm màng seraus, viêm khớp mãn tính ở lợn 3 đến 10
tuần tuổi.
M.hyopmenoniae: gây bệnh suyễn lợn.
Khả năng gây bệnh của M.hyopneumoniae gây bệnh viêm phổi tiên phát
điển hình ở lợn (suyễn lợn): Các triệu chứng của bệnh là sốt, ho, sốt nhẹ, ho
khan, khó thở và đau ngực. Xét nghiệm thấy số lượng bạch cầu tăng, tốc độ
lắng máu nhanh. Bệnh xảy ra ở mọi lứa ruổi của lợn nhưng chủ yếu ở lợn
con.
2.2.3. Nuôi cấy
Nuôi cấy phối hợp Mycoplasma rất khó vì nó đòi hỏi chất lượng môi
trường khá cao khuẩn lạc của nó có hình chứng ốp nếp. Mycoplasma có thể
nuôi cấy được trên những môi trường có hoặc không có tế bào sống, trên
phôi gà.
- Ở môi trường không có tế bào : Mycoplasma đòi hỏi những chất dinh
dưỡng đặc biệt như huyết thanh ngựa chửa, chiết xuất men …Nhiều loại
Mycoplasma kỵ khí hoặc hiếu khí tuyệt đối nhưng vẫn có loại kỵ khí tuỳ
tiện. Nhiệt độ tốt nhất để Mycoplasma phát triển từ 35-37
0
C với pH thử 7,0-
7,8.
-Trên môi trường thạch: Chúng có thể tạo nên những khuẩn lọc tròn, nhỏ
bé nuôi lâu khuẩn lọc sẽ lớn dần bề mặt có cấu tạo hạt, giữa có các màu
vàng xung quanh trong (giống hình trứng ốp nếp).
- Trên môi trường thạch máu: Mycoplasma gây bệnh cho người có thể
làm dung huyết thạch máu.
- Trên môi trường dịch thể : Mycoplasma làm vẩn đục môi trường và tạo
thành những kết tủa.
Hình dạng của khuẩn lạc tương đối giống nhau do đó không thể dựa vào
nó mà phân biệt các Mycoplasma khác.
2.2.4. Đặc điểm sinh hoá
- Hai đặc điểm khác của Mycoplasma so với các loại vi khuẩn khác là
kích thước genome và thành phần các bagơ nitơ của AND Mycoplasma có cả
AND và ARN, nó mang bộ gen nhỏ nhất trong tất cả cơ thể sống tự do
(Khoảng 600 Kb) và có ít nhất hơn 300 gene. Tổng thành phần Guanine và
Cytosine trong AND thấp, ở một số loài tỷ lệ G+C thấp hơn 25 mol % và tỷ
lệ đó phân bố không đều trên bộ gene, có vùng rất cao lại có vùng rất thấp.
- Vách của Mycoplasma yếu do đó hình dạng thay đổi. Mycoplasma có
lớp vỏ mỏng rất mềm dẻo có thể ví như màng nguyên tương của các vi
khuẩn khác. Dưới kính hiển vi điện tử có thể quan sát thấy màng nguyên
tương là dạng hạt hoặc dạng lưới với các Ribosom.
- Quá trình nên men của Mycoplasma rất phức tạp và lệ thuộc vào môi
trường.
- Người ta quan sát thấy hiện tượng Sony phân và hiện tượng nảy trồi.
Trong các tế bào nuôi hầu hết các Mycoplasma phát triển trên bề mặt của tế
bào.
2.2.5. Khả năng đề kháng
- Mycoplasma tương đối bền vững khi dùng phương pháp đông băng.
Trong huyết thanh Mycoplasma có thể tồn tại ở 56
0
C ở 2 giờ.
- Mycoplasma dễ bị phá huỷ bị siêu âm và dễ bị tiêu diệt bởi dung dịch có
pH acid hoặc kiềm cao. Tất cả các loài Mycoplasma đề kháng với penicillin.
