Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Tài liệu ôn thi môn triết học phần duy vật lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.68 KB, 37 trang )

Câu 1: Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ của LLSX.
Sự vận dụng của Đảng ta.
BÀI LÀM
Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của
LLSX là một trong những quy luật cơ bản chi phối sự vận động và
phát triển của XH loài người. Sự tác động của quy luật này cùng với
các quy luật khác đã đưa XH loài người phát triển từ thấp đến cao
trong sự phát triển của lòch sử nhân loại. Việc nhận thức và vận dụng
đúng đắn quy luật này có ý nghóa quan trọng trong việc xác đònh
mục tiêu, đề ra đường lối và tìm các biện pháp thực hiện nhằm mang
lại hiệu quả cao.
Như chúng ta đã biết nền SX xã hội là một thể thống nhất
bao gồm nhiều mặt, nhiều mối liên hệ, trong đó nổi lên hai mối quan
hệ cơ bản là LLSX và QHSX: quan hệ của con người với tự nhiên và
quan hệ của con người với nhau.
* LLSX biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên,
nói lên năng lực thực tế của con người trong quá trình SX tạo ra của
cải XH. LLSX bao gồm người lao động với kỹ năng của họ và tư liệu
SX, trước hết là công cụ lao động. Trong đó “LLSX hàng đầu của
toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”. Do đặc trưng
sinh học - XH riêng có của mình, con người ngày càng có vai trò to
lớn trong nền SX XH. Đặc biệt trong điều kiện của KH công nghệ
hiện nay, con người đã trở thành nguồn lực cơ bản, nguồn lực đặc
biệt của SX.
Cùng với con người lao động, công cụ lao động cũng là một
thành tố cơ bản của LLSX. Theo Anghen, thì công cụ lao động là
“khí quan của bộ óc con người”, là “sức mạnh của tri thức đã được
vật thể hoá”. Bởi vậy, khi công cụ lao động đã đạt tới trình độ tin
học hoá, tự động hoá… thì vai trò “khí quan vật chất” của nó trở nên
vô cùng quan trọng. Ngày nay, KH đã phát triển đến mức trở thành
nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong XH và đời


sống. Chính vì vậy, KH và công nghệ hiện đại hoàn toàn có thể được
coi là cái đặc trưng cho LLSX hiện đại, có vai trò rất quan trọng
trong SX, làm cho LLSX của loài người đạt đến trình độ tự động hoá
cao và mang tính quốc tế hoá sâu sắc.
* QHSX là quan hệ giữa người với người trong quá trình SX
vật chất. QHSX là một chỉnh thể thống nhất bởi ba quan hệ: quan hệ
sở hữu đối với TLSX; quan hệ trong tổ chức và quản lý SX; quan hệ
trong phân phối sản phẩm lao động. Trong hệ thống các quan hệ SX
của mỗi nền KT-XH xác đònh, quan hệ sở hữu về TLSX luôn luôn có
vai trò quyết đònh đối với tất cả các quan hệ XH khác. Quan hệ sở
hữu là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm của các
quan hệ XH. Còn các quan hệ về mặt tổ chức, quản lý SX là các
quan hệ quyết đònh một cách trực tiếp quy mô, tốc độ, hiệu quả và
xu hướng của mỗi nền SX cụ thể. Các quan hệ về mặt phân phối sản
phẩm lao động cũng là nhân tố có ý nghóa to lớn đối với sự vận động
của toàn bộ nền KT-XH. Nó có thể thúc đẩy tốc độ, nhòp điệu của
SX và cũng có thể có khả năng kìm hãm SX, kìm hãm sự phát triển
của XH.
* LLSX và QHSX là hai mặt của phương thức SX. Chúng quy
đònh, chế ước, tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau phát triển, trong
đó LLSX luôn giữ vai trò quyết đònh, QHSX phải phù hợp với trình
độ phát triển của LLSX.
- Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển
của LLSX thể hiện trước hết ở vai trò quyết đònh của LLSX đối với
QHSX, LLSX là nội dung, QHSX là hình thức. Nội dung quyết đònh
hình thức. LLSX ở trình độ nào, tính chất nào thì nó yêu cầu tất yếu
một kiểu quan hệ sản xuất, phù hợp nó chứ không thể cao hơn hoặc
thấp hơn.
Trình độ của LLSX nói lên khả năng của con người thông qua
việc sử dụng công cụ lao động thực hiện quá trình cải biến giới tự

nhiên nhằm đảm bảo cho sự sinh tồn và phát triển của mình, thể
hiện ở chỗ: trình độ của công cụ lao động, trình độ tổ chức lao động
XH, trình độ ứng dụng KH vào SX, kinh nghiệm, kỹ năng lao động
của con người và trình độ phân công lao động. Còn tính chất của
LLSX là khi nền SX được thực hiện với những công cụ ở trình độ thủ
công, LLSX chủ yếu là mang tính chất cá nhân. Còn khi SX đạt tới
trình độ cơ khí hoá, LLSX đòi hỏi phải được vận động trong sự hợp
tác XH rộng rãi trên cơ sở chuyên môn hoá thì tính chất tự cấp, tự
túc, cô lập của nền SX nhỏ lúc đó phải được thay thế bởi tính chất xã
hội hoá.
Vì vậy, mọi sự hình thành và tồn tại của QHSX phải dựa vào
chính cái LLSX hiện có, tính chất loại hình của QHSX như thế nào
phải do chính LLSX đó quyết đònh chứ không phụ thuộc vào ý muốn
chủ quan của con người.
Trong quá trình SXVC, thì bao giờ cũng vậy LLSX luôn luôn
vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. LLSX phát triển đến
một giai đoạn nhất đònh nào đó thì mâu thuẫn với QHSX hiện có, khi
đó đòi hỏi phải thay vào đó một kiểu QHSX mới, thích ứng với trình
độ phát triển của LLSX.
Sự tác động ở đây không phải là ngang bằng mà giữa một
bên đóng vai trò tác động, một bên đóng vai trò bò tác động. Trong
bất cứ hoàn cảnh nào LLSX tự bản thân nó vẫn phát triển, cho dù
QHSX tỏ ra lạc hậu, lỗi thời đến mấy tự bản thân nó không thể kìm
hãm hoàn toàn đối với LLSX.
Trong quá trình SXVC, thì LLSX biến đổi trước năng độnhg
hơn, còn QHSX mang tính ổn đònh tương đối hơn. Chính vì vậy, Quy
luật này luôn luôn biểu hiện “phù hợp và không phù hợp”, vì vậy
chủ thể của quá trình nhận thức và vận dụng phải nắm được đặc tính
này để kòp thời phát hiện mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn.
Ngày nay trong điều kiện của cuộc cách mạng KH và công

nghệ hiện đại, khi LLSX của loài người đã đạt đến trình độ tự động
hoá và mang tính chất quốc tế hoá cao, sâu sắc thì nó càng quyết
đònh xu hướng quốc tế hoá của QHSX, của các quan hệ KT giữa các
nước, các khu vực, các tập đoàn KT lớn của thế giới cũng phải vận
động, phát triển phù hợp với trình độ, tính chất mới của LLSX, hình
thành một xu thế tất yếu về KT của thời đại: “Toàn cầu hoá KT”.
Điều này đòi hỏi chúng ta phải biết vận dụng sáng tạo quy luật về sự
phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX, phải chống
chủ nghóa chủ quan trong công cuộc xây dựng và phát triển KT, phải
biết điều chỉnh, đổi mới QHSX theo yêu cầu phát triển của LLSX.
- Chủ nghóa duy vật lòch sử chứng minh vai trò quyết đònh của
LLSX đối với QHSX, song cũng chỉ rõ rằng QHSX bao giờ cũng thể
hiện tính độc lập tng đối với LLSX, quy đònh mục đích của sx, tác
động đến khuynh hướng phát triển của công nghệ, từ đó hình thành
2
một hệ thống những yếu tố hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát
triển của LLSX. Sự tác động ấy diễn ra theo hai khả năng.
+ Trường hợp phù hợp là khi QHSX hình thành và tồn tại góp
phần làm cho các yếu tố của bản thân LLSX kết hợp được với nhau
một cách tốt hơn dẫn tới giải phóng được sức sản xuất XH, những
tiềm năng sức mạnh của tư liệu sản xuất, lòng nhiệt tình hăng say
sáng tạo của người lao động khá hơn, tăng trưởng KT, đời sống
người lao động được cải thiện, nảy sinh nhiều nhu cầu mới phong
phú đa dạng hơn.
+ Trường hợp không phù hợp: biểu hiện ở hai khía cạnh. Thứ
nhất là khi QHSX đã lạc hậu rồi so với trình độ mới của LLSX lúc
đó nó trở thành xiềng xích của LLSX, kìm hãm sự phát triển của
LLSX trên tất cả các mặt của nó (quy mô, tốc độ, nhòp độ, khối
lượng của LLSX) nhưng không có nghóa là làm cho LLSX đứng yên
tại chỗ mà chỉ làm giảm khả năng phát triển của LLSX mà thôi.

