Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tổng hợp tài liệu ôn thi chủ nghĩa xã hội khoa học theo chuyển đề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.89 KB, 25 trang )

Vấn đề 1: Dân chủ - Con người
Trong chiến lược phát triển KT-XH 2011-2020 (trang 100,
VK ĐH XI) Đảng ta khẳng định: “Mở rộng dân chủ, phát huy tối
đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và
là mục tiêu của sự phát triển”.
Việc mở rộng dân chủ và phát huy tối đa nhân tố con người
trong phát triển được xem là 1 trong 5 quan điểm phát triển và mục
tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020; là 1
trong 10 mục tiêu tổng quát 5 năm (2011 - 2015) và 1 trong 5
nhiệm vụ chủ yếu phát triển đất nước 5 năm 2011 - 2015, để hiểu rõ
quan điểm này của Đảng, chúng ta cùng nhau phân tích bản chất
của chúng trong quá trình phát triển, cũng như, việc xây dựng và
phát huy những nhân tố này trong ngày nay như thế nào?
Khái niệm, bản chất của dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa:
Để hiểu rõ bản chất của dân chủ chúng ta phải hiểu khái niệm dân
chủ là gì?
Dân chủ là một chế độ chính trị mà bản chất là sự chuyên chính
của giai cấp này đối với giai cấp khác; đồng thời cũng thừa nhận về
mặt pháp lý quyền bình đẵng giữa các công dân trong việc xác định cơ
cấu nhà nước và quản lý nhà nước.
Dân chủ luôn luôn có nội dung xác định trong mỗi thời đại với
những giai cấp tầng lớp cụ thể. Sự khác nhau giữa chế độ dân chủ này
với chế độ dân chủ khác là ở chỗ: nhân dân là ai, ai trong nhân dân có
thực quyền và quyền đó được thể chế chính trị nào bảo đảm.
Bản chất của dân chủ tư sản và dân chủ XHCN là khác nhau. Dân
chủ tư sản là một trong những hình thức chính trị của nhà nước tư sản,
còn dân chủ XHCN là một trong những hình thức chính trị của nhà
nước XHCN, bắt nguồn từ chính bản chất của chế độ XHCN. Cái cốt
lõi của nền dân chủ XHCN đã được xác định, đó là quyền lực của
nhân dân. Tất cả các công dân đều có quyền tham gia vào công việc
của nhà nước. Dân chủ XHCN đồng nghĩa với tính chủ động sáng tạo


của quần chúng nhân dân hết sức rộng rãi. Hệ thống dân chủ của
CNXH xây dựng trên những điều kiện mới của sự phát triển lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất
Dân chủ XHCN là nền dân chủ khác hẳn về bản chất và đối lập về
nguyên tắc với dân chủ tư sản. Đó là chế độ dân chủ “gấp triệu lần”
hơn bất cứ chế độ dân chủ nào trong lịch sử như V.I.Lênin từng khẳng
định. Thực thi dân chủ sai nguyên tắc, vô nguyên tắc đều là trái với lí
tưởng của cách mạng, với bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa, có thể
dẫn đến hậu quả khó lường. Xa rời những nguyên tắc của chủ nghĩa xã
hội, thì việc dân chủ hóa sẽ trượt sang dân chủ phi xã hội chủ nghĩa và
đồng nghĩa với việc thủ tiêu chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn cho thấy, bản
chất tốt đẹp và tính ưu việt của nền dân chủ nước ta ngày càng thể hiện
sinh động trong cuộc sống hằng ngày của quần chúng nhân dân. Kể từ
khi khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam), các tầng lớp nhân dân lao động Việt
Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức đứng
lên làm chủ, tự mình tổ chức, cai quản và xây dựng xã hội mới. Đó là
thành tựu vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Chế độ dân chủ ở nước ta,
xét về bản chất, là một thể chế chính trị mà trong đó quyền lực chính
trị - xã hội thuộc về nhân dân; là chế độ bảo đảm quyền làm chủ trên
thực tế của nhân dân trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa,
tinh thần; phát huy cao độ tính tích cực sáng tạo của nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản và thông qua Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Quyền làm chủ của nhân
dân không chỉ thể hiện trong các văn bản hiến pháp, pháp luật, mà
ngày càng được thể hiện sinh động trong cuộc sống hằng ngày.
Văn kiện ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định:
“Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu
vừa là động lực của sự phát triển đất nước…”
Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về con người:

Theo quan điểm của CN Mác-Lênin, con người có những đặc
điểm sau:
- Con người vừa là một thực thể tự nhiên có cấu trúc sinh học, vừa
là một thực thể xã hội mang bản chất xã hội. Nói đến bản chất “thực
thể tự nhiên” của con người là nói đến tiền đề vật chất, nói đến nhu cầu
ăn uống, đi lại, hoạt động của cơ thể sống con người. Tuy nhiên đặc
trưng cơ bản riêng có của con người là bản chất xã hội. Con người
phát triển cao hơn các con vật khác là nhờ thông qua quá trình lao
động. Nhờ tác động của tự nhiên và xã hội mà con người ngày càng
được phát triển nâng lên về mọi mặt, nhờ đó mà những hành vi có tính
sinh vật, tình cảm bản năng của con người đang mang tính xã hội, tình
người khác hẳn ở con vật. Con người là sự thống nhất biện chứng giữa
mặt vật chất và mặt tinh thần, giữa mặt sinh học và mặt xã hội.
- Con người với tư cách là những cá nhân độc lập nhưng luôn sống
trong mối quan hệ xã hội của cộng đồng, như cộng đồng dân tộc, cộng
đồng giai cấp, cộng đồng nhân loại… Nói đến cá nhân là nói đến trình
độ phát triển của con người cả về thể chất, nhân cách. Mác luôn phê
phán tình trạng kìm hãm sự phát triển của cá nhân, phê phán tình trạng
biến con người thành những đồng danh không có bản sắc riêng.
- Con người vừa mang tính thời đại, vừa mang tính lịch sử. Con
người bao giờ cũng gắn liền với một thời đại - “thời đại nào, con người
đó”. Trong mỗi thời đại, con người có một hệ tiêu chí riêngtrong đó
con người là tiêu điểm phản ánh trình độ văn minh của thời đại đó.
Mỗi thời đại có một mẫu người riêng, đặc trưng cho thời đại đó. Tuy
nhiên con người của thời đại mới bao giờ cũng được hình thành bắt
đầu từ những giá trị truyền thống được kết tinh trong lịch sử dân tộc,
đất nước. Con người mang tính lịch sử bởi vì nó vừa có kiến thức
những giá trị tích cực, tinh hoa của quá khứ đồng thời vừa mang
những hạn chế, tiêu cực của quá khứ. Để hiểu rõ bản chất con người
mới, con người XHCN, xét trong mối quan hệ biện chứng thì tính thời

đại và tính lịch sử có quan hệ gắn bó với nhau, nói cách khác con
người là sự đồng nhất biện chứng giữa yếu tố thời đại và yếu tố lịch
sử.
- Con người vừa là sản phẩm của lịch sử, đồng thời vừa là chủ thể
sáng tạo ra lịch sử. Trong tiến trình phát triển của lịch sử, con người lại
qui định bởi các mối quan hệ xã hội, đồng thời thông qua hoạt động
thực tiễn con người thúc đẩy xã hội phát triển tiến lên. Con người luôn
là mục tiêu, đồng thời luôn là năng lực của tiến trình cách mạng theo
hướng tiến bộ. Có hiện thực hóa được vấn đề đó thì cách mạng mới
dành được thắng lợi. “Tất cả vì con người” đó là mục tiêu mà mỗi hoạt
động XH con người đều phải hướng tới, phải luôn được cải thiện
không ngừng về điều kiện vật chất và tinh thần, được đối xử bình
đẳng, được sống tự do để hoạt động sáng tạo, nâng cao ý thức và năng
lực làm chủ cá nhân, khi đó con người sẽ phát huy tích cực, tạo thành
động lực thực hiện mục tiêu cách mạng.
Tóm lại, chủ nghĩa Mác-Lênin đã đặt ra và giải quyết vấn đề
con người một cách nhất quán, triệt để. Chủ nghĩa Mác-Lênin là
học thuyết giải phóng con người, tôn vinh con người, con người ở
đây là con người chủ thể sáng tạo ra lịch sử, là giá trị xã hội, văn
hóa cao nhất trong các giá trị vật chất tinh thần của lịch sử.
Thực trạng và việc mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố
con người ở nước ta hiện nay
Hơn tám thập kỷ qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đồng hành gắn bó
máu thịt với dân tộc và có nhiều bài học rút ra, trong đó mở rộng dân
chủ là bài học đến bây giờ vẫn còn tươi mới. Chỉ có mở rộng dân chủ
mới phát huy được sức mạnh của Đảng và của toàn dân tộc, nhất là
trong những giai đoạn, thời khắc khó khăn, trước những thử thách lớn
lao.
Nguyên tắc tổ chức cao nhất của Đảng là tập trung dân chủ. Phát
huy dân chủ, tôn trọng dân chủ để Đảng sẵn sàng vượt lên chính

mình, chiến thắng chính mình, giữ vững nguyên tắc nhưng không bị
khuôn cứng. “Tập trung” đảm bảo cho “dân chủ” phát huy đúng
hướng, không sa vào dân chủ kiểu vô Chính phủ, thích gì làm nấy.
Dân chủ để mọi cán bộ, đảng viên và từng người dân có cơ hội
đóng góp, cống hiến trí lực cho Đảng, nhưng dân chủ phải trên
cơ sở tập hợp trí tuệ vì lợi ích chung. Nhờ mở rộng dân chủ, sau khi
giành được độc lập và thống nhất đất nước, Đảng đã lãnh đạo nhân
dân đạt được những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới. Diện
mạo đất nước thay đổi căn bản và toàn diện, đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân ngày càng được cải thiện. Vị thế nước ta trên trường
quốc tế không ngừng được nâng cao, sức mạnh tổng hợp của quốc gia
tăng lên gấp bội. Những thành tựu đó tạo cơ sở vững chắc đưa nước ta
2
ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại trong thập kỉ tới.
Văn kiện ĐH XI của Đảng khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ
nghĩa có tiến bộ… Đảng và nhà nước tiếp tục đề ra nhiều chủ
trương, chính sách nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ, bảo
đảm lợi ích của nhân dân, vai trò giám sát của nhân dân đối với
hoạt động của các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức”. Tuy nhiên, không để thành tựu che
khuất tầm nhìn, Đảng ta nhận định đây chính là giai đoạn, thời
khắc khó khăn với những thời cơ song hành cùng thách thức, cần
mở rộng dân chủ thực sự để thu hút và sử dụng được nhiều nhân
tài, tập hợp trí và lực của toàn Đảng toàn dân đưa đất nước vững
vàng trong những bước đi sắp tới. Đảng cũng thẳng thắn nhận
thấy còn những yếu kém trong công tác lãnh đạo, trong đó có
những nơi những lúc chưa phát huy được dân chủ thực sự. Tại ĐH
XI, Đảng cũng đã thẳng thắn nhìn nhận những hạn chế, khuyết
điểm đó là: “Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một

vài lĩnh vực còn bị vi phạm. Việc thực hiện dân chủ còn mang tính
hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất
đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội.”
Ví dụ như trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, thực tế đã
chứng tỏ nhiều nơi không có án tham nhũng không phải là không
tham nhũng. Tham nhũng như những bóng đen lởn vởn, như “tảng
băng chìm” trong đời sống kinh tế xã hội, nhưng có thể nhận diện
ở bất cứ nơi nào, lĩnh vực nào, nếu dân chủ được mở rộng thực sự,
phát huy được tối đa tiếng nói của nhân dân trong phát hiện, đấu
tranh chống tham nhũng.
Do đó, để mở rộng dân chủ thì trước hết phải thực thi dân chủ
trong Đảng bằng cơ chế thông tin kịp thời, chính xác. Đối với từng
đảng viên phải luôn luôn phấn đấu học tập, cầu tiến bộ, đồng thời rèn
giũa nhân cách, dũng khí để xứng đáng đứng trong hàng ngũ tiên
phong. Bản thân mình không đủ trình độ thì làm sao lắng nghe để hiểu
và tập hợp được trí tuệ của tập thể, càng không thể mở rộng ra để thấu
hiểu quần chúng nhân dân, không thể phát hiện được người tài để bồi
dưỡng, trọng dụng.
Song song mở rộng dân chủ, Đảng ta cũng tập trung phát huy tối
đa nhân tố con người. Quán triệt những quan điểm của CN Mác-Lênin
và TTHCM về vấn đề con người, Đảng ta luôn coi con người là mục
tiêu, là nhân tố quyết định của công cuộc CNH-HĐH đất nước. Dựa
trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người, trong tiến
trình cách mạng Đảng ta đã từng bước đề ra mục tiêu xây dựng con
người XHCN ở nước ta. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH được ĐH VII thông qua xác định con người mới
XHCN, đó là con người có ý thức làm chủ, có ý thức trách nhiệm công
dân, có tri thức, sức khỏe và lao động giỏi, sống có văn hóa và tình
nghĩa, giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính. Con người
XHCN là sản phẩm của mối quan hệ KT-XH của xã hội XHCN, nó

từng bước hình thành trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội cùng với
quá trình phát triển KT-VH-XH.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng định: “Con
người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát
triển….”, và trong Chiến lược phát triển KT-XH giai đoạn 2010 -
2020, Đảng ta xác định: “Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố
con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu
của sự phát triển” điều này cho thấy rằng con người có ý nghĩa quyết
định và quan trọng nhất. Nhân tố con người là tổng thể các yếu tố
thuộc về thể chất và tinh thần, về trình độ chuyên môn, về tay nghề, về
phẩm chất đạo đức, về vị thế xã hội… tạo nên năng lực của con người
mà năng lực đó nếu biết phát huy sử dụng tốt, nó sẽ trở thành động lực
to lớn thúc đẩy xã hội phát triển. Nhân tố con người ở đây là muốn nói
đến và nhấn mạnh khía cạnh quan trọng nhất của con người: đó là hoạt
động của con người, là vai trò, sức mạnh của con người đối với quá
trình phát triển KT-XH của đất nước. Nhân tố con người được xem là
nhân tố quyết định trong 4 nguồn lực của sự phát triển, bởi vì để có thể
phát huy, khai thác tốt các nguồn lực về tài nguyên, vị trí địa lý và vốn
3
thì đều phải thông qua con người - tức là nguồn lực (nhân tố) con
người.
Như vậy, nhân tố con người là nhân tố trọng tâm, là xuất phát
điểm, là nhân tố bao trùm lên các nhân tố khác trong quá trình phát
triển. Nếu chúng ta biết khai thác, phát huy tối đa nhân tố con người
thì sẽ đem lại sự tiến bộ, phát triển cho nhân loại và cho đất nước.
Phát huy nhân tố con người là làm bộc lộ phát hiện, khai thác, sử
dụng và bồi dưỡng mọi tiềm năng của con người vì mục đích phát
triển của chính bản thân con người và vì tiến bộ xã hội. Vì vậy thực
chất của việc phát huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay là nâng