Mycoplasma bị tiêu diệt ở nhiệt độ 45-55
0
C trong 15 phút. Chúng mẫn cảm
với sự khô cạn, với tia tử ngoại và những chất sát trùng.
2.2.6. Các loại kháng nguyên
Bằng phương pháp hoá học và sắc ký, người tách được ở Mycoplasma
những thành phần hoá học mang tính chất khác nhau. Mỗi thành phần hoá
học có khả năng tham gia vào một phản ứng huyết thanh nhất định. Do đó để
nâng cao độ chính xác của các huyết thanh học trong chẩn đoán, người ta
thường dùng các yếu tố triết xuất đặc biệt, ví dụ: Phản ứng kết hợp bổ thể
người ta dùng các yếu tố triết xuất là lipid; Ở phản ứng kết tủa trong thạch
dùng các yếu tố chiết xuất là polusaccharid.
2.3. Bệnh suyễn lợn (SEP-Swine Enzootic pneumoniae)
2.3.1. Căn bệnh
Là bệnh truyền nhiễm mãn tính, khi lợn nhiễm Mycoplasma hyopnemoniae,
cơ thể gây yếu, ho, khó thở, tiêu tốn thức ăn cao, hiệu quả sử dụng thức ăn
kém.
Tuy tỷ lệ mắc bệnh cao nhưng tỷ lệ chết lại thấp, khi mắc bệnh lợn dễ kế
mắc các bệnh khác.
Bệnh lây từ con này sang con khác, từ chuồng này sang chuồng khác, từ trại
này sang trại khác.
2.3.2. Nguyên nhân gây bệnh
+ Mycoplasma hyopneumoniae
Là nguyên nhân số 1 gây bệnh suyễn lợn, vi khuẩn này cư trú ở phổi lợn
bình thường, khi thời tiết thay đổi hoặc khi điều kiện vệ sinh kém, khi sức đề
kháng giảm thì M. hyopneumoniae tăng độc lực gây bệnh cho lợn mặc dù chỉ
một mình Mycoplasma hyopneumoniae cũng gây được bệnh nhưng nhiều
bệnh khác cũng duy trì và phát triển: Pastcurella, Ttreptococcus,
Staphynococcus, E.Coli, Salmolella.
Ngày nay, người ta cho rằng bệnh do M. hyopneumoniae sẽ trầm trọng
hơn khi kết hợp với một Adenovius ( Kasa,1969 ).M.hyopneumoniae được
tìm thấy chủ yếu ở trong ống khí quản, phế quản lợn. Chúng gây nhiễm ống
hô hấp trên, dính chặt vào lông nhung đường hô hấp làm ngăn chặn chức
năng thu dọn chất nhầy giúp vi khuẩn kế phát xâm nhập dẫn đến làm suy
giảm miễn dịch (Ross và cộng sự).
M.hyopneumoniae gây ức chế sản sinh đại thực bào, làm kiệt quệ đại thực
bào (Clark,Purduc). Khi nhiễm M. hpopneumonia các đại thực bào bị thay
đổi vì thế làm thúc đẩy quá trình nhiễm Pasteurella, PRRS và ngược lại ;
Một số nghiên cứu các nhà khoa học Mỹ chỉ cho rằng: Ở lợn nhiễm
Mycoplasma trước thì cũng làm tăng độ mẫn cảm với PRRS. Theo Ross
(1986), nếu chỉ có Mycoplasma thì triệu chứng lâm sàng không xuất hiện.
Chỉ khi có sự tham gia của Pasteurelia và Bordetella bronchiseptica thì triệu
chứng mới biểu hiện rõ ràng.
+ Vai trò của một số vi khuẩn công phát trong bệnh suyễn lợn.