Thứ hai, khi QHSX vừa thiếu đồng bộ vừa có yếu tố “vượt trước” so
với thực trạng của LLSX do chủ thể áp đặt một cách chủ quan, thì nó
cũng kìm hãm sự phát triển của LLSX. Đại hội VI của Đảng chỉ rõ:
LLSX bò kìm hãm không chỉ trong trường hợp QHSX lạc hậu mà cả
khi QHSX phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so
với trình độ phát triển của LLSX.
Trong mỗi hình thái KT-XH sự tác động trở lại của QHSX đối
với LLSX bao giờ cũng thông qua các quy luật KT cơ bản. Quy luật
QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy luật phổ
biến tác động trong toàn bộ tiến trình lòch sử nhân loại. Sự thay thế,
phát triển đi lên của lòch sử XH loài người từ chế độ cộng sản
nguyên thuỷ qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ
TBCN và đến XH cộng sản chủ nghóa, tương lai là do sự tác động
của hệ thống các quy luật XH, trong đó quy luật QHSX phù hợp với
trình độ phát triển của LLSX là quy luật cơ bản nhất.
* Khẳng đònh tầm quan trọng của quy luật để vận dụng thật
tốt quy luật này vào thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, tại Đại
hội VI (1986) Đảng ta đã nhận rõ những sai lầm, thiếu sót trong việc
nhận thức và vận dụng quy luật này thể hiện trong thời kỳ trước đổi
mới ở quan điểm, chính sách cải tạo XH cũ, XD QHSX mới. Trong
Cương lónh xây dựng đất nước (Đại hội VII, 1991) Đảng ta cũng chỉ
rõ: “Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật
khách quan: nóng vội trong cải tạo XHCN, xóa bỏ ngay nền KT
nhiều thành phần; có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công
nghiệp nặng; duy trì quá lâu cơ chế quản lý KT tập trung quan liêu
bao cấp; có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ,
tiền lương”.
Đảng ta đã nhận thức sai lầm rằng QHSX XHCN tiên tiến sẽ
mở đường, tạo đòa bàn rộng lớn cho LLSX lạc hậu phát triển nhanh
lên hiện đại. Do đó trong thực tế đã đưa QHSX lên quá cao so với

trình độ lạc hậu của LLSX ở nước ta, làm cho LLSX không phát
triển được và SX bò đình trệ.
Qua những sai lầm vấp váp, Đại hội VIII của Đảng đã đề ra
chủ trương: “Nếu CNH, HĐH tạo nên LLSX cần thiết cho chế độ
XH mới thì việc phát triển nền KT nhiều thành phần chính là để xây
dựng hệ thống QHSX phù hợp”. Đại hội IX tiếp tục khẳng đònh:
“Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên
phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất
phù hợp theo đònh hướng xã hội chủ nghóa”. Đây chính là sự vận
3
dụng đúng đắn về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của
LLSX vào sự phát triển nền KT ở nước ta.
Đảng ta xác đònh rằng nền KT nhiều thành phần mà Đảng ta
chủ trương là nền KT phát triển theo đònh hướng XHCN. Chính sách
phát triển nền KT nhiều thành phần có ý nghóa chiến lược lâu dài, có
tính quy luật từ SX nhỏ đi lên CNXH, có tác dụng to lớn trong việc
động viên nhân dân xây dựng nền KT, phát triển LLSX.
Việc xây dựng QHSX phải từng bước từ thấp đến cao với sự
đa dạng hoá về hình thức sỡ hữu và bước đi thích hợp làm cho QHSX
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX. Mỗi thành
phần Kt vốn có bản chất riêng nhưng trong SX kinh doanh không
ngăn cách nhau mà có nhiều loại hình hỗn hợp đan xen nhau vừa bổ
sung cho nhau vừa cạnh tranh với nhau trên cơ sở bình đẳng trước
pháp luật.
ĐH X của Đảng tổng kết 20 năm thực hiện đường lốùi đổi mới,
tiếp tục thực hiện quan điểm của ĐH IX và bổ sung, phát triển một
số vấn đề về vận dụng quy luật này như sau: “Có nền kinh tế phát
triển cao, dựa trên LLSX hiện đại và QHSX phù hợp với trình độ
phát triển của LLSX”. “Giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát

triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân”, đồng thời với “Phát
triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng
với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền
kinh tế quốc dân”. “Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại
hình tổ chức sản xuất, kinh doanh”. “Mở rộng quan hệ đối ngoại,
chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với nâng cao khả
năng độc lập tự chủ của nền kinh tế”. “Tạo được nền tảng để đẩy
mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố và phát triển kinh tế tri thức, đưa
nước ta cơ bản trở thành một nước cơng nghiệp theo hướng hiện đại vào
năm 2020”.
Nhìn chung, tất cả các chủ trương, quan điểm và sự vận dụng
trong thực tiễn nêu trên của Đảng ta từ Đại hội VI đến nay, đó chính
là sự vận dụng đúng và sáng tạo quy luật về sự phù hợp của QHSX
với trình độ phát triển của LLSX trong giai đọan cách mạng hiện nay
của đất nước ta.
4
Hết.
Câu 2: Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng. Sự nhận thức và vận dụng của Đảng ta.
BÀI LÀM
Mỗi xã hội đều có một kiểu quan hệ vật chất đặc trưng tương
ứng với những lực lượng sản xuất nhất đònh đó là quan hệ sản xuất.
Trên cơ sở những quan hệ sản xuất đó hình thành nên các quan hệ
về chính trò và tinh thần của xã hội. Hai mặt đó của đời sống xã hội
được khái quát thành cơ sở hạ tầng (CSHT) và kiến trúc thượng tầng
(KTTT) của xã hội.
Mác viết: "Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ
cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên
một KTTT pháp lý, chính trò và những hình thái ý thức xã hội nhất

đònh tương ứng với cơ sở hiện thực đó".
* Chủ nghóa duy vật lòch sử chỉ rõ, CSHT là toàn bộ những
quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận động hiện thực của
chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó.
CSHT của một xã hội cụ thể bao gồm quan hệ sản xuất
(QHSX) thống trò, QHSX tàn dư và QHSX mầm mống của xã hội
tương lai. Trong đó, QHSX thống trò bao giờ cũng giữ vai trò chủ
đạo, chi phối các QHSX khác, nó quy đònh xu hướng chung của đời
sống kinh tế - xã hội. Bởi vậy, CSHT của một xã hội cụ thể được đặc
trưng bởi QHSX thống trò trong xã hội đó. Do đó, xét trong nội bộ
phương thức sản xuất thì QHSX là hình thức phát triển của LLSX,
nhưng xét trong tổng thể các quan hệ xã hội thì các QHSX "hợp
thành" cơ sở kinh tế của xã hội, tức là cơ sở hiện thực, trên đó hình
thành nên KTTT tương ứng.
* KTTT là toàn bộ những quan điểm chính trò, pháp quyền,
triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,… cùng với những thiết chế
xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể
chính trò - xã hội,… được hình thành trên một CSHT nhất đònh.
Mỗi yếu tố của KTTT có đặc điểm riêng, có quy luật vận
động phát triển riêng, nhưng chúng liên hệ với nhau, tác động qua
lại lẫn nhau và đều hình thành trên CSHT. Song mỗi yếu tố khác
nhau có quan hệ khác nhau đối với CSHT. Có những yếu tố có quan
hệ trực tiếp như chính trò, pháp luật , có những yếu tố quan hệ gián
tiếp như triết học, tôn giáo, nghệ thuật…
Trong xã hội có giai cấp, KTTT mang tính giai cấp, trong đó
nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó tiêu biểu cho chế độ
chính trò của một xã hội nhất đònh. Nhờ có nhà nước mà giai cấp
thống trò mới thực hiện được sự thống trò của mình trên tất cả các
mặt của đời sống xã hội.
1. Quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT:

Các nhà triết học và xã hội học trước Mác khi xem xét xã hội
đều rơi vào duy tâm lòch sử, bởi vì họ cho rằng những quan hệ chính
trò, pháp lý, tinh thần hay tôn giáo quyết đònh các quá trình hiện thực
của lòch sử.
5
Chủ nghóa duy vật biện chứng với phương pháp biện chứng
lòch sử đã chỉ ra rằng, CSHT và KTTT có mối quan hệ biện chứng
vơi nhau. Mối quan hệ giữa CSHT và KTTT là biểu hiện đặc trưng
của quan hệ giữa kinh tế và chính trò - tư tưởng trong xã hội, trong
đó, CSHT hay đời sống kinh tế giữ vai trò quyết đònh đối với KTTT
hay chính trò - tư tưởng.
a. Vai trò quyết đònh của CSHT đối với KTTT.
CSHT và KTTT là hai mặt của đời sống xã hội, chúng thống
nhất biện chứng với nhau, trong đó CSHT đóng vai trò quyết đònh
đối với KTTT.
Vai trò quyết đònh của CSHT đối với KTTT trước hết thể
hiện ở chỗ: mỗi CSHT sẽ hình thành nên một KTTT tương ứng với
nó. Tính chất của KTTT do tính chất của CSHT quyết đònh. Mọi sự
biến đổi trong xã hội xét đến cùng đều do những quan hệ kinh tế
quyết đònh. Mâu thuẫn trong đời sống kinh tế, xét đến cùng, quyết
đònh mâu thuẫn trong lónh vực tư tưởng. Trong xã hội có giai cấp,
giai cấp nào thống trò về kinh tế thì cũng chiếm đòa vò thống trò về
mặt chính trò và đời sống tinh thần của xã hội; cuộc đấu tranh giai
cấp về chính trò tư tưởng là biểu hiện những đối kháng trong đời sống
kinh tế.
Mác viết: "Nếu ta không thể nhận đònh về một người căn cứ
vào ý kiến của chính người đó đối với bản thân, thì ta cũng không
thể nhận đònh về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của
thời đại ấy. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn
của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các LLSX xã

hội và những QHSX xã hội".
Vai trò quyết đònh của CSHT đối với KTTT còn thể hiện ở
chỗ: CSHT thay đổi thì sớm hay muộn KTTT cũng thay đổi theo.
C.Mác viết: "Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng
tầng đồ sộ cũng bò đảo lộn ít nhiều nhanh chóng". Quá trình đó được
thực hiện không chỉ trong giai đoạn chuyển tiếp có tính cách mạng
từ xã hội này sang xã hội khác, mà còn được thực hiện ngay trong
bản thân mỗi hình thái kinh tế - xã hội.
Sự biến đổi của CSHT dẫn đến sự biến đổi của KTTT là cả
một quá trình diễn ra hết sức phức tạp. Nguyên nhân của quá trình
đó xét cho đến cùng là do sự phát triển của LLSX. Tuy nhiên, sự
phát triển của LLSX không trực tiếp làm thay đổi KTTT, mà chỉ làm
thay đổi QHSX, tức trực tiếp làm thay đổi CSHT của xã hội, và
thông qua đó làm thay đổi KTTT.
Khi CSHT đã biến đổi, trong KTTT, các yếu tố không phải
có sự thay đổi như nhau. Có những yếu tố thay đổi rất nhanh chóng
cùng với sự thay đổi của CSHT như chính trò, pháp luật,… nhưng cũng
có những yếu tố thay đổi chậm như tôn giáo, nghệ thuật,… hoặc có
những yếu tố vẫn được kế thừa trong xã hội mới.
- Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi của CSHT cũng như
KTTT phải thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
b. Tác động trở lại của KTTT đối với CSHT.
Những người theo “chủ nghóa duy vật kinh tế” thường tuyệt
đối hóa vai trò của yếu tố kinh tế, coi nhẹ vai trò của các yếu tố
chính trò, tư tûng, pháp lý.
Tuy CSHT quyết đònh KTTT nhưng đó không phải là sự phù
hợp một cách bò động, giản đơn. Toàn bộ KTTT, cũng như các yếu tố
cấu thành của nó đều có tính độc lập tương đối trong quá trình vận
động, phát triển, cho nên nó có sự tác động một cách mạnh mẽ đối
với CSHT.