cao chất lượng cuộc sống cho con người và phát huy vai trò của nó
cho sự nghiệp phát triển KT-XH của đất nước.
Để phát huy vai trò nhân tố con người ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay, Đảng ta đã đề ra một số phương hướng chủ yếu sau:
- Một là, xây dựng và thực hiện một chính sách XH đúng đắn và
phù hợp vì lợi ích của con người, do con người hay vì hạnh phúc con
người. Trên cơ sở lấy con người làm mục tiêu của sự phát triển, mọi sự
phát triển phải xoay quanh con người chứ không phải con người xoay
quanh mọi sự phát triển. Khi nói con người có vai trò to lớn, không
phải là khai thác không có định hướng mà phải trên cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng con người, tạo ra môi trường sống lành mạnh, tôn trọng bằng
cách phát triển nét độc đáo ưu điểm của từng cá nhân.
- Hai là, Phát triển nền KT hàng hóa nhiều thành phần có sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, nền KT đó phải đảm bảo
vừa là phương thức nền tảng để phát huy vai trò khai thác nhân tố con
người có hiệu quả nhất, vừa là điều kiện để mỗi cá nhân bộc lộ những
khả năng, năng khiếu của mình. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành giúp giải phóng mọi sức SX, mọi tiềm năng của xã hội, sự quản
lý của Nhà nước nhằm đảm bảo các cá nhân khai thác tốt nhất các tiềm
năng đó của đất nước, đồng thời tạo điều kiện cho con người lao động
sáng tạo, năng động hơn, phát triển KHKT, từ đó tác động trở lại phát
triển con người. Nhưng cũng cần phải luôn lưu ý, nền kinh tế hàng
hóa có mặt trái của nó và là nguyên nhân làm hạn chế việc nâng cao
hiệu quả phát triển con người. Nó làm cho con người dễ chạy theo lối
sống thực dụng, coi trọng đồng tiền. Vì vậy, nhà nước cần phải có sự
kiểm tra, kiểm soát, điều tiết kịp thời làm hạn chế những nảy sinh tiêu
cực trong cơ chế thị trường.
- Ba là, Xây dựng Nhà nước pháp quyền vững mạnh, bảo đảm
cuộc sống an toàn cho mọi người và an ninh cho xã hội. Ngăn chặn và
trừng trị có hiệu quả những hành vi xâm phạm đến tài sản, phẩm giá

của từng cá nhân trong cộng đồng; bảo vệ người lao động, trừng trị
những người vì lợi ích trước mắt của cá nhân mình mà làm tổn hại đến
sức khỏe người khác; đồng thời thực hiện dân chủ hóa trên mọi lĩnh
vực đời sống xã hội, đảm bảo người dân thực sự làm chủ xã hội của
mình theo đúng tiêu chí: Nhà nước của dân, do dân và vì dân; chống
tham ô, tham nhũng; thực hiện công bằng xã hội nhất là về mặt phân
phối lợi kinh tế.
- Bốn là, Thực hiện cuộc cách mạng XHCN trên lĩnh vực văn hóa
tinh thần, tạo điều kiện xây dựng cho người lao động có một đời sống
tinh thần lành mạnh, phong phú. Trong phát triển kinh tế thì phải lấy
văn hóa làm mục tiêu phát triển. Quan tâm đổi mới giáo dục, đào tạo,
nâng cao dân trí, đào tạo tay nghề, đào tạo nhân tài và thực hiện tốt
việc chăm lo sức khỏe của con người, chăm lo đời sống tinh thần nhân
dân.
- Năm là, xây dựng và thực hiện giá trị, thang bậc giá trị của người
lao động trong đời sống xã hội để khuyến khích các cá nhân hoạt động
tích cực, sáng tạo; nhằm thực hiện việc phân phối một cách tốt nhất,
hạn chế thái độ ỷ lại, trông chờ hay lao động không chân chính.
Tóm lại, “mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người;
coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát
triển” Đây là một trong những quan điểm phát triển quan trọng của
Đảng ta và để quan điểm này đạt hiệu quả như đã đề ra thì trong giai
đoạn cách mạng hiện nay, ngoài việc nghiên cứu một cách khoa học
CN Mác-Lênin và TTHCM, thì việc đề ra và tổ chức thực hiện các
giải pháp nhằm mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người có
ý nghĩa vừa cấp bách, vừa cơ bản, để khơi dậy những tiềm năng to lớn
của con người nói chung, trong đó có nhân tố con người, tạo ra những
4
điều kiện động lực cho quá trình phát triển KT-XH trong thời kỳ
CNH, HĐH đất nước hiện nay./.

(2)

Văn kiện ĐH XI của Đảng khẳng định đi lên xây dựng
CNXH: “là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh
phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một
thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ
chức kinh tế, xã hội đan xen.” (trích VKĐH XI của Đảng – trang 70)
Xã hội Cộng sản chủ nghĩa là giai đọan phát triển cao nhất
trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, trong đó xã hội XHCN là
giai đoạn đầu. Từ thực tiễn sinh động của hơn 25 năm tiến hành đổi
mới đất nước, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng, con đường
phát triển lên CNXH bỏ qua CĐTBCN ở Việt Nam hiện nay là sự vân
dụng đúng đắn, sáng tạo CN Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Với Việt Nam, con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ TBCN là con đường phát triển tất yếu, khách quan, hợp qui
luật. Và về thực chất, đó là con đường phát triển rút ngắn theo phương
thức quá độ gián tiếp nhằm tạo ra sự biến đổi về chất của CNXH trên
tất cả các lĩnh vực, nhằm phát triển nhanh lực lượng sản xuất và xây
dựng nền kinh tế hiện đại. Như Bác Hồ cho rằng, tiến lên CNXH bỏ
qua chế độ TBCN là không trải qua giai đoạn phát triển TBCN, và với
trình độ phát triển của Việt nam thì đó là tiến dần dần, từ từ, từng bước
một, từ dân chủ nhân dân lên CNXH với nhiệm quan trọng nhất là “
xây dựng nền tảng vật chất kỹ thuật của CNXH…, cải tạo nền kinh tế
cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và
lâu dài” ( Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 1996,
t.10, trang 13). Vì vậy trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã nêu rõ: “Đây là một
quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái
cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh

vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ
lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế,
xã hội đan xen.” (Trích cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (phát triển, bổ sung năm 2011). NXB
Chính trị quốc gia - 2011 . trang 14).
Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến CM sâu sắc
toàn bộ các lĩnh vực đời sống của XH, tạo ra những tiền đề vật chất và
tinh thần cần thiết để hình thành một XH mà trong đó những nguyên
tắc căn bản của XH, XHCN sẽ được thực hiện. Thời kỳ này bắt đầu từ
khi giai cấp công nhân giành được chính quyền nhà nước cho đến khi
XHCN đã tạo ra được những cơ sở của mình trong các lãnh vực của
đời sống XH.
Qúa độ lên CNXH là một tất yếu lịch sử, bởi vì CNXH – giai
đoạn đầu của hình thái KT – XH CSCN không thể tự phát ra đời trong
lòng XH cũ. CNTB dù phát triển ở trình độ cao chỉ cũng tạo ra những
tiền đề vật chất cho sự ra đời của CNXH, còn bản thân công cuộc xây
dựng CNXH phải thông qua quá trình đấu tranh gian khổ của GCCN
và nhân dân lao động nhằm giành lấy chính quyền nhà nước và sử
dụng bộ máy nhà nước của mình để cải tạo Xh cũ, xây dựng XH mới
từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng.
Các nhà sáng lập CNXH KH đã nêu ra hai kiểu quá độ lên
CNXH : Qúa độ trực tiếp từ CNTB lên CNXH và quá độ gián tiếp từ
XH tiền TBCN lên CNXH. Dù là trực tiếp hay gián tiếp đều phải trãi
qua một quá trình gay go, phức tạp, lâu dài. Ở mỗi nước do những
điều kiện lịch sử, kinh tế, XH khác nhau mà độ dài ngắn của thời ký
quá độ có khác nhau. Cần phải có một thời kỳ quá độ lâu dài để đổi
mới nền sản xuất XH. Cần có thời gian mới thay đổi căn bản trong
mọi lãnh vực của đời sống XH và phải trãi qua một cuộc đấu tranh
quyết liệt mới có thể thắng được sức mạnh to lớn của thói quen quản
lý theo kiểu tiểu tư sản và tư sản.

Quá độ lên CNXH ở mỗi nước có những nét đặc thù do điều
kiện lịch sử cụ thể đất nước đó. Nhiệm vụ của các ĐCS và nhân dân
mỗi nước là vận dụng nguyên lý phổ biến của CN Mac – Lênin về thời
kỳ quá độ lên CNXH vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể phù hợp với đặc
điểm và truyền thống quý báu của nước mình đồng thời tận dụng các
ưu thế của thời đại để định ra mục tiêu tổng quá, phương hướng và
bước đi thích hợp nhằm thực hiện thành công bước quá độ đi lên
5
CNXH. Lênin viết: Tất cả các dân tốc đều sẽ đi lên CNXH, đó là điều
không tránh khỏi nhưng các dân tộc tiến tới CNXH không phải hoàn
toàn giống nhau, mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức
này hay loại khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp
độ khác của việc cải tạo XHCN đối với các mặt khác nhau của đời
sống XH .
Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH: đặc điểm nổi bậc
nhất là những nhân tố của XH mới và tàn tích của XH cũ tồn tại đan
xen lẫn nhau, đấu tranh trên mọi lãnh vực của đời sống kinh tế, chính
trị, văn hoá, XH, tư tưởng, tập quán trong XH …biểu hiện dưới dạng
cái cũ còn tồn tại những bộ phận, những mãng, những tàn dư (của XH
cũ bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hoàn toàn) xen kẻ với cái mới
nảy sinh đã ra đời nhưng chưa hoàn chỉnh, còn non yếu. Lênin nhấn
mạnh tính tự phát tiểu tư sản và tính kỷ luật của giai cấp vô sản là một
trong những đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ. Thời kỳ quá độ là
thời kỳ cải biến CM toàn diện, vừa cải tạo, vừa xây dựng diễn ra trên
tất cả các lĩnh vực của đời đới sống XH để củng cố, phát triển CM và
để hình thành về căn bản XH XHCN. Thời kỳ quá độ là thời kỳ đấu
tranh GC quyết liệt, gay go, phức tạp diễn ra trên tất cả mọi lĩnh vực .
Với những đặc điểm trên, có thể hiểu rằng thời kỳ quá độ là
thời kỳ lâu dài, khó khăn toàn diện và là khó khăn tất yếu, bao gồm
khó khăn khách quan và chủ quan đòi hỏi GCCN phải biết phân biệt,

bình tĩnh và chủ động khắc phục. Thể hiện cụ thể:
Về chính trị: Cái bản chất nhất thời của thời ký quá độ là sự
quá độ về chính trị, ở đó nhà nước chuyên chính vô sản được thiết lập,
củng cố và ngày càng hoàn thiện.
Về kinh tế: đó là một nền kinh tế nhiều thành phần. Trong
thời kỳ này, bên cạnh các thành phần kinh tế XHCN còn có những
thành phần kinh tế khác, trong đó có cả những thành phần kinh tế tư
bản tư nhân. Gắn liền với các thành phần kinh tế là cơ cấu XH với
nhiều giai tầng có lợi ích căn bản khác nhau thậm chí đối lập nhau.
Về mặt XH: Trong thời kỳ này còn có sự khác biệt cơ bản
giữa thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền núi, lao động trí óc và
lao động chân tay, vấn đề bình đẳng và công bằng XH cần phải được
xác lập dần dần.
Về mặt VH – Tư tưởng: Bên cạnh lối sống , nền VH mới
vừa hình thành còn tồn tại những tàn tích của nên VH cũ, lối sống cũ,
tư tưởng lạc hậu, thậm chí phản động gây cản trở không nhỏ cho con
đường đi lên CNXH của các dân tộc sau khi mới được giải phóng.
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN:
Tính tất yếu khách quan của con đường đi lên CNXH ở VN
được thể hiện ở cả hai mặt lý luận và thực tiễn.
-Về lý luận : xuất phát từ qui luật chung về sự phát triển của
lịch sử loài người trãi qua các hình thái KT – XH mà Đảng ta lãnh đạo
đất nước tiến lên CNXH là phù hợp với quy luật. Chúng ta đều biết
loài người đã từng trãi qua các hình thái KTXH khác nhau (CSNT,
CHNL, PK, CNTB và tương lai là CSCN). Hiện nay trên thế giới
chúng ta đang ở thời kỳ quá độ từ CNTB sang CNCS. Mỗi hình thái
KTXH sau ra đời trên cơ sở kế thừa phát huy những ưu điểm của hình
thái KTXH trước nó nhưng trước khi xuất hiện hình thái KTXH
CSCN, thì các hình thái trước đó dựa trên chế độ tư hữu về TLSX, cội
nguồn của giai cấp và áp bức, bất công giai cấp. Chuyển hình thái