Pasteurelle multocida :
. Theo Pizoan (1986) việc nhiễm P.multocida ở phổi lợn thường ở vào giai
đoạn cuối của Dịch viêm phổi địa phương hay DVPĐP do Mycoplasma khởi
phát (Mycoplasma induced Respiratory disease syndrome). P.multocida là vi
khuẩn Gram âm hình cầu trục trùng có kích thước 0,5-1μ x 1-2μ là vi khuẩn
không di động, Indol dương tính, Oxydase dương, Urease âm, không mọc
trên môi trường Mac.Conkey, không dung huyết.
Theo Feenstra (1994), Việc M.hyopneumoniae ở lợn là điều kiện có lợi cho
P.multocida xâm nhập vào làm cho bệnh viêm phổi nặng hơn. Viêm phổi do
P.multocida thường là bệnh kế phát của các nguyên nhân gây viêm phổi
khác, mà chủ yếu ho khan, thở thể bụng ở cơ sở chăn nuôi, việc gây bệnh do
P.multocida bao giờ cũng kế phát sau nguyên nhân khác. Khi gây bệnh bằng
M. hyopneumoniae và P.multocida thì bệnh tích trong phổi lại nặng hơn rất
nhiều so với bệnh tích gây ra do Mycoplasma đơn lẻ.
Staphylococcus:
Staphylococcus, cầu khuẩn hình chùm nho, có hình tròn, đường kính
0,7-1μ bắt màu Gram dương, không di động, không sinh nha bào, là vi
khuẩn hiếu khí hay yếm khí không bắt buộc.
Khi nuôi cấy trên thạch máu, phần lớn Staphylococcus có độc lực cao
gây dung huyết, có loại dung huyết hoàn toàn (alpha-α) hoặc dung huyết
không hoàn toàn (beta-β-Hemolysis).
Tính chất của Staphylococcus là Oxydase âm tính, Catalase dương
tính và lên men đường glucose, maltose, lactose, manose, sacharose, không
lên men dulcitol, glycerine, inuline, arabinose, và loại gây bện lên men
manitol.
Staphylococcus tạo ra một số độc tố như: độc tố dung huyết (Hemolysin),
độc tố diệt bạch cầu, độc tố gây hoại tử, độc tố làm chết, độc tố đường ruột.
Ngoài các độc tố trên còn có các nhân tố gây bệnh khác như men đông huyết
tương, chất làm tan tơ huyết, nhân tố khuyếch tán. Thỏ là động vật thí
nghiệm mẫn cảm nhất với Staphylococcus. Staphylococcus aureus thường
phân lập được từ các bệnh phẩm của lợn và trong phổi lợn bệnh cũng thường
gặp các áp se do chúng gây ra.
Klesielle pneumoniae:
Nguyễn Vĩnh Phước (1970), Klesielle do Friedlanda phân lập lần đầu tiên
vào năm 1882 từ phổi của gia súc mắc bệnh viêm phổi. Vi khuẩn là một trực
khuẩn hoặc cầu trực khuẩn có kích thước 0,5-3x0,3-0,5μ, hai đầu tròn, có
khi có hình gậy đứng riêng rẽ hoặc tập hợp thành đôi, có một giáp mô không
di động, không có lông, hình thành nha bào và vi khuẩn bắt màu Gram âm.
Trên môi trường thạch hình thành những khuẩn lạc dạng niêm dịch
(mucoid) lầy nhầy trắng dầy. Trong nước thịt chúng phát triển thành canh
trùng có màng lầy nhầy, thành vòng dính từ đáy ống trở lên. Trong môi
trường gelatin có khuẩn lạc dạng hình đinh, không làm tan gelatin, sinh axit
và làm đông sữa quỳ. Không sinh indol và H
2
S. Hoàn nguyên nitrate thành
nitrite, methyl red âm tính và Vogesproskauer dương tính. Urease âm tính và
Ornithine dương decacgoxylase âm tính.
Trong dịch viêm phổi địa phương do Mycoplasma hyopneumoniae khởi
phát, Klesielle và các vi khuẩn cộng phát khác như: Streptococcus
Staphylococcus, Pasteurelle, Bordetella bromchiseptica có ảnh hưởng lớn
đến việc phát bệnh ở từng cá thể lợn (Blood và cộng sự, 1979) {48} phổi bị
bệnh có màu đỏ thẫm, tụ huyết và cứng khi cắt có dịch xuất hiện ở mặt cắt.