6
Sự tác động của KTTT đối với CSHT diễn ra theo hai chiều.
Nếu KTTT tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì
sẽ là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển. Nếu KTTT tác
động ngược lại thì sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển
xã hội.
Vai trò tác động của KTTT đối với CSHT là rất quan trọng,
tuy nhiên, nếu quá nhấn mạnh của vai trò này mà phủ nhận tác động
quyết đònh của những quy luật kinh tế khách quan, phủ nhận tính tất
yếu của vận động xã hội thì sẽ không tránh khỏi rơi vào sai lầm duy
tâm chủ quan. Xét đến cùng, nhân tố kinh tế đóng vai trò quyết đònh
đối với KTTT. Nếu KTTT kìm hãm sự phát triển của CSHT thì sớm
hay muộn, bằng cách này hay cách khác, KTTT cũ sẽ được thay thế
bằng KTTT mới tiến bộ hơn để thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển.
2. Sự nhận thức và vận dụng của Đảng ta.
* Đảng ta nhận thức được đặc điểm của sự hình thành CSHT
và KTTT XHCN, đó là:
- Sự hình thành CSHT và KTTT XHCN cũng diễn ra theo
đúng quy luật chung mà CNDV lòch sử đã khái quát.
- CSHT và KTTT XHCN tuy không tự phát hình thành đầy đủ
trong lòng xã hội TBCN, nhưng những tiền đề, mầm mống nhất đònh
thì tất yếu đã nảy sinh từ trong hiện thực của CNTB.
- Khi xây dựng mới cả CSHT và KTTT, thì CNXH sẽ chủ
động kế thừa biện chứng những nhân tố hợp lý của cả CSHT và
KTTT của CNTB, chứ không phải là một quá trình phủ đònh sạch
trơn.
- Trong TKQĐ lên CNXH thì cả CSHT và KTTT đều chưa
thể có đầy đủ những đặc trưng của CNXH. Vì vậy cuộc đấu tranh
giữa cái mới và cái cũ diễn ra hết sức gay go và quyết liệt trên cả
lónh vực KT lẫn chính trò, tư tưởng.

- Khi CNXH hiện thực đã được xây dựng xong, thì tính đối
kháng của cơ sở kinh tế và KTTT có thểû mất đi, nhưng mâu thuẫn thì
vẫn còn. Vì vậy chủ thể của xã hội mới phải thường xuyên chủ động
giải quyết những mâu thuẫn biện chứng để đưa xã hội tiến lên.
- Trong tình hình thế giới hiện nay, vấn đề trung thành, bảo
vệ và phát triển CN M-LN; kết hợp chặt chẽ giữa đổi mới, cải cách
kinh tế với đổi mới hệ thống chính trò theo đònh hướng XHCN có ý
nghóa sống còn đối với các nước XHCN đang tồn tại. Do đó:
+ Phải giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản, tăng
cường vai trò quản lý của Nhà nước, kinh tế nhà nước phải giữ được
vai trò chủ đạo.
+ Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, phải đi đôi
vớùi xây dựng một nền kinh tế tự chủ, giữ vững ổn đònh chính trò, và
không chệnh hướng XHCN.
+ Phải khôi phục lại khối đoàn kết vững chắc trên tất cả các
lónh vực của các nước XHCN còn lại, quyết tâm bảo vệ và phát triển
CNXH hiện thực.
* Từ nhận thức trên, tư tưởng xuyên suốt của Đảng ta từ Đại
hội VI đến nay là: Đổi mới kinh tế phải đi đôi với đổi mới hệ thống
chính trò, không chấp nhận đa nguyên chính trò, đa đảng đối lập; kiên
trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.
- Đại hội X của Đảng nêu quyết tâm tiếp tục thực hiện bài
học mà Đại hội VIII của Đảng đã tổng kết là: “Kết hợp chặt chẽ
ngay từ đầu giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trò, lấy đổi mơi
7
kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trò”
(VKĐH VIII, NXB.CTQG, H.1996, tr 71) và khẳng đònh:
+ “Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai
trò quản lý, điều tiết nền KT của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới
sự lãnh đạo của Đảng”.

+ “Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền XHCN”.
+ “Đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng”
+ “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục đổi
mới phương thức hoạt động của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể
nhân dân”.
(VKĐH Đảng lần thứ X, NXB.CTQG, H.2006, tr 78, 125,
130, 116)
Như vậy, trong quá trình vận dụng, Đảng ta luôn khẳng đònh
đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là quan niệm
đúng đắn hơn về CNXH và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình
thức, bước đi và biện pháp phù hợp, kết hợp sự kiên đònh về nguyên
tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt sáng tạo trong sách
lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới. Đổi mới phải được thực hiện trên
cơ sở bảo vệ, kế thừa và phát huy truyền thống quý báu của dân tộc
và những thành tựu cách mạng đã đạt được. Phê phán nghiêm trò sai
lầm, khuyết điểm phải đi đôi với khẳng đònh những việc làm đúng
không phủ nhận sạch trơn quá khứ, không hoang mang dao động mất
phương hướng từ thái cực này chuyển sang thái cực khác. Phải giữ
vững mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trong quá trình đổi mới;
nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc,
kiên trì chủ nghóa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, gắn với quá trình đổi mới hệ thống chính trò là quá
trình chống quan liêu, tham nhũng chống những hành vi xâm phạm
quyền làm chủ của nhân dân. Tệ quan liêu, tham nhũng làm biến
dạng và xói mòn mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân,
làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Đó là
những vật cản to lớn và thường xuyên của quá trình dân chủ hóa về
tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trò. Vì vậy chống quan liêu

và tham nhũng là những yêu cầu cấp bách. Thường xuyên cần căn
cứ vào những yêu cầu dân chủ để ra øsoát lại cơ chế và bộ máy
Đảng, Nhà nước và đoàn thể để phát hiện những cơ sở của cơ chế và
chính sách mà những cán bộ xấu có thể lợi dụng. Đấu tranh chống tệ
tham nhũng, quan liêu là một quá trình phức tạp đòi hỏi phải kiên
quyết, bền bỉ nghiêm minh từ trên xuống dưới, nghiêm trò mọi kẻ vi
phạm dù ở bất cứ cương vò nào.
Tóm lại, "phải kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới KT với
đổi mới chính trò, lấy đổi mới KT làm trọng tâm đồng thời từng bước
đổi mới chính trò" chính là sự vận dụng đúng đắn mối quan hệ biện
chứng giưã CSHT và KTTT vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của
nước ta hiện nay.
8
Hết.
Câu 3: Quan điểm mác-xít về giai cấp và đấu tranh giai cấp. Ý
nghóa và sự vận dụng của Đảng ta.
BÀI LÀM
1. Giai cấp:
- “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn, gồm những
người khác nhau về đòa vò của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội
nhất đònh trong lòch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường
những quan hệ này được pháp luật quy đònh và thừa nhận) đối với
những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã
hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của
cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập
đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập
đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có đòa vò khác nhau trong một chế
độ kinh tế - xã hội nhất đònh”.
Đònh nghóa này của Lênin cho phép chúng ta nắm được
những đặc trưng chung, cơ bản nhất, những dấu hiệu phổ biến, ổn

đònh nhất của giai cấp dù đó là giai cấp ở thời kỳ lòch sử nào.
Lênin đã tìm nguyên nhân của sự khác nhau của những tập
đoàn người để hình thành lý luận về giai cấp từ trong kinh tế gắn với
chế độ kinh tế, quan hệ kinh tế, tuy nhiên không nên xem giai cấp là
một phạm trù kinh tế thuần tuý mà giai cấp là một phạm trù kinh tế -
xã hội có tính lòch sử, bởi vì ngoài sự khác biệt bởi những yếu tố vật
chất (các quan hệ vật chất trong quan hệ sản xuất) thì các giai cấp
còn khác nhau về lối sống tâm lý và tư tưởng.
Các tập đoàn người trong một phương thức sản xuất nhất đònh
là các giai cấp khi họ có sự khác nhau ở ba phương diện cơ bản trong
quan hệ sản xuất:
Thứ nhất, khác nhau về quan hệ đối với tư liệu sản xuất. Đây
là sự khác nhau cơ bản nhất. Chính quan hệ này quy đònh giai cấp
bóc lột và giai cấp bò bóc lột. Trong các phương thức sản xuất trong
lòch sử, các tập đoàn người chiếm giữ tư liệu sản xuất luôn giữ vai
trò thống trò không chỉ về kinh tế mà còn cả về chính trò và tư tưởng.
Chủ nô, đòa chủ phong kiến, tư sản là những tập đoàn người giữ đòa
vò thống trò trong hệ thống kinh tế xã hội mà họ là đại biểu, trước hết
vì các tập đoàn người này chiếm hữu tư liệu sản xuất xã hội, tức là
nắm phương tiện, điều kiện vật chất quan trọng nhất để chi phối lao
động của các tập đoàn người không có hoặc rất ít tư liệu sản xuất.
Những tập đoàn người bò mất tư liệu sản xuất (nô lệ, nông dân, vô
sản) buộc phải phụ thuộc về kinh tế vào các tập đoàn thống trò.
Thứ hai là khác nhau về vai trò trong tổ chức lao động xã
hội, trong tổ chức quản lý sản xuất. Tập đoàn nào chiếm hữu tư liệu
sản xuất đương nhiên giữ vai trò lãnh đạo, chỉ huy hoạt động sản
xuất, lưu thông trên quy mô toàn xã hội cũng như từng đơn vò kinh
tế. Các giai cấp lao động là những tập đoàn người trực tiếp sản xuất
dưới sự điều khiển của giai cấp thống trò trong phương thức sản xuất.
Mặc dù ngày nay chủ nghóa tư bản đã điều chỉnh các quan hệ sản