KTXH là chuyển từ PTSX cũ sang PTSX mới tiến bộ hơn. PTSX
CSCN dựa trên nền tảng công hữu về TLSX chủ yếu, điều kiện đầu
tiên để thủ tiêu áp bức, bóc lột giữa giai cấp thống trị với giai cấp bị
trị. Đưa đất nước đi lên CNXH sau khi giành độc lập dân tộc, đó là
Đảng ta đã căn cứ vào qui luật khách quan của sự phát triển XH loài
người như lịch sử phát triển của giới tự nhiên.
Quy luật chung về sự phát triển của XH loài người không phải
ở bất cứ thời điểm nào, trên bất kỳ quốc gia nào cũng đều diễn ra
giống nhau, mà lịch sử loài người đã từng chứng kiến có những nước
phát triển bỏ qua một hoặc hai hình thái KTXH chứ không theo một
trình tự nhất định. Như vây, qui luật chung ấy đã vận dụng vào những
điều kiện cụ thể của một đất nước cụ thể trong một giai đoạn cụ thể để
trở thành những quy luật đặc thù. Mà VN ta là một trong những nước
đó:
6
- Về cơ sở thực tiễn: nước ta có nền kinh tế lạc hậu, nhưng có
ĐCS VN lãnh đạo, có khối liên minh công – nông vững chắc và được
sự giúp đỡ của các nước XHCN cho nên quá độ lên CNXH ở VN là
một tất yếu lịch sử. Nước ta quá độ lên CNXH không qua chế độ.
TBCN là sự chọn lực thích hợp với đặc điểm tình hình của đất nước và
quy luật phát triển của lịch sử. Thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ
CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới, VN lựa chọn con đường
đi lên CNXH là phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta đến năm 1930 các
phong trào cứu nước của nhân dân ta từ phong trào Cần Vương đến
các phong trào theo lập trường tiểu tư sản, qua khảo nghiệm đều lần
lượt thất bại. Từ năm 1930 dưới ngọn cờ lãnh đạo của ĐCS, nhân dân
ta đã phát huy cao độ truyền thống anh hùng bất khuất, chiến đấu
không ngại hy sinh gian khổ, ròng rã gần nữa Thế Kỷ để giành độc lập
thống nhất cho tổ quốc hoàn thành cơ bản nhiệm vụ của cuộc CM

DTDC nhân dân. Bài học kinh nghiệm đầu tiên của thắng lợi là “nắm
vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH”. Nhân dân ta chiến đấu hy
sinh không chỉ cốt giành được độc lập dân tộc mà còn vì cuộc sống tự
do hạnh phúc theo lý tưởng XHCN.
Sau khi hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ của cuộc CM DTDC
nhân dân, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta chuyển sang thực hiện nhiệm
vụ quá độ lên CNXH, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân và
thuận theo chiều hướng phát triển của lịch sử. Ngọn cờ độc lập dân tộc
và CNXH đã động viên được sức mạnh của toàn dân đồng thời tranh
thủ được sự ủng hộ rộng rãi và có hiệu quả của quốc tế tiêu biểu là sự
ủng hộ và giúp đỡ của các nước XHCN. Sự giúp đỡ ủng hộ đó đã tạo
điều kiện thuận lợi để nhân dân ta hoàn thành nhiệm vụ của cuộc CM
dân tộc DC nhân dân và đang quá độ lên CNXH.
Hiện nay không có sự giúp đỡ của các nước XHCN tiên tiến
thì chúng ta có đứng vững được không và có đi lên CNXH được
không? Chúng ta có cơ sở khoa học tin tưởng rằng con đường đi lên
CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta cả trong điều kiện hiện nay
vẫn là tất yếu và có khả năng thực hiện là vì:
Một là, Kế thừa truyền thống và những kinh nghiệm CM đã
tích luỹ, trãi qua thử nghiệm tìm tòi, qua việc phát huy trí tuệ của toàn
Đảng, toàn dân, Đảng ta đã xây dựng được đường lối đổi mới đúng
đắn, hình thành những nét chủ yếu quan niệm về XH XHCN mà nhân
dân ta xây dựng và con đường xây dựng CNXH ở nước ta. Công cuộc
đổi mới là do Đảng chủ trương và tổ chức thực hiện mấy năm qua đã
thu được thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng. Nhờ có đường lối
đổi mới đúng đắn, đất nước đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng KT- XH
để từng bước vượt qua đói nghèo tiến lên giàu mạnh, nhân dân có cuộc
sống ấm no hạnh phúc.
Hai là, Đội ngũ cán bộ Đảng viên tuy có bộ phận thoái hoá
biến chất, giảm ý chí chiến đấu nhưng số đông vẫn là những người

trung thành với sự nghiệp CM, trung thành với đường lối của Đảng, có
ý chí biến đường lối đó thành hiệnthực. Nhiều người đã trãi qua rèn
luyện gian khổ mấy chục năm chiến đấu họ gắn bó cuộc đời với Đảng
với dân tộc và chế độ. Điều quan trọng là Đảng ta đoàn kết trung thành
với sự nghiệp CM vững vàng về chính trị có khả năng lãnh đạo đất
nước đối phó với những khó khăn thử thách trong thời đại mới .
Ba là, Nhân dân ta có truyền thống yêu nước nồng nàn, ý chí
tự cường,tự chủ dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý chí cộng đồng gắn kết cá
nhân- gia đình- làng xã- tổ quốc thành một khối thống nhất, tin tưởng
vào sự lãnh đạo của Đảng, lao động cần cù, thông minh và sáng tạo.
Bốn là, VN là một nước có 86 triệu dân, nhân lực dồi dào, tài
nguyên đa dạng. Nhân dân ta đã xây dựng CNXH được mấy chục
năm đã bước đầu xây dựng được cơ sở CT- KT- XH của CNXH. Điều
quan trọng là đã từng bước tìm ra con đường đúng đắn đi lên CNXH.
Những bài học kinh nghiệm thành công cũng như thất bại của CNXH
thế giới và của bản thân giúp chúng ta có thêm kinh nghiệm để khắc
phục những khó khăn mà chúng ta đang trải qua là vấn đề thiếu vốn,
thiếu công nghệ, kiến thức quản lý để xây dựng CNXH nguồn vốn ấy
trước hết phải tự ta tạo ra từ các nguồn trong nước, kết hợp với mở
rộng quan hệ quốc tế, với chính sách đối ngoại đúng đắn, đa phương
hoá, đa dạng hóa cho phép chúng ta có thể thu hút vốn đầu tư, khoa
học- công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ nước ngoài.
7
Năm là, Sự lãnh đạo của Đảng ta, một Đảng giàu tinh thần
cách mạng gắn với quần chúng là nhân tố vô cùng quan trọng. Trong
những thời điểm phong trào XHCN, phong trào CS và công nhân
quốc tế có sự khủng hoảng, chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Aâu
sụp đỗ, Đảng ta vẫn vững vàng lãnh đạo nhân dân ta thực hiện đường
lối đổi mới vượt qua sự khủng hoảng kinh tế- xã hội đưa công cuộc
xây dựng CNXH và bảo vệ đất nước của nhân dân ta tiến lên một cách

vững chắc.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh: Cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn
cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều
nước. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình
thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển. Hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn; nhưng đấu tranh
dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung
đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ,
khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và cạnh tranh
quyết liệt về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp. Khu vực châu Á -
Thái Bình Dương và Đông Nam Á phát triển năng động, nhưng cũng
tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định. Tình hình đó tạo thời cơ phát triển,
đồng thời đặt ra những thách thức gay gắt, nhất là đối với những nước
đang và kém phát triển.
Trong quá trình hình thành và phát triển, Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa khác đã đạt những thành tựu to lớn về nhiều mặt, từng là
chỗ dựa cho phong trào hoà bình và cách mạng thế giới, góp phần
quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ
là tổn thất lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, nhưng một số
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, vẫn
kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới, giành được
những thành tựu to lớn, tiếp tục phát triển; phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế có những bước hồi phục. Tuy nhiên, các nước theo
con đường xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và cánh tả còn gặp
nhiều khó khăn, các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm cách xoá
bỏ chủ nghĩa xã hội.
Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản
chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn

cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất
xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu
tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà
ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn
tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và
cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ
nghĩa tư bản.
Các nước đang phát triển, kém phát triển phải tiến hành cuộc đấu
tranh rất khó khăn, phức tạp chống nghèo nàn, lạc hậu, chống mọi sự
can thiệp, áp đặt và xâm lược để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia,
dân tộc. Nhân dân thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp
bách có liên quan đến vận mệnh loài người. Đó là giữ gìn hoà bình,
đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi trường và
ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế sự bùng nổ về dân số,
phòng ngừa và đẩy lùi những dịch bệnh hiểm nghèo Việc giải quyết
những vấn đề đó đòi hỏi sự hợp tác và tinh thần trách nhiệm cao của
tất cả các quốc gia, dân tộc.
Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước
với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa
hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc.
Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách
thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hoá của
lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Trên cơ sở lý luận và tổng kết thực tiễn, Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011)
đã xác định:
Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây
dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến
trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để

8
nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh,
hạnh phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra
sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện
đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân ta
cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát
huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức,
quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau đây:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với
phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Hai là, phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, xây
dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội. Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội. Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực
hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân
tộc thống nhất. Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh.
Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó,
phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan
hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định
hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và
xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và

bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội
nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ; Không phiến diện, cực đoan, duy ý chí.
Tóm lại, Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử sự
phát triển xã hội loài người là qúa trình phát triển từ hình thái
kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác. Sự ra
đời và tồn tại của một chế độ xã hội trong một giai đoạn lịch
sử nhất định là do sự tác động của quy luật khách quan. Sự
thay thế xã hội này bằng một xã hội khác văn minh và tiến bộ
hơn cũng là một tất yếu lịch sử. Loài người đã trải qua 4 hình
thái kinh tế - xã hội và đang quá độ lên hình thái kinh tế - xã
hội thứ năm: hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Nước ta bỏ qua chế độ TBCN quá độ lên CNXH là sự lựa chọn có
tính chất lịch sử phù hợp với lợi ích dân tộc và nhân dân, phù hợp với
xu thế phát triển của thời đại. Con đường đi lên CNXH là con đường
duy nhất đúng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản đã lựa
chọn cho dân tộc Việt Nam. Đó cũng là mục tiêu không thay đổi của
cách mạng nước ta. Song CNXH là gì và Việt Nam đi lên CNXH
bằng cách nào thì qua mỗi thời kỳ cách mạng chúng ta mới có được
những nhận thức ngày càng đầy đủ hơn và sâu sắc hơn. Nhưng trải
qua hơn 25 năm đổi mới đất nước, thực tiễn phong phú và những
thành tựu thu được trong tiến trình cách mạng đã cho phép chúng ta
một lần nữa khẳng định con đường đi lên CNXH là hoàn toàn đúng
đắn. Vì thế Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Đi lên chủ
nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng
đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”./.
(6) VKĐHĐBTQ lần X của Đảng đã khẳng định “Đại
đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân

với giai cấp nông dân và đôi ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, là đường lối chiến lươc của cách mạng VN; là nguồn sức
mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo
đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xd và bảo vệ Tổ quốc.” Trích
VKĐHĐBTQ lần X . NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 2006, tr116)
9
Bằng lý luận và thực tiễn, đồng chí hãy phân tích và làm rõ luận
điểm trên.

Lý luận về liên minh công, nông với các tầng lớp lao động
khác mà nồng cốt là liên minh GCCN, nông dân và tầng lớp trí thức
thuộc về hệ thống lý luận khoa học và cách mạng của CN Mác- Lênin.
Trên cơ sở lý luận đó, đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng
đúng đắn và sáng tạo lý luận Mác- Lênin về liên minh công nông và
các tầng lớp lao động khác vào hòan cảnh nước ta, góp phần quan
trọng hòan thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cả nước
cùng tiến hành cách mạng XHCN và quá độ lên CNXH. Nhận thức
đúng đắn và thực hiện tốt mối liên minh công nhân, nông dân và tầng
lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH sẽ góp phần to lớn trong
việc ổn định và phát triển kinh tế -XH, từng bước xây dựng đất nước ta
đi lên CNXH. VKĐHĐBTQ lần X của Đảng đã khẳng định “Đại
đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đôi ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, là đường lối chiến lươc của cách mạng VN; là nguồn sức
mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo
đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xd và bảo vệ Tổ quốc.” Trích
VKĐHĐBTQ lần X . NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 2006, tr116)
Trước hết, xin trình bày vị trí, vai trò của giai cấp công nhân,
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội:

GCCN : CNTB ra đời đã đánh dấu một bước tiến vĩ đại về sự
lớn mạnh của lực lượng sản xuất đặt nền tảng cho nền sản xuất đại
công nghiệp và sản sinh ra những công nhân đại diện cho lực lượng
sản xuất tiến bộ. ở XH tư bản, GCCN là cơ sở cho sự giàu có của XH,
họ bị bóc lột nên hiện thân của họ biểu hiện cho sự bình đẳng của XH,
họ có trách nhiệm xóa bỏ giai cấp tư sản để giải phóng mình, giải
phóng XH.
Được sản sinh và rèn luỵên từ nền sản xuất đại công nghiệp
nên GCCN là giai cấp tiên tiến nhất có tinh thần cách mạng triệt để
nhất, có tính tổ chức kỷ luật cao, là giai cấp đại biểu cho lực lượng sản
xuất mới cao hơn tiến bộ hơn giai cấp tư sản. Sự tiên tiến của GCCN
là biết vạch đường lối, có khả năng vận động và tập hợp các giai cấp
khác cùng bị áp bức bóc lột đấu tranh chống lại giai cấp tư sản, và qua
các cuộc đấu tranh ấy nhận thức được XH, hình thành các ý thức giai
cấp. Song, để đấu tranh đi đến thắng lợi hòan tòan, GCCN có chính
đảng tiên phong của mình là đảng cộng sản, lảnh đạo GCCN đấu tranh
giành chính quyền và tiến hành cuộc cách mạng đối với XH tư bản,
xây dựng XH XHCN, tức là tạo những điều kiện xây dựng XH cộng
sản, một XH không có giai cấp. đó là yêu cầu khách quan sứ mệnh
lịch sử của GCCN.
Ở XH VN, khái niệm GCCN, được các nhà nghiên cứu về
GCCN chấp thuận đưa ra là: ”GCCN VN là cộng đồng XH những
người làm công ăn lương nguồn thu nhập chủ yếu bằng tiền công; trực
tiếp tham gia vào quá trình sản xuất công nghiệp; nắm giữ những cơ sở
kỹ thuật then chốt của XH và tiêu biểu cho phương thức sản xuất tiên
tiến cho XH”. Như vậy, GCCN VN bao gồm những người lao động
chân tay và trí óc làm việc trong môi trừơng công nghiệp, vận tải, xây
dựng, nông lâm, trường; những người làm việc trong các cơ sở dịch vụ
kỹ thuật công nghiệp, kể cả các tổ chức khoa học ứng dụng công
nghệ, không phân biệt thành phần kinh tế.