Theo Buddle (1985) thì bệnh tích xuất hiện ở bất kỳ thùy nào của phổi
nhưng ở thùy tim thường gặp nhiều nhất.
Salmonella:
Salmonella gây bệnh cho lợn, ngoài các bệnh tích thấy ở các hệ tiêu hóa
người ta còn gặp bệnh tích ở phổi, phổi trở nên cứng, có tụ huyết lan rộng,
phù huyết ở giữa các thùy phổi và kèm theo hiện tượng xuất huyết. Ngoài ra
còn thấy hiện tượng tăng sinh ở phổi có thể gọi là viêm phổi (Diffuse
interticial pneumonia). Theo Buddle (1985), ngoài hiện tượng tụ huyết, các
tác giả còn thấy hiện tượng nhục hóa ở phổi.
Salmonella là vi khuẩn có hình gậy ngắn, hai đầu tròn, kích thước 0,4-
0,6x1-3μm, không hình thành nha bào, phần lớn di động (trừ Salmonella
gallinarum và Salmonella pullorum). Trên thân có lông (8-12 lông).
Salmonella phần lớn lên men và sinh hơi đường glucose, manose, maltose,
galactose, levulose, arabinose. Phần lớn các loài Salmonella không lên men
lactose và sacharose. Không làm tan chảy gelatin, không thủy hóa urea,
không sinh hơi indol nhưng sinh H
2
S. VP âm tính và MR dương tính.
Haemophilus pleuropneuniae:
Vi khuẩn thuộc giống haemophilus bắt màu Gram âm, có hình dạng của
trực khuẩn hoặc cầu trực khuẩn hoặc hình sợi, phát triển tốt trên môi trường
chocolate hoặc thạch máu. Để phát triển, vi khuẩn cần yếu tố V
(Diphotphopyridine lucieotide). Đa số các chủng gây dung huyết dạng bêta,
urease dương tính, lên men các loại đường như xylose, ribose, glucose,
fructose, manose, sucrose, maltose và manitol.
Bordetella bronchiseptica:
Bordetella bronchiseptica là một trực khuẩn Gram âm, di động, dễ mọc
trên các môi trường thông thường. Trên môi trường Mac. Conkey có 1%
đường glucose, khuẩn lạc có màu xám xanh. Oxydase, catalase và urease
dương tính. Hầu hết các chủng của vi khuẩn này đều gây dung huyết.
Bordetella bronchiseptica là loại ký sinh bắt buộc ở đường hô hấp trên của
lợn và khi có điều kiện thì chúng gây bệnh cho lợn.
2.3.3 Cơ chế sinh bệnh.
- M. hyopnemoniae xâm nhiễm vào đường hô hấp trên của heo
- M. hyopnemoniae tấn công vào hệ thống lông rung
- M. hyopnemoniae gây hư hại cho hệ thống lông rung
- Hệ thống phòng vệ bị suy yếu, các vi sinh vật gây bệnh tấn công và gây
ra hội chứng hô hấp
2.3.4. Sự lây lan và dịch tễ học
- Mycoplasma lây qua tiếp xúc trực tiếp: Nhốt chung heo khoẻ với heo bị
nhiễm bệnh, từ heo mẹ sang heo con.
- Trong thiên nhiên chỉ có loài lợn mắc bệnh suyễn do M.hyopneumonia.
- Lợn mắc ở các lứa tuổi, nhất là lợn con từ 2-5 tháng tuổi.
- Khi thời tiết thay đổi lợn dễ mắc hơn, chuồng trại ẩm thấp, vệ sinh kém
bệnh dễ phát sinh.
- Mùa xuân và mùa đông tỷ lệ mắc bệnh cao hơn các mùa khác.