xuất bằng cách cổ phần hoá các công ty, công nhân nắm một phần
9
cổ phần, cổ phiếu của công ty, hay công nhân có người đại diện ở
hội đồng quản trò, song về thực chất vai trò quản lý vẫn thuộc về các
tập đoàn tư bản.
Thứ ba là khác nhau về phương thức thu nhận của cải xã
hội. Những tập đoàn người nào chiếm hữu tư liệu sản xuất, nắm tổ
chức lao động và tổ chức quản lý xã hội thì đương nhiên họ sẽ nhận
phần nhiều trong việc phân chia của cải làm ra. Trong xã hội có giai
cấp đối kháng, chế độ phân phối sản phẩm là chế độ bất công. Giai
cấp thống trò (chỉ chiếm thiểu số trong dân cư, không trực tiếp sản
xuất) chiếm phần lớn của cải xã hội, còn giai cấp lao động (chiếm
phần đông dân số, trực tiếp sản xuất) chỉ chiếm một phần ít ỏi của
cải mà họ là ra. Chẳng hạn trong xã hội Mỹ ngày nay, giai cấp giàu
có chỉ chiếm 10% dân số nhưng lại chiếm đến hơn 90% của cải của
xã hội, trong khi đó các giai cấp, tầng lớp nghèo thì chiếm đến hơn
90% dân số nhưng chỉ chiếm chưa đầy 10% của cải toàn xã hội. Giai
cấp tư sản, nhất là đại tư bản, chiếm hữu của cải xã hội dưới hình
thức thu lợi nhuận, tính bằng giá trò thặng dư. Lao động càng có trình
độ cao thì giá trò thặng dư càng lớn. Sự bóc lột giá trò thặng dư ngày
càng tăng trong xã hội tư bản nhưng đời sống của người lao động
không được cải thiện là bao.
Chính sự khác nhau về những yếu tố trên của các tập đoàn
người là nguyên nhân dẫn tới sự bóc lột trong xã hội có đối kháng
giai cấp. Trong xã hội tư bản đương đại, bộ mặt các giai cấp và các
quan hệ giai cấp có những biến đổi đáng kể. Với hàm lượng tri thức
trong một đơn vò sản phẩm ngày càng tăng thì đội ngũ công nhân kỹ
thuật cao, lao động trí tuệ ngày một nhiều, trở thành bộ phận tiêu
biểu cho giai cấp công nhân hiện đại, đồng thời với nó, lượng công
nhân “áo xanh” ngày càng giảm. Bên cạnh đó, sự phát triển của các

công ty cổ phần, về hình thức đã làm thay đổi một phần quan hệ giai
cấp - tức là xu thế xã hội hoá tư sản, nhưng về thực chất nó không
làm thay đổi bản chất của giai cấp tư sản và giai cấp công nhân,
không làm thay đổi bản chất quan hệ giữa tư bản và lao động. Giai
cấp tư sản vẫn là những người chiếm hữu tư liệu sản xuất của xã hội,
những người chỉ huy sản xuất, những người chiếm hữu giá trò thặng
dư.
Theo Mác, giai cấp không tồn tại trong mọi xã hội, mà: “Sự
tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển
lòch sử nhất đònh của sản xuất”. Sự hình thành giai cấp là do nguyên
nhân về kinh tế.
Trong xã hội nguyên thuỷ, khi lực lượng sản xuất còn thấp
kém, con người làm ra của cải vật chất chỉ đủ để tồn tại, chưa có sản
phẩm dư thừa, do đó chưa xuất hiện giai cấp. Cuối xã hội nguyên
thuỷ, lực lượng sản xuất phát triển (công cụ bằng kim loại được phổ
biến) dẫn đến phân công lao động: thủ công nghiệp tách khỏi nông
nghiệp. Trao đổi sản phẩm trở thành hoạt động thường xuyên, phổ
biến. Quan hệ sản xuất nguyên thuỷ không còn phù hợp với lực
lượng sản xuất mới nữa. Chế độ tư hữu xuất hiện dần dần thay thế
chế độ công hữu nguyên thuỷ về tư liệu sản xuất. Các gia đình có tài
sản riêng ngày càng nhiều, trong xã hội công xã xuất hiện sự chênh
lệch về tài sản. Những người có quyền lực trong thò tộc, bộ lạc đã có
thể lợi dụng đòa vò của mình để chiếm đoạt của cải của công xã làm
của riêng. Sự phát triển của lực lượng sản xuất sang trình độ mới tạo
khả năng và tiền đề phân hoá xã hội thành giai cấp. Chế độ tư hữu
về tư liệu sản xuất là cơ sở trực tiếp của sự hình thành các giai cấp.
Theo Mác và Ăngghen, xã hội có giai cấp không tồn tại vónh
cửu mà chỉ là một giai đoạn tất yếu của lòch sử loài người. Hai ông
cho rằng sự phân chia xã hội thành giai cấp sẽ bò sự phát triển đầy
10

đủ của những lực lượng sản xuất hiện đại xoá bỏ. Và 2 ông dự kiến
về một xã hội tương lai, trong đó khoa học trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp, một nền sản xuất tự động hoá cao cho phép người lao
động tách khỏi quá trình sản xuất trực tiếp, trở thành những người
điều khiển sản xuất. Sự phát triển rất cao của lực lượng sản xuất làm
cho sự phân chia giai cấp mất tính tất yếu; đặc biệt là sự phát triển
cao và toàn diện của con người. Đó sẽ là một xã hội không còn phân
chia giai cấp. Hai ông cũng chứng minh sự phát triển của chủ nghóa
tư bản sẽ tạo tiền đề kinh tế - xã hội cho xã hội không còn giai cấp.
Song các giai cấp không tự mất đi, để tiến tới một xã hội không còn
giai cấp thì giai cấp công nhân, nhân dân lao động phải tiến hành
cuộc đấu tranh tự giác, có tổ chức, tiến tới giành lấy dân chủ, thiết
lập chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dựa
vào công cụ đó để thực hiện công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hộâi mới không có giai cấp. Đó là một thời kỳ lòch sử lâu dài, phải
trải qua nhiều bước trung gian quá độ hết sức phức tạp.
2. Đấu tranh giai cấp
Đây là hệ quả tất yếu của xã hội có giai cấp, như Mác nói, ở
đâu có áp bức là ở đó có đấu tranh. Trong xã hội có giai cấp, giai
cấp thống trò chiếm đoạt lao động của các giai cấp và tầng lớp bò trò.
Các giai cấp và tầng lớp bò trò không những bò chiếm đoạt kết quả
lao động mà họ còn bò áp bức cả về chính trò, tinh thần.
Thực chất của cuộc đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giải
quyết mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa quần chúng bò áp bức, vô sản đi
làm thuê chống lại giai cấp thống trò, chống lại bọn đặc quyền, đặc
lợi, những kẻ đi áp bức, bóc lột. Lênin nhấn mạnh rằng, đấu tranh
giai cấp trong lòch sử và trong thời đại ngày nay thực chất là “cuộc
đấu tranh của quần chúng bò tước hết quyền, bò áp bức và bò lao
động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám,
cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những

người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”.
Đấu tranh giai cấp là một tất yếu lòch sử, có nguyên nhân
khách quan từ sự phát triển mang tính xã hội hoá ngày càng sâu rộng
của lực lượng sản xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất. Biểu hiện của mâu thuẫn này về phương diện xã hội là mâu
thuẫn giữa một bên là giai cấp cách mạng, tiến bộ, đại diện cho
phương thức sản xuất mới, với một bên là giai cấp thống trò, bóc lột,
đại biểu cho những lợi ích gắn với quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc
hậu.
Các cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra dưới nhiều hình thức khác
nhau tuỳ thuộc vào hoàn cảnh lòch sử, vào các giai cấp tham gia đấu
tranh, vào giai đoạn phát triển của cuộc đấu tranh. Chẳng hạn, trong
xã hội tư bản mới hình thành, đấu tranh của giai cấp công nhân diễn
ra dưới hình thức các cuộc đấu tranh lẻ tẻ, cục bộ, tự phát như đấu
tranh của một xí nghiệp, một đòa phương, đòi tăng lương, giảm giờ
làm, cải thiện điều kiện lao động, và thường là không có hiệu quả
do thiếu tổ chức, thiếu đoàn kết. Lênin cho rằng các cuộc đấu tranh
đó chỉ là “mầm mống yếu ớt” của đấu tranh giai cấp. Đấu tranh của
giai cấp công nhân chỉ trở thành cuộc đấu tranh giai cấp công nhân
thực sự khi nó phát triển thành cuộc đấu tranh toàn quốc hoặc ít nhất
cũng có quy mô rộng lớn, nhằm chống lại quyền lực chính trò của
giai cấp tư sản.
Trong xã hội tư bản, đấu tranh của giai cấp công nhân có ba
hình thức cơ bản đó là đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trò và đấu
tranh tư tưởng. cả ba cuộc đấu tranh này đều rất quan trọng; giai cấp
11
công nhân muốn giành được thắng lợi cuối cùng thì sử dụng cả ba
hình thức đấu tranh trên.
Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển
quan trọng của các xã hội có giai cấp. Trong một phương thức sản

xuất, lực lượng sản xuất bao giờ cũng là yếu tố động, còn quan hệ
sản xuất là yếu tố tónh. Sự phù hợp giữa LLSX và QHSX là điều
kiện cơ bản để sản xuất phát triển thuận lợi, tạo cơ sở cho sự phát
triển mọi mặt của đời sống xã hội. Khi LLSX phát triển nhanh làm
cho QHSX lỗi thời, trở thành xiềng xích của LLSX dẫn đến cuộc
khủng hoảng phá hoại LLSX. Trong các xã hội có đối kháng giai
cấp, những QHSX lỗi thời không tự động nhường chỗ cho QHSX
mới. Chúng được giai cấp thống trò bảo vệ bằng tất cả sức mạnh
chính trò, kinh tế, tư tưởng, đặc biệt là bằng bạo lực có tổ chức. Muốn
thay đổi QHSX để giải phóng sức sản xuất chỉ có thể thực hiện được
qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
Đỉnh cao của đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến cách
mạng xã hội thay thế phương thức sản xuất cũ bằng một phương thức
sản xuất mới tiến bộ hơn. Có thể nói, cách mạng xã hội như là đòn
bẩy thay đổi các hình thái kinh tế - xã hội. Vì vậy, “Đấu tranh giai
cấp là động lực trực tiếp của lòch sử các xã hội có giai cấp”.
Đấu tranh giai cấp góp phần xoá bỏ các thế lực phản động,
lạc hậu, đồng thời cải tạo bản thân giai cấp cách mạng. Giai cấp nào
đại diện cho phương thức sản xuất mới giai cấp đó sẽ lãnh đạo cách
mạng.
Đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là
cuộc đấu tranh cuối cùng trong lòch sử xã hội có giai cấp. Nó là cuộc
đấu tranh khác về chất so với các cuộc đấu tranh trước đó trong lòch
sử. Mục tiêu của cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân là thay đổi
về căn bản sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất bằng sở hữu xã hội
qua đó giải phóng toàn xã hội khỏi ách áp bức, bóc lột, khỏi sự phân
chia giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Đây là một quá trình đấu tranh rất lâu dài và vô cùng phức
tạp. Kể cả khi giai cấp công nhân giành được chính quyền thì đấu
tranh giai cấp cũng chưa biến mất mà nó sẽ diễn ra trong điều kiện