Nhìn chung, khái niệm về GCCN đều thống nhất ở chổ là
người nắm giữ một số ngành sản xuất vật chất cơ bản XH, cung cấp
cho XH sản phẩm công nghiệp tiêu dùng, nghành công nghiệp còn có
khả năng trang bị cho các ngành sản xuất và tiêu dùng các phương tiện
họat động, tạo điều kiện cho các nghành chức năng thực hiện tốt chức
năng của mình. Khái niệm trên cho thấy, khi XH ngày càng phát triển
thì đội ngũ GCCN ngày càng trưởng thành lớn mạnh, trình độ ngày
càng nâng cao, GCCN càng có vị trí quan trọng trong việc cải tạo thế
giới cũ, xây dựng thế giới mới.
GCCN là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ,
đại diện cho lượng sản xuất XH hóa ngày càng cao; lợi ít của nó thống
nhất với lợi ít cơ bản và lâu dàicủa nhân dân lao động và các dân tộc;
đấu tranh xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ lỗi thời, đấu tranh không chỉ giải
phóng mình mà còn giải phóng cho tất cả nhân lọai cần lao. Song, điều
10
quan trọng là GCCN có hệ tư tưởng tiến bộ là và lý luận cách mạng
khoa học của Chủ nghĩa Mac-Lênin; là lãnh tụ chính trị, là đảng viên
tiên phong lãnh đạo phong trào cách mạng. Vì vậy, trong tất cả các
giai cấp đối lập với giai cấp tư sản chỉ cóGCCN là giai cấp duy nhất có
khả năng tập hợp,đòan kết và lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động
trong cuộc đấu tranh xóa bỏ CNTB xây dựng CNXH.
G/c nông dân: Khác với GCCN, giai cấp nông dân là những
người lao động sản xuất nhỏ trong nông nghiệp(bao gồm cả lâm
nghiệp, ngư nghiệp ), một mặt họ là người lao động, mặt khác họ là
những người tư hữu nhỏ và do tính chất tư hữu nhỏ nên họ dễ bị giai
cấp tư sản lôi kéo. đồng thời, khi chưa có sự tác động của nền công
nghiệp hiện đại và nông nghiệp nông thôn thì phương thức sản xuất
của nông dân có tích chất phân tán, lạc hậu, năng suất lao động thấp. tư
tưởng của giai cấp nông dân thường lệ thuộc vào hệ tư tưởng của giai
cấp thống trị XH đương thời,họ không có hệ tư tưởng độc lập. Trong

cách mạng XHCN. Khi chưa giác ngộ thì lập trường tư tưởng của
nông dân không kiên định, dễ dao động. Nhưng qua quá trình tham gia
đấu tranh cách mạng họ từng bước hình thành ý thức giác ngộ XH,
giác ngộ giai cấp. đồng thời, giai cấp nông nhân là một giai cấp có cơ
cấu không thuần nhất, gồm nhiều thành phần có địa vị và lợi ít khác
nhau, trong cách mạng XHCN họ sẽ từng bước khắc phục đuợc những
sự khác nhau đó. vì vậy, nếu không quan tâm đến lực lượng nông dân
thì trước bước ngơặc của lịch sử, họ dễ bị lôikéo bởi các tầng lớp khác
chống phá cách mạng.
Ở nhiều nước, nông dân vẫn chiếm số đông, họ là lực lượng
đông đảo nhất trong XH , nông dân thường gắn bó cội nguồn dân tộc,
có ý thức dân tộc sâu sắc, có truyền thống yêu nước và lực lượng có
khoa học có khả năng cách mạng to lớn. do đặc điểm riêng cacù giai
cấp nông dân không thể tự giải phóng mình và giải phóng tòan XH, họ
phải liên minh với GCCN mới có thể đánh đổ giai cấp tư sản, giải
phóng triệt để cho giai cấp mình. Ở VN, từ khi có Đảng Cộng Sản
lãnh đạo, nông dân là lực lượng cách mạng đông đảo nhất, có tinh thần
cách mạng quật khởi. Đấu tranh buất khuất và có nhiều đống góp lớn
lao trong sự nghiệp cách mạng của đảng và dân tộc vì độc lập tự do
của tổ quốc, vì CNXH.
Tầng lớp trí thức: Trí thức là tầng lớp XH đặc biệt của bộ
phận lao động trí óc, là người có trình độ học vấn cao, am hiểu sâu
rộng lĩnh vực trí tuệ của mình. Trí thức xuất thân trong tất cả các giai
cấp các tầng lớp XH, họ có họat động trong tất cả các nghành sản xuất,
các lỉnh vực đời sống. lợi ít của trí thức gắn bó với lợi ít của giai cấp
mà họ phục vụ, vì vậy xét trên tòan thể tầng lớp trí thức không có sự
đối lập trực tiếp đối với lợi ít của giai cấp tư sản trong XH TBCN. Do
đó tầng lớp trí thức cũng không có hệ tư tưởng độc lập. phương thức
lao động của trí thức là lao động trí tuệ cá nhân. sản phẩm của họ là
những khoa học trí thức sáng tạo, những giá trị tinh thần. có tác động

trực tiếp đến năng xuất, chất lượng và hiệu quả của mọi qui trình sản
xuất vật chất. nhưng do phương thức lao động đặt trưng nhất của trí
thức là lao động trí tuệ cá nhân, nên trí tức không thể là đại biểu cho
một phương thức sản xuất tiên tiến mà trong đó lực lượng sản xuất
mang tính “XH hóa” cao, họ không thể là lượng lảnh đạo XH trong
cuộc đấu tranh xóa bỏ XH tư Bản để xây dựng CNXH và CNCS.
Ở VN, quá trình hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, trí
thức vẫn luôn là đại diện cho trí tụê của dân tộc. lịch sử nước ta ghi
nhận những tấm gương lớn có nhiều nhà trí thức như: Trần Hưng Đạo,
nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thì Nhậm, Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền…. Ngày nay, trong thời đại
mới, một đội ngũ trí thức mới của nước ta đã trưởng thành cùng phong
trào cách mạng. họ là những người đã trải qua thử thách, tôi luyện
trong đấu tranh lâu dài dân tộc, xây dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc
VN XHCN.
Như vậy, giai câp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức là những lực lượng lao động sản xuất, lực lượng chính trị – xã hội
với những đặc điểm, vai trò xác định. Nhưng cácnh mạng dân tộc dân
chủ nhân dân và cách mạng XHCN không thể thành công ở những
nước nông nghiệp nếu ba lực lượng đó tách rời nhau, không được tổ
chức lại, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của giai cấp công nhân thông qua
đảng cộng sản. Do đó vấn đề “ liên minh giai cấp” là yêu cầu khách
11
quan của sự nghiệp cách mạng chung của giai cấp công nhân, giai câp
nông dân và tầng lớp trí thức trong quá trình giải phóng con người và
xã hội khỏi chế độ tư hữu, áp bức bóc lột; tính tất yếu của liên minh
công- nông – trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH được thể hiện đó
là:
Một là, Tính tất yếu về kinh tế- kỹ thuật: để xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội phải nâng cao trình độ kinh tế kỹ thuật và xây

dựng cơ sở vật chất kinh tế cho CNXH do đó tất yếu phải liên minh
công nông trí thức và liên minh các ngành công nghiệp, nông nghiệp
và khoa học – công nghệ.
Hai là, Tính tất yếu chính trị- xã hội: Trong một nước nông
nghiệp đại bộ phận là nông dân vấn đề liên minh công –nông và tầng
lớp trí thức vừa là tất yếu khách quan, vừa là vấn đề mang tính chiến
lược. Liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức là yêu cầu
khách quan của quá trình xây dựng CNXH :Đó là sự thống nhất những
lực lượng chính trị – xã hội cơ bản của cách mạng, là nền tảng vững
chắc của nhà nước XHCN, đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công
nhân, là điều kiện quyết định thắng lợi của công cuộc cải tạo và xây
dựng CNXH.
Trong lý luận cũng như trong thực tiễn, khối liên minh Công-
Nông-Trí thức có tầm quan trọng trong chiến lược, sách lược, nó
là qui luật phổ biến. Vai trò của khối liên minh này được biểu
hiện trên 3 mặt:
Một là, xây dựng và củng cố khối liên minh này thực chất là
xác lập và củng cố được vai trò lãnh đạo của Đảng đối với toàn
XH và chỉ trên cơ sở liên minh này thì Đảng mới giữ được vai
trò lãnh đạo trong XH.
Hai là, khối liên minh này có vai trò quyết định trong việc
giành và giữ chính quyền, bảo vệ Tổ quốc, nó là nền tảng của
chuyên chính vô sản, tạo ra sức mạnh của chuyên chính vô sản.
Ba là, khối liên minh này là động lực to lớn trong xây dựng chủ
nghĩa XH, là nền tảng KT của chế độ mới. Vì xây dựng chủ nghĩa XH
phải xây dựng trên hai địa bàn là nông thôn và thành thị, xây dựng trên
hai ngành công nghiệp và nông nghiệp, do đó phải ứng dụng khoa học
kỹ thuật để phát triển công nghiệp và nông nghiệp. Đây là mối quan hệ
tay ba gồm công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức nhằm tạo ra động
lực to lớn về phát triển KT XH.

Từ việc xác định rõ vị trí , vai trò của giai cấp công nhân, nông
dân, tầng lớp trí thức và tính tất yếu và vai trò của liên minh công –
nông – trí trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, Việt
Nam đang tiến hành công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong bối
cảnh hiện nay, tình hình thế giới đang có những biến động hết sức
phức tạp và nhanh chóng. Việc giữ vững khối đoàn kết toàn dân để
đưa đất nước vượt qua thách thức là điều rất quan trọng. Do đó, tăng
cường đoàn kết toàn dân để chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, giữ vững
độc lập dân tộc và thành quả cách mạng là trách nhiệm hết sức nặng nề
của toàn Đảng, toàn dân ta. Để làm được điều đó trước hết phải xác
định rõ vị trí vai trò của GCCN, nông dân và tầng lớp trí thức Việt
nam trong thời kỳ hiện đại hoá đất nước và củng cố vững chắc khối
liên minh công nông này; trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt nam
thì vai trò của liên minh giữa GCCN, nông dân và tầng lớp trí thức là
yêu cầu khoa học khách quan của cách mạng XHCN được thể hiện
như:
Thứ nhất, về Liên minh công - nông: Trong lý luận và thực
tiển về cách mạng và liên minh giai cấp, chủ nghĩa mac-Lênin khẳng
định rằng GCCN nếu tiến hành đấu tranh cách mạng một cách đơn
độc chống giai cấp tư sản thì sẽ thất bại. ngược lại nếu GCCN liên kết
khoa học liên minh được với đại đa số quần chúng lao động chủ yếu là
giai cấp nông dân giữ vững vai trò cách mạng thì cách mạng sẽ hòan
tòan thắng lợi, thực tiển cách mạng Pháp (1848-1850) và công xã Paris
(1871) đã chứng minh điều này với sự thất bại của GCCN. đến cách
mạng tháng 10-1917, do xây dựng được khối liên minh công nông nên
cách mạng đã giành được thắng lợi. Xây dựng và củng cố liên minh
công nông thật chất là xác lập và củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng
cộng Sản. Chính khối liên minh công nông là lực lượng hùng hậu của
cách mạng đồng thời là liên minh với các tầng lớp lao động khoa học

12
là nhằm tăng cường sức mạnh và trí tuệ đảm bảo cho giai cấp vô sản
giành và giữ chính quyền.
Ở nước ta, qua thực tiển cách mạng. Chủ Tịch Hồ chí Minh đã
rút ra cách mạng đúng đắn rằng chỉ có khối liên minh công nông do
GCCN lãnh đạo mới có thể kiên quyết và triệt để để đánh đổ các thế
lực phản cách mạng, giành lấy và cũng cố chính quyền của nhân dân
lao động, hòan thành nhiệm vụ lịch sử của cách mạng dân tộc dân chủ
và tiến lên CNXH” Ngày nay, liên minh công nông không còn là lý
thuyết, mà nó trở thành thực tiển sinh động. Nó được thử thách và tôi
luyện ngày càng vững chảy trong bảo táp cách mạng. cũng như theo
định hướng xây dựng XHCN, và là một nhân tố quyết định thắng lợi
của cách mạng.
Thứ hai, về Liên minh công nhân -trí thức: Cùng với liên
minh công nông, liên minh với tầng lớp trí thức cũng là một yêu cầu
khoa học khách quan đối với sự nghiệp cách mạng của GCCN. nếu
GCCN và đảng của nó lôi kéo, lãnh đạo được trí thức, phát huy tài
năng trí tuệ của họ vào mọi công việc của cách mạng thì cách mạng
mới có thể phát triển nhanh chóng, đỡ phải tổn thất do thiếu trí thức
khoa học. Văn kiên Đại hội Đảng lần VII của Đảng cộng sản VN đã
khẳng định: GCCN nếu không có đội ngũ trí thức của mình và bản
thân công - nông không được nâng cao trí thức thì không thể xây dựng
được CNXH. Đảng cũng đã xác định: “khoa học và công nghệ, giáo
dục và đào tạo phải được xem là quốc sách hàng đầu” trong sự nghiệp
và xây dựng CNXH ở nước ta. Song chúng ta cũng nhìn nhận rằng,
đối với trí thức mặc dù có lúc, đã khơi dậy và phát huy được lòng yêu
nước, đã đoàn kết được tầng lớp trí thức trong mặt trận dân tộc thống
nhất. Hơn thế nữa, ngay từ đầu cũng như về sau này, không ít nhà trí
thức dân tộc đã trở thành người lãnh đạo của Đảnh và nhà nước.
Ngày nay để củng cố và phát triển khối liên minh Công-