- Lợn là nguồn lây nhiễm chính bệnh này. Ở những trại chăn nuôi không
có bệnh, cách ly tốt vẫn có thể nhiễm ( theo Gooduvin ), đặc biệt là các trại
lân cận cách xa nhau dưới 3 km.
M. Kobosch,1999 đã kiểm tra trên 4000 phổi lợn thấy 67% phổi lợn bị viêm,
80% mắc bệnh M.pneumonia.
- Việc lây truyền M.pneumonia chủ yếu qua tiếp xúc trực tiếp lợn ốm ho,
thở, hắt hơi truyền mầm bệnh sang lợn khoẻ lợn mang trùng cũng làm gây
bệnh. Bệnh thường kéo dài khó dập tắt và tiêu diệt do lợn ốm khỏi nhưng
vẫn mang trùng.
- Bệnh lây lan mạnh ở các đàn nhập nội, nhữnh lợn chưa bị nhiễm thì tỷ
lệ chết cao hơn.
2.3.5. Triệu chứng
Sau khi nhiễm M.pneumonia từ 7 đến 20 ngày thì triệu chứng đầu tiên
là hắt hơi, ho khó thở. Ho và khó thở là triệu chứng điển hình và kéo dài.
Bệnh biểu hiện dưới 3 thể
* Thể cấp tính
Lợn ăn kém chậm chạp, da xanh hoặc nhợt nhạt, thân nhiệt bình thường
hoặc hơi cao một chút (39-39.5
0
C).
Hắt hơi ho từng hồi lâu do cố đẩy dịch bài tiết ở sâu đường hô hấp
thường ho lúc thời tiết lạnh, lúc vận động. Khi ho con vật mệt mỏi, hiện
tượng ho chỉ kéo dài vài tuần sau đó giảm.
- Sau quá trình ho phổi lợn bị tổn thương dẫn tới hiện tượng thở khó, thở
nhanh và nhiều, thở khò khè, thở từ 60-150 lần /phút. Vật há hốc mồm để
thở, thở như chó ngồi thở, thở dốc bụng thóp lại để thở.
-Tần số hô hấp tăng lên bí tiểu tiện, khi nghe vùng phổi có nhiều vùng hô
hấp im lặng.
-Kiểm tra máu : Hồng cầu tăng để bù lại lượng 0
2
thiếu do tổn thương,
niêm mạc đường hô hấp.
Bạch cầu tăng mạnh: Sự tăng mạch cầu để làm nhiệm vụ tiêu diệt mầm
bệnh - Đại thực bào.
Ở thể này, triệu chứng rõ hay xảy ra chết lợn, nhất là lợn có độ tuổi từ sơ
sinh đến 2 tháng tuổi. Thể cấp tính ít thấy chỉ thấy ở những đàn lợn dễ mắc
bệnh.
* Thể á cấp tính
Thường gặp ở lợn lai, lợn con theo mẹ, lợn mẹ.
Triệu chứng giống như ở thể cấp tính nhưng nhẹ hơn. Ho và khó thở vẫn là
triệu chứng điển hình của lợn khi mắc bệnh ở thể này thân nhiệt tăng.
* Thể mãn tính :Thường nối tiếp ở thể ẩn tính hay hai thể trên sang. Lợn
thịt hay mắc thể này.
Ho, ho từng tiếng một hay từng hồi, tiếng ho như không có cảm giác bật
khỏi cổ họng.
Khó thở tần số hô hấp tăng, nhiệt độ tăng có khi đến 42
0
C. Bệnh ở thể này
kéo dài, lợn gầy rõ rệt, ăn kém, dễ bội nhiễm. Các vi sinh vật gây bệnh khác,
tỷ lệ chết thấp, thường chết do bội nhiễm, trong điều kiện kém bệnh dễ
chuyển sang thể cấp tính.
* Thể ẩn tính.
Thường thấy ở lợn đực giống, lợn vỗ béo. Các triệu chứng ở thể này không
xuất hiện rõ, thỉnh thoảng ho, sinh trưởng giảm, thời gian nuôi heo kéo dài,
lợn mắc ở thể này ít bị chết.