mới. Trong thời kỳ giai cấp công nhân giành được chính quyền đó -
thời kỳ quá độ lên chủ nghóa xã hội, mục tiêu đấu tranh cũng thay
đổi từ giành chính quyền chuyển sang củng cố chính quyền và xây
dựng thành công chủ nghóa xã hội. Đồng thời hình thức đấu tranh của
giai cấp công nhân cũng thay đổi, Lênin nói: “Trong điều kiện
chuyên chính vô sản, những hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp
vô sản không thể giống như trước được”. Cuộc đấu tranh giai cấp
trong thời kỳ quá độ diễn ra trên tất cả các lónh vực: chính trò, kinh
tế, xã hội, văn hoá, tư tưởng. Do đó, giai cấp công nhân phải sử dụng
tổng hợp và linh hoạt các hình thức đấu tranh mới, trong đó có đấu
tranh bằng bạo lực và hoà bình, bằng giáo dục thuyết phục và bằng
hành chính, pháp chế, bằng chính trò, quân sự và bằng kinh tế,
Liên hệ thực tiễn.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghóa xã hội ở nước ta, xã hội
vẫn tồn tại lâu dài các giai cấp, các mâu thuẫn giai cấp. Đấu tranh
giai cấp là một thực tế khách quan không thể tránh khỏi. Do bối
cảnh lòch sử của quá trình hình thành giai cấp và điều kiện mới của
xu thế quốc tế hoá mà đấu tranh giai cấp ở Việt Nam có những đặc
điểm riêng và rất phức tạp.
Đại hội Đại IX của Đảng khẳng đònh: Hiện nay và cả trong
thời kỳ quá độ của nước ta vẫn tồn tại một cách khách quan các giai
cấp và đấu tranh giai cấp. Nhưng đấu tranh giai cấp ở nước ta diễn ra
12
trong điều kiện mới với những nội dung mới và bằng những hình
thức mới. Bởi vì cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế - xã hội,
dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước, cơ cấu giai
cấp, nội dung, tính chất, vò trí của các giai cấp trong xã hội ta cũng
đã thay đổi nhiều, nó khác với thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ
trong những năm đầu chúng ta mới giành được chính quyền.
Mối quan hệ giữa các giai cấp không còn như trước nữa.

Ngày nay mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp chủ yếu là
mối quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân nhằm tăng
cường khối đoàn kết trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích của giai cấp công nhân thống
nhất với lợi ích của toàn dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghóa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường xã hội
chủ nghóa và tư bản chủ nghóa gắn liền với cuộc đấu tranh bảo vệ
độc lập dân tộc, chống áp bức bất công, chống bóc lột, chống nghèo
nàn, lạc hậu, khắc phục tình trạng đói nghèo, kém phát triển. Vì vậy,
nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay ở
nước ta là: "thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá theo đònh hướng xã hội chủ nghóa, khắc phục tình trạng nước
nghèo, kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức bất
công, đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những tư tưởng và hành động
tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động
chống phá của các thế lực thù đòch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây
dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghóa phồn vinh, nhân dân
hạnh phúc". Đồng thời Đảng ta khẳng đònh: "Động lực chủ yếu để
phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh
giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo”. Đại
đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố đảm bảo thắng lợi bền vững của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tóm lại, trong xây dựng chủ nghóa xã hội và bảo vệ tổ quốc
xã hội chủ nghóa phải nắm vững quan điểm giai cấp của chủ nghóa
Mác - Lênin. Đó là quan điểm khoa học và cách mạng. Sự tuyệt đối
hoá đấu tranh giai cấp, sự cường điệu đấu tranh giai cấp cũng như sự
mơ hồ về đấu tranh giai cấp đều trái với quan điểm giai cấp của chủ
nghóa Mác - Lênin, điều này gây tổn hại cho sự nghiệp xây dựng chủ

nghóa xã hội ở nước ta.
Hết.
13
14
Hết.
Câu 4 : Quan điểm mác xít về nhà nước. Vận dụng quan điểm nhà
nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân.
BÀI LÀM
Nhà nước là một phạm trù lòch sử. Không phải Xh loài người
ngay từ khi hình thành đã có Nhà nước. Có một thời kỳ lòch sử XH
chưa có Nhà nước: thời kỳ CSNT. Chỉ khi đến nền SX XH phát triển
đến một trình độ nhất đònh, XH phân chia thành GC, thì Nhà nước
mới ra đời.
Với sự ra đời của công cụ sx bằng kim loại, LLSX đã có sự
phát triển vượt bậc, của cải XH đã dư thừa và chế độ tư hữu ra đời,
XH phân chia thành những GC đối kháng: Chủ nô và nô lệ. Mâu
thuẫn giữa các GC bóc lột và bò bóc lột ngày càng trở nên gay gắt và
dẫn đến đấu tranh giai cấp, cuộc đấu tranh giữa các GC đó diễn ra
không ngừng và ngày càng quyết liệt không thể điều hoà được. Để
bảo vệ lợi ích giai cấp của mình, GC chủ nô đã lập ra một bộ máy
bạo lực, trấn áp. Bộ máy đó chính là Nhà nước. Nhà nước đầu tiên
xuất hiện trong lòch sử là Nhà nước CHNL, tiếp đó là Nhà nước
Phong kiến, Nhà nước tư sản, Nhà nước XHCN, những nhà nước đó
xuất hiện đều từ mâu thuẫn đối kháng GC không thể đều hoà được.
Như vậy, nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự ra đời của nhà nước là từ KT,
từ sự phát triển của LLSX, nguồn gốc trực tiếp về KT-XH dẫn đến
sự ra đời và tồn tại của nhà nước là do có chế độ tư hữu và “mâu
thuẫn GC không thễ điều hoà được.”
Nhà nước là bộ máy cưỡng chế đặc biệt nằm trong tay GC

cầm quyền, là công cụ sắc bén nhất để duy trì sự thống trò GC cho
nên bản chất Nhà nước bao giờ cũng mang tính GC sâu sắc. Các nhà
sáng lập Chủ nghóa Mác cho rằng: Bản chất của Nhà nước chẳng qua
chỉ là cơ quan áp bức của một giai cấp này đối với một giai cấp khác
mà thôi. Hoặc nhà nước là tổ chức quyền lực chính trò của một giai
cấp, giai câp này thống trò về mặt kinh tế vì thế cho nên thống trò cả
về mặt chính trò.
Trong XH có GC, sự thống trò của GC này đối với Gc khác
được thể hiện dưới 3 loại quyền lực: quyền lực chính trò, quyền lực
KT, tư tưởng, trong đó quyền lực KT giữ vai trò quyết đònh nhưng
bản thân nó không thể duy trì được vai trò thống trò và đàn áp được
sự phản kháng của GC bò trò, vì vậy phải có Nhà nước để cũng cố và
bảo vệ những quyền lực ấy. Với tính cách là nền chuyên chính của
một giai cấp đối với giai cấp khác, Nhà nước của các gc bóc lột
không thể là kẻ công bằng để bảo vệ lợi ích cho các gc trong xh.
Như vậy, Nhà nước là một bộ máy đặc biệt để đảm bảo và thực hiện
quyền lực thống trò về KT, tư tưởng, chính trò. Ngoài việc thực hiện
chức năng đó, Nhà nước còn phải giải quyết tất cả các vấn đề khác
nảy sinh trong XH, nghóa là thực hiện chức năng xh. Vì vậy, Nhà
nước là một hiện tượng phức tạp và đa dạng, vừa mang bản chất GC
vừa mang tính XH. Theo bản chất đó Nhà nước là một tổ chức của
15
quyền lực chính trò, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và
thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự XH,
thực hiện những mục đích để bảo vệ lợi ích của Gc thống trò trong
xh. Mỗi kiểu Nhà nước có bản chất riêng nhưng đều mang một số
đặc điểm chung. Nhà nước XHCN cũng có những nét chung đó
nhưng với bản chất là chuyên chính vô sản, nó không còn là Nhà
nước theo đúng nghóa mà chỉ là “nữa Nhà nước”.
Nhà nước của giai cấp bóc lột có hai chức năng cơ bản là:

Chức năng đối nội: chức năng này có 2 mặt: mặt thứ nhất là
duy trì trật tự KT, XH, chính trò và các trật tự XH khác theo luật pháp
của GC thống trò. Đồng thời sử dụng các phương tiện khác như bộ
máy thông tin, tuyên truyền văn hoá, giáo dục… để xác lập và củng
cố hệ tư tưởng của giai cấp bóc lột biến nó thành tư tưởøng thống trò
trong xh (đây là chức năng GC). Mặt thứ hai: quản lý và giải quyết
các nhu cầu của Xh (cũng còn gọi là chức năng quản lý công cộng.
Hai mặt của chức năng đối nội có quan hệ biện chứng trong đó mặt
thống trò giai cấp là mục đích, còn mặt XH là cơ sở, là điều kiện để
thực hiện chức năng giai cấp.
Chức năng đối ngoại: chức năng đối ngoại nhằm bảo vệ lãnh
thổ quốc gia và quan hệ với các nước khác vì lợi ích của giai cấp
thống trò và lợi ích quốc gia.
Hai chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nùc là một thể
thống nhất, chức năng đối nội là chủ yếu và có ý nghóa quyết đònh.
Chức năng đối ngoại là kế tục chức năng đối nội.
Trong lòch sử phát triển của mình, Nhà nước có những kiểu
sau: Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản, Nhà
nước XHCN. Các kiểu Nhà nước chủ nô, Phong kiến, tư sản mặc dù
có những đặc điểm riêng nhưng đều là những “Nhà nước theo đúng
nghóa” đïc xây dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về TLSX và là
công cụ để duy trì sự thống trò của giai cấp bóc lột đối với đông đảo
quần chúng nhân dân lao động. Khác với các kiểu Nhà nước bóc lột,
Nhà nước XHCN là “nữa Nhà nước” tức là Nhà nước của nhân dân
lao động, thực hiện dân chủ và công bằng XH cho tất cả công dân.
Sự thay đổi kiểu Nhà nước này bằng kiểu Nhà nước mới tiến
bộ hơn là quy luật tất yếu phù hợp với quy luật về sự phát triển và
thay thế của các hình thái KT-XH. Cách mạng XH là con đường dẫn
đến sự thay đổi đó.
Nhà nước XHCN ra đời và tồn tại trong thời kỳ quá độ từ xh