Nông-Trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa XH ở nước ta,
Đảng ta đã có đường lối, chủ trương, chính sách và biện pháp cụ
thể mà nội dung cụ thể của nó đã được thể hiện trên các mặt
chính trị, KT, văn hóa, XH. Nhưng trong nội dung chủ yếu và cơ
bản nhất: là nội dung KT của liên minh. Vì vậy là nội dung cơ
bản quyết định nhất, là cơ sở KT vững chắc để đảm bảo lợi ích
cho khối liên minh. Vì vậy, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
XH ở nước ta, vấn đề liên minh Công-Nông-Trí được thể hiện
các nội dung liên minh cơ bản như sau:
Một là, nội dung chính trị của liên minh. Mục đích là nhằm
mang lại lợi ích chính trị cho đối tượng liên minh, là mang lại
quyền làm chủ chính trị cho đối tượng liên minh. Yêu cầu của
vấn đề liên minh chính trị là phải đứng trên lập trường của giai
cấp công nhân, phải đặt được sự lãnh đạo của Đảng cộng sản,
nhằm củng cố đổi mới hoàn thiện hệ thống chính trị, nhất là hệ
thống chính trị ở cơ sở và đảm bảo, bảo vệ vững chắc Tổ quốc
XHCN.
Hai là, nội dung KT của liên minh là giải quyết đúng đắn các
lợi ích KT của các giai tầng và lợi ích cho toàn XH. Các lợi ích
KT này cơ bản là thống nhất nhưng nó luôn nảy sinh ra những
mâu thuẫn cần phải phát hiện và giải quyết đúng đắn trong điều
kiện cụ thể để đảm bảo lợi ích KT cho các giai tầng này trong
khối liên minh. Mác nói: “KT là động lực gốc của mọi vấn đề”.
Ba là, nội dung XH của liên minh: mục đích là mang lại lợi
ích, quyền lợi có tính chất XH của đối tượng liên minh. Yêu cầu
phải thực hiện mục tiêu tất cả vì con người vì lợi ích của con
người, vì sự nghiệp giải phóng con người và XH. Phải đảm bảo
công bằng, bình đẳng XH đồng thời thực hiện tốt chính sách XH,
nâng cao dân trí …
Qua hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt

được những thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng vượt qua
những khó khăn, thử thách nghiêm trọng, giữ vững sự ổn định và
đẩy nhanh được nhịp độ phát triển KT XH, tăng cường ổn định
chính trị và thực hiện có kết quả nhiều đổi mới quan trọng về hệ
thống chính trị, tạo được một số chuyển biến tốt về mặt XH, phát
triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, đưa nước ta ra khỏi khủng
hoảng KT XH chuyển sang một thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Thành tựu đó là kết quả
của sự nỗ lực, phấn đấu của giai cấp công nhân, giai cấp nông
13
dân, tầng lớp trí thức, và sự đoàn kết liên minh giữa giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức và tất cả các
tầng lớp nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt nam. Mục tiêu dân giàu nước mạnh XH công bằng, dân chủ
văn minh tiến lên chủ nghĩa XH và những tiến bộ thực tế trong
đời sống KT XH đã tạo nên sự gắn bó liên kết chặt chẽ giữa giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.
Trong giai đoạn CM hiện nay, đất nước ta đã và đang
thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước đây là thời kỳ mới của sự liên
minh Công-Nông-Trí thức. Liên minh Công-Nông-Trí thức là
vấn đề chiến lược của CM Việt Nam nói chung, trong công cuộc
đổi mới nói riêng. Chính vì vậy, để phát huy sức mạnh của khối
liên minh công, nông và trí thức, VKĐH XI của Đảng tiếp tục
xác định những nội dung, phương hướng cần quan tâm đối với
khối liên minh như sau:
Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp
công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị,
trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công
nghiệp, kỷ luật lao động, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp

hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Phát huy vai trò của giai cấp
công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng, thông qua đội tiên phong là
Đảng Cộng sản Việt Nam; sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật
về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp,
cải thiện điều kiện nhà ở, làm việc để bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của công nhân.
Xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp nông dân, chủ thể
của quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nâng cao trình độ
giác ngộ của giai cấp nông dân, tạo điều kiện để nông dân tham gia
đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Hỗ trợ, khuyến khích nông dân học nghề,
chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và áp dụng tiến bộ khoa học,
công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân chuyển sang làm công
nghiệp và dịch vụ. Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông
thôn; thực hiện có hiệu quả bền vững công cuộc xoá đói, giảm nghèo,
làm giàu hợp pháp.
Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp
ứng yêu cầu phát triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng
trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở
đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng đáng những cống hiến của trí thức.
Có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước. Coi trọng vai trò
tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa
học trong việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước
và các dự án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Gắn bó mật thiết giữa
Đảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Đảng và Nhà nước.
Tóm lại, Vấn đề liên minh GCCN, nông dân và tầng lớp trí
thức là nòng cốt của khối đại đoàn kết dân tộc, là chỗ dựa chủ yếu của
Đảng và nhà nước, sự liên minh này chính là động lực chủ yếu để phát
triển đất nước, thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân nhằm thực hiện

thành công công cuộc xây dựng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Đó không phải là ý muốn chủ quan mà là một tất yếu khách
quan do điều kiện lịch sử kinh tế XH quy định và cho phép làm điều
đó cũng như do yêu cầu cách mạng đòi hỏi phải làm như vậy. Muốn
có khối liên minh đó ngày càng phát huy được tác dụng mạnh mẽ, thì
Đảng và nhà nước phải kịp thời ban hành và thực thi các chính sách
nhằm tăng cường sự thống nhất về lợi ích giữa các giai cấp đồng thời
phải coi trọng lãnh đạo, xây dựng và kiện toàn các tổ chức của nó, làm
cho các tổ chức đó thực sự là chỗ dựa tin cậy của hội viên, đoàn viên,
là chỗ dựa vững chắc của Đảng và nhà nước trong nền kinh tế thị
trường theo định hướng XHCN./.
(4): “Gia đình là tế bào của xã hội, nơi duy trì nòi giống, là môi
trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách
con người, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp, chống
lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.” (trích Chỉ thị 49 của Ban Bí thư ngày
14
21/2/2005 về xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước). Bằng lý luận và thực tiễn. Đồng chí hãy phân tích và làm
rõ luận điểm trên.
Trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt Nam được hình thành và
phát triển với những chuẩn mực giá trị tốt đẹp góp phần xây dựng bản
sắc văn hoá dân tộc. Những giá trị truyền thống quý báu như lòng yêu
nước, yêu quê hương, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, thuỷ chung, hiếu
nghĩa, hiếu học, cần cù và sáng tạo trong lao động, bất khuất, kiên
cường vượt qua mọi khó khăn, thử thách đã được gia đình Việt Nam
gìn giữ, vun đắp và phát huy trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và
giữ nước. Qua nhiều thời kỳ phát triển, cấu trúc và quan hệ trong gia
đình Việt Nam có những thay đổi, nhưng chức năng cơ bản của gia
đình vẫn tồn tại và gia đình vẫn là một nhân tố quan trọng, không thể

thiếu trong sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Từ xưa đến nay,
gia đình vẫn được coi là tế bào của xã hội, là nhân tố tích cực thúc đẩy
sự phát triển của xã hội thông qua việc thực hiện các chức năng: Tái
sản xuất ra con người, sức lao động và của cải vật chất, tinh thần đáp
ứng nhu cầu cho các thành viên trog gia đình và cho xã hội. Gia đình
có vai trò đặc biệt quan trọng việc giữ gìn, phát huy và truyền thụ
những giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc từ đời này sang đời khác,
giữ gìn bản sắc con người Việt Nam một cách bền vững. Chính vì
vậy, trong Chỉ thị 49 của Ban Bí thư về xây dựng gia đình thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước khẳng định: “Gia đình là tế
bào của xã hội, nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan trọng hình
thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và
phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội,
tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.” (trích Chỉ thị 49 của Ban Bí thư ngày 21/2/2005 về xây dựng
gia đình thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước).
Cách mạng XHCN làm thay đổi tất cả mọi lĩnh vực của đời
sống XH, trong đó cả đời sống gia đình, xây dựng gia đình VH mới là
mục tiêu cụ thể của cách mạng XHCN, nhằm mục đích mang lại cuộc
sống ấm no hạnh phúc cho từng gia đình, đồng thời là động lực thúc
đẩy sự nghiệp xây dựng CNXH. Hồ chủ tịch đã nói: rất quan tâm đến
gia đình là đúng, vì nhiều gia đình cộng lại mới thành XH, XH tốt thì
gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, hạt nhân của XH là gia
đình.
Gia đình là tế bào của XH, là đơn vị nhỏ nhất đầu tiên của con
người, trong đó con người gắn bó với nhau bởi các mối quan hệ hôn
nhân (vợ, chồng) và huyết thống (cha mẹ và con cái). Giữa xã hội và
gia đình có mối quan hệ biện chứng; xã hội tốt thì gia đình càng tốt.
Gia đình tốt thì xã hội mới tốt; gia đình mang bản chất xã hội sâu sắc.
Gia đình là sản phẩm của xh. Những điều kiện kinh tế- xã hội

trong một giai đoạn lịch sử nhất định nó qui định tính chất và kết cấu
của gia đình. Gia đình là một yếu tố năng động, nó không bao giờ
đứng nguyên một chổ, mà chuyển từ hình thức thấp lên hình thức cao
khi xã hội phát triển từ một giai đoạn thấp lên một giai đoạn cao.
Gia đình là một trong những nhân tố quyết định sự tồn tại và
phát triển của XH loài người. Không có gia đình thì không có lịch sử
phát triển của xã hội, còn xã hội loài người thì còn gia đình. Bất cứ XH
nào muốn tồn tại và phát triển đều phải cần đến 2 lọai sản phẩm : Một
là, phải SX ra thức ăn, vật dụng và những công cụ cần thiết để SX ra
những thứ đó - tức là SX ra tư liệu tiêu dùng và tư liệu SX; hai là SX
ra con người để duy trùy nồi giống và tái SX lực lượng lao động cho
XH. Gia đình là chức năng tái tạo ra con người, tái tạo ra sức lao động
đã tham gia ngay từ đầu vào cả hai quá trình sản xuất đó.
Sự vận động và phát trịển của mọi XH, suy cho đến cùng là do
sự phát triển của LLSX quyết định, trong đó con người lao động là yếu
tố đóng vai trò quyết định gia đình là dưới chức năng tái SX ra lực
lượng lao động XH, là cái nôi nuôi dưỡng cho cả đời người, là môi
trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách con
người. Vì vậy, gia đình có vị trí và vai trò rất quan trọng đối với sự tồn
tại và phát triển của XH. Mặt khác, dưới hình thức kết cấu và tính chất
của gia đình cũng là những nhân tố tác động đến sự phát triển của mỗi
thành viên trong gia đình, đến LLSX của XH. Do đó gia đình là nhân
tố tác động quan trọng đến vận động và phát triển của XH.
15
Gia đình là khâu trung gian nối liền giữa mọi thành viên trong
gia đình với xã hội. Nhiều thông tin về xã hội tác động đến con người
thông qua gia đình và ngược lại. Bởi vì: Mỗi con người trong xã hội
đều là thành viên của gia đình, được sinh ra và trưởng thành từ một gia
đình nhất định. Sự tồn tại và phát triển của xã hội được phản ánh vào
sự tồn tại và phát triển củagia đình. Vì vậy có thể xem gia đình chính

là hình ảnh thu nhỏ của xã hội. Gia đình là tổ ấm thân yêu đối với mỗi
người. Nổi bất hạnh lớn nhất của con người là cảnh “vô gia cư”, gia
đình tan nát, hoặc nhgèo đói khốn cùng. Câu danh ngôn: Tất cả mọi
kho báu trên trái đất này không có gì sánh được bằng hạnh phúc gia
đình đã khẳng định vị trí, tầm quan trọng của gia đình.
Trong các chế độ XH khác nhau, vị trí và vai trò tác động của
gia đình đối với XH cũng có sự khác nhau; vấn đề này biểu hiện ở sự
biến đổi về cơ cấu và các chức năng của gia đình luôn gắn liềnvới sự
thay đổi về kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia. Ở nước ta, sau thành
công của cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời, đánh dấu một thời kỳ mới trong quá trình phát triển xã
hội của dân tộc ta. Quyền bình đẳng nam, nữ và chế dộ hôn nhân một
vợ, một chồg được nhà nước công nhận và quy địh tại Hiến pháp đầu
tiên của nước ta vào năm 1946 và trong luật hôn nhân và gia đình năm
1959 thể hiện sự tiến bộ xã hội, góp phần thúc đẩy việc hình thành và
từng bước hoàn thiện quyền dân chủ trong quan hệ gia đình Việt Nam.
Việc thành lập cơ quan quản lý nhà nước là Ủy ban dân số, gia đình và
trẻ em năm 2002 đã đánh dấu một bước chuyển mới nhận thức về gia
đình và công tác gia đình. Các hoạt động sôi nổi rộng khắp, đa dạng,
phong phú của các cấp, các ngành, đặc biệt là cấp cơ sở nhân ngày Gia
đình Việt Nam trong những năm qua thể hiện sự hưởng ứng và quan
tâm ngày càng tăng của xã hội đối với gia đình.
Dưới chế độ chiếm hữu tư nhân về TLSX, chức năng quan
trọng của gia đình là tích lủy tài sản và sinh ra người thừa kế của người
chủ sở hữu(ngừời chồng, người cha). Do vậy, nét nổi bật trong quan
hệ gia đình trong các chế độ ấy là sự bất bình đẳng giửa vợ và chồng,
giữa cha mẹ và các con, giữa anh em với nhau. Đều đó dẩn đến sự rạn
nức những mối quan hệ trong gia đình. Cũng vì vậy mà nảy sinh mâu
thuẩn gia đình và XH, làm hạn chế vai trò của gia đình đối với sự phát
triển của XH. Dưới chế độ XHCN bao gồm cả thời kỳ quá độ lên