2.3.6. Bệnh tích
- Bệnh tích tập trung ở bộ máy hô hâp và hạch phổi.
Sau khi nhiễm vài ngày, bệnh tích đầu tiên là viêm phổi thuỳ, từ thuỳ tim
sang thuỳ nhọn, từ thuỳ đỉnh sang thuỳ sau, thường viêm ở phần rìa thấp của
phổi. Phổi xuất hiện những chấm đỏ hoặc xám bằng hạt đậu xanh, to dần rồi
tập trung thành từng vùng rộng lớn.
- Khi chụp X Quang thấy bệnh lan từ trước ra sau, theo một quy định
nhất định: Bệnh tích đối xứng giữa hai bên lá phổi, ranh giới rõ giữa các
vùng viêm hoặc không viêm.
- Khi mổ khám thấy: Chỗ phổi viêm cứnglại, màu xám nhạt hay đỏ như
màu mận chín, mặt phổi bang láng, bên trong có chứa chất keo nên gọi là
viêm phổi kính.
Khi bị viêm nặng phổi cứng, đặc lại như bị gan hoá lúc này khi cắt phổi
chỉ còn một ít dịch trắng xám lẫn bọt. Phổi bị nhục hoá, đục màu tro, chắc
khi biểu hiện gan hoá, lúc này cắt miếng phổi thả xuống nước thấy phổi
chìm.
Khi có sự hội nhiễm các vi khuẩn khác, bệnh tích sẽ có đặc điểm riêng
- Về vi thể: Khi bị nhục hoá, thấy phế quản có nhiều bạch cầu đơn nhân
trung tính. Nếu viêm màng phổi thì màng phổi dày nên.
- Hạch lâm ha sưng to gấp 2-5 lần, chứa nhiều nước màu tro, tụ máu.
- Khi ghép với tụ huyết trùng thì phổi bị tụ máu, có nhiều vùng gan hoá
phía sau phổi, hoại tử bã đậu.
- Khi ghép với Streptcoccus thì phổi có mủ.
- Nếu ghép với Bactericou thì cuống phổi viêm có mủ, mủ từng cục hôi
và tanh, màu tro.
2.3.7. Phòng và trị bệnh
a. Đối với những vùng và trại chưa có bệnh
- Thực hiện phương châm không nhập lợn từ ngoài vào. Nếu cần thiết
phải nhập thì chọn những vùng, trại từ trước chưa phát hiện ra bệnh suyễn;
kiểm tra kỹ tình hình sức khỏe chỉ mua; khi đem lợn về phải cách ly 2 tháng
và theo dõi, không phát hiện triệu chứng bệnh mới cho nhập đàn.
- Thường xuyên làm công tác phòng dịch, nếu phát hiện lợn có triệu
chứng ho, thở thì có thể nghi là bệnh suyễn; cách ly ngay, báo cho cơ quan
thú y. Chăm sóc và quản lý tốt đàn lợn mới nhập (vệ sinh chuồng, nuôi
dưỡng).
b. Đối với các trại đã mắc bệnh
- Tuyệt đối không bán lợn, xuất lợn khỏi trại, trường hợp cho đi mổ ở
lò sát sinh thì vận chuyển thẳng từ trại đến lò, đề phòng gieo rắc bệnh dọc
đường.
- Lợn đực giống tốt bị bệnh, tuyệt đối không cho nhảy trực tiếp mà
dùng thụ tinh nhân tạo. Những lợn đực giống kém chất lượng đem nuôi vỗ
béo để thịt.
- Lợn nái đã mắc bệnh thì nên đem vỗ béo để thịt, không dùng sinh
sản. Trường hợp lợn nái giống tốt, phải thực hiện các biện pháp phòng trừ
tổng hợp; nếu sau 5 tháng thấy khỏi về triệu chứng thì có thể dùng sinh sản
bằng thụ tinh nhân tạo, nhưng không được phát giống ra khỏi trại.