tư bản lên xã hội cộng sản là tất yếu khách quan của lòch sử. Vì thời
kỳ quá độ là thời kỳ còn tồn tại GC, còn có đấu tranh GC. Đó là thời
kỳ cải biến cách mạng liên tục và phức tạp để xoá bỏ XH cũ, xây
dựng Xh mới. Để làm đïc việc đó thì chuyên chính của một GC
cách mạng (chuyên chính vô sản) là tất yếu để trấn áp kẻ thù vừa để
tổ chức XH mới, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Nhà nước XHCN là Nhà nước kiểu mới nó là Nhà nước của dân, do
dân và vì dân. Nhà nước XHCN là Nhà nước chuyên chính vô sản
nhưng bản chất của chuyên chính vô sản lại là thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân lao động do đó Nhà nước XHCN có sự thống nhất
giữa tính GC và tính nhân dân. Tính GC thể hiện ở sự lãnh đạo của
Đảng Cộng Sản và lấy chủ nghóa Mác-Lênin làm nền tảng. Tính
nhân dân thể hiện ở toàn bộ quyền lực của nhân dân lao động. Nó
dân chủ với đa số nhân dân và chuyên chính với thiểu số kẻ thù của
nhân dân.
Nhà nước XHCN lấy chức năng tổ chức xây dựng xh mới làm
chức năng chủ yếu. Đương nhiên Nhà nước XHCN cũng có chức
năng trấn áp GC bóc lột, các lực lượng thù đòch của nhân dân nhưng
16
chức năng xây dựng là chủ yếu vì có tổ chức xây dựng thành công
xh mới, mới bảo đảm thắng lợi hoàn toàn và triệt để của CNXH.
Chức năng tổ chức xây dựng XH mới là nhiệm vụ hoàn toàn mới mẽ
và đầy khó khăn phức tạp do đó đòi hỏi tính năng động sáng tạo.
Mọi hiện tượng trì trệ, bảo thủ đặc biệt là chủ nghóa quan liêu, là
hiện tượng xa lạ với bản chất của Nhà nước XHCN. Song cũng phải
nhận thấy rằng sự tồn tại của Nhà nước XHCN cũng chỉ là quá độ đi
đến thủ tiêu vì Nhà nước vô sản (Nhà nước XHCN) là Nhà nước đặc
biệt “Nhà nước tự tiêu vong”. Đây là một quá trình lâu dài. Sự tiêu
vong không phải là quá trình giảm vai trò và hiệu lực của Nhà nước
mà là quá trình tăng cường và hoàn thiện không ngừng Nhà nước,

tăng cường và hoàn thiện chế độ dân chủ là điều kiện để Nhà nước
rút khỏi vũ đài lòch sử. Đó là biện chứng của quá trình phát triển
hoàn thiện Nhà nước thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNCS.
Quán triệt quan điểm Mác-xít về Nhà nước, Đảng ta xem
Nhà nước XHCN “là cột trụ của hệ thống chính trò, là công cụ thực
hiện quyền lực của nhân dân”; nó được tổ chức theo nguyên tắc Nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân; lấy liên minh g/c
CN với g/c ND và tầng lớp trí thức làm nền tảng, đặt dưới sự lãnh
đạo của ĐCSVN. Trong tổ chức và hoạt động của mình, quyền lực
nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất, nhưng có sự phân
công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan NN trong việc thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam có những đặc trưng
cơ bản như sau:
Một là, đó là NN của dân do dân và vì dân; tất cả quyền lực
NN thuộc về nhân dân.
Hai là, quyền lực NN là thống nhất, có sự phân công rành
mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan NN trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Ba là, NN được tổ chức và hoạt động trên cơ sở hiến pháp,
pháp luật và bảo đảm cho hiến pháp và các đạo luật giữ vò trí tối
thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lónh vực của đời
sống XH.
Bốn là, NN tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền
công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa NN và công dân; thực
hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.
Năm là, NN pháp quyền XHCN do Đảng CSVN lãnh đạo,
đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân, sự phản biện XH của
MTTQ VN và các tổ chức thành viên của mặt trận.
Trong quá trình xd NN pháp quyền XHCN, chúng ta đã đạt

được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng đồng thời vẫn còn những
hạn chế yếu kém nhất đònh.
Về thành tựu, Đại hội X của Đảng xác đònh: “Xd NN pháp
quyền XHCN có tiến bộ trên cả 3 lónh vực lập pháp, hành pháp và tư
pháp” (VKĐHĐ lần thứ X, NXB.CTQG, H.2006, tr 60). Cải cách
hành chính có bước tiến mới, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được
tăng cường; dân chủ trong xã hội tiếp tục được phát huy; an ninh chính
trị, trật tự an tồn xã hội được bảo đảm, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ
được giữ vững.
Về yếu kém Đại hội X của Đảng cũng xác đònh: “Tổ chức và
hoạt động của NN, MTTQ và các đoàn thể nhân dân còn một số
khâu chậm đổi mới” (VKĐHĐ lần thứ X, NXB.CTQG, H.2006, tr
64). Những yếu kém của bộ máy quản lý nhà nước và cơng tác cán bộ
17
chậm được khắc phục. Cải cách hành chính chưa đạt u cầu, chưa gắn
với xây dựng và chỉnh đốn Đảng, với đổi mới phương thức và nâng cao
hiệu quả hoạt động của Quốc hội, chưa phối hợp chặt chẽ với cải cách
và đổi mới hoạt động tư pháp. Cải cách tư pháp chưa theo kịp u cầu
phát triển. Năng lực và phẩm chất của nhiều cán bộ, cơng chức còn yếu,
một bộ phận khơng nhỏ thối hố, biến chất. Dân chủ ở nhiều nơi bị vi
phạm, kỷ cương phép nước chưa nghiêm. Quan liêu, tham nhũng, lãng
phí còn nghiêm trọng, đặc biệt là tình trạng nhũng nhiễu, cửa quyền,
thiếu trách nhiệm của bộ phận khơng nhỏ cán bộ, cơng chức, nhất là ở các
cơ quan giải quyết cơng việc cho dân và doanh nghiệp. Bộ máy chính
quyền cơ sở nhiều nơi yếu kém.
Từ thực trạng trên, để Nhà nước ta thực sự là Nhà nước của
dân, do dân và vì dân, một Nhà nước trong sạch vững mạnh, có hiệu
lực và hiệu quả, Đảng ta đã xác đònh phải thực hiện đồng bộ một
loạt các nhiệm vụ: đổi mới nâng cao chất lượng công tác lập pháp và
giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của Nhà

nước; đẩy mạnh đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng. Tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Củng cố khối
liên minh công-nông-trí thức, khối đại đoàn kết toàn dân. “Cải cách
tổ chức và hoạt động của Nhà nước gắn liền với XD Chỉnh đốn
Đảng, đổi mới nội dung phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước. Xây dựng bộ máy Nhà nước tinh gọn, nâng cao chất lượng
hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên trong các cơ quan Nhà
nước” (VKĐH IX, tr.131, 132). Đại hội X của Đảng cũng chỉ rõ
phương hướng xây dựng NN pháp quyền XHCN ở nước ta như sau:
“Xây dựng cơ chế vận hành của NN pháp quyền XHCN, bảo đảm
nguyên tắc tất cả quyền lực NN đều thuộc về nhân dân; quyền lực
NN là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong
việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” (VKĐHĐ lần
thứ X, NXB.CTQG, H.2006, tr 126).
Nhìn chung, thực hiện tốt các biện pháp và phương hướng xây
dựng NN pháp quyền XHCN nêu trên chính là sự vận dụng sáng tạo
quan điểm Mác xít về nhà nước của Đảng ta. Chắc chắn chúng ta sẽ
đạt được bước tiến căn bản trong việc hoàn thiện Nhà nước Cộâng
hòa xã hội chủ nghóa Việt Nam, góp phần xây dựng thành công
CNXH ở nước ta.
18
Hết.
Câu 5: Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội. Ý nghóa phương pháp luận và sự vận dụng của Đảng ta.
BÀI LÀM
XH loài người tồn tại và phát triển theo những qui luật khách
quan và những quy luật đó được thực hiện thông qua hoạt động có ý
thức của con người. Do đó, nhận thức đúng đắn bản chất của ý thức
XH và sự chuyển hoá cái tư tưởng thành cái hiện thực trong đời sống
XH có ý nghóa rất quan trọng để hiểu lòch sử XH loài người. Triết

học Mác-Lênin vạch ra rằng ý thức XH là sự phản ảnh của tồn tại
XH đồng thời chỉ rõ vai trò sáng tạo tích cực của ý thức XH trong sự
phát triển của XH. Trên cơ sở đó đi sâu nghiên cứu mối quan hệ
biện chứng giữa TTXH và YTXH, nêu lên phương pháp luận và làm
rõ quan điểm đổi mới của Đảng ta về vấn đề này.
* TTXH, theo quan niệm duy vật lòch sử, là sinh hoạt vật chất
cùng toàn bộ những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. TTXH
bao gồm những yếu tố chính là PTSX vật chất, điều kiện tự nhiên -
hoàn cảnh đòa lý và điều kiện dân số. Trong các yếu tố đó PTSX là
yếu tố cơ bản nhất giữ vai trò quyết đònh sự tồn tại và phát triển của
XH. PTSX còn làm thay đổi ý nghóa của hoàn cảnh đòa lý và điều
kiện dân số trong sự phát triển của XH.
* YTXH là mặt tinh thần của đời sống XH, bao gồm những
quan điểm tư tûng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống…
nảy sinh từ TTXH và phản ánh TTXH trong những giai đoạn phát
triển nhất đònh.
Căn cứ vào mức độ xem xét có thể phân YTXH thành YTXH
thông thường và ý thức luận, tâm lý XH và hệ tư tưởng. Trong XH có
giai cấp, các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật chất khác
nhau những lợi ích khác nhau do đòa vò XH cũa mỗi giai cấp quy đònh
nên YTXH của giai cấp có nội dung và hình thức khác nhau hoặc đối
lập nhau. Nói cách khác YTXH mang tính giai cấp trong XH có giai
cấp và ý thức thống trò trong mỗi thời đại là ý thức của giai cấp
thống trò, GC thống trò luôn tìm cách hạn chế ý thức của GC bò trò và
truyền bá ý thức của GC mình thành của XH.
Các nhà duy tâm khi nghiên cứu về YTXH họ đều tách khỏi
cơ sở KT, họ muốn đi tìm nguồn gốc của ý thức tư tưởng trong bản
thân ý thức tư tưởng, xem tinh thần, tư tưởng là nguồn gốc của mọi
hiện tượng là nguồn gốc của mọi hiện tượng XH, quyết đònh sự phát
triển XH và trình bày lòch sử các hình thái YTXH tách rời cơ sở KT-