CNXH, gia đình và các mối quan hệ trong gia đình có sự thay đổi căn
bản. Gia đình thực sự là tế bào của XH, gắn bó mật thiết với XH, mọi
người trong gia đình điều bình đẳng, tôn trọng và thương yêu nhau.
XH thừa nhận và bảo vệ những quyền bình đẳng đó nhằm bảo đảm
cho mọi người tự do và phát triển tòan diện. Dưới CNXH lợi ít của
mỗi người, mỗi gia đình và XH là tống nhất về cơ bản. CNXH còn tạo
ra những điều kiện thuận lợi để mỗi gia đình hòan thành nhiệm vụ đối
với XH Do vậy, đã phát huy được vai trò tích cực của gia đình đối
với sự phát triển của XH.
Vai trò quan trọng của gia đình dưới CNXH còn được thể hiện
ở những chức năng của nó:
Một là, Chức năng sinh sản, tái SX ra con người, tái tạo và
bảo dưỡng sức lao động cho XH. Đây là chức năng XH quan trọng
của con người và gia đình. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, việc thực
hiện chức năng này của gia đình diễn ra theo hướng ngày càng tăng
cường sự kết hợp gia đình, XH theo sự định hướng của XH nhằm bảo
đảm cho mỗi gia đình có cuộc sống ấm no hạnh phúc, trẻ em trong
mọi gia đình đều đựơc học hành, nền tảng cho XH ngày càng phát
triển.
Sinh đẻ có kế họach đang là một yêu cầu của XH ta hiện nay,
đồng thời còn là yêu cầu và tiền đề cho gia đình nuôi dưỡng con cái
ngày càng tốt hơn. Thực sự tốt vấn đề này là gia đình đã đóng góp 1
phần quan trọng là cho XH phát triển. Gia đình còn là môi trường
thuận lợi nhất để tổ chức nghỉ ngơi, giải trí bảo đảm tái tạo, bảo dưỡng
sức lao động XH của các thành viên trong gia đình. Cuộc vận động
sinh đẻ có kế họach và kế họach hóa gia đình ở nước ta hịên nay chính
là nhằm giúp để cho gia đình thực hiện tốt, chức năng XH quan trọng
nào, đồng thời có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của KT-XH
của đất nứơc.
Hài là, Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình:

Đây là chức năng quan trọng của gia đình trong thời kỳ quá độ lên
CNXH Bởi vì, thực hiện tốt được chức năng này, gia đình chẳng
16
những có được những điều kiện vật chất để tổ chức tốt đời sống, nuôi
dạy và giáo dục con cái tốt hơn, mà gia đình góp phần to lớn vào sự
nghiệp xây dựng CNXH, bằng những việc làm cụ thể. Đồng thời tổ
chức tốt đời sống gia đình chính là việc sử dụng một cách hợp lý các
khoản thu nhập của các thành viên trong gia đình và quỹ thời gian
nhàn rỗi, nhằm tạo ra một môi trường văn hoá lành mạnh trong gia
đình, trong đó tình cảm ruột thịt, quyền lợi vật chất của mỗi thành viên
được bảo đảm. Gia đình Việt Nam đang được xây dựng với những giá
trị nhân văn tiến bộ theo tiêu chí ít con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc.
Dưới CNXH, Đảng, nhà nước rất quan tâm đến việc” xây
dựng gia đình ấm no, hòa thuận, tiến bộ, đáp lại sự quan tâm đó, nhiều
gia đình đã tiến hành các họat động SX kinh doanh, dịch vụ để tăng
thêm nguồn thu nhập chính đáng cho gia đình mình và góp phần thúc
đẩy kinh tế đất nước phát triển. Nhà nước ta từ trước đến nay đã có
nhiều chính sách pháp luật hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đối với gia
đình nhằm hỗ trợ các gia đình phát triển sản xuất, tăng thu nhập, bảo
đảm đời sống, giữ gìn và củng cố các mối quan hệ trong gia đình như:
Chính sách về ruộng đất, nhà ở, chính sách đối với các đối tượng đặt
biệt, chính sách về hôn nhân và gia đình…Về cơ bản, đó là những
chính sách phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội và với truyền thống
của dân tộc. Vì vậy nó đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, tạo điều kiện
cho sự phát triển gia đình.
Ba là, Chức năng bồi dưỡng giáó dục thế hệ con cháu
thành những công dân tốt cho xã hội. Đây cũng là chức năng xã hội
vốn có của gia đình dưới CNXH, lợi ích gia đình, về căn bản gắn bó
với lợi ích xã hội, trẻ em thật sự trở thành tương lai của xã hội. Do

vậy , chăm lo bồi dưỡng , giáo dục con cái trỡ thành những công dân
tốt cho xã hội không chỉ là tình cảm ruột thịt, mà còn là trách nhiệm
nghĩa vụ của gia đình đối với xã hội. Là tốt chức năng này cũng chính
là vì hạnh phúc của mỗi gia đình. Chính vì sớm nhìn thấy vai trò nền
tảng của gia đình vàmối liên hệ hữu cơ giữa gia đình và xã hội, Chủ
tịch Hồ chủ tịch đã chỉ rỏ: Rất quan tâm đến gia đình là đúng vì nhiều
gia đình cộng lại mới thành xã hội. Xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia
đình tốt thì xã hội mới tốt.
Bốn là, Chức năng thoả mãn nhu cầu tâm sinh lý, tình
cảm: Các thành viên trong gia đình cần có sự hiểu biết tâm – sinh lý,
sở thích của nhau để ứng xử cho phù hợp chân thành và tế nhị , tạo
bầu không khí tinh thần ổn định, vui tươi, hạnh phúc. Cần biết sống và
tổ chức cuộc sống gia đình, chủ yếu là xử lý các mối quan hệ : Quan
hệ Vợ – chồng ; Cha mẹ – Con cái ; Ông bà – Cháu chắt; Cha mẹ vợ –
Cha mẹ chồng , sao cho dân chủ, bình đẳng , hoà thuận.
Thông qua việc thực hiện những chức năng trên, gia đình
tồn tại và phát triển, đồng thời tác động đến tiến bộ xã hội. Ơû
các giai đoạn lịch sử khác nhau, những nội dung của mỗi chức
năng được biến đổi phù hợp với những điều kiện cụ thể.
Thực trạng hôn nhân và gia đình ở nước ta: Gia đình ở nước ta
hình thành trong sự kế thừa và chịu ảnh hưởng trực tiếp của kiêu gia
đình truyền thống xưa. Đó là tổ chức gia đình của đông đảo nhân dân
lao động của thời kỳ trước cách mạng. Kiểu gia đình ấy mang nặng
tính phụ quyền và gia trưởng tồn tại trên cơ sở kinh tế sản xuất nông
nghiệp lạc hậu, và luôn bị để dọa bởi hiên tai khắc nghiệt. Gia đình
truyền thống có nhiều nét đẹp, nhiều nội dung đáng trân trọng và gìn
giử: tình cảm gia đình, vị trí gia đình được coi trọng, bên trong đoàn tụ
cố kết, bên ngoài tình làng nghĩa xóm, nề nếp trên dưới, phụ nữ chung
thủy, đảm đang yêu thương con cái. Đồng thời cũng có những mặt
những định hướng giá trị đã và đang tác động tiêu cực đến quá trình

xây dựng gia đình mới ở nước ta: tính cục bộ của gia đình, dòng họ,
địa phương, những nghi lễ rườm rà, tốn kém và có lúc phản nhân văn,
kết cấu qui mô gia đình lớn, đông con, kinh tế gia đình tự túc, tự cấp,
sự bất bình nam nữ, phụ nữ vất vã thiệt thòi nhiều mặt.
Sau gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước đã đạt được
những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội, góp phần
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi gia đình. Kinh tế hộ
gia đình thực sự đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự tăng
trưởng tổng thu nhập quốc dân hàng năm. Phong trào xây dựng đời
sống văn hoá mới ở cơ sở phát triển, ngày càng có nhiều gia đình văn
17
hoá, khu phố văn hoá, làng văn hoá, cụm dân cư văn hoá, góp phần
gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Công tác xoá đói, giảm
nghèo, giải quyết việc làm đã giúp cho hàng triệu gia đình thoát nghèo
và nâng cao mức sống. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ
cho các gia đình đặc biệt khó khăn, gia đình có công với cách mạng,
gia đình ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Công tác dân số, kế
hoạch hoá gia đình, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã đạt được
những thành tích đáng kể, góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc, xã
hội ngày càng ổn định và phát triển. Những giá trị nhân văn mới, tiêu
biểu là bình đẳng giới và quyền trẻ em, vai trò của người phụ nữ trong
gia đình và xã hội ngày càng được đề cao. Quyền trẻ em đã được pháp
luật thừa nhận, được xã hội và gia đình thực hiện và phát huy. Luật
Hôn nhân và gia đình sửa đổi năm 2000 đã tạo điều kiện để thực hiện
hôn nhân bình đẳng và tiến bộ. Những năm gần đây, việc thành lập cơ
quan quản lý nhà nước về gia đình và việc lấy ngày 28 - 6 hàng năm
là Ngày gia đình Việt Nam đã khẳng định vai trò của gia đình đối với
xã hội và xã hội đối với gia đình trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
Tuy nhiên, công tác gia đình hiện nay còn nhiều yếu kém và đang

đối mặt với nhiều thách thức. Việc thực hiện Luật Hôn nhân và gia
đình còn nhiều thiếu sót và bất cập. Hiện tượng tảo hôn vẫn còn tồn
tại. Tình trạng ly hôn, ly thân, chung sống không kết hôn, quan hệ tình
dục và nạo phá thai trước hôn nhân gia tăng đã để lại những hậu quả
nghiêm trọng về nhiều mặt đối với gia đình và xã hội. Những biểu
hiện tiêu cực trong hôn nhân với người nước ngoài đang làm cho xã
hội lo lắng. Nhiều giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của gia đình như
hiếu nghĩa, thuỷ chung, kính trên nhường dưới đang có biểu hiện
xuống cấp. Sự xung đột giữa các thế hệ về lối sống và việc chăm sóc,
nuôi dưỡng người cao tuổi đang đặt ra những thách thức mới. Tệ nạn
xã hội như ma tuý, cờ bạc, rượu chè bê tha, mại dâm và nạn dịch
HIV/AIDS đang thâm nhập vào các gia đình. Bạo hành trong gia đình,
tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em, trẻ em bị xâm hại, trẻ em phải
lang thang kiếm sống, trẻ em vi phạm pháp luật có chiều hướng phát
triển. Nhiều gia đình vẫn đang phải gánh chịu những hậu quả nặng nề
của chiến tranh. Hàng trăm ngàn trẻ em nạn nhân của chất độc da cam
đang là nỗi đau của nhiều gia đình. Hàng ngàn gia đình có thân nhân bị
chết, bị tàn tật do bom mìn còn sót lại sau chiến tranh. Những mất mát,
đau thương của hàng triệu gia đình trong chiến tranh sau gần ba chục
năm qua vẫn chưa thể bù đắp. Công tác xoá đói, giảm nghèo ở một số
địa phương vẫn còn nhiều khó khăn, kết quả chưa vững chắc, đặc biệt
là ở vùng duyên hải, miền núi, vùng sâu, vùng xa, nhiều vùng đồng
bào dân tộc thiểu số. Việc chuyển hướng ngành nghề cho những hộ
gia đình làm nông nghiệp trong quá trình đô thị hoá và phát triển công
nghiệp chưa được quan tâm đúng mức.
Nguyên nhân của tình hình nói trên có phần do nhận thức của xã
hội về vị trí, vai trò của gia đình và công tác gia đình, công tác quản lý
nhà nước về gia đình chưa theo kịp sự phát triển của đất nước; những
mặt tích cực của gia đình trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá chưa được phát huy. Nhiều vấn đề bức xúc về gia đình chưa được

xử lý kịp thời. Các cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể chưa quan tâm
đúng mức việc nghiên cứu, lãnh đạo, chỉ đạo công tác gia đình. Công
tác giáo dục trước và sau hôn nhân, việc cung cấp các kiến thức làm
cha mẹ, các kỹ năng ứng xử của các thành viên trong gia đình chưa
được coi trọng. Nhiều gia đình do quá tập trung làm kinh tế đã xem
nhẹ việc chăm sóc, giáo dục và bảo vệ các thành viên, đặc biệt là trẻ
em và người cao tuổi.
Trước những biến đổi nhanh chóng về kinh tế- xã hội, cấu trúc
và chức năng của gia đình Việt nam đã có một số thay đổi tích cực phù
hợp với những điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội mới. Do xã hội
còn nhiều thành phần kinh tế và các giai cấp khác nhau trong các gia
đình ở từng loại dân cư. Tuy vậy, trong thời kỳ quá độ lên CNXH, vẫn
cần thiết đề ra những định hướng chủ yếu để xây dựng gia đình mới ở
nước ta hiện nay với mục tiêu chủ yếu của công tác gia đình là: ổn
định, cũng cố và xây dựng gia đình theo tiêu chí ít con ( mỗi cặp vợ
chồng chỉ có một hoặc hai con), no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc,
để mỗi gia đình Việt nam thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào
lành mạnh của xã hội.
18
Cần nhận thức rõ gia đình là một trong những nhân tố quan
trọng quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hoáđất nước và xây dựng CNXH. Coi đầu tư cho gia đình là đầu tư
cho phát triển bền vững. Gia đình có trách nhiệm bảo vệ sự ổn định và
phát triển của gia đình. Việc xây dựng gia đình mới là nhiệm vụ của
mỗi người, của mọi lực lượng và tổ chức xã hội. NN và các tổ chức xã
hội cần phối hợp và tham gia xây dựng gia đình mới, trong đó, HỘi
PN, Đoàn TN, UBDS và KHH GĐ, UBBVBM&TE, ngành văn hóa
và ngành GD … là những đơn vị tổ chức có trách nhiệm chăm lo một
cách trực tiếp và thường xuyên. Kế hoạch xây dựng gia đình phải gắn
liền với kế hoạch xây dựng và phát triển KT-XH ở từng địa phương

cũng như trên phạm vi quốc gia. Gia đình mới hoành thành không chỉ
là kết quả của luật HN&GĐ, của tiêu chuẩn gia đình vănhoá mới, mà
còn là sự định hướng và hỗ trợ của hàng loạt các chính sách xã hội.
Trên cơ sở sơ kết 5 năm thực hiện chỉ thị 49 của Ban Bí thư, chúng
ta cần tiếp tục quan tâm thực hiện các phương hướng, nhiệm vụ
xây dựng gia đình ở nước ta hiện nay như sau:
- Thực hiện chính sách Ktế phát triển nhiều thành phần trong
đó xác định hộ xã viên là những đơn vị kinh tế tự chủ, xác định kinh tế
các thể có phạm vi tương đới lớn được phát tiễn trong các ngành nghề
ở thành thị và nông thôn, không hạn chế trong việc mở rộng Sx và hợp
tác kinh doanh đối với Ktế gia đình, chính sách ktế ấy mở rộng khả
năng thực hiện cải tạo nâng cao đời sống gia đình , thúc đẩy mạnh mẽ
những hoạt động khác của gia đình.
- Thực hiện chính sách dân số với mục tiêu giải quyết tỉ lệ tăng
dân số và những nội dung cụ thể khác, KHHGĐ, phát triển gia đình
hạt nhân có 1-2 con, duy trì ở mức độ cần thiết gia đình hạt nhân mở
rộng, để khắc phục tình trạng người già cô đơn không nơi nương tựa.
Tuy nhiên, ngược lại với tình hình chung đó thì một số dân tộc miền
núi đang có nguy cơ diệt vong, chính sách của Đảng là phải khắc phục
tình trạng đó. Thực hiện các chính sách khác như : Giải quyết việc làm
cho người lao động, trả công, nâng cao dân trí, bảo vễ sức khỏe nhân
dân, chính sách nhà ở cho người lao động nghèo… Quan tâm đặt biệt
tới các gia đình có công với cách mạng, gia đình là nạn nhân của chiến
tranh.
- Xây dựng một hệ thống quan điểm đạo đức tâm lý và những
kiến thức cơ bản về sinh họat gia đình vào chương trình giáo dục ở các
trường học, các đòan thể quần chúng và giáo dục qua các phương tiện
thông tin khác. Mặt khác lên án các hiện tượng tiêu cực, những điều lệ
lạc hậu, những tàn tích của chế độ hôn nhân gia đình phong kiến,
chống ảnh hưởng những chế độ hôn nhân và gia đình tư sản.