- Lợn con do mẹ mắc bệnh phải theo dõi nghiêm ngặt và nuôi lớn để
lấy thịt, thịt bán tại địa phương không dùng để làm giống.
- Thịt lợn bị suyễn có thể dùng ăn được, nhưng phải hủy bỏ hoàn toàn
bộ phổi và các hạch lâm ba phổi.
- Trong thời gian trại đang bị bệnh, không nhập lợn mới. Nếu cần thiết
phải nhập, thì phải để riêng ở một khu vực cách xa đàn lợn cũ tối thiểu 10
mét, có hàng rào kín cao 1 mét.
- Đối với một số lợn còn lại, áp dụng biện pháp phòng trừ tổng hợp.
c. Biện pháp phòng trừ tổng hợp
- Nguyên tắc: Chẩn đoán và phát hiện sớm, cách ly triệt để, bồi dưỡng
quản lý tốt kết hợp với chữa trị.
- Biện pháp chung:
+ Chuồng nuôi: quét dọn sạch sẽ, khô ráo, tránh ẩm ướt. Trời rét phải
có rơm lót, phải giữ cho chuồng ấm, kín gió. Chuồng phải đủ ánh sáng và có
sân vận động. Mỗi ngày cho lợn vận động ít nhất 5 giờ ngoài trời. Trong khi
thả không để lợn ốm, khỏe tiếp xúc với nhau.
+ Tiêu độc: hằng tuần tiêu độc một lần toàn trại. Tất cả dụng cụ, máng
ăn, sau khi dùng phải rửa sạch sẽ và phơi nắng. Thường xuyên quét vôi và
tiêu độc nền với những chất như xút (NaOH)5%, nước vôi 15%, lizôn 3%,
crezin 5%, nước tro 30%.
+ Nuôi dưỡng: cho lợn ăn no đủ, nhiều thức ăn tươi, tăng thức ăn tinh
bột, bột xương, muối và chất khoáng.
+ Dùng thuốc:
Dùng Tylosin: Tylosin dùng liều 20mg/kg thể trọng, tiêm bắp thịt, dùng
liên tục 6 ngày, nghỉ 5 ngày, lại tiếp tục dùng 5 ngày nữa. Kết quả cho thấy
lợn khỏi về lâm sàng; thở bình thường, hết ho, ăn khỏe. Cùng với Tylosin
cần sử dụng thêm các loại thuốc trợ sức: Vitamin B
2
, Vitamin C, cafein…và
chăm sóc nuôi dưỡng tốt.
Theo Nguyễn Ngọc Nhiên (1992) dùng Tylosin kết hợp với
Streptomicin hoặc Kanamicin với liều lượng 30mg/kg thể trọng, chăm sóc,
nuôi dưỡng tốt, cho biết; lợn khỏi bệnh 80 – 90%.
Dùng Tiamulin: Tiamulin là kháng sinh mới có tác dụng diệt
Mycoplasma và các vi khuẩn đường hô hấp khác, dùng với liều lượng 20
mg/kg thể trọng kết hợp dùng Kanamicin với liều lượng 20 mg/kg thể trọng,
Gentamicin với liều 4 đv/kg thể trọng dùng liên tục 6-7 ngày, kết quả khỏi
bệnh lâm sàng 85-90% (Nguyễn Hữu Vũ,1993).
Đối với các cơ sở đã có bệnh suyễn:
- Phân chia lợn thành 3 loại
1. Lợn mắc bệnh có triệu chứng (ho, thở).
2. Lợn nghi mắc bệnh gồm: lợn từ trước đó có ho và thở sau không
thấy ho và thở nữa, lợn đã ở chung hay tiếp xúc với lợn bệnh nhưng chưa
thấy triệu chứng ho và thở; lợn nái không thấy triệu chứng nhưng đẻ thì đàn
lợn con bị suyễn.