XH. Chủ nghóa duy vật lòch sử đã đặt ý thức XH trong quan hệ với cơ
sở vật chất, với cơ sở KT để nghiên cứu và từ đó khẳng đònh YTXH
và TTXH có quan hệ biện chứng với nahu. Trong mối quan hệ đó
TTXH quyết đònh đối với YTXH , YTXH là sự phản ánh của TTXH,
phụ thuộc vào TTXH. YTXH là sự phản ánh của TTXH cho ta khẳng
19
đònh TTXH là nguồn gốc nội dung của YTXH. TTXH sinh ra YTXH,
TTXH như thế nào thì YTXH như thế ấy, khi TTXH nhất là PTSX
biến đổi thì những tư tưởng và lý luận XH, những quan điểm về
chính trò, pháp quyền, triết học, đạo đức, VH, nghệ thuật… sớm muộn
sẽ biến đổi theo. Trong lòch sử XH loài người thì sự thay đổi và phát
triển của YTXH trước hết là xuất phát từ sự thay đổi và phát triển
của PTSX. Vì vậy chúng ta phải tìm nguồn gốc của ý thức XH trong
đời sống vật chất của XH trước hết là trong mối quan hệ giữa LLSX
và QHSX. Trong XH có giai cấp YTXH mang tính GC, không có ý
thức chung cho mọi GC mà chỉ có ý thức chung cho một GC nhất
đònh.
Chúng ta cần lưu ý rằng: nói YTXH là sự phản ánh tồn tại
XH là nói nguồn gốc và nội dung của YTXH. YTXH là do TTXH
sinh ra, nội dung của nó là kết quả của sự phản ánh tồn tại XH khi
TTXH tác động vào suy nghó và nhận thức của chủ thể thì hình thành
những quan điễm, nhận đònh và thái độ của chủ thể. Sự phản ánh
của YTXH bao giờ cũng xuyên qua một mắc khâu là lợi ích, do đó
xem xét nội dung của YTXH phải gắn chặt với với quan hệ lợi ích.
YTXH là sự phản ánh TTXH nhưng không phải bất cứ tư tưởng nào,
một hình thức YTXH nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp các
quan hệ KT của thời đại mà nó có thể trực tiếp hoặc gián tiếp qua
khâu trung gian để phản ánh nhưng xét đến cùng bằng cách này hay
cách khác nó vẫn phản ánh các quan hệ KT của thời đại. Thực tiễn
lòch sử đã chứng minh các thời đại khác nhau có những tư tûng khác

nhau đều bắt nguồn từ sự khác nhau của cơ sở KT. Như vậy, triết học
Mác-Lênin đòi hỏi phải có thái độ biện chứng khi xem xét sự phản
ánh tồn tại XH của YTXH.
Khi khẳng đònh vai trò quyết đònh của TTXH đối với YTXH,
YTXH là sự phản ánh của TTXH, phụ thuộc vào TTXH, chủ nghóa
duy vật lòch sử không xem YTXH như là một yếu tố thụ động trái lại
còn nhấn mạnh tác động tích cực của YTXH đối với đời sống XH-
KT, nhấn mạnh tích độc lập tương đối của YTXH trong mối quan hệ
với TTXH. Nói cách khác YTXH không phụ thuộc vào TTXH một
cách thụ động cũng không phải là sự phản ánh TTXH một cách giản
đơn máy móc mà là sự tác động phản ánh tích cực sáng tạo đối với
TTXH. Đó không chỉ là biểu hiện tính độc lập tương đối của YTXH
đối với TTXH nói chung mà còn là sự thể hiện chức năng đặc thù
của YTXH như một nhân tố sáng ạto tích cực của con người ra đời
sống XH của chính mình. Sự thống nhất giữa chức năng phản ánh và
chức năng sáng tạo tích cực của YTXH đối với TTXH biểu hiện ở
chổ YTXH vừa vượt trước vừa lạc hậu so với sự phát triển của tồn
tại XH.
Sự lạc hậu của YTXH : thøng xảy ra khi YTXH không
phản ánh kòp thời sự phát triển của đời sống XH, YTXH tồn tại lâu
hơn điều kiện vật chất sinh ra nó. Dưới gốc độ nhận thức YTXH chỉ
là cái phản ánh do TTXH sinh ra nên thường có sau TTXH còn
TTXH gắn liền với nhu cầu trực tiếp nên thường biến đổi nhanh hơn.
Sự lạc hậu của YTXH còn thể hiện ở những tư tưởng và đặc biệt là
tâm lý của XH cũ còn rơi rớt lại sau khi tồn tại XH đã thay đổi. Lòch
sử XH cho thấy nhiều khi XH cũ đã mất đi, thậm chí mất đi rất lâu
nhưng YTXH do XH đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẵng. Tính độc lập
tương đối này biểu hiện đặc biệt rõ trong lónh vực tâm lý XH (trong
truyền thống, thói quen, tập quán, nếp nghó, lối sống… bám rễ ở mỗi
con người và XH) Lênin cho rằng sức mạnh của tập quán được tạo ra

qua nhiều thế kỷ là sức mạnh ghê ghớm nhất YTXH lạc hậu so với
tồn tại XH còn có nguyên nhân ở quan hệ lợi ích đó là trong XH có
GC, các GC phản động tìm mọi cách khôi phục, duy trì những tư
tưởng cũ lạc hậu để chống lại cuộc đấu tranh cải tạo XH của GC
20
cách mạng. Khuynh hướng lạc hậu của YTXH cũng biểu hiện rõ
trong điều kiện của CNXH. Nhiều hiện tượng ý thức có nguồn gốc
sâu xa trong XH cũ vẫn tồn tại trong XH mới như lối sống ăn bám,
chay lười lao động, tệ nạn tham nhũng… Lênin nói rằng : Một người
bệnh chết đi ta có thể đem chôn cùng với căn bệnh nhưng một XH
mất đi ta không thể đem chôn cùng những căn bệnh của nó được mà
những căn bệnh này rữa ra xâm nhập vào những con người đang
sống.
Những hiện tượng ý thức lạc hậu tiêu cực không mất đi dễ
dàng cho nên trong sự nghiệp XD XH mới phải thường xuyên tăng
cường công tác tư tưởng xây dựng ý thức XH mới (CM tư tưởng) đấu
tranh chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của những lực
lượng thù đòch về mặt tư tưởng, kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý thức
cũ đồng thờu ra sức phát huy những truyền thống tư tûng tốt đẹp.
Khi khẳng đònh tính thường lạc hậu hơn của YTXH so với
TTXH triết học Mác đồng thời thừa nhận rằng trong những điều kiện
nhất đònh tư tưởng của con người đặc biệt những tư tưởng KH tiên
tiến có thể vượt trước sự phát triển của TTXH , dự báo được tương
lai và có tác dụng tổ chức chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con
người , hướng hoạt động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ mới
do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của XH đặt ra và sự
phản ánh này sẽ là duy ý chí khi nó chỉ là sự mong muốn chủ quan
của con người không dựa trên sự nắm bắt thực hiện. Tuy nhiên khi
nói tư tưởng tiến tiến có thể vượt trước TTXH , dự kiến được quá
trình khách quan của sự phát triển XH thì không có nghóa là trong

trường hợp này YTXH không còn bò TTXH quyết đònh nữa. Tư tưởng
KH tiên tiến không thoát ly TTXH mà phản ánh chính xác , sâu sắc
mối quan hệ tất yếu, bản chất của TTXH.
YTXH của một thời đại bao giờ cũng phản ảnh đời sống vật
chất của thời đại đó, đồng thời là sự kế thừa của những giá trò tinh
thần mà các thế hệ trước đó tích lũy được. VD : chủ nghóa Mác đã kế
thừa và phát triển nhưng tinh hoa tư tưởng của loài người mà trực
tiếp là nền triết học cổ điển Đức, KT học chính trò cổ điển Anh và
CNXH không tưởng – phê phán Pháp.
Quan hệ kế thừa là do sự phát triển trong lãnh vực ý thức
diễn ra như là quá trình lòch sử – tự nhiên, như một quá trình nối tiếp
liên tục của tư duy giữa các thế hệ. Trong XH có Giai cấp, sự kế
thừa của YTXH phụ thuộc vào lợi ích và nhu cầu của GC. Những GC
khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại
trước. Các GC tiên tiến tiếp nhận các di sản tư tưởng tiến bộ của XH
cũ để lại còn những gc lỗi thời và các nhà tư tưởng của nó thì tiếp
thu, khôi phục những tư tưởng lỗi thời phản tiến bộ của những thời
kỳ lòch sủ trước. Vì vậy, khi tiến hành cuộc đấu tranh GC trên lãnh
vực ý thức thì không những phải vạch ra tính chất phản KH, phản
tiến bộ của những trào lưu tư tưởng phản động trong điều kiện hiện
tại mà còn phải chỉ ra những nguồn gốc lý luận của chúng trong lòc
sử và phải kế thừa, phát huy những gia trò tinh thần tiến bộ của dân
tộc và nhân loại.
Trong quá trình phản ánh hiện thực, mỗi hình thái YTXH đều
phản ảnh TTXH với những đặc trưng riêng và giữ chức năng XH
khác nhau không thể thay thế cho nhau nhưng lại tồn tại trong sự
liên hệ tác động xâm nhập vàp nhau làm cho mỗi hình thái YTXH
có những mặt, những tính chất bò ảnh hưởng bởi hình thái khác mà
độc lập so với tồn tại XH. Trong sự ảnh hưởng lẫn nhau đó thì ý thức
chính trò có ảnh hưởng to lớn nhất. Ngoài ra hình thái nào có ảnh