- Quan tâm một cách thiết thực và tòan diện hơn nữa đến phụ
nữ, vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện quan trọng để xây dựng, cũng cố
gia đình mới ở nước ta, giải quyết ngay những đòi hỏi cấp bách như
việc làm, giảm bớt sự vất vả trong lao động SX ngòai XH và trong
việc nội trợ; nâng cao trình độ nhận thức, nâng cao sức khoẻ. Tạo điều
kiện cho phụ nữ tham gia thực hiện 2 cuộc vận động do hội liên hiệp
phụ nữ phát động : “nuôi dạy con tốt, hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng
và bỏ học” và “PNữ giúp đở nhau phát triển KT gia đình”.
- Cuối cùng, việc xây dựng, củng cố gia đình mới đòi hỏi công
tác nghiên cứu khoa học tiến hành tòan diện và sát thực tế hơn nữa về
những vấn đề hôn nhân và gia đình ở nước ta. Mặt khác ra sức tuyên
truyền vận động thực hiện luật hôn nhân gia đình, không ngừng hòan
thiện và bổ sung cho nó.
Trên cơ sở tiếp tục thực hiện các giải pháp chủ yếu như sau:
Một là, đẩy mạnh, đổi mới và đa dạng hoá công tác truyền
thông, tăng cường giáo dục đến từng hộ gia đình pháp luật, chính sách
liên quan đến vấn đề xây dựng gia đình, đặc biệt là Luật Hôn nhân và
gia đình, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Pháp lệnh Dân số;
đưa chủ đề gia đình vào các chương trình tuyên truyền, nêu gương
người tốt việc tốt và phê phán những biểu hiện không lành mạnh ảnh
hưởng cuộc sống gia đình.
Hai là, bảo đảm đủ nguồn lực đầu tư từ ngân sách Nhà nước
và huy động sự đóng góp của toàn xã hội cho công tác gia đình. Đưa
nội dung công tác này vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và các
kế hoạch hàng năm của ngành và của địa phương.
19
Ba là, củng cố và ổn định cơ quan uỷ ban dân số, gia đình và
trẻ em ở các cấp, đặc biệt là cấp huyện và cấp cơ sở, đẩy mạnh việc
đào tạo cán bộ để thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước và phối
hợp liên ngành về công tác gia đình.

Bốn là, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính
sách và hệ thống dịch vụ xã hội liên quan đến gia đình, đặc biệt quan
tâm tới các gia đình đã nhường đất sản xuất cho đô thị hoá, phát triển
công nghiệp và các hộ di dân; triển khai và mở rộng các loại hình dịch
vụ an sinh xã hội để nâng cao năng lực tự chủ của mỗi gia đình, đảm
bảo cho các gia đình có cơ hội tiếp cận sự bảo trợ của Nhà nước, ổn
định cuộc sống, chăm lo giáo dục con cái và chăm sóc người cao tuổi.
Năm là, tăng cường công tác nghiên cứu, điều tra, khảo sát
toàn diện về gia đình, đặc biệt là nghiên cứu các giá trị truyền thống tốt
đẹp của gia đình cần gìn giữ, phát huy, những giá trị mới, tiên tiến cần
tiếp thu; nghiên cứu xây dựng các mô hình gia đình Việt Nam trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; áp dụng các kết quả nghiên cứu
để giải quyết những thách thức trong lĩnh vực gia đình và dự báo
những biến đổi về gia đình trong thời kỳ mới.
Sáu là, các cấp uỷ đảng, các tỉnh uỷ, thành uỷ tiếp tục xây
dựng kế hoạch hành động tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác gia
đình theo tinh thần của Chỉ thị 49 và Nghị quyết 11 của Ban Bí Thư.
Tóm lại, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước ta hiện nay, việc giao lưu và hội nhập với thế giới, gia đình Việt
Nam cũng chịu ảnh hưởng của nhiều mặt tích cực và tiêu cực. Nền
tảng của gia đình Việt nam là tình thương yêu và ý thức trách nhiệm
của các thành viên trong gia đình . Nó là nguyên tắc chỉ đạo mọi suy
nghĩ và hành động của mỗi cá nhân. Trong gia đình Việt Nam truyền
thống, quan hệ giữa các thành viên là sự tôn trọng và quyền bình đẳng.
Do đó, Đảng ta chủ trương: xây dựng gia đình VH mới có ý nghĩa rất
quan trọng, góp phần phát triển LLSX, ổn định và cải thiện đời sống,
thực hiện kế hoạch hoá dân số, giữ gìn và phát huy những truyền
thống đạo đức, VH tốt đẹp của dân tộc. Vì thế, trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011) Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Xây dựng gia

đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã
hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình
thành nhân cách. Đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu phải
là môi trường rèn luyện phong cách làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật,
có năng suất và hiệu quả cao, bồi đắp tình bạn, tình đồng chí, đồng
đội, hình thành nhân cách con người và nền văn hoá Việt Nam.”
(trích cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội, (bổ sung, phát triển năm 2011) NXB Chính trị quốc gia,
2011, trang 20,21). Nhằm để thực hiện hoàn thành mục tiêu của chiến
lược gia đình là xây dựng gia đình Việt nam no ấm, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc và phát triển bền vững.
(3). Ở một số vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện nay đang có
các tổ chức phản động đấu tranh đòi quyền dân tộc tự quyết,
thông qua các hình thức ly khai, tự trị như: Đề ga tự trị,
KhmeKrôm tự trị, xứ Thái tự trị,…Bằng lý luận và thực tiễn
đồng chí hảy phân tích và làm sáng tỏ vấn đề trên.
Bài làm.
Trong suốt quá trình xây dựng, trưởng thành và phát triển
lãnh đạo đất nước, Đảng ta luôn xác định vấn đề dân tộc, công tác dân
tộc và đoàn kết dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng trong cách
mạng nước ta. Dựa trên những quan điểm của CN Mác Lên nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc Đảng ta đã đề ra các chủ
trương, chính sách dân tộc với những nội dung cơ bản là; bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ giúp đở lẫn nhau cùng phát triển. Vì vậy NQ HN
lần thứ 7 BCHTW Đảng khoá IX xác định: “ vấn đề dân tộc và đoàn
kết dân tộc là vấn đề cơ bản lâu dài, đồng thời là vấn đề cấp bách
hiện nay của cách mạng việt nam” trích văn kiện HN lần thứ 7 của
ban chấp hành trung ương đảng khoá IX, NXB CTQG, HN 2003,
trang 34. Đặc biệt, những năm gần đây vấn đề dân tộc diễn ra phức tạp
trên phạm vi toàn thế giới, nhất là khi chủ nghĩa đế quốc cũng như các

phần tử phản động lợi dụng vấn đề dân tộc để can thiệp vào nội bộ của
20
các nước. Đối với nước ta Ở một số vùng dân tộc thiểu số nước ta
hiện nay đang có các tổ chức phản động đấu tranh đòi quyền dân
tộc tự quyết, thông qua các hình thức ly khai, tự trị như: Đề ga tự
trị, KhmeKrôm tự trị, xứ Thái tự trị,… Trước tình hình đó, đòi hỏi
chúng ta phải kịp thời giải quyết, ổn định tình hình, phát triển đất nước
trên cơ sở lý luận và giải pháp phù như thế nào? Để làm sáng tỏ vấn đề
này, chúng ta lần lượt làm rõ các nội dung sau:
Trước tiên chúng ta tìm hiểu thuật ngữ dân tộc là gì? Dân tộc
là chính là sản phẩm của lịch sử, có quá trình hình thành và phát triển
lâu dài dựa trên nền kinh tế nhất định do điều kiện biến đổi của PTSX
là điều kiện tác động đến cộng đồng người vậy Dân tộc chính là một
cộng đồng người ổn định, được hình thành và phát triển trong lịch sử,
sống trên cùng một lãnh thổ nhất định, có chung một mối quan hệ về
KT, ngôn ngữ, , tâm lý, nền văn hóa
Đặc trưng chung nhất của dân tộc là: Có chung một phương
thức sinh hoạt KT. Đây là đặc trưng quan trọng nhất, cơ bản nhất, là cơ
sở nền tảng cho sự vững chắc của cộng đồng dân tộc. Có chung một
vùng lãnh thổ nhất định, trên lãnh thổ đó các thành viên gắn bó với
nhau, cùng nhau lao động để tồn tại và phát triển. Có tiếng nói chung
làm công cụ giao tiếp giữa các thành viên trong các lĩnh vực KT, VH,
tình cảm … Có tâm lý riêng tạo nên bản sắc của nền VH dân tộc. Các
dân tộc trên thế giới được hình thành trong những hoàn cảnh, điều kiện
khác nhau nhưng vấn đề cơ bản nó cần hội đủ hoặc gần đủ các đặc
trưng nêu trên thì dân tộc mới được hình thành. Tính kết dính của cộng
đồng dân tộc được tạo bởi tính cộng đồng KT, XH, chính trị, tư tưởng
và tộc người. Mỗi nhân tố đóng một vai trò xác định, nhưng không
phát huy một cách riêng rẽ mà liên kết trong một kết cấu năng động,
làm nổi bật dấu hiệu XH - tộc người của cộng đồng dân tộc.

Trong khi giải quyết vấn đề dân tộc cần xem xét tất cả các
nhân tố và cuộc CM trong lĩnh vực KT - XH thông qua việc giải quyết
mâu thuẫn giai cấp nhằm xóa bỏ áp bức bóc lột người, thực hiện bình
đẳng XH mới có thể tạo nên sự biến đổi về chất trong mỗi dân tộc và
tạo mối quan hệ giữa các dân tộc theo nguyên tắc tự nguyện, bình
đẳng và cùng có lợi. Lênin đã nhắc nhở nhiều lần là không nên tuyệt
đối hóa vấn đề DT và đặt vấn đề DT lên trên vấn đề giai cấp.
Tuy vậy, nhân tố tộc người có tính độc lập tương đối và tác
động trở lại nhân tố KT-XH. Qua nghiên cứu trên đây, chúng ta thấy
rằng việc giải quyết vấn đề DT cần tìm ra những điểm mấu chốt đang
tồn tại của từng dân tộc. Chẳng hạn tại các nước CNTB. Tuy nhiên,
cùng với sự phát triển của mình, nó tạo nên mâu thuẫn ngày càng gay
gắt giữa quyền lợi của giai cấp tư sản và đại da số dân cư. Trên phạm
vi thế giới, giới tư bản không ngừng mở rộng thị trường bằng nhiều
hình thức xâm lược. Do vậy, nó lại có thêm mâu thuẫn mới và DT bị
lệ thuộc, bị đô hộ. Các DT bị lệ thuộc này không ngừng đấu tranh đòi
độc lập DT. Do vậy, việc giải quyết vấn đề DT có tầm quan trọng to
lớn, nó lớn về qui mô, phong phú về cách thức và có những điều kiện
lịch sử cụ thể hết sức khác nhau.
Khi nghiên cứu các vần đề DT và phong trào DT trong điều
kiện CNTB, Lênin đã phát hiện ra xu hướng khách quan: thứ nhất, do
sự thức tỉnh, trưởng thành của ý thức DT mà các cộng đồng dân cư
muốn tách ra để lập các cộng đồng DT độc lập. Thứ hai, là liên hiệp
giữa các dân tộc lại với nhau do sự phát triển của LLSX, của khoa học
và công nghệ; tạo nên sức hút các dân tộc vào các liên minh được hình
thành trên những cơ sở lợi ích nhất định và nhằm tập trung vào việc
giải quyết những Vấn đề chung của nhân loại như: chống ô nhiễm môi
trường, sinh thái, dịch bệnh… có nguy cơ lan rộng trên toàn thế giới.
Lợi ích toàn cầu có tác động sâu xa gắn bó loài người trong cùng quá
trình vận động thống nhất các dân tộc, Quốc gia trên thế giới còn đang