3. Lợn khỏe gồm: những lợn từ trước chưa bao giờ phát hiện triệu
chứng ho và thở, sinh trưởng bình thường, lên cân; lợn chưa ở chung với lợn
ốm bao giờ, lợn nái mà con đẻ ra không con nào mắc bệnh.Theo dõi 15 ngày
về triệu chứng, bệnh tích để phân loại.
- Mỗi loại lợn cần được chăm nuôi riêng trong từng khu vực. Quy
định ba khu vực cho ba loại, mỗi khu cách nhau tối thiểu 10m – nếu chia
thành từng cụm thì phải bảo đảm không để lợn khỏe tiếp xúc với lợn ốm.
- Khu vực lợn ốm: chăn nuôi riêng, dụng cụ riêng, bếp riêng, công
nhân phục vụ riêng. Tuyệt đối không được đem những dụng cụ, thức ăn từ
khu vực lợn bị ốm sang khu lợn khỏe, không được đem lợn nái khỏe để lấy
giống ở khu lợn đực ốm hoặc ngược lại. Trong những trại nhỏ nuôi dưới 50
lợn, ít công nhân không đủ điều kiện để chăn nuôi riêng, thì người chăm sóc
lợn phải cho lợn khỏe ăn trước, lợn bệnh ăn sau, mỗi lần ra trại phải tẩy
trùng thay quần áo, giày dép.
- Khu vực lợn khả nghi: cũng tiến hành như khu vực ốm. Khi phát
hiện lợn có triệu chứng thì đưa ngay sang khu vực lợn ốm. Những lợn còn
lại, tích cực điều dưỡng và chữa trị.
- Khu vực lợn khỏe: điều kiện nuôi dưỡng và quản lý như trên.
Thường xuyên quan sát để phát hiện con ốm và đưa sang khu vực lợn ốm;
lợn nghi thì đưa sang khu vực nghi bệnh. Lợn nái mỗi con để một chuồng
riêng, không để lợn con chạy lung tung và tiếp xúc với đàn lợn khác. Cần
theo dõi đàn lợn con có một hai con phát hiện bệnh thì tìm nguyên nhân lây
bệnh. Nếu tiếp xúc phát hiện nhiều con khác trong đàn bị bệnh thì phải đưa
cả mẹ lẫn con đi cách ly vào khu vực ốm.
Kinh nghiệm giải quyết bệnh suyễn lợn tại một số cơ sở chăn nuôi
- Kinh nghiệm phòng trừ tổng hợp tại trại chăn nuôi Lạc Vệ (Hà Bắc).
Tiến hành từ năm 1967 đến năm 1972 với những biện pháp đã sử dụng sau:
- Thải loại những lợn giống xấu, già, những lợn nhiễm bệnh nặng, xử
lý toàn bộ lợn choai, lợn thịt.
- Những lợn đực giống tốt thì theo dõi, cách ly, tăng cường bồi dưỡng,
không cho nhảy trực tiếp mà chỉ lấy tinh.
- Những lợn nái cơ bản thì phân loại, cách ly theo từng loại, từng khu
vực: loại A là tương đối an toàn, loại B là nghi ngờ, loại C đã nhiễm bệnh.
Cách ly từng con, mỗi con một ô chuồng, có dụng cụ chăm sóc riêng.
Thường xuyên theo dõi, phát hiện những lợn có triệu chứng ho, thở để kịp
thời thải loại.
Kiểm tra lợn con bằng cách mổ khám bệnh tích qua ba lứa: những lợn
có triệu chứng lâm sàng, còi cọc, mổ trước; thời gian lợn còn theo mẹ mổ
1/3 số con trong mỗi ổ; số còn lại đến tháng thứ tư và tháng thứ sáu mổ hết.
Nếu thấy lợn có bệnh tích điển hình và thấy lợn có triệu chứng lâm sàng ở
lợn mẹ thì thải loại lợn mẹ.
Qua ba lứa kiểm tra, nếu hai lứa liền lợn con không có bệnh tích và