hưởng lớn hơn tuỳ điều kiện cụ thể. Do đó trong quá trình XD YTXH
21
mới phải phát triển hài hoà và đồng bộ tất cả các hình thái YTXH
tránh mâu thuẫn đối lập nhau.
YTXH là do TTXH quyết đònh nhưng lại tác động trở lại
TTXH. Sự tác động này vừa thể hiện tính độc lập tương đối của
YTXH vừa nói lên vai trò của YTXH. Sự tác động YTXH đôi với
TTXH diễn ra hai khuynh hướng khác nhau. Những tư tưởng KH và
tiến bộ góp phần thúc đẩy XH phát triển ngược lại những tư tưởng
lạc hậu, phản động thì cản trở sự phát triển của XH. Tính chất và
hiệu quả tác động trở lại của YTXH phụ thuộc vào các yếu tố : vai
trò lòch sử của GC đề ra tư tûng đó, trình độ phù hợp của tư tûng
với hiện thực, mức độ truyền bá và xâm nhập của tư tưởng cả bề
rộng lẫn bề sâu trong quần chúng ND.
Trên cơ sở nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa TTXH
và YTXH, ta rút ra ý nghóa phương pháp luận là khi xem xét, giải
quyết các hiện tựong thuộc YTXH trước hết phải xuất phát từ cơ sở
vật chất, cơ sở KT đã sinh ra nó đồng thời phải xem xét tính độc lập
tương đối. Từ đó khẳng đònh được vai trò động lực của những tư
tưởng KH, tiến bộ. Trong công cuộc cải cách và XD CNXH, tiến
hành Cm tư tưởng VH, XD con người mó7I và nền VH mới ta phải
biết chọn lọc, tiếp thu, kế thừa những thành quả văn minh, những di
sản quý giá do loài người tạo ra bao thế hệ những thành tựu VH, KH
hiện đại. Chúng ta chống chủ nghóa hư vô đồng thời chốngười
khuynh hướng siêu GC trong việc kế thừa di sản để lại. Ta phải
thường xuyên giáo dục trong cán bộ, đảng viên và trong ND về chủ
nghóa Mác-Lênin và tư tưởng HCM, điều đó có ý nghóa hết sức quan
trọng trong sự nghiệp cải tạo và XD CNXH ở nước ta trong công
cuộc đổi mới hiện nay.
Báo cáo chính trò của Ban chấp hành TW tại Đại hội VII chỉ

rõ: “sự nghiệp phát triển KT đặt con người vào vò trí trung tâm,
thống nhất tăng trưởng KT với công bằng XH và tiến bộ XH, thể
hiện mục tiêu chính sách XH thống nhất với mục tiêu chính sách XH
thống nhất với mục tiêu phát triển KT đều nhằm phát huy sức mạnh
của nhân tố con người , vì con người. Kết hợp hài hoà giữa phát triển
KT với phát triển VH-XH, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh
thần của ND, coi phát triển KT là cơ sở và tiền đề để thực hiện các
chính sách XH, thực hiện tốt chính XH, là động lực thúc đẩy phát
triển KT. Đó là nội dung chỉ đạo quá trình giải quyết mâu thuẫn có
thể có trong việc đầu tư phát triển KT bất kỳ nền KT hàng hoá nào.
Đối với chúng ta, trong chế độ XHCN vấn đề đó phải luôn luôn là
vấn đề được quan tâm với đầy đủ tinh thần trách nhiệm.
Ta phải nhận thức hiệu quảKT gắn liến với hiệu quả XH, KT
phát triển là để tạo ra điều kiện lành mạnh hoá các QHSX , bảo vệ
truyền thống tốt đẹp của từng gia đình và cả DT. Ta phải đẩy mạnh
tăng trưởng kinh tế tạo cơ hội cho mọi tầng lớp ND tự do làm ăn theo
phápluật sẽ là một tiến bộ và mặt XH, là thực hiện dân chủ hoá
trong lãnh vực KT, Nhà nước ta phải có cơ chế, chính sách thích
đáng nhằm động viên toàn XH tiết kiệm để đầu tư phát triển , để
đẩy mạnh thêm nữa tăng trưởng KT theo phương hướng nhiệm vụ
mà chiến lược KT-XH đề ra. Từ đó giải quyết tốt hơn việc làm, thu
nhập và đời sống tạo tiền đề vật chất cho việc xử lý các vấn đề XH.
Tuy nhiên tăng trưởng KT tự nó không thể giải quyết được tất cả các
vấn đề XH. Ngược lại chính việc giải quyết tốt những vấn đề XH là
điều kiện quyết đònh để thúc đẩy tăng trưởng KT. Chúng ta không
thể sớm có ngay một XH tốt đẹp trong khi KT nước ta còn kém phát
triển, năng suất lao động thấp, KT kỷ thuật còn lạc hậu nhưng ta
phải kết hợp ngay từ đầu tăng trưởng KT với tiến bộ XH. Từng bước
22
XD XH nước ta trong đó NDLĐ làm chủ các công việc nhà nước,

mọi người sống nhân ái, có VH, tôn trọng pháp luật kỷ cương không
còn áp bức bất công, ai cũng có điều kiện làm ăn sinh sống ấm no,
tự do, hạnh phúc. Hiện nay nhiều vấn đề XH còn phức tạp một mặt
nền KT thò trường vừa tạo ra những yếu tố tích cực để nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần nhưng mặt khác nó lại vừa tạo ra những yếu
tố tiêu cực ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của XH đặc biệt là về
tư tưởng đạo đức và lối sống. Trong đó sự suy thoái về tư tưởng đạo
đức và lối sống của cán bộ đảng viên chưa được ngăn chặn, đẩy lùi.
Trong điều kiện đó mục tiêu của cuộc cách mạng trên lãnh vực tư
tưởng cần đạt được là xây dựng nền VH mới và con người mới
XHCN. Để thực hiện mục tiêu đó phải thực hiện hai nhiệm vụ trong
giai đọan hiện nay là : nhiệm vụ trọng tâm về tư tưởng là làm cho
chủ nghóa Mác_Lênin và tư tưởng HCM giữ vai trò chủ đạo trong đời
sống tinh thần của XH. Còn nhiệm vụ cấp bách về VH là XD nền
VH tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc: “hướng mọi hoạt động VH vào
việc XD con người VN phát triển toàn diện về chính trò, tư tưởng, trí
tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực lực sáng tạo, có ý thức công đồng,
lòng nhân ái khoan dung, trọng tình nghóa, lối sống có VH, quan hệ
hài hoà trong GD, công đồng và XH” và nêu cao tinh thần trách
nhiệm của GĐ trong việc XD và bồi dưỡng các thành viên có lối
sống VH làm cho GĐ thật sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào
lành mạnh của XH. Đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết XD
đời sống VH” ; ngăn chặn việc phục hồi các hủ tục, khắc phục tình
trạng mê tín đang có xu hướng lan rộng trong XH (VK 9 trang 114 –
116).
Hiện nay Đảng và Nhà nước ta chủ trương bảo vệ và khuyến
khích công dân làm giàu hợp pháp , được hưởng thụ văn hoá, GD
đào tạo, chăm lo Y tế, được hưởng thụ xứng đáng với công sức, tiền
của bỏ vào SX. Thực hiện phân phối công bằng theo lao động, chống
tư tưởng bình quân, ỷ lại, đãi ngộ xứng đáng tài năng, mở rộng phúc

lợi XH, đổi mới tốt chính sách bảo hiểm XH, bảo vệ sức khoẻ, nâng
cao thể lực cho nhân dân, bảo đảm nhu cầu thuốc chữa bệnh. Thực
hiện tốt chính sách đền ơn đáp nghóa, xóa đói giảm nghèo, tạo phong
trào đoàn kết giúp đỡ trong ND theo truyền thống “lá lành đùm lá
rách” tương thân tương ái đùm bọc lẫn nhau. Đẩy mạnh hơn nữa
chống tham nhũng, bất công XH nghiêm trọng hiện nay. Cải cách
chế độ tiền lng để người lao động hăng hái làm việc đủ sống và
nâng cao mức sống, mức đóng góp cho XH.
Vận dung mối quan hệ này Đại hội IX xác đònh đường lối KT
của Đảng ta là: “…Tăng trưởng KT đi liền với phát triển VH, từng
bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của ND, thực hiện tiến
bộ và công bằng XH…” (VK 9 trang 89).
23
24
Hết.
Câu 6: Quan điểm mac-xit về bản chất của con người. Mối quan
hệ giữa cá nhân và xã hội. Phân tích quan điểm của Đảng ta về
con người và nguồn lực con người.
BÀI LÀM
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển KT của đất nùc ta
hiện nay, con người đóng một vai trò quan trọng đó là cơ sở quyết
đònh sự thành bại của công cuộc XD CNXH trên đất nùc ta. Để
khẳng đònh tầm quan trọng đó trong văn kiện đại hội Đảng lần thứ
VII ghi rõ: “Sự nghiệp phát triển KT đặt con người vào vò trí trung
tâm thống nhất giữa tăng trưởng KT với công bằng và tiến bộ XH”.
Trong lòch sử tư tưởng nhân loại đã tồn tại rất nhiều quan
điểm khác nhau xung quanh vấn đề nguồn gốc và bản chất của con
người. Trước Mác vấn đề bản chất con người vẫn chưa được giải đáp
vấn đề một cách khoa học. Không những chủ nghóa duy tâm mà cả
chủ nghóa duy vật trực quan, siêu hình cũng không nhận thức đúng

bản chất con người. Đã từng có những ý kiến cho rằng triết học Mác-
Lênin nói riêng xem vấn đề con người là trung tâm của mọi KHXH
và nhân văn. CN Mác_Lênin ra đời xuất phát từ con người và mục
đích cuối cùng của nó là soi sáng cho sự nghiệp giải phóng cho mỗi
con người và cho cả xã hộiû loài người
Các nhà triết học trước Mác coi bản chất con người từ sự sáng
tạo và chi phối của thần thánh hoặc từ ý thức trừu tượng (chủ nghóa
duy tâm tôn giáo) hoặc từ giác độ sinh vật thuần tuý tự nhiên,không
phân biệt được con người với tính tầm thường của động vật (chủ
nghóa duy tâm siêu hình). Ngược lại, triết học Mác coi “trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các QHSX” và bản
chất đó cũng biến đổi cùng với sự phát triển của XH. Triết học Mác
xem bản chất con người xuất phát từ hoạt động của con người thực
tiễn. Vì vậy con người là một động vật có tính XH với tất cả nội
dung VH-LS của nó. Vạch ra bản chất con người từ QHSX nhưng
triết học Mác không tuyệt đối hoá mặt XH trong con người mà cho
rằng con người là thực thể thống nhất của mặt sinh vật và mặt XH.
Mặt sinh vật, Chủ nghóa Mác khảng đònh rằng: Con người la
økết quả của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh, toàn bộ các quá
trình sinh vật diễn ra trong con người và con người là con người sinh
vật, con người tự nhiên. Cũng chòu sự chi phối của các qui luật khách
quan, các quy luật sinh học, về mặt tự nhiên con người cũng giống
như các động vật khác là, cũng phải ăn uống …sinh con đẻ cái duy trì
giống nòi .
25

×