ở trình độ phát triển khác nhau và đang cần sự hổ trợ nhau cùng tiến
bộ.
Trong CNTB do mục tiêu của mọi chính sách trước hết là
phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, do vậy mà hai xu hướng khách
quan trên không được giải quyết. Vì vậy, Lênin cho rằng một cương
lĩnh DT đúng đắn phải phù hợp với mối quan hệ biện chứng giữa vấn
đề DT và vấn đề giai cấp. Đồng thời tạo ra môi trường cho sự vận
động của hai xu hướng khách quan trong một tiến trình thống nhất.
21
Đặc biệt Lênin đã nêu ra Cương lĩnh về vấn đề DT gồm có ba nội
dung chính:
Thứ nhất, các DT có quyền bình đẳng. Thực chất là xóa bỏ
sự nô dịch của DT này với DT khác trên cơ sở đó dần dần xóa bỏ sự
chênh lệch về trình độ phát triển của các DT trên mọi lĩnh vực: KT,
CT, VH… Điều đó cần phải được ghi nhận và bảo đảm bằng pháp luật
Nhà nước và điều quan trọng hơn là phải được thực hiện trong đời
sống thực tế.
Thứ hai, quyền tự quyết đó là quyền tự quyết định lấy vận
mệnh của DT mình, quyền quyết định con đường phát triển và chế độ
chính trị, XH của DT mình mà không bị lệ thuộc hoặc bị ép buộc bởi
ai khác. Để quyền tự quyết được thực hiện đúng đắn phải đứng trên
lập trường của giai cấp công nhân để xem xét. Lên án sự lợi dụng
quyền tự quyết để xâm lược hoặc can thiệp vũ trang vào nước khác,
chống tư tưởng DT lớn hoặc tư tưởng DT hẹp hòi ích kỷ. Nội dung
biểu hiện của quyền tự quyết là quyền về chính trị khi hình thành một
quốc gia độc lập và quyền liên hiệp với các DT khác để tạo thành liên
bang nhằm mục đích mang lại lợi ích cho DT mình.
Thứ ba, sự đoàn kết, thống nhất giai cấp công nhân giữa
các DT trong từng quốc gia cũng như trên toàn thế giới; chỉ có đứng
vững trên lập trường của giai cấp công nhân mới thực hiện được

quyền bình đẳng và tự quyết đúng đắn, khắc phục được thái độ kỳ thị,
lòng thù hằn dân tộc từ đó đoàn kết được nhân dân lao động các dân
tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH. Chính
vì thế, nội dung đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc được nêu
trong cương lĩnh không chỉ là lời kêu gọi mà còn là giải pháp hữu hiệu
bảo đảm vịêc thực hiện quyền bình đẳng và tự quyết dân tộc.Nội dung
này đóng vai trò liên kềt của 3 nội dung của cương lĩnh thành một
chỉnh thể. ĐK GCCN các dân tộc là sự thể hiện thực tế tinh thần yeêu
nước mà thời đại ngày nay đã trở thành sức mạnh cực kỳ to lớn, phù
hợp với tinh thần quốc tế chân chính đang lên tiến kêu gọi các dân tộc,
quốc gia xích lại gần nhau.
Cả ba nội dung trên đều quan trọng, khi vận dụng cần sáng tạo
không được xem nhẹ vấn đề nào. Thực tiễn CM trên thế giới trong
thời gian qua đã chứng minh được tính đúng đắn, khoa học, CM của
Cương lĩnh. Những nơi nào, thời điểm nào quốc gia nào vận dụng
đúng đem lại thành quả hết sức to lớn, ngược lại khi vận dụng sai hoặc
bóp méo lý luận dẫn đến thất bại, trì truệ thậm chí bị tan rã, sụp đổ…
Nước ta là một nước có bề dày lịch sử trên dải đất VN có 54
các thành phần DT, trong đó tộc người Kinh chiếm gần 87% dân số và
53 dân tộc còn lại chiếm trên 13% dân số.
Về VH, XH: con người VN có truyền thống và tinh thần CM,
tinh thần đoàn kết DT chống ngoại xâm, có tinh thần khắc phục khó
khăn hoàn cảnh để vươn lên, có tinh thần khắc phục khó khăn hoàn
cảnh để vươn lên, có tinh thần yêu nước, yêu CNXH.
Tính chất: do sống xen kẽ, dan xen giữa các dân tộc người tạo
nên một sự đa dạng, phong phú trong đời sống phong tục tập quán,
truyền thống và bản sắc VH DT. Các tộc người VN đều có tiếng nói
riêng và có chung ngôn ngữ thống nhất. Đó là lấy tiếng Việt - Kinh
làm phương tiện giao tiếp chung. Bên cạnh có những tộc người có
trình độ phát triển cao về KT, chính trị, VH, XH thì còn nhiều tộc

người còn ở trình độ dân trí quá thấp.
Truyền thống lịch sử lâu đời của DT ta đã chỉ ra rằng trong
toàn bộ lịch sử của mình, các DT trên dãi đất VN đã chung sống hòa
bình và phát triển, vừa có bản sắc riêng vừa có sự giao lưu chung, lịch
sử cũng cho thấy không có sự mâu thuẫn sâu sắc giữa các dân tộc
người. Đặc biệt khi có giặc ngoại xâm thì các tộc người VN đã sát
cánh cùng nhau chống giặc.
Chính vì vậy mà từ khi ra đời, Đảng ta đã coi vấn đề DT và
đại đoàn kết DT là vấn đề quan trọng có tính chất chiến lược, là yếu tố
phát huy sức mạnh tổng hợp, khai thác mọi tiềm năng của các thành
phần DT trong sự nghiệp CM.
Cuộc CM giải phóng DT của chúng ta thành công năm 1945
là một dấu son trong lịch sử CM thế giới, là một nước thuộc địa nữa
PK, dưới sự lãnh đạo tài tình của ĐCS VN do Chủ tịch HCM sáng lập.
Đảng đã giải quyết nhuần nhuyễn vấn đề DT - giai cấp. Bài học sâu
sắc mà Bác Hồ tổng kết là:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
22
Thành công, thành công, đại thành công”
Sau khi hoàn tất công cuộc thống nhất đất nước năm 1975, cả
nước bắt tay vào công cuộc xây dựng CNXH. Do chưa hiểu đúng đầy
đủ các quy luật khách quan cũng như còn nóng vội, chủ quan, giáo
điều, chúng ta đã mắc phải một số sai lầm, khuyết điểm trên nhiều lĩnh
vực, trong đó có vấn đề DT, chẳng hạn chưa quan tâm đầu tư phát
triển cho các DT ít người, lạc hậu và thường phân bố ở những vùng có
điều kiện địa lý khó khăn: vùng núi cao, nơi đất đai cằn cỗi, nơi có
điều kiện khí hậu khắc nghiệt … Làm cho khoảng cách phát triển giữa
các DT ngày càng tăng lên.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, dám nhận trách nhận về
mình, Đảng đã mạnh dạn nhận những sai lầm khuyết điểm và hơn thế

nữa đã tự đổi mới mình để đáp ứng được nhiệm vụ của DT giao phó.
Về DT trong sự nghiệp CM, trong sự nghiệp đổi mới hiện nay,
Đảng ta cho rằng: “Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau giữa các dân
tộc cùng xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đồng thời giữ gìn
giữa bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc là chính sách nhất quán của
Đảng và Nhà nước ta”.
Về công tác đối nội: Chính sách phát triển nền KT hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước
đã giúp cho các đồng bào dân tộc mở mang sx. Chính sách đầu tư phát
triển hệ thống kỹ thuật hạ tầng, xây dựng và phát triển nông thôn mới.
Chính sách định canh định cư, sắp xếp bố trí lại lực lượng lao động
trên phạm vi cả nước. Chính sách nâng cao trình độ dân trí, đặc biệt ở
vùng các đồng bào dân tộc ít người. Chính sách tôn trọng phong tục
tập quán, tín ngưỡng, truyền thống bản sắc VH DT. Chính sách đào
tạo bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt ở vùng dân tộc ít người. Chính sách
Đoàn kết dân tộc; Đai hội Đảng lần thứ IX đã chỉ rỏ: “ Thực hiện đại
đoàn kềt dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi
giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong đảng và người
ngoài đảng, người đang công tác và người đã nghĩ hưu,mọi thành
viên trong đại gia đình dân tộc Việt nam dù sống trong nước hay ở
nước ngoài. Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền
thống yêu nước, ý chí tự lực tự cường và lòng tự hào dân tộc, lấy mục
tiêu giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng
những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, xoá
bỏ mặc cảm, định kiến,phân biệt đối xử về qúa khứ, giai cấp, thành
phần xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương
lai” ( Văn kiện Đại hội ĐBTQ Lần thứ IX ĐCSVN, NXB Chính trị
Quốc gia, HN 2001 trang 123, trang 124)
Về công tác đối ngoại: Về thế giới, VN sẵn sàng làm bạn với

tất cả các nước, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực,
trên nhiều phương diện kể cả song phương và đa phương. Đối với khu
vực, quan hệ chặt chẽ với các nước trong khu vực trên tinh thần cởi
mở, láng giềng, thân thiện, tôn trọng chủ quyền, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, cùng phát triển trong quan hệ tự nguyện,
bình đẳng cùng có lợi.
Đối với các quốc gia có những tộc người có quan hệ với tộc
người ở VN: chúng ta tôn trọng những phong tục tập quán, tín ngưỡng
của các tộc người đó, tuy nhiên trong quan hệ giữa các tộc người đó
phải chấp hành và thực hiện theo khuôn khổ của luật pháp VN.
Qua việc phân tích những quan điểm cơ bản của CN Mác-
Lênin vầ vấn đề DT, chúng ta càng nhận thấy rằng những tồn tại hiện
nay của từng DT, quốc gia từng vùng, thậm chí trên phạm vi toàn thế
giới, trước hết phải kể đến âm mưu phá hoại sự ổn định của các lực
lượng thù địch, chúng không hề muốn có một thế giới ổn định, hòa
bình.
Với từng quốc gia, từng vùng khi vấn đề DT nổi lên thì dù cố
gắng giải quyết, nhưng khó triệt để do chỉ những nới có chính đảng
của giai cấp công nhân lãnh đạo, được trang bị lý luận của CN Mác-
Lênin thì mới có thể giả quyết trọn vẹn.
ĐHĐBTQ lần IX của ĐCSVN chỉ rõ: “Vấn đề dân tộc và
đoàn kết các dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
CM. Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương
trợ, giúp nhau cùng phát triển; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã
hội, phát triển sản xuất hàng hoá, chăm lo đời sống vật chất và tinh
thần, xoá đói, giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn, làm giàu và phát
23
huy bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc; thực
hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi,
đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn cứ

cách mạng và kháng chiến. Tích cực thực hiện chính sách ưu tiên
trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số. Động viên, phát
huy vai trò của những người tiêu biểu, có uy tín trong dân tộc và ở địa
phương. Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc; chống tư tưởng dân tộc tộc
lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan; khắc phục tư tưởng tự ty, mặc
cảm dân tộc”. (Văn kiện Đại hội Đ0BTQ Lần thứ IX ĐCSVN, NXB
Chính trị Quốc gia, HN 2001 trang 127, trang 128)
Trên cơ sở đó, Đảng và nhà nước ta từng lúc cụ thể hoá thành
các chủ trương, kế hoạch để thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn
dân tộc một cách phù hợp như thông qua các chương trình dự án
(Chương trình 134,135,…) nhằm phát triển kinh tế đời sống vật chất
và tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số. Từ đó phần lớn đồng bào
yên tậm định cư và sản xuất ổn định đời sống, phát triển kinh tế, nâng
cao trình độ. Tuy nhiên bên cạnh đó còn một bộ phận đồng bào còn
hạn chế về nhận thức nghe lời xúi giục, lôi kéo của các phần tử phẩn
động trong và ngoài nước có những hành động chống phá Đảng, nhà
nước, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng mà nổi lên điểm
nóng ở 3 vùng mà ta thường gọi là “Ba Tây”: Tây Bắc với một bộ
phận đồng bào Thái bị bọn phản động lợi dung vấn đề dân tộc, tôn
giáo để đòi yêu sách thành lập Xứ Thái tự trị; Tây Nguyên bọn phản
đọng, tổ chức lưu vong Dêga lợi dụng sự cả tin, ít hiểu biệt của một bộ
phần đồng bào thiểu số gây rối đòi thành lập Nhà nước Đềra tự trị; Tây
Nam do bọn phản động trong và ngoài nước kích xúi một bộ phận
đồng bào Khmer đòi yêu sách thành lập nước Khmer Krôm tự trị…
Đây thực chất là sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo của các thế lực
phản động trong và ngoài nước lôi kéo một bộ phận người dân tộc ở
các vùng này thực hiện theo ý dồ của chúng chư không phải là vấn đề
dân tộc tự quyết, nó đi ngược lại với quyền tự quyết của dân tộc Việt
Nam về truyền thống đoàn kết của cộng đồng các dân tộc Việt Nam từ
xưa đến nay. Cũng như không phù hợp với xu thế tiến bộ của thế giới

vì hoà bình, độc lập và ổn định, phát triển của các dân tộc trên thế giới
trong đó có Việt Nam.
Tóm lại, Vấn đề dân tộc là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược của CM
XHCN. Hiện nay nó đang là một vấn đề thực tiễn nóng bỏng, đòi hỏi
phải giải quyết một cách đúng đắn và thận trọng theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lê nin.Hàng ngày, hàng giờ qua các phương tiện
thông tin đại chúng, chúng ta luôn được nghe, được thấy các cuộc
chiến tranh đã, đang và nhiều nơi trên thế giới có nguy cơ xảy ra chiến
tranh dân tộc, tôn giáo. Nó xảy ra ở tất cả các khu vực, từ những nước
nghèo như ở Châu Phi, Trung Đông cho đến những nước phát triển
như Tây Ban Nha, Pháp … Ở những nơi này đã có nhiều giải pháp
khác nhau được đưa ra như chính trị, quân sự … nhưng nó chỉ có thể
tạm lắng xuống vào từng thời điểm và luôn có nguy cơ bùng nổ trở lại.
Sở dĩ như vậy là vì các giải pháp đưa ra không hoàn chỉnh, triệt để,
thậm chí chỉ là những mưu lược để “nén” vấn đề dân tộc lại. Chính vì
vậy, muốn giải quyết tốt vấn đề dân tộc, chúng ta cần hiểu rõ dân tộc là
gì, mối quan hệ giữa các dân tộc cần giải quyết ra sao qua đó xác định
được tầm quan trọng của sự việc giải quyết vấn đề dân tộc, xác định xu
hướng khách quan của sự phát triển dân tộc và đề ra phương hướng
giải quyết. Điều đó chỉ có thể dựa vào nghiên cứu và vận dụng các
quan điểm khoa học và CM của CN Mác-Lênin. Nhất là tiếp tục quán
triệt và thực hiện tốt quan điểm chủ trương của Đảng: “Đoàn kết các
dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta.
Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương
yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nghiên cứu xây
dựng các cơ chế, chính sách, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội vùng dân tộc thiểu số. Tăng cường kiểm tra,
giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân

tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm
trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân
tộc.” (trích VK Đại ĐHĐBTQ lần XI của Đảng Nhà xuất bản CTQG
năm 2011- trang 244,245)
24
25

×